3 bài văn Phân tích nhân vật Tnu trong Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành hay nhất lớp 12

Với “cách sắp xếp các lớp thời gian trong truyện xen kẽ, đan quyện, những mạch nối…cũng đến dễ dàng và tự nhiên như tất nó phải vậy”, Nguyễn Trung Thành đã viết nên một “Rừng xà nu” rất riêng, rất đặc sắc và ấn tượng. Trong truyện, hình tượng nhân vật Tnu được nhà văn miêu tả rất sắc nét gắn với nhiều câu chuyện, ý nghĩa. Sau đây là bài văn mẫu phân tích nhân vật Tnu các bạn có thể tham khảo khi gặp đề bài này.

Về truyện ngắn “Rừng xà nu”, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã từng có những chia sẻ chân thật mà rất thú vị. Rằng, thời điểm viết tác phẩm, năm 1965, với ông là “những ngày sôi sục, nghiêm trang, nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt, hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán mất còn trực tiếp với đế quốc Mỹ” buộc nhà văn cùng các đồng nghiệp phải làm việc ngày đêm. Và ông đã viết một bài “Hịch tướng sĩ thời đánh Mỹ” xuất sắc – tùy bút “Đường chúng ta đi” chỉ trong một đêm. Sau tùy bút đó, ông viết một truyện ngắn, “một truyện miền núi”, và đó là “Rừng xà nu”. “Tại sao cái đêm giữa năm 1965 ấy, ngồi viết, rừng xà nu lại bỗng đột ngột đến với tôi, chảy ngay ra dưới ngòi bút tôi?...”. Niềm say mê, nhiệt hứng ấy đã chắp cánh cho tâm hồn nghệ sĩ trong ông, để ông viết nên một “Rừng xà nu” đong đầy xúc cảm. “Rừng xà nu là truyện của một đời, và được kể trong một đêm. Đó là cái đêm dài như cả một đời. Nhưng nó cũng ngắn, cũng chỉ là một đêm trong sự sống vất vả, đau khổ và hạnh phúc trường tồn ở đây…”, những trang văn trong tác phẩm đã giúp ta cảm thấu hơn lời tâm sự này của nhà văn. Với đề bài yêu cầu phân tích nhân vật Tnu trong truyện, các bạn có thể tham khảo bài văn mẫu dưới đây để bài viết của mình thêm sâu sắc và hấp dẫn hơn. Chúc các bạn thành công!

nhan-vat-tnu-rung-xa-nu.jpg

BÀI VĂN MẪU SÔ 1 PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TNU TRONG “RỪNG XÀ NU” – NGUYỄN TRUNG THÀNH


Là nhà văn đã từng gắn bó với cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, văn chương Nguyễn Trung Thành gần như theo sát hành trình đầy gian lao này, để lại những tác phẩm giàu giá trị. “Rừng xà nu” là một tác phẩm nổi bật trong số đó. Nhân vật Tnu nhà văn xây dựng trong tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều dư âm, cảm xúc đặc biệt.

Nhân vật Tnu được nhà văn Nguyễn Trung Thành xây dựng trước hết là hình ảnh của một con người có số phận, cuộc đời đau thương do một tay thằng Mĩ Diệm. Khi đi liên lạc cho A Quyết bị giặc phát hiện, Tnu đã bị bọn chúng tra tấn một cách dã man. Hơn nữa, chúng còn bắt Tnu đi đày ở ngục Kon Tum để Tnu phải nếm trải những đòn thù man rợ, hiểm độc của giặc. Vợ, con, những người ruột thịt thân thương nhất của Tnu cũng bị bọn giặc giết hại tàn nhẫn. Mẹ con Mai bị giặc giết như vậy cũng bởi nhiều lý do. Trước hết, Mai đã cùng Tnu làm liên lạc cho bộ đội từ nhỏ, hăng hái cùng dân làng nuôi giấu cán bộ, vượt sông Đắc Năng bị giặc bắt vào tù. Không bắt được Tnu, bọn giặc quay sang tra tấn vợ con anh với dã tâm bắt được cọp cái và cọp con thì sẽ dụ được cọp đực quay trở về để cứu thoát. Dã tâm, vũ khí, cách thức tra tấn…tất cả đều toát ra một vẻ man rợ rất trung cổ. Mất cùng lúc vợ và đứa con thơ, nỗi đau của Tnu như tăng gấp bội phần bởi lẽ, Tnu vốn mồ côi từ nhỏ, tình người thì anh không thiếu nhưng tình thân anh mới vừa có mà thôi.

