“Người lái đò sông Đà” là một trong những thiên tùy bút thể hiện được khá trọn vẹn phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Ở đó, sông Đà cũng được coi là một “nhân vật”. Sau đây chúng ta cùng cảm nhận hình tượng này.
Nguyễn Tuân như là một nhà văn được sinh ra cho thể tùy bút. Với tùy bút, ông như cá gặp nước, thỏa sức vẫy vùng, thoải mái được bộc lộ cái tôi nghệ sĩ đầy bản lĩnh và giàu cá tính của mình. Đọc văn Nguyễn Tuân, ta thường xuyên có cảm giác rợn ngợp. Đó là sự ngợp mình trước cái đẹp có một không hai: chưa gặp thì xiết bao ao ước, càng nghe nói lại càng bồn chồn và khi gặp chỉ còn biết thán phục, chỉ e sợ có giây nào nghễnh ngãng không thu nhận hết, đã để trôi qua những khoảnh khắc hiếm hoi của cuộc đời. Lạ thế, văn Nguyễn vẫn còn đó, trên trang giấy nhưng nỗi e sợ kia vẫn cứ gợn lên. Ngay cả những hình tượng nghệ thuật của ông cũng không bao giờ là hình tượng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Nó đang sống, và sống một cách rất mãnh liệt, hết mình. Đó chính là hình tượng con sông Đà trong tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”. Sau đây, chúng ta sẽ cùng phân tích hình tượng sông Đà trong tác phẩm với những vẻ đẹp cũng nét đặc sắc của Nguyễn Tuân khi khắc họa hình tượng. Trước khi viết bài, các bạn có thể tham khảo một số bài mẫu phía dưới. Chúc các bạn học tập tốt!
BÀI VĂN MẪU SỐ 1 CẢM NHẬN HÌNH TƯỢNG SÔNG ĐÀ LỚP 12 HAY
Hình tượng sinh ra trong tâm trí nhà văn nhưng lại sống trong tâm trí người đọc. Thật vậy, làm thế nào mà khi gấp “Người lái đò Sông Đà” lại rồi nhưng vẫn thấy dòng thác lũ sông Đà như đang chực ào tới trước mặt. Hình tương sông Đà đã thực sự đang sống.
Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là kết quả viên mãn của chuyến đi thực tế ở vùng Tây Bắc để tìm “chất vàng mười” của thiên nhiên và con người. Trong sáng tác của Nguyễn Tuân, không ít lần người ta thấy đồ vật được tôn lên thành một “nhân vật” trung tâm, thu hút sự chú ý của nhà văn. “Người lái đò Sông Đà” cũng là một trường hợp như vậy. Sông Đà đã thực sự được nhà văn xem như một con người, có tính cách riêng mà hai nét nổi bật nhất là hung bạo và trữ tình. Hoàn toàn không ngẫu nhiên việc tác giả viết hoa cả chữ sông – một danh từ chung. Sông Đà – đó là tên của một nhân vật đích thực trong cái nhìn hồn nhiên, trẻ trung của tác giả.
Một sự độc đáo đi tìm cái độc đáo. Nguyễn Tuân đã đến với sông Đà như đến với một người bạn tương đắc. Sự dữ dội, mãnh liệt và thơ mộng tuyệt vời của nó đã thu hút ông mạnh mẽ. Ngòi bút ông như nở hoa, ông được tung hoành trong môi trường của chính mình.
Con sông Đà dần hiện ra từ cảnh vách đá bờ sông.
Ớ đó “không chỉ có thác đá” mà còn “ là những cảnh đá dựng bờ sông, dựng vách thành”. Tác giả dùng từ “vách thành” chứ không phải là “thành vách” bởi “vách thành” mới chính là vách đá kiên cố, đồ sộ, uy nghiêm, chứa đầy kỉ bí mật của thành cao hào sâu. Lê Đạt từng chia sẻ: “Tôi tôn trọng những nhà văn sinh sự với văn chương để tạo ra sự sinh của ngôn ngữ”. Nguyễn Tuân chính là người như thế. Ở vách thành ấy, đúng ngọ mới có mặt trời, giữa mùa hè mà cũng thấy lạnh. Lạnh bởi khi đá sắc như dao, hay vì dưới chân toàn là nước, hơi nước bị cầm tù ngàn năm dưới núi đá mà sinh âm u? Câu thơ tạo nên cảm giác gai ghê, ớn lạnh như đang lạc vào một trận đồ át quái của sông nước Đà giang khúc thượng nguồn. “Đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện” càng tô thêm cảm giác lạnh lẽo, tối tăm như chưa có hơi ấm của sự sống.
Vẻ đẹp hùng vĩ sông Đà còn được tô lên bằng ghềnh thác sông Đà. Câu văn “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy.” với nhịp nhanh, sử dụng một loạt những động từ mạnh và điệp từ gợi lên sự dữ dội đến hung bạo của con sông. Lũ cuồng quân đang gọi nhau ca khúc cuồng ca còn sông Đà như người phù thủy điều khiển lũ âm binh để làm khó người đi qua đó.
Và cuối cùng là vẻ đẹp hùng vĩ qua hình ảnh của những chiếc hút nước. Hình dạng của chúng rất đa dạng từ giếng bê tông, hay cửa cống cái; âm thaanh: “kêu như cống cái bị sặc”, tưởng như có một thủy quân tham lam đang nuốt trọn con mồi quá khổ. Sức hủy diệt của nó làm cho những bè gỗ khổng lồ, con thuyền lanh lợi dễ dàng trở thành miếng mồi ngon của nó, huống chi là con người.
