Chứng minh: "Ta về mình có nhớ ta... ân tình thủy chung" vừa đậm đà màu sắc cổ điển, vừa mới mẻ hiện đại

Chứng minh: "Ta về mình có nhớ ta... ân tình thủy chung" vừa đậm đà màu sắc cổ điển, vừa mới mẻ hiện đại

“Việt Bắc” của Tố Hữu là bài hiện đại tiêu biểu cho sự kết hợp giữa yếu tố hiện đại, yếu tố cổ điển và cả tính dân gian. Đặc biệt qua đoạn thơ: “Ta về mình có nhớ ra… ân tình thủy chung” có ý kiến cho rằng: đoạn trích vừa đậm đà màu sắc cổ điển, vừa mới mẻ hiện đại. Hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu đoạn thơ để làm sáng tỏ ý kiến trên nhé.

Siorgos Sefiris từng khẳng định rằng: “Tôi cho rằng, không nhất thiết phải làm rõ một điều hiển nhiên rằng: “truyền thống” không có nghĩa là những tồn tại hủ laaij, bảo thủ. Ngược lại, “truyền thống” có khả năng phá vỡ hững lối mòn quen thuộc và chứng tỏ sức sáng tạo của nó”. Với sáng tạo khoa học, khi cái mới ra đời, cái cũ sẽ biến mất. Nhưng với văn học, cái mới xuất hiện không đồng nghĩa với sự biến mất của cái cũ. Ngược lại, cái cũ chính là nền tảng để cái mới nảy nở, đồng hàn cùng với cái mới để tạo nên sự trường tồn và sinh sôi của văn học nghệ thuật. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua sức sống và giá trị của bài thơ “Việt Bắc” đối với nền văn học và thời đại cho đến ngày nay. Đặc biệt được thể hiện qua đoạn thơ: “Ta về mình có nhớ ta… ân tình thủy chung”. Vì vậy mà có ý kiến cho rằng: đoạn thơ vừa đậm đà màu sắc cổ điển vừa mới mẻ hiện đại. Để làm rõ ý kiến trên, chúng ta cần phân tích từng đặc điểm cổ điển, hiện đại để thấy được mối liên hệ và ý nghĩa của chúng. Khi có được hệ thống ý rõ ràng và lời văn mềm mại bài văn sẽ dễ dàng đến với người đọc. Trước khi làm bài, các bạn có thể tham khảo những bài văn mẫu sau. Chúc mọi người học tập tốt!

rung-xanh-hoa-chuoi-do-tuoi.jpg

Màu sắc của hoa chuối rừng trong bài thơ Việt bắc

BÀI VIẾT SỐ 1 CHỨNG MINH Ý KIẾN: ĐOẠN THƠ “TA VỀ MÌNH CÓ NHỚ TA… ÂN TÌNH THỦY CHUNG” VỪA ĐẬM ĐÀ MÀU SẮC CỔ ĐIỂN VỪA MỚI MẺ HIỆN ĐẠI
“Việt Bắc” là một trong những bài thơ tiêu biểu của thời văn học hiện đại có sự kết hợp hài hòa đến tự nhiên giữa chất thép và chất tình, về tính cách mạng và nghệ thuật, giữa màu sắc cổ điển và cảm hứng hiện đại. Đặc biệt, trong đó, đoạn thơ được nhận xét là vừa đậm đà màu sắc cổ điển vừa mới mẻ hiện đại:
  • “Ta về mình có nhớ ta,
  • Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
  • Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
  • Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
  • Ngày xuân mơ nở trắng rừng
  • Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
  • Ve kêu rừng phách đổ vàng
  • Nhớ cô em gái hái măng một mình
  • Rừng thu trăng rọi hoà bình
  • Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
“Màu sắc cổ điển, mới mẻ hiện đại” là những thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong quá trình sáng tác nghệ thuật cũng như phê bình, cảm nhận văn học. Hiểu một cách đơn giản, “màu sắc cổ điển” là những giá trị văn hóa truyền thống mang tính chuẩn mực. Một tác phẩm mang màu sắc cổ điển là tác phẩm hiện đại có sự ảnh hưởng, tiếp thu những giá trị của tiền nhân. Còn vẻ đẹp “mới mẻ hiện đại” chính là mang hơi thở thời đại. Đoạn thơ trên được coi là bức tranh tứ bình tuyệt mĩ về thiên nhiên và con người Bây Bắc. Nhận xét trên không chỉ nhận xét về vẻ đẹp tiêu biểu của đoạn thơ mà còn nêu lên đặc điểm thơ Tố Hữu: tính dân tộc – trữ tình chính trị.

