Cảm nhận vẻ đẹp người lính Tây Tiến đoạn 3

Quang Dũng, một hồn thơ đẹp và rất riêng của thơ ca hiện đại Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc với những tác phẩm mang “sự khác biệt hoàn toàn trong phong trào Thơ Mới những năm 1932 – 1945”. Bài thơ “ Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu của ông viết về thời kì này. Trong bài thơ hình ảnh những người lính hiện lên thật đẹp như một bức tượng đài trong đoạn thơ thứ ba.

Một hồn thơ trung hậu, thiết tha. Một cái tôi tài hoa, thanh lịch. Là một trong số nhiều nhà thơ vừa cầm súng đánh giặc, vừa làm thơ, hồn thơ Quang Dũng rất hào sảng, dư ba. Rất mực hồn nhiên và chân chất, Quang Dũng và thơ ông từng ngày để lại nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc. Nhắc đến thơ Quang Dũng, phải chăng thật thiếu sót nếu như quên nhắc đến “Tây Tiến” – một bài thơ đặc sắc nằm trong tập “Mây đầu ô” xuất bản năm 1986. Còn nhà phê bình Nguyễn Xuân Nguyên cũng tấm tắc khen ngợi: “Một bài thơ kỳ diệu và có một vị trí đặc biệt trong lòng công chúng…một bài thơ làm sống dậy cả một trung đoàn, khiến địa danh Tây Tiến trường tồn trong lịch sử và ký ức mỗi con người. Những dòng thơ dạt dào cảm xúc trong “Tây Tiến” gợi người đọc liên tưởng đến hình ảnh người lính trên chặng đường hành quân đầy gian lao, suy ngẫm và chia sẻ những cảm xúc của nhân vật trữ tình hay cũng chính là nỗi lòng nhà thơ khi nghĩ về đồng đội, về miền núi rừng hùng vĩ mình đã từng gắn bó. Dưới đây là bài văn mẫu hay nhất cảm nhận về hình ảnh người lính Tây Tiến trong đoạn 3 của bài thơ mà các bạn có thể tham khảo. Chúc các bạn thành công!

nguoi-linh-tay-tien(1).jpg

Hình ảnh người lính Việt Nam luôn là những hình ảnh đẹp, trong bài thơ Tây Tiến thì hinhf ảnh người lính cụ Hồ được vé lên rất đẹp và hào hùng đặc biệt là trong đoạn 3

BÀI VĂN MẪU SỐ 1 CẢM NHẬN VẺ ĐẸP NGƯỜI LÍNH TÂY TIẾN ĐOẠN 3 TRONG BÀI THƠ “ TÂY TIẾN” LỚP 12
Quang Dũng là một trong những nhà thơ chiến sĩ tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông đặc biệt thành công khi viết về đề tài người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong nhã. Một trong những bài thơ nổi tiếng viết về người lính là bài thơ “ Tây Tiến”. Bài thơ đã làm khắc hoạ thật ấn tượng bức tượng đài về hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng lí tưởng cao cả, sự hi sinh dũng cảm cùng vẻ hào hoa lãng mạn. Điều này đã được nhà thơ thể hiện rõ nét qua đoạn 3.