Tiếp theo, ông đã vẽ ra cảnh thật hùng vĩ của thác nước. Nhịp độ thời gian của lời văn tường thuật hoàn toàn ứng khớp với nhịp độ tri giác cả thời gian lẫn không gian của người đọc: “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Cảm thức ngôn ngữ cực kì nhạy bén của Nguyễn Tuân khi sử dụng liên tiếp những từ chỉ thời gian: “đã thấy, rồi lại, thế rồi,…” cùng những so sánh tuyệt đối chính xác để truyền tới tâm trạng chờ đợi phấn khích, căng thẳng và cảm giác mạnh mẽ trước một không gian đột ngột mở òa ra rất mực hùng tráng. Với độc giả, khi chưa đọc hết đoạn văn, khi chưa “thấy” hế những gì sẽ tuần tự hiện lên với những con chữ, họ đã được nhà văn tạo trước cho một cảm giác toàn khối hết sức gần gũi hiện thực. Điều cốt lõ của tính tạo hình trong văn Nguyễn Tuân có lẽ là ở đó.
Đặc biệt, vẻ đẹp hung bạo sông Đà được thể hiện rõ nhất khi thạch trận sông Đà được bày ra. Đọc đoạn văn khá dài mô tả cảnh sông Đà bày thạch trận để “đòi ăn chết cái thuyền” nhưng rồi phải thua sự chèo chống tài ba dũng cảm của người lái đò, ta đâu chỉ thấy sông Đà quẫy sóng mà còn thấy văn Nguyễn Tuân cũng quẫy sóng. Biết bao là thahs thức trong cahr này – thách thức cả người lái đò, cả với nhà văn:”Thạch trận dàn bày vừa xong… cái thuyền có giỏi thì tiến vào”. Sự thực, Nguyễn Tuân đã vượt qua thách thức kia khi ông nhận diện, điểm mặt trúng đối tượng, đã nhận thấy nét xưng xưng, ngông ngạo, tự phụ, ỷ thế rất láo xược của “thằng đá tướng”.
Nguyễn Tuân không chỉ tâm dắc với đặc tính “gây sự” của sông Đà mà còn hết sức mặn mà với phẩm chất trữ tình của nó. Tất cả đều là những cực khác nhau của cái đẹp, ngòi bút Nguyễn Tuân phô khoe hết vẻ đa dạng của mình. Nếu ở trên, khi mô tả cuộc giao tranh hào hùng giữa người và thác, ông đã điều động rất nhiều và thoải mái những tri thức về quân sự, võ thuật thì ở đoạn sau, khi nói về cái thơ mộng của sông Đà, bao lịch lãm về văn chương hội họa, điện ảnh đã tự chúng tụ về ngòi bút của ông, khiến câu văn lúc ào cũng mang tiết tấu gắt, mạnh, dồn dập được kéo ra, duỗi ra rất mực êm ả. Thật khó mà phân định được nét trữ tình kia là do tự sông Đà có hay nhờ ngòi bút Nguyễn Tuân mới ngân lên thành một câu thơ: “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đất nương xuân”. Từ khi “câu thơ” trên được viết ra, một “mạch thơ hoài cựu” được khơi lên và bắt đầu tuôn chảy. Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà tác giả thốt lên hai lần tiếng “chao ôi” dạt dào nỗi niềm. Sông Đà có khi được nhà văn nhìn nhận như một cố nhân, đi xa thì nhớ, khi đột ngột gặp lại thì cuống quýt mừng vui, sung sướng. Chính điều đó làm nên câu thơ có cấu trúc đặc biệt, chỉ toàn là những cụm từ địa danh, tạo nên những liên tưởng bất ngỡ nhưng cực kì có lí: “Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà…nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cô nhân”. Nguyễn Tuân như đang chìm trong chất thơ của cảnh, của hoài niệm, của kí ức đãng sương khói và người đọc cũng chỉ biết lặng người trôi trong âm hưởng của những câu văn đẹp đẽ, trong sáng, gợi cảm lạ lùng. “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Lấy cái vô hình để làm sáng tỏ cho cái hữu hình, để khẳng định vẻ đẹp phi thời gian của đối tượng, chỉ có thể ở trong văn Nguyễn Tuân.
Hình ảnh con Sông Đà qua trang viết Nguyễn Tuân, dù là hung bạo hay trữ tình đều là vẻ đẹp lên đến tuyệt mĩ, phi thường. Bởi Nguyễn Tuân là thế, luôn nhìn sự vật dưới góc độ văn hóa thẩm mĩ, và cái đẹp với ông phải là cái đẹp tuyệt bích. Ông không ưa những cái gì lưng chừng, lỡ cỡ. Đó là quan niệm, là sự ý thức cao độ đối với cây bút, với nghề viết của một người nghệ sĩ. “Người lái đò Sông Đà” còn là sự tự do của một tài năng, của một đấng Hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ. Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên tựa một đứa trẻ thơ, mỗi trang viết mỗi câu văn của Nguyễn Tuân đều mang hơi thở của cuộc đời và tâm huyết của một người nghệ sĩ thực thụ. Nhưng tài năng mới chỉ là một mặt của vấn đề. Qua tác phẩm, ta còn thấy ở Nguyễn Tuân một tấm lòng nặng nghĩa với cuộc đời, với non sông, đất nước, với tất cả những gì ông thấy là đẹp.