Đoạn thơ, trước hết mang đậm màu sắc dân tộc. Như những câu ca dao tình nghĩa về những bến và thuyền, người đi và người ở; đoạn thơ chính là lời người ở lại với người ra đí, nhắc nhớ về ân tình cách mạng. “Ẩm trà tư nguyên” – đó chính là một trong những đạo lí, trong những chuẩn mực đạo đức trong lối sống của con người Việt Nam. Để thể hiện những điều đó, Tố Hữu đã vận dụng nhuần nhuyễn những bút pháp của cổ nhân. Người xưa coi trọng sự hài hòa nhưng “quý hồ tinh bất quý hồ đa”, cái hay của người cầm bút là chỉ bằng một vài nét chấm phá có thể thấy được linh hồn của cuộc sống, chỉ bằng cách vẽ “vân” mà có thể “hiển nguyệt”. Đoạn thơ với bút pháp chấm phá, bằng một vài nét thanh sơ: hình ảnh “hoa chuối”, “nắng ánh”, “mơ nở trắng rừng”, “rừng phách đổ vàng”, “trăng rọi”,.. gợi ra được hơn bản thân nó rất nhiều. Thi nhân cũng tiếp thu một cách chọn lọc để đưa vào thơ những thi liệu đã trở thành mực thước của văn học xưa: “rừng, hoa, trăng”, con người – em, con người và thiên nhiên luôn hài hòa. Kết cấu câu thơ có sự cân xứng, đăng đối, hài hòa: một bức tranh tứ bình về tứ thời: “xuân – hạ - thu – đông”, tiêu biểu cho lối cảm của người cổ thi: tứ linh, tứ quý, tứ thú, …

Tuy thế, con tằm ăn dâu không phải để nhả lại ra dâu mà là để tạo ra những sợi tơ vàng óng. Tiếp thu, học hỏi tiền nhân không có nghĩa là sao chép giản đơn, máy móc mà là sự tiếp nhận để biến chuyển phù hợp với thời đại và sáng tạo để làm nên dấu ấn riêng của mình. Cái hay của “Việt Bắc” chính là tác phẩm không đơn giản là những câu hát nghĩa tình mà là câu hát về ân tình cách mạng, về tình quân dân cá nước – tình cảm chính trị cách mạng. Chính trị mà không khô khan, trữ tình mà vẫn sắc sâu đạo lí, về lẽ sống thời đại. Đó chính là đặc điểm của hồn thơ Tố Hữu: thơ của những lẽ sống lớn, của niềm vui lớn, thơ của mọi nhà. Thể hiện cảm hứng mới mẻ ấy là một loạt những hình ảnh mới mẻ, gần gũi với cuộc sống, con người rất tươi vui, khỏe khoắn.

Bức tranh mùa đông được vẽ ra bởi hai câu thơ:
  • “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
  • Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Mùa đông cổ thi xưa là hình ảnh của những sương sa, tuyế phủ: “Sương như búa, bổ mòn gốc liễu/ Tuyết dường cưa xẻ héo cành khô” gợi về sự lạnh lẽo, úa tàn và chia li. Còn trong câu thơ lại là hình ảnh: “hoa chuối, nắng ánh” tươi rói sức sống. Đó có phải là hình ảnh “hoa chuối” của thơ Nguyễn Trãi năm nào “Cây chuối” để rồi lại tiếp tục xuất hiện trong cảm hứng thơ của Nguyễn Mỹ:
  • “Tôi biết cái màu đỏ ấy
  • Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy
  • Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
  • Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người”
  • (“Cuộc chia ly màu đỏ”)
Nếu con người trong cổ thi là kẻ sĩ thanh cao, lánh đục về trong để vui thú lâm tuyền, cày nhàn câu vắng nên dễ hòa mình, biến mất trong thiên nhiên, là một phần của vũ trụ; tì con người trong thơ Tố Hữu lại là con người trong tư thế hiên ngang, vóc tầm lớn lao của người làm chủ, làm chủ cuộc đời mình và làm chủ núi rừng.