Trong nền văn học Việt Nam, mọi người nhớ tới Quang Dũng như một nghệ sĩ đa tài. Ông vẽ tranh, sang tác nhạc, viết văn xuôi nhưng trước hết vẫn là một nhà thơ. Sinh ra ở vùng mây trắng xứ Đoài niềm thơ ấy đã tạo nên một tâm hồn hồn hậu hào hoa lãng mạn. Bài thơ Tây Tiến được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh, một làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông viết lên bài thơ. Bài thơ như một bức tượng đài về những người lính cách mạng trong kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những năm tháng gian khổ ấy bất tử cùng thời gian
  • “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
  • Quân xanh màu lá dữ oai hùm
  • Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
  • Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Trong kí ức Quang Dũng, Tây Tiến là một “ đoàn binh không mọc tóc”. Nét vẽ ngoại hình này xuất phát từ một hiện thực trong cuộc sống của người lính Tây Tiến. Viết về người lính, ngòi bút Quang Dũng cũng không né tránh hiện thực, hành quân chiến đấu ở núi lạ rừng xa, ở chốn rừng thiêng nước độc, thâm sơn cùng cốc, những người lính đi qua hai cuộc chiến tranh và người lính Tây Tiến nói riêng không ai không nếm trải những trận sốt rét kinh hoàng “ Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ” hay “ Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh”. Những người lính Tây Tiến họ phải cạo trọc đầu để giảm bớt những bất tiện trong cuộc sống ở rừng hoặc tạo thuận lợi hơn cho đánh cận chiến. Cũng có thể đó là hậu quả của những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc. Dù hiểu theo cách nào, đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ, thiếu thốn khắc nghiệt của chiến tranh. Nhưng với cách diễn đạt “ không mọc tóc” câu thơ rắn rỏi, gân guốc, giọng thơ ngang tàng rất lính tâm thế chủ động, tư thế hiên ngang, ngạo nghễ trước khó khăn thử thách.

Chân dung người lính Tây Tiến còn được vẽ tiếp trong nét ngoại hình đặc sắc:
  • “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Có thể hiểu đây là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá nguỵ trang khiến cả đoàn quân “ xanh màu lá’. Nhưng theo mạch thơ nên hiểu là câu thơ miêu tả những gương mặt xanh xao gầy ốm vì sốt rét, vì cuộc sống tham khổ ở rừng. Có thể nhận ra cách diễn đạt tinh tế của Quang Dũng khi nhà thơ miêu tả một đoàn quân “ xanh màu lá” chứ không phải là “ xanh xao”, người lính Tây Tiến như hoà với thiên nhiên cây lá, ốm mà không yếu, gầy ốm mà vẫn trẻ trung, tràn đầy sức sống. Có thể thấy “ không mọc tóc” và “ xanh màu lá” là cách diễn tả đẹp và thanh của cảm hứng lãng mạn về một hiện thực thô ráp, nặng nề của chiến tranh. Miêu tả người lính trong gian khổ cùng hậu quả của nó và nghiêng về ca ngợi vẻ đẹp phi thường, lãng mạn, hào hùng đem đến ấn tượng mạnh mẽ về tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường vượt lên khó khăn, chiến thắng khó khăn.

Bức tượng đài chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có nét ngang tàng oai phong trong dáng vẻ dữ dội, uy nghi mà còn được thể hiện ở chiều sâu đẹp đẽ trong tâm hồn:
  • “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
  • Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đôi mắt vốn là cửa sổ tâm hồn, là nơi soi thấu những gì ta suy nghĩ và cảm nhận. Hoạ một con người, Quang Dũng đã khéo léo thu vào cái thần của đôi mắt để thấy hết được chiều sâu. “ Mắt trừng” là ánh mắt mở to, hướng thẳng về phía trước, ánh mắt ngời lên ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng, khát vọng gửi trong mộng chiến trường cao đẹp của những người trai thời loạn. Đây thực chất là một hình ảnh ước lệ của cảm hứng lãng mạn nhằm tôn thêm sự oai phong lẫm liệt trong dáng vẻ, nét kiêu hùng, ngạo nghễ của một đoàn binh không mọc tóc với gương mặt dữ oai hùm. Câu thơ đã khắc hoạ nét đẹp lãng mạn trong tâm hồn những người lính và khát vọng lớn lao, ra đi vì nghĩa lớn như những tráng sĩ xưa:

