Số liệu hiện đại nhất của Tổ chức Y tế thay giới (WHO) cho biết, mỗi ngày trên thay giới có hơn 1 triệu trường hợp mắc phải các căn bệnh lây nhiễm qua đường sinh dục. Thường gặp đặc biệt là các chứng bệnh dưới đây:
Căn bệnh được xác định thông qua các thăm khám nước giải, dịch âm đạo. Người mắc bệnh sẽ được điều trị bằng thuốc một lần hoặc áp dụng kháng sinh liên tục trong 1 tuần. Để làm giảm truyền bệnh cho đối tác, bác sĩ sẽ khuyến cáo người mắc bệnh kiêng "làm chuyện ấy" tình dục cho tới khi triệt để.
Các căn bệnh nhiễm trùng khá là dễ xuất hiện trở lại. Vì thế, thành phần có căn bệnh chàm Chlamydia cần thiết phải đi thăm khám lại khoảng 3 tháng sau khi chữa.
Bị Lậu có thời gian ủ căn bệnh ngắn tầm 2-7 ngày. Ở đàn ông, nhiễm lậu mủ cầu không biểu hiện khá là ít gặp (3% – 5%). Bệnh lậu có nguy cơ gây đau khi đi tiểu, chảy mủ từ "cậu bé". Nếu không được trị, căn bệnh sẽ gây ra các câu hỏi với tuyến tiền liệt và tinh hoàn. Ở nữ giới, 70% các trường hợp có mầm móng lậu mủ cầu tuy vậy không có dấu hiệu. Triệu chứng trước hết thường hay nhẹ hơn, nhưng nếu không được trị cũng có thể dẫn đến hệ lụy nguy hiểm như viêm vùng chậu, vô sinh, sẩy thai…
Bệnh có thể kết hợp với các nhân tố khác như : Chlamydia Trachomatis, trùng roi Ureaplasma, mycoplasma…
Vi khuẩn lậu sẽ được chữa trị bằng kháng sinh, tuy vậy có nguy cơ tái đi tái lại cao do các chủng vi khuẩn kháng thuốc ngày càng tăng lên.
Ở giai đoạn đầu, Lậu giang mai hay gây nên một vết loét nhỏ, không đau, đôi lúc gây ra sưng ở các hạch bạch huyết gần đó. Nếu không được điều trị, căn bệnh hay gây phát ban trên da không ngứa ngáy trên bàn tay và bàn chân. Lậu giang mai gây quá nhiều hệ lụy nguy hiểm, thậm chí là có nguy cơ gây ra tử vong.
Chứng bệnh giang mai có khả năng chữa khỏi bằng thuốc kháng sinh, nếu được có cảm giác sớm. Tuy nhiên, chìa khóa để giảm thiểu mắc bệnh là sử dụng "áo mưa" khi quan hệ tình dục, tránh quan hệ qua đường hậu môn trực tràng hoặc miệng.
Ở các chị em, căn bệnh gây nên các biểu hiện tiết huyết trắng màu vàng xanh, xám; đau đớn khi giao hợp tình dục thường hay đi tiểu; bộ phận sinh dục nữ có mùi hôi và ngứa rát… Ở nam giới, chứng bệnh gây nên ngứa ngáy hoặc kích ứng bên trong dương vật, nóng rát sau khi tiểu tiện hoặc xuất tinh, tiết dịch từ dương vật… Nhiễm Trichomonas có thể thực hiện tăng hiểm họa mắc bệnh hoặc bị lây truyền các căn bệnh lây qua đường tình dục khác. Bà bầu gặp phải nhiễm trùng roi trichomonas thường dễ sinh con quá sớm và bé có nguy cơ gặp phải nhẹ cân khi ra đời.
Bệnh không có triệu chứng rõ rệt cần thiết phải thường hay chỉ có nguy cơ có cảm giác qua các đợt nổi lên. Bệnh nhân mắc phải lở loét gần địa điểm mà vi rút từng tấn công vào cơ thể. Các vết loét dấu hiệu dưới dạng mụn nước, khi vỡ ra gây đau đớn.
Biểu hiện nhiễm mụn rộp sinh dục có khả năng nghiêm trọng hơn ở trẻ sơ sinh hoặc người có hệ miễn dịch kém.
