Chứng minh: Muôn đời, thơ vẫn là chuyện rút ruột rút gan mình ra mà viết qua bài thơ Sóng - 2 bài văn

Đề bài: Thanh Thảo cho rằng: "Muôn đời, thơ vẫn là chuyện rút ruột rút gan mình ra mà viết". Anh/ chị hãy làm sáng tỏ qua "Sóng" của Xuân Quỳnh

Xuân Quỳnh là nữ nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Những bài thơ tình của chị đã làm nức lòng bao thế hệ bởi sự duyên dáng, ngọt ngào và hết sức nữ tính, trong đó "Sóng" là một ví dụ điển hình. Có lẽ vì thế mà Thanh Thảo cho rằng: "Muôn đời, thơ vẫn là chuyện rút ruột rút gan mình ra mà viết".

Có người đã từng nói: "Thơ là rượu của thế gian". Có người lại cho rằng: "Thơ là tự truyện của một khát vọng". Thơ ca, trước hết là tấm lòng, là tình cảm của thi sĩ thốt ra thành lời, nhưng sau đó, lại ẩn chứa những triết lí, những suy tưởng sâu sắc về con người và những vấn đề nhân sinh. Thơ ca muôn đời vẫn tinh túy và lắng đọng như thế, nó được coi là phiến kì nam trong rừng trầm hương, nhưng xét cho cùng, nó vẫn là tiếng lòng mà mỗi thi sĩ đã gửi gắm. Cho nên nhà thơ Thanh Thảo có lần đã phải thốt lên rằng: "Muôn đời, thơ vẫn là chuyện rút ruột rút gan mình ra mà viết". Thật vậy, nữ sĩ Xuân Quỳnh dường như đã mang hết thảy trái tim yêu nồng cháy của mình gửi trọn vào bài thơ "Sóng" để làm nên một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỉ XX.

song-xuan-quynh-muon-doi-tho-van-la-chuyen-rut-ruot-rut-gan-minh-ra-ma-viet.jpg

BÀI VIẾT SỐ 1 CHỨNG MINH “MUÔN ĐỜI, THƠ VẪN LÀ CHUYỆN RÚT RUỘT RÚT GAN MÌNH RA MÀ VIẾT” (THANH THẢO) QUA “SÓNG” – XUÂN QUỲNH
Nhà thơ Thanh Thảo có lần tâm sự: "Muôn đời, thơ vẫn là chuyện rút ruột rút gan mình ra mà viết". Đó như một lời khẳng định về giá trị của thơ ca. Nữ sĩ Xuân Quỳnh thực sự đã mang cả tấm lòng của mình để viết nên bài thơ "Sóng" - một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỉ XX.

Thơ là thể loại trữ tình viết nên từ cảm xúc, rung động trong lòng tác giả. Chính vì vậy mà thơ mang tính cá thể hóa rất cao vì nó chính là tấm lòng của người viết, tình cảm rung động mà phát ra lời. Nhà thơ "rút ruột gan mình ra mà viết", tức là đem tất cả những tình cảm và xúc động sâu kín nhất vốn đã ủ ấp trong lòng từ lâu để viết nên những dòng thơ hay. Không chỉ là tâm tình của riêng tác giả, thơ còn là những suy tư sâu lắng và ý nghĩa mà mỗi nhà thơ gửi gắm trong đó, chứa đựng cái Tâm của người làm nghề viết với văn chương muôn thuở. Chuyện "rút ruột gan" phải chăng vừa để chỉ sự chân thành trong những câu thơ, vừa để khẳng định sự lắng đọng và tầng triết lí sâu sắc, mang suy tưởng sâu xa mà người viết đã gửi gắm?

Thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc nhưng là cảm xúc đã được hòa nhập vào những tình cảm lớn lao, có ý nghĩa muôn đời trong cuộc đời mỗi người. Điều đặc biệt là cảm xúc thơ đó gặp gỡ với nỗi lòng bạn đọc, từ đó khơi gợi bao tâm tưởng lắng sâu, để tìm được tiếng nói tri âm nơi bạn đọc. Tác giả đã dành trọn cái tâm của mình với nghề viết để làm nên "một miligam quặng chữ". Chính vì tâm huyết với nghề và một tấm lòng vì nhân sinh, tác giả đã bày tỏ những triết lí, những suy ngẫm sâu xa trong đáy lòng để nói hộ những lời bạn đọc chưa kịp nói. Nhà thơ đã "rút ruột gan mình" cũng bởi vì lí do cao cả như vậy.

"Sóng" chính là trái tim yêu của nhà thơ Xuân Quỳnh, là những xúc cảm dồi dào và mãnh liệt mà nữ sĩ đã cất lên thành lời. Cho nên con sóng tình yêu trong bài thơ phải chăng cũng chính là những đợt sóng lòng ào ạt trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ:
  • "Dữ dội và dịu êm
  • Ồn ào và lặng lẽ"

Đó phải chăng chính là những cung bậc cảm xúc của sóng tình? Tình yêu trong lòng người con gái khi yêu không bao giờ êm đềm cả, lúc ồn ào, dữ dội nhưng lại có lúc dịu êm và lặng lẽ. Những đối cực của tình yêu chân chính như xúc cảm mà nữ sĩ dành cho tình yêu của đời mình. Có lẽ bởi vậy mà tấm lòng người con gái trong bài thơ cũng đẹp và đáng trọng như tình cảm xuyến xao của nữ sĩ. Đó là nỗi nhớ nhung tha thiết, bâng khuâng của sóng nhớ bến bờ hay chính là nỗi lòng người con gái khi yêu:
  • "Con sóng dưới lòng sâu
  • Con sóng trên mặt nước
  • Ôi con sóng nhớ bờ
  • Ngày đêm không ngủ được
  • Lòng em nghĩ đến anh
  • Cả trong mơ còn thức"

Xuân Quỳnh là người phụ nữ đã qua một lần đổ vỡ trong hôn nhân, và chính bởi vậy mà thơ bà thường mang những nỗi khắc khoải, hồ nghi:
  • "Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
  • Ai biết tình anh có đổi thay"
Nhưng khi yêu, trái tim của nữ sĩ cũng mãnh liệt vô cùng. Nỗi nhớ ấy bao trùm cả không gian, vượt qua mọi giới hạn của thiên nhiên "dưới lòng sâu, trên mặt nước", vượt qua chiều dài của thời gian "ngày đêm không ngủ" và đẵ biệt là nỗi nhớ đã vượt qua cả ý thức để hòa vào tiềm thức "cả trong mơ còn thức". Nỗi nhớ dào dạt và trào dâng như không bao giờ ngơi nghỉ, đó là một trái tim yêu nồng nàn, tha thiết, đã yêu là yêu hết mình, đời đời chung thủy. Nhưng khác với con sóng tình mãnh liệt đến táo bạo trong thơ Xuân Diệu, con sóng của nỗi nhớ thơ Xuân Quỳnh mang tính nữ đầy dịu dàng và duyên dáng. Đó phải chăng là tình cảm lắng sâu, là tâm thức khát khao tình yêu của một trái tim yêu nồng nàn đang rực cháy trong lồng ngực nữ sĩ? Tấm lòng của người con gái đã đồng nhất trong nỗi lòng nữ sĩ. Đối với Xuân Quỳnh, tình yêu còn là sự thủy chung son sắt, là tấm lòng luôn hướng về nhau:
  • "Dẫu xuôi về phương Bắc
  • Dẫu ngược về phương Nam
  • Nơi nào em cũng nghĩ
  • Hướng về anh - một phương"

Thế giới có bốn phương tám hướng khiến con người dễ bị lạc lối nhưng em chỉ hướng về một hướng là phương anh. Tình yêu giống như kim chỉ nam giúp con người không lạc lối giữa cuộc đời dài rộng, em chỉ thủy chung với một mình anh, tình yêu sẽ soi đường để em hướng đến bến bờ. Câu thơ như lời tự giãi bày của nữ sĩ về sự thủy chung trong tình yêu dẫu thế giới có to lớn cỡ nào.