  • “Giã nhà đeo bức chiến bào
  • Thét roi cầu vị ào ào gió thu”
Phải chăng ta bắt gặp một tháng rất đời, rất người và cũng rất thị thành của các chiến sĩ “ Dáng kiều thơm” ấy chính là vầng sáng lung linh trong kí ức. Nó đã trở thành điểm tựa nâng đỡ tâm hồn đồng thời là điểm hẹn của niềm khao khát. Có lẽ Quang Dũng đã phải rất hiểu tâm hồn đồng đội, hiểu thấu cái lớn lao của những hi sinh mà bạn bè mình trải qua mới có thể viết nên những câu thơ xót xa mà không bi luỵ, rắn rỏi mà thông cảm sâu xa để thể hiện niềm cảm khái về cái chết:
  • “Rải rác biên cương mồ viễn xứ
  • Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
  • Áo bào thay chiếu anh về đất
  • Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hiện thực nghiệt ngã được gợi lên qua những hình ảnh nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi, lạnh lẽo một mặt đã được giảm nhẹ đi bởi các từ Hán Việt cổ kính trang trọng “ biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành,..” , mặt khác chính cái bi thương ấy lại bị mờ đi trước trước lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ Quốc của người lính Tây Tiến “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” Hình ảnh thơ đậm chất bi tráng, phảng phất hình ảnh những tráng sĩ xưa “ Gieo thái Sơn nhẹ tựa hồng mao” đó là khí phách của những con người dũng cảm, kiên cường , sẵn sang gạt tình riêng, ôm chí lớn “ ra đi không vương thê nhi”. Cách nói “ chẳng tiếc đời xanh” đã tô đậm lí tưởng cao cả và khí phách kiên cường của những người chiến sĩ anh hùng quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh.

Ngẫm nghĩ về cái chết của đồng đội, người ta có thể cao lớn thêm rất nhiều, cũng như thêm trầm tĩnh và mạnh mẽ. “ Áo bào thay chiếu” là hiện thực khắc nghiệt của cuộc kháng chiến. Thế nhưng qua cách nói của Quang Dũng nó lại toát lên cảm giác nhẹ nhàng, thanh thản. Nhà thơ không gọi nó là cái chết mà là “ về đất” là sự trở về, là hành động tịnh nghĩa của những người lính sau khi đã thực hiện sứ mệnh của mình và hoá thân trọn vẹn vào dáng hình Tổ Quốc. Nếu như ở câu thơ trên con người dường như câm lặng trước nỗi đau thì ở câu dưới thiên nhiên lại dữ dội gầm gào cuộn thét:
  • “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sông Mã đã từng xuất hiện trong tiếng gọi thiết tha ở đầu bài thơ “ Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi” như một biểu tượng của người miền Tây, của Tây Tiến, của quá khứ, nay sông Mã trở lại với âm thanh dữ dội hào hùng trong cách tiễn đưa sĩ tử. Từ âm thanh của tiếng sóng sông Mã, nghệ thuật nhân hoá trong cụm từ “ gầm lên” đã thể hiện trọn vẹn tính chất dữ dội trong những cung bậc. Cảm xúc mạnh mẽ và sâu sắc nhất với những bi phẫn, xót đau, những tiếc thương cảm phục,.. Sông Mã dã từng gắn bó với anh trong suốt chặng đường hành quân gian khổ qua miền tây, nay sông Mã lại là chứng nhân lịch sử thay lời cho cả thiên nhiên, trời đất, núi sông Mã gầm vang “ khúc độc hành” bi tráng đưa tiễn những người con yêu quý trở về yên nghỉ trong lòng đất.

Với ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cùng với việc sử dụng các biện pháp tu từ nhân hoá, các từ Hán Việt, kết hợp hài hoà giưa hai yếu tố bi và tráng, bức tượng đài về người lính Tây Tiến đã được khắc hoạ vừa hào hùng, hào hoa vừa chân thực, lãng mạn. Bài thơ vẫn đi theo dòng chảy chung của văn học dân tộc nhưng không hề mất đi những nét riêng, hấp dẫn, độc đáo.

Đoạn thơ đã thể hiện đầy đủ cốt cách và bút pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng. Nếu “ thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” thì Tây Tiến đã cho ta cảm nhận về ấn tượng ấy. “ Tây Tiến” đã mang vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ viết về người lính- anh bộ đội cụ Hồ những năm đầu kháng chiến chống Pháp.