Các đợt bùng phát chứng bệnh hay lặp đi lặp lại tương đối nhiều lần và đặc biệt thường gặp trong năm đầu tiên nhiễm bệnh và sẽ sinh tồn trong cơ thể người bệnh suốt đời. Ngày nay, thuốc kháng sinh chỉ có nguy cơ giúp giảm bớt các triệu chứng và suy yếu hiểm họa truyền vi rút cho trường hợp khác, không thể chữa trị triệt để.
Khi thấy bên trong cơ thể, virus ẩn náu tại lớp biểu mô thuộc tầng dưới cùng của da và không có biểu hiện cơ năng; các triệu chứng ngứa, bỏng, đau đớn, xuất huyết hiếm gặp. Ở nữ giới có khả năng có bài tiết dịch tiết âm đạo do viêm nhiễm.
Vi rút HPV sau khi sau thâm nhập vào cơ thể sẽ có thời gian ủ bệnh vài tháng đến vài năm. Căn bệnh có triệu chứng như nổi các nốt thường sẩn nhỏ, u nhú màu hồng hoặc trắng hồng. Kích thước ban đầu từ 1 – 2 mm, Rồi phát triển to dần, sùi lên trở nên các khối to tương tự bông cải hoặc như mào con gà, hay không đau.
Mật độ hay mềm, bề mặt sần sùi. Khối u nhú này có đặc điểm chất khô hoặc ẩm ướt, dịch có mùi hôi do bội nhiễm. Có khi chỉ có những thương tổn riêng lẻ nhưng mà thường luyện tập trung thành từng đám. Ở đàn ông, vị trí thấy phổ biến ở quy đầu, rãnh quy đầu, mặt trong bao quy đầu, vùng dây thắng, thân "cậu nhỏ", da bìu, bẹn, mông, đùi. Tổn thương cũng có nguy cơ diễn ra bên trong lỗ tiểu, niệu đạo; ống vùng hậu môn thường quanh hậu môn; niêm mạc miệng.
Toàn bộ các tình huống nhiễm u nhú sinh dục sẽ tự biến mất và không gây nên hệ lụy. Tuy nhiên cũng có khá nhiều trường hợp gây nên nhiễm trùng lâu dần, dẫn đến biến đổi tế bào. Nếu một số rối loạn này không được chữa trị sẽ chuyển biến xấu đi theo thời gian và tạo ra ung thư.
Khi đã nhiễm HPV thì không thể trị được. Bệnh nhân có nguy cơ được chỉ định đốt lạnh, đốt nóng, tiến hành tiểu phẫu xóa bỏ, sử dụng thuốc kháng sinh hoặc những biện pháp trị dành cho tế bào nhiễm virus HPV có nguy cơ ung thư cao.
Biểu hiện phổ quát nhất của chứng bệnh rận mu là ngứa ngáy dữ dội ở vùng sinh dục. Người mắc bệnh có nguy cơ nhìn xuất hiện trứng rận hoặc rận đang bò. Biện pháp chữa chính cho rận mu là sử dụng kem diệt rận.
Bệnh lây nhiễm theo quá nhiều cách khác nhau, gồm có "làm chuyện ấy" tình dục không an toàn đối với người nhiễm HIV, truyền nhiễm qua đường máu, lấy chung kim tiêm thường hay từ mẹ mang thai truyền sang con…Hiện nay vẫn chưa có liệu pháp trị khỏi nhiễm HIV, nhưng bệnh nhân có nguy cơ được chữa trị bằng kháng sinh kháng vi rút (ART) và Đồng thời không nên mối nguy hại truyền nhiễm cho đối tượng khác.
Sau giai đoạn ủ căn bệnh từ 3-7 ngày, các nốt nhỏ, đau thấy và mau chóng vỡ ra thành một số loét loét nông, mềm, đau đối với rìa xù xì, xói mòn (ví dụ với mô nằm cao) và đường viền màu đỏ. Sự xói mòn sâu đôi lúc dẫn đến việc phá hủy mô. Các hạch bạch huyết lớn lên và bắt đầu tạo ra mẫn cảm, Tiếp đó bên cạnh nhau tạo thành ổ áp-xe. Vùng da ở vị trí này có thể trở nên đỏ và sáng bóng và có khả năng vỡ ra thành lỗ rò. Tình trạng nhiễm trùng có nguy cơ lây sang các vùng da khác, dẫn tới các thương tổn mới. Bao quy đầu bị hẹp, hẹp niệu đạo và lỗ rò niệu đạo có thể là kết quả của bệnh này.