Hình tượng sông Đà đi từ tâm trí nhà văn nhưng đã sống trong tâm trí độc giả mọi thế hệ rồi…
-Bỉ Ngạn-vfo.vn
Sông đà
BÀI VĂN MẪU SỐ 2 CẢM NHẬN HÌNH TƯỢNG CON SÔNG ĐÀ QUA NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ LỚP 12
Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa, uyên bác, một cây bút cả đời đi tìm kiếm cái đẹp. Khát khao “xê dịch” đã đưa Nguyễn Tuân đến với bao cùng đất của tổ quốc, để trang văn của ông khám phá ra thiên nhiên và “chất vàng mười” của con người Tây Bắc. “Sông Đà” là tập tùy bút đã cho ta thấy sự giàu có của tài nguyên và chất tâm hồn con người nơi miền Tây tổ quốc này. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một trong những áng văn tiêu biểu nhất của tập tùy bút. Cảm hứng về một dòng sông vừa hung bạo, vừa trữ tình đã làm cho con sông trở thành một hình tượng nghệ thuật ấn tượng và đặc sắc.
Nguyễn Tuân là nhà văn ưa cảm giác mạnh. nên con sông Đà hiện lên trên trang văn với những sắc thái rất hùng bạo, mạnh mẽ. Ở lời đề từ, con sông đã mang một nét cá tính đậm sắc: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Mọi con sông đều chảy về hướng đông, chỉ có một sông Đà theo hướng bắc. Dòng chảy “chẳng giống ai ấy” báo trước về một con sông không hề bình lặng, như một dấu hiệu để chỉ cái hung bạo của những dòng nước cuộn sôi. Những cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”. Những vách đá cao khiến lòng sông thu hẹp như thể đang chẹt lấy lòng sông. Cái hẹp được nhà văn ví von, mường tượng theo đủ cách: “như một cái yết hầu”, “đứng bên bờ này nhẹ tay ném hòn đá sang bên kia vách”, “có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Sự liên tưởng rất phong phú làm cho hình dung về con sông cũng trở nên đa dạng hơn. Con sông không chỉ hiện ra trong những hình ảnh mà còn dội vào trong tâm trí ta bởi cảm giác hoang lạnh. “Ngồi trong khoang đò quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Sự huy động các giác quan, trí tưởng tượng phong phú và sử dụng triệt để hiệu ứng thị giác và xúc giác đã mang lại những choáng ngợp cho người đọc khi vừa mới tiếp cận con sông.
Hung bạo của sông Đà còn nằm ở những mặt ghềnh. “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”. Những câu văn dài, nhiều vế, phép so sánh, nhân hóa, điệp từ, nhiều vần trắc đã miêu tả khung cảnh dữ dội, nguy hiểm ở nơi đây. Thiên nhiên như đang hùa với nhau, tạo nên một thế trận khó khăn đe dọa bất cứ người lái đò nào tới đây.
Không bày ra bộ dạng dữ dằn, gồ ghề thì sông Đà hung bạo lại thâm sâu khó lường với những hút nước. “Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông”, “nước ở thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Phép so sánh liên tưởng và nhân hóa lần nữa được nhà văn sử dụng triệt để. Nguyễn Tuân vận dụng kiến thức gia thông vận tải, biến con thuyền qua những cái hút nước thành những chiếc oto “sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ”. Để có cái nhìn chân thật hơn, nhà văn còn hóa thân thành anh thợ quay phim, “lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng” để thu lại những đoạn “phim kí sự”. Việc vận dụng kết hợp và linh hoạt nhiều kiến thức ở các lĩnh vực khác nhau đã mang lại cho ta những hình dung đa dạng hơn, liên tưởng ở nhiều phương diện khác nhau hơn. Điều đó cũng thể hiện vốn hiểu biết phong phú và tài năng ngòi bút của Nguyễn Tuân.
Nhìn sông Đà qua hiệu ứng thị giác và xúc giác chưa đủ, nhà văn còn cảm và vẽ ra con sông Đà hung bạo qua hiệu ứng của thính giác với những âm thanh vọng đến của thác nước. Phép nhân hóa và liệt kê trong câu“tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo” đã đưa người đọc đến với thác nước theo trình tự từ xa đến gần với những tầng âm thanh ngày càng dữ dội hơn. Thế nước được đặt trong tương quan với thế lửa khiến cho những dòng nước cũng như bốc cao lên như ngọn lửa cháy rực, vừa đối lập lại vừa tương đồng. Hình ảnh so sánh thể hiện cái “ngông” của ngòi bút nhà văn, tìm đến một đối tượng chẳng dễ chịu và tái hiện nó bằng một ngòi bút cũng chẳng hề tầm thường.