Không chỉ thể hiện tâm trạng vào những trang thơ, Xuân Quỳnh còn gửi gắm vào đó những thông điệp về tình yêu, những triết lí sâu sắc về cuộc đời và con người:
  • "Cuộc đời tuy dài thế
  • Năm tháng vẫn đi qua
  • Như biển kia dẫu rộng
  • Mây vẫn bay về xa"
Những câu thơ ẩn chứa suy tưởng sâu sắc của nữ sĩ về tình yêu. Với một trái tim đa cảm và giàu trắc ấn, Xuân Quỳnh nhạy cảm với sự chảy trôi của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Bên cạnh sự nồng nàn tha thiết, thơ Xuân Quỳnh thoáng dự cảm về những điều bất trắc:
  • "Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
  • Hôm nay yêu mai có thể xa rồi"

Nỗi khắc khoải ấy một lần nữa hiện diện trong "Sóng". Nhà thơ nhận thấy cuộc đời tuy dài nhưng vẫn có điểm kết thúc, biển cả tuy rộng nhưng vẫn có bờ và tình yêu con người không phải là vĩnh viễn mà nó có thể biến đổi, nhạt phai trong dòng chảy thời gian. Lời thơ thấm đượm nỗi lo âu về sự không vững bền của tình yêu và của hạnh phúc. Nhưng đằng sau những lời thơ tưởng như khắc khoải đó lại ẩn chứa niềm tin trong sáng và trọn vẹn về tình yêu. Hình ảnh hàng trăm nghìn con sóng vẫn vượt qua khoảng cách để đến bờ và đám mây mong manh xuyên qua năm tháng đã xây dựng cho nữ sĩ niềm tin với tình yêu. Đó là hành lí mà con người có thể đem đi hết cuộc đời để vượt qua những giới hạn của đời sống. Niềm tin đó vang lên nhưng không phải thứ niềm tin bồng bột, ảo tưởng mà là sự thức nhận về những quy luật đời sống nên nó tha thiết và cháy bỏng như đang đốt lửa lòng. Thơ cơ muôn đời vẫn chứa đựng những triết lí lắng đọng như thế, có lẽ bởi vậy mà Chế Lan Viên có lần đã từng thốt lên: "Thơ đòi cô đúc để rồi trong một số phút nổ ra như tiếng sét. Thơ không có trí tưởng tượng như bể cạn hết nước" Tấm lòng và tài năng người nghệ sĩ như nở bung ra trong những trang thơ.

Thơ ca quả là sự kết tinh kì diệu bởi nó vừa là sản phẩm của tình cảm, cảm xúc, vừa là biểu hiện cho tài năng, trí tuệ của người làm thơ. Mỗi vần thơ ra đời cũng quý như "một gam chất hiếm radium". Chính vì vậy, hãy viết thơ bằng "chân tâm, thực ý", để tâm hồn hứng trọn ý vị của thơ, để nhà thơ trở thành "người mở đường đi vào cái đẹp". Cho nên muôn đời, "Thơ vẫn là chuyện rút ruột rút gan mình ra mà viết."

-Minh Anh-vfo.vn

muon-doi-tho-van-la-chuyen-rut-ruot-rut-gan-minh-ra-ma-viet.jpg

BÀI VIẾT SỐ 2 CHỨNG MINH “MUÔN ĐỜI, THƠ VẪN LÀ CHUYỆN RÚT RUỘT RÚT GAN MÌNH RA MÀ VIẾT” (THANH THẢO) QUA “SÓNG” – XUÂN QUỲNH
Thanh Thảo, trong bài tiểu luận của mình, từng khẳng định: thơ có thể là “kinh thánh của tâm hồn”, là thứ không thể mua và cũng không thể bán. Bởi đó là “tiếng nói của tâm linh, tiếng nói của sự chiêm nghiệm nhiều khi là cả đời người, của nhiều đời người”. Và “muôn đời, thơ vẫn là chuyện rút ruột rút gan mình ra mà viết”. “Sóng” của Xuân Quỳnh chính là minh chứng rõ nhất cho điều ấy.

