Cảm nhận vẻ đẹp sông Đà trong đoạn văn liên hệ cảnh cho chữ trong Chữ người từ tù chỉ ra nét nghệ thuật

Đề bài: Cảm nhận vẻ đẹp sông Đà trong đoạn văn sau:"Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình... con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên". Liên hệ với đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ trong "Chữ người tử tù". Qua đó chỉ ra nét tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân

Tùy bút “ Người lái đò Sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân kết tinh sự tài hoa, uyên bác, là một trong những dấu son đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ trong tư tưởng tác giả trước và sau cách mạng.

“ Văn học là người thư kí trung thành của thời đại”, bám sát từng nhịp sống hiện thực. Tác phẩm của nhà văn họ Nguyễn cũng vậy. Năm 1960, sau chuyến đi gian khó, hào hùng về vùng núi phía tây của tổ quốc, áng văn là thành quả nhà văn thu được chất vàng của thiên nhiên bất tận, đậm tô chất vàng mười của người dân lao động trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hình tượng con sông Đà gợi vẻ đẹp nguyên sơ của thiên nhiên vùng Tây Bắc đại ngàn. Khi làm bài cảm nhận đoạn văn, ta cần phân tích từ hình thức: câu từ, nhịp điệu, hình ảnh… đến nội dung để cảm nhận nét đẹp trữ tình của con sông Đà. Qua đó thấy được nét đẹp tươi của quê hương đất nước. Phần liên hệ với “ Chữ người tử tù” trong đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ, cần chỉ ra ngắn gọn bối cảnh, hành động nhân vật, ý nghĩa… để cảm nét tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của nhà văn. Trước khi đặt bút, các bạn có thể tham khảo bài viết sau để phát triển ý. Chúc các bạn học tập thật tốt!
song-da-lien-he-canh-cho-chu-trong-chu-nguoi-tu-tu.jpg
BÀI VĂN CẢM NHẬN VẺ ĐẸP SÔNG ĐÀ TRONG ĐOẠN VĂN SAU : “ CON SÔNG ĐÀ TUÔN DÀI TUÔN DÀI NHƯ MỘT ÁNG TÓC TRỮ TÌNH… CON ĐÒ ĐUÔI ÉN THẮT MÌNH DÂY CỔ ĐIỂN TRÊN DÒNG TRÊN”. LIÊN HỆ VỚI ĐOẠN VĂN MIÊU TẢ CẢNH CHO CHỮ TRONG “ CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ”. QUA ĐÓ CHỈ RA NÉT TIÊU BIỂU TRONG PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN TUÂN
Nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch từng cho rằng: “ Văn không linh hoạt là văn chương thấp khớp”, tác giả đề cao tính sáng tạo của tác phẩm nghệ thuật. Bởi vậy, khi đặt bút viết về đề tài sông nước- cảm hứng quen thuộc, nhà văn Nguyễn Tuân vẫn khám phá vẻ đẹp độc đáo của con sông Đà. Đoạn văn “ Con sông Đà tuôn dài tuôn dài…cổ điển trên dòng trên” trích trong tập tùy bút “ Người lái đò sông Đà” kết tinh nét đẹp trữ tình của con sông miền núi Tây Bắc và truyện ngắn “ Chữ người tử tù” giúp ta thấy nét phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống cùng với quan niệm của nhà văn Nguyễn Tuân mang thú xê dịch để thay đổi “ thực đơn các giác quan”. Nên năm 1960, sau chuyến đi thực tế gian khổ đến của tác giả về vùng núi phía tây của tổ quốc, nhà văn thu được chất vàng của thiên nhiên bất tận, đậm tô chất vàng mười của người dân lao động trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hình ảnh con sông Đà độc và lạ: “ Chúng thủy giai đông tẩu- Đà giang độc bắc lưu” chắp đôi cánh cảm hứng để tác giả đặt bút nên thiên tùy bút “ Người lái đò sông Đà”.

Nếu đoạn thượng nguồn, con sông Đà hiện lên với vẻ hung bạo, hùng vĩ thì tới hạ lưu, hình tượng con sông mang vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng. Nhà văn ngắm nhìn dòng sông ở nhiều góc nhìn để phát hiện nét đẹp toàn diện của nó. Những lần đi tàu lượn, Nguyễn Tuân có cơ hội ngắm vẻ đẹp bao quát của Đà giang: “ Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Câu văn dài, nhịp chậm, hình ảnh giàu sức gợi nhà văn khắc họa dáng sông bằng dáng tóc của thiếu nữ. Nhà văn đóng một dấu triện riêng, trong cái nhìn của tác giả sông Đà sở hữu vẻ đẹp của áng thơ là điểm sáng đậm tô nét đẹp duyên dáng của Tây Bắc- trở thành một kiệt tác.