Sự hung bạo của sông Đà được đặt trong tư thế chiến đấu chống lại người lái đò. Trận địa đá chính là những trùng vi trận mà người lái đò buộc phải vượt qua nếu muốn qua được những dữ dội của nước, của đá, của thác ấy. Sông Đà được nhân hóa thành một vị tướng điều khiển những hòn đá thành ba “trùng vi thạch trận”. Trận chiến trên sông lắt léo, phức tạp. Ống kính nguyễn Tuân lia cận cạnh vào từng hòn đá để ghi lại những khuôn mặt đá “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Nhìn đá mà ta như thấy cả một vùng sông nước hung dữ và hoang dại, vẻ mặt dữ tợn và tính cách rất mạnh mẽ, hung bạo.ở trùng vi thạch trận thứ nhất, những hòn đá khi “hất hàm”, khi “thách thức”, mặt nước thì “hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước thì “đá trái, thúc gối vào bụng hông thuyền”. Ở trùng vi thạc trận thứ hai, con sông bài binh bố trận ngang dọc, tăng cửa tử để “đánh lừa” con thuyền, cửa sinh nằm “lập lờ” phía tả ngạn, dòng thác nước thì như “hùm beo”. Qua vòng hai, người lái đò và ống kính máy quay của nhà văn lại một lần nữa đối diện với khuôn mặt dữ tợn của thiên nhiên ở trùng vi trận thứ ba. Luồng sống năm ngay giữa “bọn đá hậu vệ của con thác”, hai bên đều là cửa tử. Phép nhân hóa được sử dụng dọc chiều dài đoạn văn miêu tả trận địa đá đã thổi hồn cho thiên nhiên, khiến chúng mang bộ mặt, tính cách ương ngạnh, dữ dằn, chỉ cần có cơ hội là có thể cướp đi mái chèo, con thuyền, thậm chí là sinh mạng của người lái đò. Sông Đà hiện lên ở đây tựa vị tướng tài ba, tượng người sắp xếp những cầu thủ trên sân bóng sao cho hàng phòng thủ thật kiên cố,… Các kiến thức về những lĩnh vực khác nhau được vận dung đan xen, linh hoạt, lồng vào nhau khiến sông Đà hiện lên với nhiều bộ mặt, không chỉ là sự dữ dội nữa mà còn mang những nét mưu mô, xảo quyệt như kẻ thù số một của con người. Cái dữ dội, hung bạo của sông Đà cũng là những nét đặc trưng cho thiên nhiên vùng Tây Bắc, được dựng lên như một bức phông nền cho sự xuất hiện dũng mãnh của người lái đò. Ta còn nhìn thấy tiềm năng thủy điện ở con sông luôn mang sức sống mạnh mẽ này. Đó là “chất vàng mười” của thiện nhiên mà Nguyễn Tuân muốn tìm đến và khám phá.
Hung bạo, như con sông Đà cũng có lúc thật trữ tình nên thơ. Người lái đò dừng mái chèo cũng là lúc dòng nước sông trở về trạng thái dịu êm. Qua những lần đi tàu bay, sông Đà khúc hiện lên “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng ba và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.”. “Áng tóc” chứ không phải “mái tóc”. Cách sử dụng từ ngữ rất tinh tế khiến ta liên tưởng đến áng thơ, trong không gian với hoa ban, hoa gạo, mù khói và nương xuân lại càng trở nên “thơ” hơn, trữ tình hơn, dịu dàng hơn và bung mở cảm xúc hơn. Đó là vẻ đẹp mềm mại của con sông, tựa như một thiếu nữ đang thì xuân sắc. Cấu trúc câu văn dài kết hợp với điệp từ, nhiều vế câu như vẽ ra dòng chảy miên man vô tận của con sông. Nét đẹp của sông Đà còn nằm ở sắc nước, biến đổi qua từng mùa trong năm. Xuân là “dòng xanh ngọc bích”, thu là “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở ột người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về.”. Màu xanh của sông Đà còn được đặt trong thế so sánh với màu “xanh canh hến” của sông Lô, sông Gâm khiến sắc xanh “ngọc bích” càng đậm đà hơn, tựa như hòn ngọc ngày càng đậm sắc và rạng rỡ. Màu đỏ của thu khiến dòng nước như trĩu nặng phù sa, lại như một thứ men say làm say lòng người ngắm cảnh. Phép so sánh và nhân hóa kết hợp biến sông Đà thành một chủ thể trữ tình, có tâm trạng, tính cách của con người. Khi đi từ rừng đi ra, bắt gặp con sông mà tựa như gặp lại “cố nhân” và thấy sông ánh lên “màu nắng tháng ba Đường thi”. Con sông nhiễm màu quá khứ, mang những hoài niệm hoài cổ của một người bạn tâm giao thuở cũ và nét trang trọng của thời trung đại trong sắc nắng cổ xưa. “Cố nhân” nên gặp gỡ lại, Nguyễn Tuân “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”. Thuyền trôi trên sông, tầm mắt nhà văn hướng đến cảnh bãi bờ “lặng tờ”, “tịnh không một bóng người”. Không còn tiếng thác gào thét, tiếng nước xô đá ầm ầm nữa, con sông trở nên lặng yên trong nét “hoang dại như một bờ tiền sử”, nét “hồn nhiên như một một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. So sánh cái hữu hình với cái vô hình, dường như cái lặng im, hoang sơ ở nơi đây chỉ có thể cảm được chứ không thể nhìn được và cũng không thể nắm bắt. Nhà văn tưởng tượng ra “tiếng còi sương”, tiếng đàn cá dầm xanh “quẫy vọt trên mặt sông”. Có âm thanh nhưng lại nổi lên nét vô âm, yên tĩnh của con sông, Nguyễn Tuân đã sử dụng bút pháp lấy động tả tĩnh. Những ấm thanh ấy như vọng lại từ nơi quá khứ xa xôi, tựa như hòn đá rơi vào lòng giếng cạn, âm thanh vẫn phát ra rồi lại mất hút trong lòng giếng. Nét tĩnh lặng nhưng không đồng nghĩa với sự chững lại, nhịp sống vẫn diễn ra, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”, “một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Những mầm non, những sinh vật vẫn đang phát triển và hoạt động trong cái tĩnh lặng của nơi đây.
Hai đặc điểm đối lập nhau nhưng lại hòa vào một thể thống nhất trong tính cách, gương mặt con sông Đà. Phép nhân hóa, so sánh cộng hưởng với những hiệu ứng thị giác, thính giác, xúc giác, vận dụng linh hoạt, đa dạng các kiến thức để tái hiện, miêu tả đã làm nổi bật một con sông giàu tâm hồn, có tính cách như một con người. Dòng sông như dữ dội trên những câu chữ, con sông Đà như dịu êm trong những nhịp chậm của ngòi bút xuôi dòng. Con sông Đà tựa như là sự phản ánh của chính tính cách và tâm hồn của Nguyễn Tuân, lúc dữ dội của cảm giác mạnh trong khát khao “xê dịch”, lúc lại dịu êm khi đi khám phá “chất vàng mười” của thiên nhiên cuộc sống.