-Hiên Bùi-

linh-tay-tien.jpg

Các bạn có thể tham khảo 2 bài văn cảm nhận phân tích về vẻ đẹp cua rnguowif lính Tây Tiến trong bài thơ để thu nhập thêm những ý văn hay và hiểu hơn về những hình ảnh chi tiết bổ sung cho bài văn của mình đầy đủ và hay hơn


BÀI VĂN MẪU SỐ 2 CẢM NHẬN VẺ ĐẸP NGƯỜI LÍNH TÂY TIẾN ĐOẠN 3 TRONG BÀI THƠ “TÂY TIẾN” LỚP 12
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài với tài làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.Với một hồn thơ phóng khoáng, hào hoa và lãng mạn. Ông được mệnh danh là nhà thơ của xứ Đoài. Bằng tài năng thơ ca của mình Quang Dũng đã đóng góp rất lớn vào việc diễn tả lại những khó khăn vất vả của những người lính đồng thời khích lệ tinh thần người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Bài thơ " Tây Tiến "được ông sáng tác năm 1948, khi ông rời xa đơn vị cũ, tại Phù Lưu Chanh. Hiện lên trong cả bài thơ là hình ảnh những người lính Tây Tiến với những khó khăn gian khổ mà họ phải trải qua nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là sự lạc quan yêu đời , đoạn thơ thứ 3 của bài đã làm nổi bật điều đó:
  • “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
  • Quân xanh màu lá dữ oai hùm
  • Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
  • Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
  • Rải rác biên cương mồ viễn xứ
  • Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
  • Áo bào thay chiếu anh về đất
  • Sông Mã gầm lên khúc độc hành!”

Tây Tiến là một đơn vị thành lập năm 1947, với nhiệm vụ là kết hợp với quân đội Lào để bảo vệ biên giới Việt - Lào, chống lại quân đội Pháp. Thành phần là những thanh niên, học sinh, trí thức Hà Thành với tâm hồn hào hoa, lãng mạn. Địa bàn đóng quân và hoạt động rộng Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, Miền Tây Thanh Hoá và cả Sầm Nứa của Lào. Quang Dũng là đại đội trưởng của đơn vị Tây Tiến. Trên cái nền hùng vĩ, dữ dội mà thơ mộng của núi rừng. Quang Dũng đã xây dựng nên hình ảnh những người lính Tây Tiến với vẻ đẹp vừa oai phong lẫm liệt lại vừa hào hoa lãng mạn. Mở đầu đoạn thơ là một hình ảnh rất độc đáo:
  • “ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
  • Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Nếu như ở những khổ thơ đầu hình ảnh người lính hiện lên với nét vẽ gián tiếp nói đến gian khổ thì ở đây điều đó lại được hiện lên với những nét vẽ cụ thể đến trần trụi. Vừa bi tráng lại vừa bi thương, cái bi thương thể hiện qua vẻ ngoài ốm yếu, nước da xanh xao. Những người lính họ phải hoạt động và chiến đấu ở những vùng nước độc, rửa chân thì rụng long, gội đầu thì rụng tóc, chết trận thì ít mà bệnh tật thì nhiều. Hình ảnh đoàn binh “không mọc tóc "ở đây có thể hiểu là những người lính tự cạo trọc đầu để tiện sinh hoạt hằng ngày. Nhưng nguyên nhân chính vẫn là do hậu quả của những cơn sốt rét rừng hành hạ, họ phải sống trong điều kiện thiếu thốn về vật chất, lương thực. Chúng ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh này trong rất nhiều bài thơ trong thơ ca kháng chiến chống Pháp hay như trong bài thơ "Đồng chí " của Chính Hữu:
  • "Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
  • Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi "

Hình ảnh " quân xanh màu lá " là một hình ảnh tả thực những người lính với những thiếu thốn về lương thực, vật chất họ gầy yếu da xanh xao như màu lá. Bên cạnh hình ảnh bi thương là vẻ đẹp hào hùng bên trong họ. Điều đó đã được thể hiện rõ qua thân hình ốm yếu với tâm hồn của họ. Tất cả làm lên khí chất, tâm thế của người lính " giữ oai hùm". Toát lên khí chất anh hùng, trong hoàn cảnh thiếu thốn đủ thứ như thế họ vẫn lạc quan yêu đời. Ẩn sau khí phách oai phong lẫm liệt đó là một tâm hồn hào hoa lãng mạn:
  • "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
  • Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