Đông qua xuân lại tới. Bức tranh mùa xuân được mở ra từ hai câu thơ:
  • “Ngày xuân mơ nở trắng rừng
  • Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Nếu trong cổ thi, xuân là hình ảnh của mai thanh cao, đào thanh nhã thì xuân thì đến Tố Hữu đã chối bỏ những ước lệ cổ xưa ấy để trở về với những hình ảnh tươi tắn, bình dị như từ đời mà bước vào trang thơ. “Hoa mơ” – hình ảnh giản dị của núi rừng Việt Bắc đã ám ảnh, đi về trong tâm trí của Tố Hữu:
  • “Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
  • Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”
Màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, làm bừng sáng cả khu rừng, sáng không gian và tươi rói trong kí ức, thời gian. Động từ “nở” làm bức tranh không hề tĩnh tại, đơn điệu mà tự nó có sức sống, chuẩn bị đem nhựa sống tràn trề bên trong mình mà bung nở. Hình ảnh con người hiện lên trong công việc: “đan nón chuốt từng sợi giang”. Động tư “chuốt” gợi đến bàn tay người lao động đang nhẹ nhàng và trân trọng, tỉ mỉ và cần cù, khéo léo. Dường như bao nhiêu chờ đợi, mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón. Đó phải chăng chính là chất thơ của con người miền núi mà sau này Y Phương tự hào gọi ba tiếng: “người đồng mình”.

Mùa hè đến trong âm thanh rộn ràng của tiếng ve:
  • “Ve kêu rừng phách đổ vàng
  • Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Bức tranh Việt Bắc trở nên sống động hơn bao giờ hết. Nếu trong cổ thi, tiếng ve là âm thanh quen thuộc trong thơ Ức Trai thuở trước: “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương” (“Cảnh ngày hè”) là cái đài các, nói đến cảnh quốc thái dân an, thái bình thịnh trị; thì đến Tố Hữu, ông đã đưa tiếng ve về gần với cuộc sống. Đó đơn giản là hình ảnh hồn nhiên, gần gũi của núi rừng. Nhưng ông không dùng là “nhuộm vàng, chuyển vàng,…” mà là “đổ vàng” – cuộc chuyển màu nhất loạt, bất ngờ, mạnh mẽ. Đó mới chính là cuộc chuyển mình, là sức sống nọi sinh tràn trề của cỏ cây chỉ có trong thơ ca cách mạng. Hình ảnh con người hiện lên không phải là hai chị em họ Vương kiều diễm, không phải người con gái cá tính trong thơ Hồ Xuân Hương, … - gắn với những ước lệ tượng trưng mà là “em” gắn liền với cuộc sống lao động, trong cái đẹp bình dị của cuộc sống. “Em gái” – tiếng gọi nghe thật thân thương, gần gũi.
Thu sang:
  • “Rừng thu trăng rọi hòa bình
  • Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Khung cảnh chiến khu như được tắm trong ánh trăng huyền ảo, lung linh, dịu mát. Ánh trăng thoát khỏi là nỗi sầu duyên phận (Hồ Xuân Hương), nỗi buồn li hương (Lý Bạch) hay thế sự (Nguyễn Khuyến), cũng chẳng còn là tứ thú thanh cao: “Khi chén rượu, khi cuộc cờ/ Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên” mà đó là luồng sáng của trăng nơi thượng ngàn “rọi hòa bình” – ánh sáng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên khắp núi rừng, bản làng Việt Bắc. Đại từ phiếm chỉ “ai” – đại từ phiếm chỉ thể hiện tiếng lòng bâng khuâng. Đó là hình ảnh người trên “đèo cao nắng ánh”? Là cô em gái “hái măng một mình”? Hay là sự phân thân, hóa thân của chủ thể trữ tình mượn thơ mà thể hiện tiếng lòn thủy chung với nhân dân, với kháng chiến, cách mạng.

Đoạn thơ là sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại sắc nét và hài hòa. Cổ điển giúp cho câu thơ không trở nên xa lạ. Hiện đại khiến cho lời thơ quen mà không cũ. Đó chính là phong cách thơ Tố Hữu. Kế thừa để nối tiếp dòng chảy văn học kết hợp với cách tân để văn chương luôn làm mới mình, để trường tồn trong lòng người đọc.