-QP-vfo.vn
Nguyễn Tuân như là một nhà văn được sinh ra cho thể tùy bút. Với tùy bút, ông như cá gặp nước, thỏa sức vẫy vùng, thoải mái được bộc lộ cái tôi nghệ sĩ đầy bản lĩnh và giàu cá tính của mình. Đọc văn Nguyễn Tuân, ta thường xuyên có cảm giác rợn ngợp. Đó là sự ngợp mình trước cái đẹp có một không hai: chưa gặp thì xiết bao ao ước, càng nghe nói lại càng bồn chồn và khi gặp chỉ còn biết thán phục, chỉ e sợ có giây nào nghễnh ngãng không thu nhận hết, đã để trôi qua những khoảnh khắc hiếm hoi của cuộc đời. Lạ thế, văn Nguyễn vẫn còn đó, trên trang giấy nhưng nỗi e sợ kia vẫn cứ gợn lên. Ngay cả những hình tượng nghệ thuật của ông cũng không bao giờ là hình tượng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Nó đang sống, và sống một cách rất mãnh liệt, hết mình. Đó chính là hình tượng con sông Đà trong tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”. Sau đây, chúng ta sẽ cùng phân tích hình tượng sông Đà trong tác phẩm với những vẻ đẹp cũng nét đặc sắc của Nguyễn Tuân khi khắc họa hình tượng. Trước khi viết bài, các bạn có thể tham khảo một số bài mẫu phía dưới. Chúc các bạn học tập tốt!
BÀI VĂN MẪU SỐ 1 CẢM NHẬN HÌNH TƯỢNG SÔNG ĐÀ LỚP 12 HAY
Hình tượng sinh ra trong tâm trí nhà văn nhưng lại sống trong tâm trí người đọc. Thật vậy, làm thế nào mà khi gấp “Người lái đò Sông Đà” lại rồi nhưng vẫn thấy dòng thác lũ sông Đà như đang chực ào tới trước mặt. Hình tương sông Đà đã thực sự đang sống.
Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là kết quả viên mãn của chuyến đi thực tế ở vùng Tây Bắc để tìm “chất vàng mười” của thiên nhiên và con người. Trong sáng tác của Nguyễn Tuân, không ít lần người ta thấy đồ vật được tôn lên thành một “nhân vật” trung tâm, thu hút sự chú ý của nhà văn. “Người lái đò Sông Đà” cũng là một trường hợp như vậy. Sông Đà đã thực sự được nhà văn xem như một con người, có tính cách riêng mà hai nét nổi bật nhất là hung bạo và trữ tình. Hoàn toàn không ngẫu nhiên việc tác giả viết hoa cả chữ sông – một danh từ chung. Sông Đà – đó là tên của một nhân vật đích thực trong cái nhìn hồn nhiên, trẻ trung của tác giả.
Một sự độc đáo đi tìm cái độc đáo. Nguyễn Tuân đã đến với sông Đà như đến với một người bạn tương đắc. Sự dữ dội, mãnh liệt và thơ mộng tuyệt vời của nó đã thu hút ông mạnh mẽ. Ngòi bút ông như nở hoa, ông được tung hoành trong môi trường của chính mình.
Con sông Đà dần hiện ra từ cảnh vách đá bờ sông.
Ớ đó “không chỉ có thác đá” mà còn “ là những cảnh đá dựng bờ sông, dựng vách thành”. Tác giả dùng từ “vách thành” chứ không phải là “thành vách” bởi “vách thành” mới chính là vách đá kiên cố, đồ sộ, uy nghiêm, chứa đầy kỉ bí mật của thành cao hào sâu. Lê Đạt từng chia sẻ: “Tôi tôn trọng những nhà văn sinh sự với văn chương để tạo ra sự sinh của ngôn ngữ”. Nguyễn Tuân chính là người như thế. Ở vách thành ấy, đúng ngọ mới có mặt trời, giữa mùa hè mà cũng thấy lạnh. Lạnh bởi khi đá sắc như dao, hay vì dưới chân toàn là nước, hơi nước bị cầm tù ngàn năm dưới núi đá mà sinh âm u? Câu thơ tạo nên cảm giác gai ghê, ớn lạnh như đang lạc vào một trận đồ át quái của sông nước Đà giang khúc thượng nguồn. “Đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện” càng tô thêm cảm giác lạnh lẽo, tối tăm như chưa có hơi ấm của sự sống.
Vẻ đẹp hùng vĩ sông Đà còn được tô lên bằng ghềnh thác sông Đà. Câu văn “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy.” với nhịp nhanh, sử dụng một loạt những động từ mạnh và điệp từ gợi lên sự dữ dội đến hung bạo của con sông. Lũ cuồng quân đang gọi nhau ca khúc cuồng ca còn sông Đà như người phù thủy điều khiển lũ âm binh để làm khó người đi qua đó.
Và cuối cùng là vẻ đẹp hùng vĩ qua hình ảnh của những chiếc hút nước. Hình dạng của chúng rất đa dạng từ giếng bê tông, hay cửa cống cái; âm thaanh: “kêu như cống cái bị sặc”, tưởng như có một thủy quân tham lam đang nuốt trọn con mồi quá khổ. Sức hủy diệt của nó làm cho những bè gỗ khổng lồ, con thuyền lanh lợi dễ dàng trở thành miếng mồi ngon của nó, huống chi là con người.