Bản chất thơ lượn bay ngoài tất cả định nghĩa và giải thích. Thơ không có đặc tính vật chất thô thiển để mô tả bằng ngũ quan nên khó chuyển hóa thơ thành khái niệm ngôn ngữ. Chưa có một định nghĩa chính xác nào về thơ. C.Mac khẳng định: “Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người tạo ra cho mình”. Có người lại nói: thơ là “đôi nạng” giúp người “tàn tật” đứng dậy, là “thứ dây leo khó bảo” mà những lưỡi rìu thực dụng chặt đứt chỗ này nó lại mọc lên chỗ khác,… Tất cả đều rất có lí khi nói về thơ. Nhưng có một điều, Thanh Thảo đã nói thay cho tất thảy các nhà thơ trên thế gian, một tâm sự: “thơ vẫn là chuyện rút ruột rút gan mình ra mà viết”. “Rút ruột rút gan” là cách nói hình tượng của sự chân thành của người viết, lấy hết những tình cảm, đớn đau, những gì sâu kín của tâm hồn để gửi vào thơ. Đặt từ “muôn đời” lên đầu câu là sự khẳng định đầy chắc chắn đối với mọi người và mọi thời. Nhận định của Thanh Thảo về bản chất tình cảm, cảm xúc trong thơ: là tất cả tâm hồn, tình cảm và cả sâu trong tâm thức, tiềm thức của người thơ.

Thật vậy, khác với văn xuôi là “tấm gương” phản ánh chân thực nhất về cuộc sống bên ngoài qua ngôn ngữ khách quan, kịch viết cuộc sống bằng nhữn xung đột thì thơ lại nhìn cuộc sống bằng con mắt của tình cảm, bằng sự rung động của trái tim. Bởi thơ là loại hình của tình cảm, luôn đặt tình cảm là yếu tố hàng đầu để viết. Đặc biệt, đó không phải là tình cảm hời hợt, vu vơ, nhất thời mà là những tình cảm mãnh liệt: “Nếu những nỗi đau khổ từ lâu bị kiềm chế, nay sôi dục dâng lên trong lòng thì tôi viết” (Nê – krat-xtop). Cổ nhân gọi là “chân tâm thực ý”: “nếu ta có chân tâm thực ý thì người đọc thơ không ai không thấy bùi ngùi, cảm động”. (Kim Thánh Thán). Đặc biệt, thi sĩ lại không phải người bình thường, họ là “người mơ, người say, người điên” (Hàn Mặc Tử). Những gì học viết chính là những ngóc ngách thành thực nhất, những tình cảm chân thành nhất, và đôi khi còn là những giây phút thần hứng, đi vào cõi tiềm thức và vô thức trong chính tâm hồn mình. Chỉ bằng cách đó, thơ ca mới thực sự sống, thực sự có chỗ đứng trong lòng người. Dọc theo suốt hành trình văn học, những áng văn chương bất hủ, từ “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Hàn Mặc Tử, Lưu Quang Vũ, Thanh Thảo chẳng phải đều viết bằng “huyết lệ”; những áng thi ca của Đường thi, của Tagore hay Puskin chẳng phải đều viết bằng “máu và nước mắt” hay sao?

“Sóng” cũng chính là sự “rút ruột rút gan” của Xuân Quỳnh mà viết thành thơ.