Không những vậy, xót xa, đau đớn hơn cả là Tnu còn tận mắt chứng kiến cảnh vợ con anh bị tra tấn mà mình chẳng thể làm gì được để cứu họ. Với hai bàn tay không, không vũ khí tấn công, không phương tiện bảo vệ, Tnu đành bất lực tòng tâm. Nỗi đau mất vợ con cùng niềm day dứt không thể cứu thoát họ dường như sẽ dai dẳng, đeo bám trở thành nỗi day dứt khôn nguôi đi hết cuộc đời Tnu. Như cụ Mết từng dặn: “Khi chúng nó cầm súng mà mình không cầm giáo thì đau thương là điều không thể tránh khỏi”, và nỗi đau đó đã trở thành một vết thương lòng to lớn trong cuộc đời đau thương của Tnu. Khi xông ra cứu vợ con, Tnu đã trở thành nạn nhân đau đớn của kẻ thù. Chúng quấn giẻ đã tẩm dầu xà nu lên mười đầu ngón tay Tnu rồi châm lửa đốt cháy. Mười ngón tay bỗng trở thành mười ngọn đuốc rực cháy. Tnu “nhắm mắt lại, mở mắt ra, trừng trừng” căm hận. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Đó phải chăng chính là ngọn lửa của lòng căm hận, ngọn lửa của tinh thần yêu nước sục sôi, của niềm quyết tâm đánh thắng kẻ thù. Cùng một lúc, nỗi đau thể xác và nỗi đau tinh thần dồn dập đổ xuống người Tnu, mang đến cho anh một trạng thái căng thẳng, một niềm đau mà có lẽ không có lời nào có thể diễn tả được.

Tuy có cuộc đời và số phận đau thương, Tnu lại mang trong mình những phẩm chất vô cùng cao đẹp. Đó là sự chí tình cách mạng, hăng hái cùng dân làng nuôi giấu cán bộ. Vượt qua mọi khó khăn, Tnu quyết học cho được cái chữ của Đảng để có thể theo Đảng, bảo vệ Đảng. Hành trình học chữ quả thực gian nan với Tnu nhưng lòng quyết tâm, sự kiên trì và lòng căm thù giặc sâu sắc đã giúp Tnu thành công. Khi đã biết chữ, Tnu cùng Mai làm liên lạc cho anh Quyết. Bị giặc phát hiện, Tnu nhanh chóng nuốt lá thư bí mật, sẵn sàng đối diện nguy hiểm, chấp nhận gian khổ quyết không để lộ bí mật của Đảng cho địch. Vượt ngục trở về, Tnu tiếp tục cùng làng chuẩn bị vũ khí, xây dựng hầm ấp chống giặc. Con đường Cách mạng của anh Quyết còn dang dở trước kia giờ đã được Tnu tiếp nối. Hơn thế nữa, Tnu còn hăng hái tham gia lực lượng quân giải phóng, góp sức lực mình vào công cuộc giải phóng buôn làng, giải phóng Tây Nguyên thân yêu.