Biện pháp có cảm giác thường chỉ dựa trên kết quả thăm khám lâm sàng bởi vì việc nuôi cấy vi khuẩn rất không dễ và việc cảm nhận hiển vi bị nhiễu loạn bởi hệ khuẩn hỗn hợp ở loét. Người mắc bệnh cũng cần phải được tiến hành xét nghiệm huyết thanh học cho bệnh lậu giang mai và HIV và cấy tìm Herpes để dạng trừ các nguyên nhân không giống của loét sinh dục. Việc chữa trị căn bệnh hạ cam mềm cần được thực hiện sớm bằng thuốc kháng sinh.
Hiện tại không có công nghệ điều trị khỏi hẳn, chỉ có thuốc khống chế nguy cơ hoạt động của vi-rút. Tuy vậy, mỗi người vẫn có biện pháp phòng căn bệnh hữu hiệu bằng giải pháp tiêm vắc xin.
1. Chlamydia
Bệnh được gây bởi vi khuẩn Chlamydia trachomatis và truyền nhiễm cho cả nam lẫn nữ. Tương tự như các chứng bệnh tình dục không giống, chàm Chlamydia thường hay không gây ra bất kỳ dấu hiệu nào, tuy vậy đối tượng bị nhiễm vẫn có khả năng nhiễm bệnh cho đối tượng khác.Căn bệnh được xác định thông qua các thăm khám nước giải, dịch âm đạo. Người mắc bệnh sẽ được điều trị bằng thuốc một lần hoặc áp dụng kháng sinh liên tục trong 1 tuần. Để làm giảm truyền bệnh cho đối tác, bác sĩ sẽ khuyến cáo người mắc bệnh kiêng "làm chuyện ấy" tình dục cho tới khi triệt để.
Các căn bệnh nhiễm trùng khá là dễ xuất hiện trở lại. Vì thế, thành phần có căn bệnh chàm Chlamydia cần thiết phải đi thăm khám lại khoảng 3 tháng sau khi chữa.
2. Bệnh Lậu mãn tính
Vi khuẩn gây ra Bệnh Lậu cầu là Neisseria gonorrhoeae, một song cầu Gram (-) hạt cà phê, đối với đường lây nhiễm qua đường sinh dục, đường miệng hoặc hậu môn. Phụ nữ có bầu mắc lậu cũng có thể truyền sang con trong quá trình sinh nở.Bị Lậu có thời gian ủ căn bệnh ngắn tầm 2-7 ngày. Ở đàn ông, nhiễm lậu mủ cầu không biểu hiện khá là ít gặp (3% – 5%). Bệnh lậu có nguy cơ gây đau khi đi tiểu, chảy mủ từ "cậu bé". Nếu không được trị, căn bệnh sẽ gây ra các câu hỏi với tuyến tiền liệt và tinh hoàn. Ở nữ giới, 70% các trường hợp có mầm móng lậu mủ cầu tuy vậy không có dấu hiệu. Triệu chứng trước hết thường hay nhẹ hơn, nhưng nếu không được trị cũng có thể dẫn đến hệ lụy nguy hiểm như viêm vùng chậu, vô sinh, sẩy thai…
Bệnh có thể kết hợp với các nhân tố khác như : Chlamydia Trachomatis, trùng roi Ureaplasma, mycoplasma…
Vi khuẩn lậu sẽ được chữa trị bằng kháng sinh, tuy vậy có nguy cơ tái đi tái lại cao do các chủng vi khuẩn kháng thuốc ngày càng tăng lên.