Tiếp theo, ông đã vẽ ra cảnh thật hùng vĩ của thác nước. Nhịp độ thời gian của lời văn tường thuật hoàn toàn ứng khớp với nhịp độ tri giác cả thời gian lẫn không gian của người đọc: “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Cảm thức ngôn ngữ cực kì nhạy bén của Nguyễn Tuân khi sử dụng liên tiếp những từ chỉ thời gian: “đã thấy, rồi lại, thế rồi,…” cùng những so sánh tuyệt đối chính xác để truyền tới tâm trạng chờ đợi phấn khích, căng thẳng và cảm giác mạnh mẽ trước một không gian đột ngột mở òa ra rất mực hùng tráng. Với độc giả, khi chưa đọc hết đoạn văn, khi chưa “thấy” hế những gì sẽ tuần tự hiện lên với những con chữ, họ đã được nhà văn tạo trước cho một cảm giác toàn khối hết sức gần gũi hiện thực. Điều cốt lõ của tính tạo hình trong văn Nguyễn Tuân có lẽ là ở đó.
Đặc biệt, vẻ đẹp hung bạo sông Đà được thể hiện rõ nhất khi thạch trận sông Đà được bày ra. Đọc đoạn văn khá dài mô tả cảnh sông Đà bày thạch trận để “đòi ăn chết cái thuyền” nhưng rồi phải thua sự chèo chống tài ba dũng cảm của người lái đò, ta đâu chỉ thấy sông Đà quẫy sóng mà còn thấy văn Nguyễn Tuân cũng quẫy sóng. Biết bao là thahs thức trong cahr này – thách thức cả người lái đò, cả với nhà văn:”Thạch trận dàn bày vừa xong… cái thuyền có giỏi thì tiến vào”. Sự thực, Nguyễn Tuân đã vượt qua thách thức kia khi ông nhận diện, điểm mặt trúng đối tượng, đã nhận thấy nét xưng xưng, ngông ngạo, tự phụ, ỷ thế rất láo xược của “thằng đá tướng”.
Nguyễn Tuân không chỉ tâm dắc với đặc tính “gây sự” của sông Đà mà còn hết sức mặn mà với phẩm chất trữ tình của nó. Tất cả đều là những cực khác nhau của cái đẹp, ngòi bút Nguyễn Tuân phô khoe hết vẻ đa dạng của mình. Nếu ở trên, khi mô tả cuộc giao tranh hào hùng giữa người và thác, ông đã điều động rất nhiều và thoải mái những tri thức về quân sự, võ thuật thì ở đoạn sau, khi nói về cái thơ mộng của sông Đà, bao lịch lãm về văn chương hội họa, điện ảnh đã tự chúng tụ về ngòi bút của ông, khiến câu văn lúc ào cũng mang tiết tấu gắt, mạnh, dồn dập được kéo ra, duỗi ra rất mực êm ả. Thật khó mà phân định được nét trữ tình kia là do tự sông Đà có hay nhờ ngòi bút Nguyễn Tuân mới ngân lên thành một câu thơ: “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đất nương xuân”. Từ khi “câu thơ” trên được viết ra, một “mạch thơ hoài cựu” được khơi lên và bắt đầu tuôn chảy. Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà tác giả thốt lên hai lần tiếng “chao ôi” dạt dào nỗi niềm. Sông Đà có khi được nhà văn nhìn nhận như một cố nhân, đi xa thì nhớ, khi đột ngột gặp lại thì cuống quýt mừng vui, sung sướng. Chính điều đó làm nên câu thơ có cấu trúc đặc biệt, chỉ toàn là những cụm từ địa danh, tạo nên những liên tưởng bất ngỡ nhưng cực kì có lí: “Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà…nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cô nhân”. Nguyễn Tuân như đang chìm trong chất thơ của cảnh, của hoài niệm, của kí ức đãng sương khói và người đọc cũng chỉ biết lặng người trôi trong âm hưởng của những câu văn đẹp đẽ, trong sáng, gợi cảm lạ lùng. “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Lấy cái vô hình để làm sáng tỏ cho cái hữu hình, để khẳng định vẻ đẹp phi thời gian của đối tượng, chỉ có thể ở trong văn Nguyễn Tuân.
Hình ảnh con Sông Đà qua trang viết Nguyễn Tuân, dù là hung bạo hay trữ tình đều là vẻ đẹp lên đến tuyệt mĩ, phi thường. Bởi Nguyễn Tuân là thế, luôn nhìn sự vật dưới góc độ văn hóa thẩm mĩ, và cái đẹp với ông phải là cái đẹp tuyệt bích. Ông không ưa những cái gì lưng chừng, lỡ cỡ. Đó là quan niệm, là sự ý thức cao độ đối với cây bút, với nghề viết của một người nghệ sĩ. “Người lái đò Sông Đà” còn là sự tự do của một tài năng, của một đấng Hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ. Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên tựa một đứa trẻ thơ, mỗi trang viết mỗi câu văn của Nguyễn Tuân đều mang hơi thở của cuộc đời và tâm huyết của một người nghệ sĩ thực thụ. Nhưng tài năng mới chỉ là một mặt của vấn đề. Qua tác phẩm, ta còn thấy ở Nguyễn Tuân một tấm lòng nặng nghĩa với cuộc đời, với non sông, đất nước, với tất cả những gì ông thấy là đẹp.