Bên cạnh sự chí tình cách mạng, ta còn bắt gặp ở nhân vật Tnu một sự mưu trí, dũng cảm. Dù bị giặc phát hiện rồi tra tấn, Tnu vẫn không sợ, không khai. Bị đi ngục Kon Tum, Tnu tìm cách vượt ngục trở về, tiếp tục một cuộc đương đầu mới. Lúc bị giặc đốt rát bỏng mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu, Tnu không kêu than, không van xin lấy một lời. Ngọn lửa bên ngoài đã biến thành ngọn lửa bên trong tâm hồn, ngọn lửa hữu hình trở thành ngọn lửa vô hình rừng rực cháy trong tâm can. Ngọn lửa đớn đau hình thành ngọn lửa sôi sục căm hờn và tái sinh khí tiết người anh hùng cách mạng. Không chỉ dũng cảm, Tnu còn là người vô cùng mưu trí. Tnu phản ứng rất nhanh trước những tình huống bất ngờ, có thể kể đến như việc nuốt ngay lá thư bí mật vào bụng khi bị giặc phát hiện. Với sự tinh ranh và khéo léo, linh hoạt của mình, những ngày thuở bé cùng làng nuôi giấu cán bộ, Tnu không bao giờ đi đường mòn nơi giặc đã bao vây các ngả mà trèo lên cây, lựa đường rừng lắc léo để đi.

Với bút pháp sử thi tô đậm tính cách phi thường, nhà văn đã đặt nhân vật trong mối liên hệ với thiên nhiên, với cộng đồng kết hợp cùng ngôn ngữ chau chuốt, tráng lệ và âm hưởng hào hùng, tất cả đã làm sáng lên hình tượng nhân vật Tnu mưu trí, dũng cảm, chí tình cách mạng, một nhân vật đặc sắc trong tác phẩm Nguyễn Trung Thành cũng như trong kho tàng văn xuôi hiện đại nước nhà.

-Nem-vfo.vn

nhan-vat-tnu.jpg

BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TNU TRONG “RỪNG XÀ NU” LỚP 12 HAY


Những bức tượng đài vĩ đại không chỉ được khắc lên bằng tượng, bằng đá mà còn được xây bằng những trang sử và những câu văn. Ở đó, họ đã sống đời sống gian khó như bao con người bình thường nhưng đã vượt lên bằng vẻ đẹp phi thường của mình. Những năm tháng kháng chiến kiến quốc hào hùng ấy, chúng ta đã sống với những người anh hùng trong tim: những con người mang “dáng đứng Việt Nam” trong thơ Lê Anh Xuân, những cô gái mở đường, những người đưa “Đất nước đứng lên” – Anh hùng Núp,… Và tất nhiên không thể thiếu hình tượng Tnu trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.

"Rừng xà nu" được viết vào giữa năm 1965, trong những ngày bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở miền Nam nước ta. "Đó là những ngày sôi sục, nghiêm trang, nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt, hào hứng, hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán mất, còn trực tiếp với đế quốc Mỹ". Truyện ngắn đã được tiếp nhận hơi thở hào hùng của thời đại hào hùng của thời đại và hiện thực được mô tả mang đậm ý nghĩa phổ quát. Chuyện làng Xô Man trở thành chuyện của cả "đất nước đứng lên" trong cuộc đối đầu lịch sử. Những suy nghĩ của nhân vật thành chân lý của lịch sử.

Tnu trước hết điều dễ nhận thấy ở Tnu là một tính cách gan dạ, mưu trí và dũng cảm. Lúc còn nhỏ, Tnu đã tham gia nuôi giấu cán bộ, không hề sợ hãi khi giặc lấy cái chết của bà Nhan, anh Xút để uy hiếp. Khi học chữ thua Mai, Tnu đã không chịu khuất phục, đầu hàng trước khó khăn mà quyết tâm học bằng được. Rồi khi đi liên lạc, Tnu xé rừng mà đi, vượt thác thì chọn chỗ nước mạnh mà bơi ngang để tránh địch. Đó là một chú bé gan dạ từ nhỏ. Hơn nữa, Tnu còn trung thành, tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào cách mạng. Ghi tạc trong tâm lời dặn của cụ Mết: “Đảng còn, núi nước này còn”, Tnu luôn đặt sự nghiệp cách mạng lên trên sự sống của bản thân: khi bị giặc phục kích, họng súng kẻ thù đã chĩa vào tai nhưng Tnu đã nhanh trí nuốt nước thư vào bụng. Tâm niệm lời dạy của anh Quyết: “Người cộng sản không thèm kêu van”, người anh hùng ấy đã biến lòng tin thành khí tiết: không hề hé môi cất tiếng kêu rên khi bị tra tấn dã man. Đó chính là phẩm chất, khí phách của một người anh hùng.