3. Bệnh giang mai là gì?
Bệnh giang mai cũng là một bệnh lây nhiễm qua đường tình dục do xoắn khuẩn Bệnh giang mai Treponema pallidum gây nên, lây truyền sang vùng sinh dục, môi, đường miệng hoặc hậu môn của cả nam và nữ. Căn bệnh trải qua ba giai đoạn, tuy vậy có khoảng 50% người bệnh không có dấu hiệu và chỉ được có cảm giác bằng huyết thanh.Ở giai đoạn đầu, Lậu giang mai hay gây nên một vết loét nhỏ, không đau, đôi lúc gây ra sưng ở các hạch bạch huyết gần đó. Nếu không được điều trị, căn bệnh hay gây phát ban trên da không ngứa ngáy trên bàn tay và bàn chân. Lậu giang mai gây quá nhiều hệ lụy nguy hiểm, thậm chí là có nguy cơ gây ra tử vong.
Chứng bệnh giang mai có khả năng chữa khỏi bằng thuốc kháng sinh, nếu được có cảm giác sớm. Tuy nhiên, chìa khóa để giảm thiểu mắc bệnh là sử dụng "áo mưa" khi quan hệ tình dục, tránh quan hệ qua đường hậu môn trực tràng hoặc miệng.
4. Chứng bệnh Trichomonas vaginalis
Chứng bệnh Trichomonas là một trong những căn bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục thường thấy, do một loại ký sinh trùng gây. Chứng bệnh truyền nhiễm từ trường hợp này sang đối tượng khác thông qua quan hệ tình dục và quá nhiều đối tượng gần như không có bất kỳ biểu hiện nào. Nếu có, các biểu hiện sẽ xuất hiện trong khoảng tầm 5-28 ngày sau khi bị lây.Ở các chị em, căn bệnh gây nên các biểu hiện tiết huyết trắng màu vàng xanh, xám; đau đớn khi giao hợp tình dục thường hay đi tiểu; bộ phận sinh dục nữ có mùi hôi và ngứa rát… Ở nam giới, chứng bệnh gây nên ngứa ngáy hoặc kích ứng bên trong dương vật, nóng rát sau khi tiểu tiện hoặc xuất tinh, tiết dịch từ dương vật… Nhiễm Trichomonas có thể thực hiện tăng hiểm họa mắc bệnh hoặc bị lây truyền các căn bệnh lây qua đường tình dục khác. Bà bầu gặp phải nhiễm trùng roi trichomonas thường dễ sinh con quá sớm và bé có nguy cơ gặp phải nhẹ cân khi ra đời.
5. Bệnh herpes sinh dục
Chứng bệnh mụn rộp sinh dục (genital herpes) là một chứng bệnh truyền nhiễm qua đường sinh dục do vi-rút Herpes gây. Biểu hiện lâm sàng là hồng ban mụn nước, mọc thành chùm tại bộ phận sinh dục và có hạch vùng trong một tỷ lệ. Chứng bệnh có nguy cơ tái đi tái lại cao ở vị trí cũ hoặc ở những vị trí không giống. Vi rút gây ra bệnh là Herpes simplex (HSV), thường thấy type 2 quá nhiều hơn type 1.Bệnh không có triệu chứng rõ rệt cần thiết phải thường hay chỉ có nguy cơ có cảm giác qua các đợt nổi lên. Bệnh nhân mắc phải lở loét gần địa điểm mà vi rút từng tấn công vào cơ thể. Các vết loét dấu hiệu dưới dạng mụn nước, khi vỡ ra gây đau đớn.
Biểu hiện nhiễm mụn rộp sinh dục có khả năng nghiêm trọng hơn ở trẻ sơ sinh hoặc người có hệ miễn dịch kém.
Các đợt bùng phát chứng bệnh hay lặp đi lặp lại tương đối nhiều lần và đặc biệt thường gặp trong năm đầu tiên nhiễm bệnh và sẽ sinh tồn trong cơ thể người bệnh suốt đời. Ngày nay, thuốc kháng sinh chỉ có nguy cơ giúp giảm bớt các triệu chứng và suy yếu hiểm họa truyền vi rút cho trường hợp khác, không thể chữa trị triệt để.