Vạn vật đều theo quy luật vong tồn của tạo hóa, riêng văn học vượt thoát khỏi quy luật ấy, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết. Đó là bởi những câu thơ như “Việt Bắc”, những tác giả như Tố Hữu để vừa gìn giữ vừa phát triển văn hóa dân tộc.

-Hương Đoànn-

BÀI VIẾT SỐ 2 CHỨNG MINH Ý KIẾN: ĐOẠN THƠ “TA VỀ MÌNH CÓ NHỚ TA… ÂN TÌNH THỦY CHUNG” VỪA ĐẬM ĐÀ MÀU SẮC CỔ ĐIỂN VỪA MỚI MẺ HIỆN ĐẠI
Người ta thường nghĩ chỉ trong thi ca cổ mới có thể ngắm nhìn bức họa xuân hạ thu đông. Nhưng với bài thơ "Việt Bắc", một bài thơ ra đời trong không khí cách mạng, khi trung ương Đảng và chính phủ rời thủ đô gió ngàn về Hà Nội, người đọc vẫn có thể tìm thấy bức tranh tứ bình bốn mùa: "Ta về mình có nhớ ta....ân tình thủy chung". Có ý kiến cho rằng, đoạn thơ vừa đậm đà màu sắc cổ điển,vừa mới mẻ hiện đại.

“Màu sắc cổ điển” là sắc màu mang tính truyền thống, chuẩn mực của văn chương sau trước. Tác phẩm mang màu sắc cổ điển là những sáng tác bị ảnh hưởng sâu sắc của một lối viết truyền thống, tiếp thu những giá trị đó nhưng vẫn là áng văn chương hiện đại. “Vẻ đẹp mới mẻ, hiện đại” là những vẻ đẹp gần gũi, mang tinh thần thời đại mới. Ý kiến đã khái quát một trong những nét phong cách mới lạ của thơ ca Tố Hữu: vừa đậm đà màu sắc dân tộc vừa mang chất trữ tình chính trị. Đoạn thơ tứ bình là một trong những doạn thơ hay và đặc sắc nhất trong sự nghiệp viết thơ của ông.

Đoạn thơ trước là lời người ra đi nói vè tình nghĩa thủy chung, "ẩm hà tư nguyên", sau là tình cảm quân dân, tình cảm chính trị và đạo lí cách mạng. Mở đầu đoạn thơ là khúc ca quen thuộc:
  • "Ta về, mình có nhớ ta
  • Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Cách xưng hô "mình-ta" xuyên suốt bài thơ diễn tả tình nghĩa thủy chung, son sắt giữa quân và dân, giữa người ra đi và người ở lại. Người ra đi tuy bước chân phải đi nhưng tấm lòng còn ở lại, họ nhớ cả "hoa", cả "người" - cả thiên nhiên và tấm lòng người dân miền núi. Đặt "người" bên cạnh "hoa", tác giả như muốn tôn vẻ đẹp con người giống như những bông hoa của núi rừng Việt Bắc, lan tỏa sắc hương khiến người ra đi chẳng nỡ rời xa.

Đoạn thơ sau đó là những lời thoe tuyệt đẹp ca ngợi bức tranh thiên nhiên Việt Bắc bốn mùa với hình ảnh thơ vừa quen thuộc, cổ xưa lại vừa mới mẻ, giản dị, khỏe khoắn và mang hơi thở thời đại. Bức tranh mùa đông hiện ra không có cái dạn dày sương gió, không có cái lạnh lẽo của tuyết rơi đầu mùa mà thật ấm ấp trong hình ản thiên nhiên tươi mới:
  • "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
  • Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Trong cổ thi, mùa đông thường gắn với ước lệ ngàn đời: sương sa tuyết phủ, rặng liễu đìu hiu, tuyết ngưng lạnh lẽo còn trong bài thơ, mùa đông chợt trở nên ấm áp với hình ảnh của hoa chuối rừng đỏ rực trong sắc xanh của những cánh rừng bạt ngàn, giống hệt như một ngọn lửa thắp sáng xua tan sự lạnh lẽo của mùa đông. Hoa chuối là một hình ảnh thực quen thuộc trong thơ cách mạng mà ta đã từng gặp gỡ trong "Cuộc chia li màu đỏ”:
  • "Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy
  • Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
  • Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi mọi người"
Mùa đông còn trở nên ấm áp với ánh nắng rọi sáng cả đèo cao, xua tan không khí lạnh lẽo vốn có của mùa cuối. Đặc biệt hơn cả, ánh nắng ấy càng trở nên chói lòa trong sự phản chiếu dưới ánh dao gài thắt lưng người đi rừng. Trong cổ thi, con người thường là những ẩn sĩ lánh đục về trong để vui thú lâm tuyền, cày nhàn câu vắng nên thường ẩn khuất trong thiên nhiên. Còn trong thơ Tố Hữu, con người lao động xuất hiện với tư thế hiên ngang, lớn lao, bừng sáng, sững sững dưới đất trời nơi đèo cao rừng thẳm, đến cả ánh nắng của tạo hóa cũng phải chờ đến con người mới có thể bừng sáng lên được. Con người đặt trong thiên nhiên mà không hề bị ẩn khuất trong sự bao la bát ngát mà trái lại càng làm tôn thêm vẻ đẹp của núi rừng hùng vĩ.