Không còn phân biệt được sóng tạo nên Xuân Quỳnh, hay Xuân Quỳnh đã tạo nên sóng. Chỉ biết rằng người con gái ấy sinh ra là để dành cho thơ. Thơ ca, với Xuân Quỳnh, gắn liền với sự sống, tình yêu; làm thơ là nữ sĩ được sống với chính mình, sống đủ đầy trọn vẹn là mình. Mỗi bài thơ đều là tiếng nói chân thành nhất của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” là
kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền – Thái Bình cuối năm 1967,
được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). “Sóng” với “em”, hai mà như một,
một trong hai, song hành cùng nhau để thể hiện sâu sắc nhất cảm xúc của chủ thể
trữ tình. Không bị mắc kẹt bởi nguồn thơ lửa máu, thơ Xuân Quỳnh vẫn vẹn nguyên những nét hồn hậu, nồng nàn mà đắm say, tha thiết của một tâm hồn luốn khát khao yêu thương, khát khao hạnh phúc.

Hãy lắng nghe tiếng thơ đầy mạnh mẽ của một tâm hồn tự chủ kiếm tìm hạnh phúc:

  • “Dữ dội và dịu êm
  • Ồn ào và lặng lẽ
  • Sông không hiểu nổi mình
  • Sóng tìm ra tận bể
  • Ôi con sóng ngày xưa
  • Và ngày sau vẫn thế
  • Nỗi khát vọng tình yêu
  • Bồi hồi trong ngực trẻ
  • Trước muôn trùng sóng bể
  • Em nghĩ về anh, em
  • Em nghĩ về biển lớn
  • Từ nơi nào sóng lên?
  • - Sóng bắt đầu từ gió
  • Gió bắt đầu từ đâu?
  • Em cũng không biết nữa
  • Khi nào ta yêu nhau”

Trong người phụ nữ, luôn tồn tại những trạng thái đối cực. Hai câu thơ có thể đúng với bao người nhưng nó không phải là lời của một nhà nghiên cứu trong tình yêu đứng ngoài nhìn vào. Nó được viết ra trước hết là một lời tự thú chân thành và tự nhiên đến độ khiến ta phải ngỡ ngàng: thì ra, trái tìm của người phụ nữ luôn có những đối cực như thế: “dữ dội” – “dịu êm”, “ồn ào” – “lặng lẽ”. Nhà thơ đặt liên từ “và” – không phải bức tường ngăn cách mà là sự kết hợp, chuyển hóa. Người phụ nữ có thể ồn ào, dữ dội nhưng cuối cùng cũng là sự trở về của thiên tính nữ: dịu êm, lặng lẽ. Đó chính là sự hiện diện của cái “tôi” Xuân Quỳnh. Như vậy, tình yêu không bao giờ là trạng thái tâm lí tuần nhất mà là sự hòa kết của những trạng thái khác nhau, thậm chí là đối lập như những nốt thăng, trầm làm nên bản tình ca đôi lứa. Người phụ nữ luôn hướng tìm tới tự do. Khám phá những không gian tồn tại của sóng, Xuân Quỳnh phát hiện ra: hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là hành trình con người đến với tình yêu: phải biết vượt qua những giới hạn bản thân chật hẹp để hòa nhập vào biển đời rộng lớn, kiếm tìm hạnh phúc. Đó là hành trình dấn thân tự nguyên, say mê để tìm đến hạnh phúc và sống trọn vẹn.