6. Hiện tượng Bệnh sùi mào gà
Sùi mào gà là một bệnh lây nhiễm qua đường tình dục thường gặp do vi rút Human Papillomavirus (HPV) gây. Chứng bệnh thấy ở cả phái mạnh và nữ, nhưng phổ quát ở nữ hơn do cơ hội bộ phận sinh dục nữ thuận lợi cho vi khuẩn phát triển. Hệ lụy của Sùi mào gà vô cùng phức tạp. Ở phụ nữ mang thai, bệnh gây ra sảy thai, thai chết lưu hoặc sinh non. Đứa trẻ cũng có nguy cơ mắc căn bệnh sau khi sinh hoặc lây bệnh khi bú mẹ. Còn có thể là, sùi mào gà còn gây nên không ít hệ lụy như ung thư cổ tử cung, ung thư dương vật… dẫn tới vô sinh, hiếm muộn hoặc tử vong.Khi thấy bên trong cơ thể, virus ẩn náu tại lớp biểu mô thuộc tầng dưới cùng của da và không có biểu hiện cơ năng; các triệu chứng ngứa, bỏng, đau đớn, xuất huyết hiếm gặp. Ở nữ giới có khả năng có bài tiết dịch tiết âm đạo do viêm nhiễm.
Vi rút HPV sau khi sau thâm nhập vào cơ thể sẽ có thời gian ủ bệnh vài tháng đến vài năm. Căn bệnh có triệu chứng như nổi các nốt thường sẩn nhỏ, u nhú màu hồng hoặc trắng hồng. Kích thước ban đầu từ 1 – 2 mm, Rồi phát triển to dần, sùi lên trở nên các khối to tương tự bông cải hoặc như mào con gà, hay không đau.
Mật độ hay mềm, bề mặt sần sùi. Khối u nhú này có đặc điểm chất khô hoặc ẩm ướt, dịch có mùi hôi do bội nhiễm. Có khi chỉ có những thương tổn riêng lẻ nhưng mà thường luyện tập trung thành từng đám. Ở đàn ông, vị trí thấy phổ biến ở quy đầu, rãnh quy đầu, mặt trong bao quy đầu, vùng dây thắng, thân "cậu nhỏ", da bìu, bẹn, mông, đùi. Tổn thương cũng có nguy cơ diễn ra bên trong lỗ tiểu, niệu đạo; ống vùng hậu môn thường quanh hậu môn; niêm mạc miệng.
7. U nhú sinh dục
Virus gây nên u nhú sinh dục là Human Papillomavirus, lây lan chủ yếu qua "yêu" tình dục trực tiếp với thành phần có vi-rút hoặc qua các tiếp xúc da kề da, thân mật khác. Bệnh gây nên tiến triển quá nhiều các tế bào vảy ở lớp biểu bì gây u nhú sinh dục tại cả nam và nữ. Gai sinh dục gồm có 4 lớp: lớp sừng, lớp gai, lớp tinh và lớp đáy.Toàn bộ các tình huống nhiễm u nhú sinh dục sẽ tự biến mất và không gây nên hệ lụy. Tuy nhiên cũng có khá nhiều trường hợp gây nên nhiễm trùng lâu dần, dẫn đến biến đổi tế bào. Nếu một số rối loạn này không được chữa trị sẽ chuyển biến xấu đi theo thời gian và tạo ra ung thư.
Khi đã nhiễm HPV thì không thể trị được. Bệnh nhân có nguy cơ được chỉ định đốt lạnh, đốt nóng, tiến hành tiểu phẫu xóa bỏ, sử dụng thuốc kháng sinh hoặc những biện pháp trị dành cho tế bào nhiễm virus HPV có nguy cơ ung thư cao.
8. Rận mu
Rận mu (hay càng cua) là loài ký sinh trùng nhỏ, thường sống ở vùng mu hoặc cơ quan sinh dục của con người. Thỉnh thoảng chúng cũng được tìm xuất hiện trên các vùng có lông không giống của cơ thể. Chúng cần phải hút máu người để sinh tồn và di chuyển bằng biện pháp bò. Rận mu thường lây nhiễm qua quan hệ tình dục, tiếp xúc vật lý hoặc qua quần áo, giường, khăn trải giường, khăn tắm mà đối tượng bị rận mu uống.Biểu hiện phổ quát nhất của chứng bệnh rận mu là ngứa ngáy dữ dội ở vùng sinh dục. Người mắc bệnh có nguy cơ nhìn xuất hiện trứng rận hoặc rận đang bò. Biện pháp chữa chính cho rận mu là sử dụng kem diệt rận.