Hình tượng sông Đà đi từ tâm trí nhà văn nhưng đã sống trong tâm trí độc giả mọi thế hệ rồi…
-Bỉ Ngạn-vfo.vn
Sông đà
BÀI VĂN MẪU SỐ 2 CẢM NHẬN HÌNH TƯỢNG CON SÔNG ĐÀ QUA NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ LỚP 12
Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa, uyên bác, một cây bút cả đời đi tìm kiếm cái đẹp. Khát khao “xê dịch” đã đưa Nguyễn Tuân đến với bao cùng đất của tổ quốc, để trang văn của ông khám phá ra thiên nhiên và “chất vàng mười” của con người Tây Bắc. “Sông Đà” là tập tùy bút đã cho ta thấy sự giàu có của tài nguyên và chất tâm hồn con người nơi miền Tây tổ quốc này. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một trong những áng văn tiêu biểu nhất của tập tùy bút. Cảm hứng về một dòng sông vừa hung bạo, vừa trữ tình đã làm cho con sông trở thành một hình tượng nghệ thuật ấn tượng và đặc sắc.
Nguyễn Tuân là nhà văn ưa cảm giác mạnh. nên con sông Đà hiện lên trên trang văn với những sắc thái rất hùng bạo, mạnh mẽ. Ở lời đề từ, con sông đã mang một nét cá tính đậm sắc: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Mọi con sông đều chảy về hướng đông, chỉ có một sông Đà theo hướng bắc. Dòng chảy “chẳng giống ai ấy” báo trước về một con sông không hề bình lặng, như một dấu hiệu để chỉ cái hung bạo của những dòng nước cuộn sôi. Những cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”. Những vách đá cao khiến lòng sông thu hẹp như thể đang chẹt lấy lòng sông. Cái hẹp được nhà văn ví von, mường tượng theo đủ cách: “như một cái yết hầu”, “đứng bên bờ này nhẹ tay ném hòn đá sang bên kia vách”, “có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Sự liên tưởng rất phong phú làm cho hình dung về con sông cũng trở nên đa dạng hơn. Con sông không chỉ hiện ra trong những hình ảnh mà còn dội vào trong tâm trí ta bởi cảm giác hoang lạnh. “Ngồi trong khoang đò quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Sự huy động các giác quan, trí tưởng tượng phong phú và sử dụng triệt để hiệu ứng thị giác và xúc giác đã mang lại những choáng ngợp cho người đọc khi vừa mới tiếp cận con sông.
Hung bạo của sông Đà còn nằm ở những mặt ghềnh. “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”. Những câu văn dài, nhiều vế, phép so sánh, nhân hóa, điệp từ, nhiều vần trắc đã miêu tả khung cảnh dữ dội, nguy hiểm ở nơi đây. Thiên nhiên như đang hùa với nhau, tạo nên một thế trận khó khăn đe dọa bất cứ người lái đò nào tới đây.
Không bày ra bộ dạng dữ dằn, gồ ghề thì sông Đà hung bạo lại thâm sâu khó lường với những hút nước. “Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông”, “nước ở thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Phép so sánh liên tưởng và nhân hóa lần nữa được nhà văn sử dụng triệt để. Nguyễn Tuân vận dụng kiến thức gia thông vận tải, biến con thuyền qua những cái hút nước thành những chiếc oto “sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ”. Để có cái nhìn chân thật hơn, nhà văn còn hóa thân thành anh thợ quay phim, “lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng” để thu lại những đoạn “phim kí sự”. Việc vận dụng kết hợp và linh hoạt nhiều kiến thức ở các lĩnh vực khác nhau đã mang lại cho ta những hình dung đa dạng hơn, liên tưởng ở nhiều phương diện khác nhau hơn. Điều đó cũng thể hiện vốn hiểu biết phong phú và tài năng ngòi bút của Nguyễn Tuân.
Nhìn sông Đà qua hiệu ứng thị giác và xúc giác chưa đủ, nhà văn còn cảm và vẽ ra con sông Đà hung bạo qua hiệu ứng của thính giác với những âm thanh vọng đến của thác nước. Phép nhân hóa và liệt kê trong câu“tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo” đã đưa người đọc đến với thác nước theo trình tự từ xa đến gần với những tầng âm thanh ngày càng dữ dội hơn. Thế nước được đặt trong tương quan với thế lửa khiến cho những dòng nước cũng như bốc cao lên như ngọn lửa cháy rực, vừa đối lập lại vừa tương đồng. Hình ảnh so sánh thể hiện cái “ngông” của ngòi bút nhà văn, tìm đến một đối tượng chẳng dễ chịu và tái hiện nó bằng một ngòi bút cũng chẳng hề tầm thường.
Sự hung bạo của sông Đà được đặt trong tư thế chiến đấu chống lại người lái đò. Trận địa đá chính là những trùng vi trận mà người lái đò buộc phải vượt qua nếu muốn qua được những dữ dội của nước, của đá, của thác ấy. Sông Đà được nhân hóa thành một vị tướng điều khiển những hòn đá thành ba “trùng vi thạch trận”. Trận chiến trên sông lắt léo, phức tạp. Ống kính nguyễn Tuân lia cận cạnh vào từng hòn đá để ghi lại những khuôn mặt đá “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Nhìn đá mà ta như thấy cả một vùng sông nước hung dữ và hoang dại, vẻ mặt dữ tợn và tính cách rất mạnh mẽ, hung bạo.ở trùng vi thạch trận thứ nhất, những hòn đá khi “hất hàm”, khi “thách thức”, mặt nước thì “hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước thì “đá trái, thúc gối vào bụng hông thuyền”. Ở trùng vi thạc trận thứ hai, con sông bài binh bố trận ngang dọc, tăng cửa tử để “đánh lừa” con thuyền, cửa sinh nằm “lập lờ” phía tả ngạn, dòng thác nước thì như “hùm beo”. Qua vòng hai, người lái đò và ống kính máy quay của nhà văn lại một lần nữa đối diện với khuôn mặt dữ tợn của thiên nhiên ở trùng vi trận thứ ba. Luồng sống năm ngay giữa “bọn đá hậu vệ của con thác”, hai bên đều là cửa tử. Phép nhân hóa được sử dụng dọc chiều dài đoạn văn miêu tả trận địa đá đã thổi hồn cho thiên nhiên, khiến chúng mang bộ mặt, tính cách ương ngạnh, dữ dằn, chỉ cần có cơ hội là có thể cướp đi mái chèo, con thuyền, thậm chí là sinh mạng của người lái đò. Sông Đà hiện lên ở đây tựa vị tướng tài ba, tượng người sắp xếp những cầu thủ trên sân bóng sao cho hàng phòng thủ thật kiên cố,… Các kiến thức về những lĩnh vực khác nhau được vận dung đan xen, linh hoạt, lồng vào nhau khiến sông Đà hiện lên với nhiều bộ mặt, không chỉ là sự dữ dội nữa mà còn mang những nét mưu mô, xảo quyệt như kẻ thù số một của con người. Cái dữ dội, hung bạo của sông Đà cũng là những nét đặc trưng cho thiên nhiên vùng Tây Bắc, được dựng lên như một bức phông nền cho sự xuất hiện dũng mãnh của người lái đò. Ta còn nhìn thấy tiềm năng thủy điện ở con sông luôn mang sức sống mạnh mẽ này. Đó là “chất vàng mười” của thiện nhiên mà Nguyễn Tuân muốn tìm đến và khám phá.