Đối với người phụ nữ, tình yêu không có tuổi: “ngày xưa”, “ngày sau” vẫn thế, “nỗi khát vọng tình yêu/ bồi hồi trong ngực trẻ”. Tuy vậy, họ vẫn luôn khao khát muốn được kiếm tìm về nguồn cội của tình yêu. Câu hỏi tu từ “Từ nơi nào sóng lên?” với lời đáp thật dễ dàng, chóng vánh: “Sóng bắt đầu từ gió”. Câu hỏi thứ hai ráo riết hơn, lí trí muốn đẩy những băn khoăn đến tột cùng: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Những câu hỏi tu từ lúc ẩn duối chân sóng, lúc lại trào lên đầu ngọn sóng như những trăn trở. Nhân vật trữ tình không cảm nhận về sóng mà nghĩ về sóng. Nương theo những con sóng, nhà thơ bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn tình yêu và phân tích, lí giải bản chất của tình yêu. Đó cũng là mong muốn muôn đời của biết bao đôi lứa. Câu trả lời vừa là sự thú nhận, vừa là sự thức nhận: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Đó là cái lắc đầu biểu thị một tâm lí rất phụ nữ: không ham rạch ròi dẫu trong lòng còn bao nhiêu bức xúc “đòi tìm ra tận bể” để hiểu, để nghĩ. Nó là bức xúc của tình cảm hơn là bức xúc của trí tuệ. Phải chăng ở trong đời, “phái yếu” không mong gì hơn một mái ấm yên vui, một gia đình hạnh phúc? Ít nhất, với Xuân Quỳnh là như vậy.

Sóng còn phản chiếu những sắc thái, phẩm chất đặc trưng của người phụ nữ.

Đó là nỗi nhớ:
  • “Con sóng dưới lòng sâu
  • Con sóng trên mặt nước
  • Ôi con sóng nhớ bờ
  • Ngày đêm không ngủ được
  • Lòng em nhớ đến anh
  • Cả trong mơ còn thức”

Điệp từ “sóng” liên tiếp làm cho những con sóng nhớ thương như đang trào dâng dào dạt khỏi bề mặt con chữ, vừa gợi cái sôi trào mà miên man, sâu lắng của nỗi nhớ. Nỗi nhớ đầy ắp không gian: “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, tràn ngập thời gian “ngày đêm”. Nỗi nhớ trong tình yêu đã trở thành một trong những mạch nguồn chính nuôi dưỡng thơ ca. Từ nỗi nhớ “bồi hổi bồi hồi” trong ca dao đến nỗi nhớ đến ngẩn ngơ: “Người đi một nửa hồn tôi mất/ Một nửa hồn tôi hóa dại khờ” (Hàn Mặc Tử). Nỗi nhớ của người con gái ấy cồn cào, da diết đến nỗi những con sóng kia cũng chẳng thể diễn tả hết mà tự em phải giãi bày. Hai câu thơ cuối như con sóng xuyên qua cả cõi thực, cõi mộng. Không chỉ ở ý thức mà còn lắng sâu vào tiềm thức để hiện ra trong giấc mơ. Cái dào dạt nhớ nhung khiến cảm xúc tràn bờ mà kéo dung lượng ra 6 câu để biểu đạt. Nỗi nhớ “cả trong mơ còn thức” hay “biết yêu anh cả khi chết đi rồi” (“Tự hát”) rất đậm chất Xuân Quỳnh: mãnh liệt mà đằm thắm, táo bạo, giàu nữ tình. Xuân Quỳnh là thế: bao giờ cũng dám sống thật với mình, thật với cảm xúc của chính mình.

Đó còn là tấm lòng thủy chung:
  • “Dẫu xuôi về phương Bắc
  • Dẫu ngược về phương Nam
  • Nơi nào em cũng nghĩ
  • Hướng về anh - một phương”

Trong khổ thơ trên hình như có thoáng qua một chút thách thức. Người ta thương nói “Xuôi nam, ngược bắc” còn nữ sĩ thì ngược lại. Đối với Xuân Quỳnh, dù có xáo trộn xuôi – ngược thì điều đó cũng chẳng có gì quan trọng. Quang trọng nhất chỉ là “phương anh”. Nếu khổ thơ trên, nữ sĩ soi vào sóng để nhận ra mình thì ở đây, nhà thơ nhìn sâu vào mình để nhìn vào quy luật sóng: sóng hướng về bờ thì cuộc đời em duy nhất chỉ hướng về anh. Nếu nói đến sự quyết liệt của tình yêu Xuân Quỳnh thì khổ thơ này là dẫn chứng tiêu biểu nhất – những câu thơ “rất Xuân Quỳnh”.