9. HIV/AIDS
HIV là viết tắt của vi-rút gây ra suy giảm miễn dịch ở thành phần, do hai vi rút là Lentivirus xâm nhiễm. Theo thời gian, chúng phát triển thành Hội chứng suy yếu miễn dịch gặp phải (AIDS) khiến cho đội ngũ miễn dịch của người mắc bệnh bị phá hủy. Cơ thể do đó không có nguy cơ ngăn ngừa các yếu tố gây ra hại, khiến cho nhiễm trùng và một số căn bệnh ung thư phát triển. Không phải mọi trường hợp nhiễm HIV đều phát triển thành AIDS.Bệnh lây nhiễm theo quá nhiều cách khác nhau, gồm có "làm chuyện ấy" tình dục không an toàn đối với người nhiễm HIV, truyền nhiễm qua đường máu, lấy chung kim tiêm thường hay từ mẹ mang thai truyền sang con…Hiện nay vẫn chưa có liệu pháp trị khỏi nhiễm HIV, nhưng bệnh nhân có nguy cơ được chữa trị bằng kháng sinh kháng vi rút (ART) và Đồng thời không nên mối nguy hại truyền nhiễm cho đối tượng khác.
10. Căn bệnh hạ cam mềm
Chứng bệnh do một kiểu trực khuẩn có tên Haemophilus ducreyi gây ra. H.ducreyi là một trực khuẩn ngắn, mảnh, gram (-) đối với đầu tròn. Hạ cam mềm đăng trưng bởi sẹo lồi, loét đau, và sưng các hạch bạch huyết vùng bẹn dẫn đến mưng mủ. Hạ cam mềm giống các căn bệnh STDs không giống gây ra loét sinh dục, nó cũng tiến hành tăng nguy cơ truyền nhiễm HIV.Sau giai đoạn ủ căn bệnh từ 3-7 ngày, các nốt nhỏ, đau thấy và mau chóng vỡ ra thành một số loét loét nông, mềm, đau đối với rìa xù xì, xói mòn (ví dụ với mô nằm cao) và đường viền màu đỏ. Sự xói mòn sâu đôi lúc dẫn đến việc phá hủy mô. Các hạch bạch huyết lớn lên và bắt đầu tạo ra mẫn cảm, Tiếp đó bên cạnh nhau tạo thành ổ áp-xe. Vùng da ở vị trí này có thể trở nên đỏ và sáng bóng và có khả năng vỡ ra thành lỗ rò. Tình trạng nhiễm trùng có nguy cơ lây sang các vùng da khác, dẫn tới các thương tổn mới. Bao quy đầu bị hẹp, hẹp niệu đạo và lỗ rò niệu đạo có thể là kết quả của bệnh này.
Biện pháp có cảm giác thường chỉ dựa trên kết quả thăm khám lâm sàng bởi vì việc nuôi cấy vi khuẩn rất không dễ và việc cảm nhận hiển vi bị nhiễu loạn bởi hệ khuẩn hỗn hợp ở loét. Người mắc bệnh cũng cần phải được tiến hành xét nghiệm huyết thanh học cho bệnh lậu giang mai và HIV và cấy tìm Herpes để dạng trừ các nguyên nhân không giống của loét sinh dục. Việc chữa trị căn bệnh hạ cam mềm cần được thực hiện sớm bằng thuốc kháng sinh.
11. Viêm gan B
Virus viêm gan B gây nên căn bệnh ở gan, nhưng lây lan qua dịch sinh dục và qua máu. Đặc biệt, vi-rút này lây truyền nhanh hơn virus HIV từ 50-100 lần khi giao hợp tình dục. Đối tượng nhiễm virus viêm gan B hay không có dấu hiệu cụ thể. Một tỷ lệ có một vài triệu chứng như vàng da, chán ăn, mệt mỏi… căn bệnh không được chăm sóc tốt có nguy cơ dẫn đến viêm gan mạn tính, xơ gan và ung thư gan…Hiện tại không có công nghệ điều trị khỏi hẳn, chỉ có thuốc khống chế nguy cơ hoạt động của vi-rút. Tuy vậy, mỗi người vẫn có biện pháp phòng căn bệnh hữu hiệu bằng giải pháp tiêm vắc xin.
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
- Chủ đề
- benhxahoi