Hung bạo, như con sông Đà cũng có lúc thật trữ tình nên thơ. Người lái đò dừng mái chèo cũng là lúc dòng nước sông trở về trạng thái dịu êm. Qua những lần đi tàu bay, sông Đà khúc hiện lên “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng ba và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.”. “Áng tóc” chứ không phải “mái tóc”. Cách sử dụng từ ngữ rất tinh tế khiến ta liên tưởng đến áng thơ, trong không gian với hoa ban, hoa gạo, mù khói và nương xuân lại càng trở nên “thơ” hơn, trữ tình hơn, dịu dàng hơn và bung mở cảm xúc hơn. Đó là vẻ đẹp mềm mại của con sông, tựa như một thiếu nữ đang thì xuân sắc. Cấu trúc câu văn dài kết hợp với điệp từ, nhiều vế câu như vẽ ra dòng chảy miên man vô tận của con sông. Nét đẹp của sông Đà còn nằm ở sắc nước, biến đổi qua từng mùa trong năm. Xuân là “dòng xanh ngọc bích”, thu là “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở ột người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về.”. Màu xanh của sông Đà còn được đặt trong thế so sánh với màu “xanh canh hến” của sông Lô, sông Gâm khiến sắc xanh “ngọc bích” càng đậm đà hơn, tựa như hòn ngọc ngày càng đậm sắc và rạng rỡ. Màu đỏ của thu khiến dòng nước như trĩu nặng phù sa, lại như một thứ men say làm say lòng người ngắm cảnh. Phép so sánh và nhân hóa kết hợp biến sông Đà thành một chủ thể trữ tình, có tâm trạng, tính cách của con người. Khi đi từ rừng đi ra, bắt gặp con sông mà tựa như gặp lại “cố nhân” và thấy sông ánh lên “màu nắng tháng ba Đường thi”. Con sông nhiễm màu quá khứ, mang những hoài niệm hoài cổ của một người bạn tâm giao thuở cũ và nét trang trọng của thời trung đại trong sắc nắng cổ xưa. “Cố nhân” nên gặp gỡ lại, Nguyễn Tuân “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”. Thuyền trôi trên sông, tầm mắt nhà văn hướng đến cảnh bãi bờ “lặng tờ”, “tịnh không một bóng người”. Không còn tiếng thác gào thét, tiếng nước xô đá ầm ầm nữa, con sông trở nên lặng yên trong nét “hoang dại như một bờ tiền sử”, nét “hồn nhiên như một một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. So sánh cái hữu hình với cái vô hình, dường như cái lặng im, hoang sơ ở nơi đây chỉ có thể cảm được chứ không thể nhìn được và cũng không thể nắm bắt. Nhà văn tưởng tượng ra “tiếng còi sương”, tiếng đàn cá dầm xanh “quẫy vọt trên mặt sông”. Có âm thanh nhưng lại nổi lên nét vô âm, yên tĩnh của con sông, Nguyễn Tuân đã sử dụng bút pháp lấy động tả tĩnh. Những ấm thanh ấy như vọng lại từ nơi quá khứ xa xôi, tựa như hòn đá rơi vào lòng giếng cạn, âm thanh vẫn phát ra rồi lại mất hút trong lòng giếng. Nét tĩnh lặng nhưng không đồng nghĩa với sự chững lại, nhịp sống vẫn diễn ra, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”, “một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Những mầm non, những sinh vật vẫn đang phát triển và hoạt động trong cái tĩnh lặng của nơi đây.
Hai đặc điểm đối lập nhau nhưng lại hòa vào một thể thống nhất trong tính cách, gương mặt con sông Đà. Phép nhân hóa, so sánh cộng hưởng với những hiệu ứng thị giác, thính giác, xúc giác, vận dụng linh hoạt, đa dạng các kiến thức để tái hiện, miêu tả đã làm nổi bật một con sông giàu tâm hồn, có tính cách như một con người. Dòng sông như dữ dội trên những câu chữ, con sông Đà như dịu êm trong những nhịp chậm của ngòi bút xuôi dòng. Con sông Đà tựa như là sự phản ánh của chính tính cách và tâm hồn của Nguyễn Tuân, lúc dữ dội của cảm giác mạnh trong khát khao “xê dịch”, lúc lại dịu êm khi đi khám phá “chất vàng mười” của thiên nhiên cuộc sống.
-QP-vfo.vn