Đó còn là niềm tin và nỗi âu lo của người phụ nữ trong tình yêu:
  • “Ở ngoài kia đại dương
  • Trăm nghìn con sóng đó
  • Con nào chẳng tới bờ
  • Dù muôn vời cách trở
  • Cuộc đời đi dài thế
  • Năm tháng vẫn đi qua
  • Như biển kia dẫu rộng
  • Mây vẫn bay về xa”
Với trái tim đa cảm và tâm hồn giàu trắc ẩn, nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian và lòng người, người phụ nữ thường có những lo âu về những điều bất trắc: “Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn”. Nỗi khắc khoải ấy hiện hiện hình khi nhận ra quy luật cuộc sống: “Cuộc đời tuy dài thế/ Năm tháng vẫn đi qua”, “Mây vẫn bay về xa”. Cuộc đời dài rộng vẫn có điểm kết vậy tình yêu kia có thể bất biến giữa thời gian? Nhưng cuối cùng, người con gái vẫn chọn trao niềm tin trọn vẹn. Cặp quan hệ từ “tuy – vẫn” mang sắc thái khẳng định khiến nỗi lo kia chỉ như thoáng qua rồi lại tan biến vào trong những đợt sóng, chỉ còn niềm tin ở lại làm điểm tựa cho tâm hồn. “Con nào chẳng tới bờ/ Dù muôn vời cách trở”. Niềm tin ấy không phải sự ảo tưởng, bồng bột mà là sự thức tỉnh chân lí đời sống nên nó trọn vẹn và tha thiết.

Cuối cùng, sóng là hình ảnh của những khát vọng người phụ nữ:
  • “Làm sao được tan ra
  • Thành trăm con sóng nhỏ
  • Giữa biển lớn tình yêu
  • Ðể ngàn năm còn vỗ.”
“Tan ra”- đó là khát vọng được hóa thân vào sóng để được tồn tại trong không gian rộng lớn của biển cả và cái vĩnh hằng của thời gian. Đó là khát vọng vĩnh vieenc hóa tình yêu, dùng tình yêu để nối dài cuộc đời ngắn ngủi của con người. Khát vọng ấy lại làm ta nhớ tới câu chuyện nàng tiên cá hóa thân làm bọt biển để người mình yêu được hạnh phúc trọn vẹn. Phải chăng đó là bản tính hi sinh và dâng hiến của người phụ nữ? Mở đầu bài thơ là khát vọng được làm rõ mình, kết thúc lại bằng khát vọng được hòa mình của người phụ nữ.

“Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điệu đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ. Thơ Xuân Quỳnh là tính linh Xuân Quỳnh. Trường hợp Xuân Quỳnh thật điển hình cho qui luật : thơ là sự ký thác phận người vào chữ. Có lẽ vì thế mà, dù đời thơ Xuân Quỳnh đã dừng, sóng thơ Xuân Quỳnh vẫn vỗ khôn nguôi.” (Chu Văn Sơn). Đúng như L.Tolsty nói: “Thơ là ngọn lửa nhen lên trong lòng người một ngọn lửa đốt cháy, sưởi ấm và soi sáng. Nhà thơ chân chính là người dù không muốn và phải chịu đau đớn vẫn đốt cháy mình lên và đốt cháy những người khác”.

Xin kết lại bằng câu nói của thầy Chu Văn Sơn: “Thơ vốn là sự chưng cất sự sống người, chưng cất phần người trong mỗi con người mà luyện nên câu chữ”. Chúng ta hôm nay, đứng trước câu thơ dường như cũng đã dành sẵn một tấm lòng, một bến bờ để sóng Xuân Quỳnh tìm về vỗ mãi.

-Bỉ Ngạn-vfo.vn
 
  • Chủ đề
    song thơ xuân quỳnh
  • Top