" Mắt trừng " là đôi mắt mở to nhìn kẻ thù thề sống chết với kẻ thù. " Gửi mộng qua biên giới" là mộng giết giặc lập công. " Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm " là nhớ về Hà Thành nơi có những người thân yêu nhất của các anh, nhớ về những người đẹp chốn Đô thành. Đó như tiếp thêm động lực để các anh cầm chắc tay súng chiến đấu chống lại kẻ thù bảo vệ Tổ quốc. Những người lính đấy họ là những thanh niên, trí thức học sinh họ lên đường bằng khát vọng tuổi trẻ. Trên con đường chiến đấu khó khăn đó, có rất nhiều những sự hi sinh mất mát:
  • "Rải rác biên cương mồ viễn xứ
  • Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Quang Dũng đã không hề né tránh hiện thực, nhưng cái hiện thực ấy đã được nâng lên bằng đôi cánh lãng mạn. Sử dụng hàng loạt những từ ngữ Hán- Việt " biên cương ", " viễn xứ" những từ ngữ đó gợi lên sự cổ kính trang trọng. Trong cuộc chiến đấu gian khổ đó có rất nhiều người lính phải bỏ mạng nơi chiến trường khốc liệt, những nấm mồ của họ nằm " rải rác" nơi biên cương lạnh lẽo. Nhưng trên hết tất cả " chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh " cho dù biết trước sự hi sinh là không thể tránh khỏi, hay việc chứng kiến những sự ra đi của đồng đội những người lính vẫn quyết tâm " đi chẳng tiếc đời xanh ". Tuổi trẻ ai chả cần cho mình khát vọng tình yêu thanh xuân mơ mộng nhưng chết cho Tổ quốc chính là chết cho lý tưởng thiêng liêng. Cũng chính lí tưởng thiêng liêng ấy mà khi hi sinh họ cũng thật cao đẹp:
  • "Áo bào thay chiếu anh về đất
  • Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Thực chất những người lính Tây Tiến hi sinh họ chỉ có một manh chiếu để che thân nhưng bằng ngòi bút tài hoa của mình, bằng nghệ thuật nói giảm nói tránh, Quang Dũng đã khoác lên cho họ chiếc áo bào, đồng thời điều đó thể hiện sự trang trọng, và vô cùng hào hùng. Các anh về với đất mẹ, đất mẹ chở che cho các anh, ôm các anh vào lòng như những đứa con của mình. Các anh hoá thân mình vào quê hương xứ sở, làm nên dáng vóc của Tổ quốc. " Sông Mã gầm lên khúc độc hành " tiếng " gầm " của dòng sông Mã tiễn các anh vào cõi bất tử. Tiếng gầm ấy hoà cùng muôn vàn âm thanh của sông núi tạo nên khúc nhạc bi tráng, tiễn các anh về cõi vĩnh hằng.

Với việc sử dụng các từ ngữ Hán - Việt kết hợp với nghệ thuật đối lập, nói giảm nói tránh, đã gợi lên sự nghiêm trang, trang trọng về sự hi sinh của những người lính Tây Tiến. Đồng thời cho ta thấy được sự oai phong và tâm hồn lãng mạn của họ.

Khép lại đoạn thơ nhưng lại mở ra trong lòng người đọc biết bao cảm xúc. Qua đoạn thơ ta thấy được những sự khó khăn của những người lính gặp phải nhưng trên hết họ vẫn luôn lạc quan, lãng mạn. Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nỗi nhớ mà còn rất thành công trong nghệ thuật xây dựng cảm hứng lãng mạn của mình. Qua đó đã khơi gợi lên tình yêu đất nước thầm kín trong mỗi người con đất Việt.

-TTT-
 
  • Chủ đề
    người lính tây tiến quang dung tây tiến
  • Top