Cùng với tính cách gan dạ, trung thành với Đảng và cách mạng, ở người anh hùng ấy còn là một trái tim giàu yêu thương, gắn bó sâu sắc với quê hương và gia đình. Biết mình chỉ có hai bàn tay, không đủ sức chống lại kẻ thù nhưng không thể đành lòng, Tnu vẫn chọn nghe theo tiếng gọi con tim, nhảy xổ vào bọn lính, dang cánh tay rắn chắc để che chở cho mẹ con Mai. Khi đi lực lượng, dù được nghỉ phép một ngày nhưng Tnu vẫn băng rừng về làng Xô Man để được dòng nước mát dội lên da thịt, để ăn bữa cơm tàu môn bạc hà trong nhà cụ Mết, để dược ngồi trong bếp lửa nhà Ưng lắng nghe tiếng gió đại ngàn. Như thế, chảy trong huyết quản của Tnu vẫn là dòng máu anh hùng của những Đăm Săn, Xinh Nhã nhưng trong trái tim anh lại là dòng máu của chàng trai giàu lòng yêu thương và căn thù của chàng trai làng Xô Man.

Đặc biệt, Tnu chính là hình ảnh đại diện của số phận, vẻ đẹp của con người Tây Nguyên qua hình ảnh cuộc đời, đôi bàn tay của nhân vật. Tnu sinh ra không có cha mẹ, nhưng là đứa con được chăm sóc và nuôi nấng bởi bàn tay và sự yêu thương của cả dân làng Xô Man. Nhân dân chính là cội nguồn sinh dưỡng và bồi đắp tâm hồn cho người anh hùng để rồi tất cả những vẻ đẹp của con người có thể thấy qua một người ấy. Đôi tay của Tnu, khi lành lặn,là bàn tay của lao động. Đôi bàn tay đã đem cơm nuôi giấu cán bộ, đôi tay lấy đá trên núi Ngọc Linh về làm phấn viết, đôi tay lấy đá tự đập vào đầu khi học chữ không tốt. Đó chính là đôi bàn tay của tín nghĩa, dù trung thực và mạnh mẽ nhưng vẫn bất lực trước kẻ thù. Khi bị thương, đó là bàn tay của cuộc dời nhiều hi sinh mất mát, ngọn lửa Xô man cháy lên 10 đầu ngón tay là biểu tượng cho nỗi đau dồn đẩy đển cực điểm: “Anh nghe thấy lửa cháy trong lồng ngực, bụng. Môi anh đã cắn chặt rồi”. Nhưng khi cầm vũ khí rồi, bàn tay của Tnu chính là bàn tay quả báo. Tu dùng chính đôi tay để giết kẻ thù và giành lại hạnh phúc cho dân làng và cho cả chính mình. Nhhw vậy, cuộc đời Tnu chính là cuộc đời của mọi người dân Tây Nguyên, có khổ đau, bất hạnh nhưng nổi bật là vẻ đẹp dũng cảm, kiên trung. Đặc biệt, chính cuộc đời vật anh hùng ấy, đôi bàn tay ấy đã khẳng chân lí giản dị mà sâu sắc: “Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. “Truyện ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện ngắn không thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã” từ nhận thức sâu sắc về chi tiết, Nguyên Ngọc đã xây dựng được chi tiết dù chỉ là “người tí hon” nhưng lại mang “nhiệm vụ khổng lồ”.