Con sông băng mình qua bốn mùa nhưng ngòi bút nhà văn lại đậm tô màu nước của nó trong hai mùa gợi cảm nhất : mùa xuân và mùa thu. Xuân đến, nước Đà giang “ màu xanh ngọc bích” gợi sự trong trẻo, tươi sáng, rạng ngời, quý phái. Khác biệt những con sông lân cận, sông Đà không chọn màu nước “ xanh canh hến” như sông Gâm, sông Lô- màu sắc lờ lờ dở đục dở trong. Con sông Đà nổi bật giữa những con sông bạn như tính cách của nó không chấp nhận màu lỡ cỡ, lưng chừng như bao dòng chảy khác. Đến mùa thu, nước sông đổi sắc “ lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì”. Sắc màu đậm bởi màu phù sa, tôn thêm vẻ hung hãn của dòng sông mùa thác lũ chảy về ẩn chứa đầy hiểm họa. Hình ảnh sánh, nhân hóa khiến Đà giang như sinh thể có sự sống với tâm trạng sâu kín, phức tạp, không biết ngỏ cùng ai.

Nhà văn đổi điểm nhìn, nhìn con sông Đà sau chuyến ở rừng đi núi về. Lúc này, tác giả khao khát muốn tìm một chỗ thoáng đãng, bất chợt đắm say chứng kiến nét đẹp bên bờ sông Đà. Ánh nắng tháng ba đường thi “ Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” vừa gợi cái nắng mới dịu dàng, tươi mới vừa hiện lên nét thơ mộng, cổ kính, sang trọng như bước ra từ trang thơ trung đại. Bờ bãi bên sông cũng nên thơ bởi chuồn chuồn, bươm bướm dập dờn đôi cánh trên sông. Hình ảnh mang lại sự yên bình, vẻ trẻ trung, tràn đầy sức sống. Bởi vậy, nhìn thấy con sông nhà văn thấy “ vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Biện pháp so sánh khơi gợi niềm vui bừng sáng, ấm áp niềm hạnh phúc như nối dài những mộng mơ. Nguyễn Tuân thấy con sông như cố nhân: xa thì nhớ, gần thì thương. Người mà tác giả thấu hiểu tính cách như tri kỉ, người bạn cũ, gẫn gụi.

Đến những lần trên con thuyền xuôi dòng Đà giang, nhà văn có cơ hội nhìn ngắm cảnh ven sông vừa hoang sơ vừa thanh xuân. Nguyễn Tuân nhìn con sông suốt chiều dài lịch sử “ đời Lý, Trần, Lê” trước dòng thời gian vạn biến, tác giả khẳng định vẻ đẹp bất biến của dòng sông của một giai nhân không có tuổi. Hình ảnh so sánh “ hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ xưa”, nhà văn so sánh cái vô hình, không gian “ bờ sông” với cái vô hình, thời gian “ bờ tiền sử” khiến con sông như từ vạn kỷ đổ về. Đà giang mang vẻ thanh xuân, đầy sức sống qua những chi tiết “ lá ngô non nhú, búp cỏ gianh đẫm sương đêm, hươu thơ ngộ”, sự sống tươi mới, tinh khôi, thanh tân đầu ngày, đầu mùa, đầu năm mới. Sông Đà hoang sơ nhưng không không hoang lạnh, hoang vu vẫn thấp thoáng sự sống, hơi ấm đôi bàn tay gieo vãi cấy trồng.

Sông Đà còn là dòng thi ca đa sắc diện. Con sông là địa chỉ hẹn hò, gặp gỡ thi cảm của tri nhân, không chia người trước kẻ sau. Trước sau một lòng say đắm phong vị cảnh sắc quê hương.

Nhà văn tài năng thường đóng dấu ấn phong cách riêng trong nghệ thuật của mình. Vậy nên, đến truyện ngắn “ Chữ người tử tù”- dấu mốc ngòi bút Nguyễn Tuân trước cách mạng, cảnh cho chữ đậm tô phong cách của tác giả. Khi biết tâm nguyện của quản ngục, Huấn Cao đồng ý cho con chữ với sự chuẩn bị chu đáo tạo nên “ cảnh tượng xưa nay chưa từng có” ở chốn lao tù. Viết xong, tử tù đỡ viên quản ngục khuyên những lời gan ruột mà ngục quan cảm động bái lĩnh.

Nhà văn trước sau vẫn tiếp cận sự vật phương diện văn hóa thẩm mỹ với nghệ thuật lịch lãm, am tường. Khám phá những tính cách phi thường, mạnh mẽ qua cách dụng ngôn tài hoa, uyên bác. Phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn còn lưu lại trong lòng bạn đọc bởi chữ chữ đứng trên trang giấy, linh hoạt. “ Người lái đò sông Đà” và “ Chữ người tử tù” mãi là những thanh âm trong trẻo mang cách nhìn, cách thể hiện của riêng ngòi bút Nguyễn Tuân.

- Thu Hường-vfo.vn
 
  • Chủ đề
    cảnh cho chữ chữ người tử tù người lái đò sông đà nguyễn tuân
  • Top