Ở trong Tnu, có cả tính cách anh hùng và con người đời thường, nhưng chúng không hề tách biệt mà hòa quyện vào nhau. Tính cách anh hùng là bức tượng đài vững chãi về vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Nguyên, hình ảnh của cả cộng đồng. Nhưng đó cũng là một con người rất “Tnu”, không lẫn với bất kì người lính lái xe, những anh Núp hay người lính dân quân nào trong kháng chiến. Với kết cấu truyện lồng truyện, đợc kể trong không gian đặc trưng bên bếp lửa nhà Ưng càng gợi liên tưởng đến lối kể truyền thống của những câu chuyện sử thi, thần thoại, nhân vật cũng phảng phất bóng dáng người anh hùng trong huyền thoại. Nhân vật được khắc họa qua bút pháp phóng đại, sử thi cũng với sự tráng lệ và hào hùng cảu giọng điệu và ngôn ngữ càng thêm phần cao đẹp hơn. Bên cạnh đó lại là sự phối hợp ăn ý của hệ thống ngôn ngữ giản dị, hình ảnh quen thuộc, gần gũi với đời sống kháng chiến, Tây Nguyên làm cho câu chuyện vừa gần gũi nhưng lại rất cao đẹp, thiêng liêng. Câu chuyện không chỉ kể về một người, một bản làng, một số nhỏ mà là câu chuyện của cả dân tộc, là hành trình từ đau thương mà “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” của con người Việt Nam. Nếu cho rằng “Truyện ngắn có thể và cần phải trở thành “tòa đại lầu” để chứa đựng cả tinh thần của thời đại nhờ phương thức biểu hiện qua một con mắt mà truyền đạt được cả tinh thần con người vốn có của nó” thì “Rừng xà nu” đã làm được điều đó. Đó không chỉ là chuyện tài năng kể chuyện mà còn là câu chuyện về tầm và tâm của người nghệ sĩ Nguyễn Trung Thành – Nguyên Ngọc.

Bằng những trang giấy, tác giả có thể “sống” lâu hơn thời gian con người được cho phép. Bằng những con chữ, nhân vật có thể “sống” nhiều hơn những trang viết ngắn ngủi. Nguyễn Trung Thành và Tnu đã “sống” bằng cách đó.

-Bỉ Ngạn-vfo.vn

BÀI VĂN MẪU SỐ 3 PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TNÚ TRONG “RỪNG XÀ NU”


Nhà văn Nguyễn Minh Châu khi nói về văn học 1945-1975 từng thấy đó là giai đoạn “văn nghệ minh họa” mà cần đọc một lời “ai điếu”. Nhưng điều gì khiến “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành đã vượt qua mọi quy luật của sự băng hoại, vượt qua tính chất một thời để chạm đến muôn đời? Phải chăng đó là bởi nhà văn đã xây dựng hình tượng nghệ thuật độc đáo, vừa mang tính cụ thể lại vừa mang tính khái quát như Tnú?

Dường như mỗi cảnh sông núi, mỗi phong tục tập quán, mỗi con người,… đều là cảm hứng sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ tự muôn đời. Nếu Tây Bắc “ để thương dể nhớ” choTô Hoài, cho nhà văn “suốt đời đi tìm cái đẹp” Nguyễn Tuân, con sông Hương sinh thành từ bà mẹ Huế là quê hương văn học của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì mảnh đất Tây Nguyên là vùng thẩm mĩ của Nguyên Ngọc. Năm 1965, thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra căng thẳng và quyết liệt, “Rừng xà nu” như bài “Hịch tướng sĩ” thời đánh Mỹ để động viên, khích lệ nhân dân ta.

Cụ Mết- một già làng uy tín, trong một đêm- thời điểm T nú trở về làng sau ba năm đi lực lượng đã kể lại cho người dân, cho con cháu người S trá nghe về cuộc đời anhvà cả một dân làng với tập thể những người anh hùng. Câu chuyện phảng phất màu sắc kể khan, Tnú như những Đam Săn, những Xinh Nhã,… của thuở trước hiện về trong hôm nay.

Chế Lan Viên đã từng viết:

“ Mỗi chú bé đều nằm mơ thấy ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng”

Vì vậy, hoà vào dòng chảy chung của văn học Cách mạng, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nên một hình ảnh Tnú là người anh hùng của cộng đồng

Tnú, anh là đứa con chung của dân làng Xô-man. Mồ côi từ nhỏ nhưng nước suối làng, tình yêu thương, sự cưu mang của người dân đã giúp T nú trưởng thành. Vậy là T nú là đứa con chung của làng, có mối quan hệ mật thiết với làng.

Tnú- hiện thân của vẻ đẹp bi tráng. Trước khi Mỹ- nguỵ kéo đến, cũng như bao người khác, Tnú được nuôi dưỡng để trở thành hạt giống của Cách mạng và có gia đình hạnh phúc. Nhưng khi Mỹ- nguỵ kéo đến, Tnú mất tất cả: vợ con anh bị bắt, bị tra tấn dã man rồi chết, anh thì bị cụt mất mười đầu ngón tay. Nỗi đâu ấy cũng chính là nỗi đau của dân làng Xô-man, là hiện thân của những gì cam go, hào hùng nhất.

Tnú- hiện thân của vẻ đẹp gan góc, kiên cường. Khi còn nhỏ, học chữ thua Mai nhưng con người ấy không dễ bằng lòng, liền “đập bể cái bảng nứa trước mắt” rồi ra suối ngồi, có lần “cầm một hòn đá”, “tự dập vào đầu”, “chảy máu ròng ròng”. Vậy là ngay từ nhỏ, Tnú đã có ý chí, kiên quyết làm mọi việc, hé mở tính cách mạnh mẽ, dữ dội.

Rồi Tnú đi làm liên lạc cho cán bộ trong rừng “Tnú hay quên chữ, nhưng đi đường núi thì đầu nó sáng lạ lùng”: “không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác bang bang như một con cá kình”. Hình ảnh Tnú làm ta liên tưởng đến người em liên lạc:

“ Con nhớ em con thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ”.
( Chế Lan Viên)

Rồi cả những khi bị giặc bắt, Tnú liền nuốt công văn vào trong bụng và kiên quyết không công khai những bí mật của Cách mạng. Vậy là ngay từ nhỏ, anh đã là người con của Đảng, một lòng trung thành với Đảng và Cách mạng.

Bản lĩnh, tinh thần dũng cảm của Tnú được thể hiện rõ nhất khi phải đối mặt , chịu đựng sự tra tấn của kẻ thù: anh lo rằng khi mình sắp chết thì không có ai làm Cách mạng nữa. Con người ấy, dù nỗi đâu cá nhân quá lớn nhưng vẫn vượt lên trên tất cả để nghĩ về Đảng, về Cách mạng, về sự nghiệp chung của toàn dân tộc. Khi giặc đốt mười đầu ngón tay, lửa cháy trong dạ anh đầy đau đớn. Nỗi đau ấy vượt qua sức chịu đựng của con người nhưng Tnú thật phi thường: “anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa”, “anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, tchays ở bụng”. Ngay trong đâu khổ, T nú vẫn giữ tinh thần Cách mạng…Sau đó, anh hét”giết”. Tất cả được thể hiện qua lời nói, đây cũng chính là lời thúc giục dân làng đứng dậy, đánh dấu một bước ngoặt trọng đạo làng Xôman thành làng kháng chiến. Lời nói ấy gợi ta nghĩ đến hai chữ “Sát Thát” thuở nào…

Mười đầu ngón tay Tnú đã mất nhưng điều đó không có nghĩa là anh không làm Cách mạng nữa. Anh tiếp tục cầm sung chiến đấu, nối dài chiến công, nối dài sự nghiệp của người anh hùng, để rồi sau đó, khi anh trở về đã thành người anh hung trong sự ngưỡng mộ của người dân làng.

Để làm nổi bật nhân vật Tnú, nhà văn đã lựa chọn cách kể độc đáo: lồng câu chuyện của một đời người trong câu chuyện cả dân tộc. Không chỉ vậy, ngôn ngữ hợp lý, trang trọng, giọng điệu hào hùng, sử thi,…tất cả đều làm nổi bật vẻ đẹp của Tnú.

Ai đó đã từng nói rằng “ Nghệ thuật vượt qua quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành nói chung, hình tượng Tnú nói riêng đã thực sự bước từ trang văn để đến với trang đời và làm say mê bao trái tim.

-Tống Thùy Nga-
 
  • Chủ đề
    nguyễn trung thành nhân vật tnu rừng xà nu
  • Top