Trong cổ thi, mùa xuân không thể thiêud hoa xuân: hoa mai thanh cao, hoa đào kiêu hãnh, còn trong thơ Tố Hữu, hoa xuân từ chối ước lệ thời xưa để tươi tắn bước ra từ cuộc đời với hình ảnh hoa mơ:
  • "Ngày xuân mơ nở trắng rừng
  • Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Hoa mơ - ám ảnh đi về trong nỗi nhớ của nhà thơ: đó là bông hoa mơ nở trắng rừng trong ngày Bác về:
  • "Ôi sáng hôm nay xuân 41
  • Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”
Sau này cũng chính là bông hoa mơ nở trắng cánh đồng Mường Thanh ngày sạch bóng quân thù:
  • "Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
  • Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng"
Hoa mơ vừa giản đơn, gần gũi nhưng lại vô cùng tinh tế, trong trẻo. Rừng hoa mơ nở trắng là đặc trưng của miền núi và sẽ mãi đi về trong kí ức tác giả như một niềm thơ. Con người nơi đây cần cù "chuốt" từng sợi giang - vừa nhẹ nhàng, tỉ mỉ lại vừa cần cù, khéo léo. Hóa ra không chỉ có hoa mơ mới đẹp mà con người cũng đẹp không kém, hai hình ảnh tinh tế đó đan quyện vào nhau khiến bức trang mùa xuân thơ mộng, lãng mạn trong sắc trắng ngà của mơ rừng, vừa mới mẻ và hiện đại trong sự cần cù của những người lao động vùng núi.

Ngày tháng chảy trôi, hoa mơ rừng cũng đã tàn để nhường chỗ cho tiếng ve và ánh vàng của mùa hạ:
  • "Ve kêu rừng phách đổ vàng
  • Nhớ cô em gái hái măng một mình"
Trong thi ca cổ ta từng bắt gặp tiếng ve dắng dỏi, sang trọng và đài các của cảnh quốc thái dân an:
  • "Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"
Tố Hữu đã giũ bỏ tấm áo ước lệ, trở về viết nên tiếng ve hồn nhiên của núi rừng. Tiếng ve kêu gọi rừng phách nở hoa vàng óng như được đổ một lớp mật vàng ngọt. Tiếng ve gắn với nắng hè và màu vàng của cây phách khiến hình ảnh thơ trở nên thật ấm áp, làm nền để người thiếu nữ đi hái măng rừng xuất lộ đầy ấn tượng. Thơ xưa khi nói về người con gái thường ca ngợi những tố nữ đài các, xinh đẹp trong thơ nữ sĩ Hồ Xuân Hương, trong thơ Thôi Hộ thời Đường:
  • "Nhân diện bất tri hà xứ khứ
  • Đào hoa y cực tiếu đông phong"
Tố Hữu là nhà thơ cách mạng và vì vậy, ông ca ngợi vẻ đẹp của con người trong lao động, thiếu nữ trong thơ ông không ngồi trên đài cao, không chơi đàn tì bà, không gắn với hoa mai, hoa đào mà lại cần mẫn, chăm chỉ trong công việc lao động thường ngày. Vẻ đẹp của con người lấp lánh trong cuộc sống cần lao vất vả, mang tinh thần của thời đại Hồ Chí Minh.

Mùa thu trong bức tranh tứ bình nổi bật với hình ảnh vầng trăng, nhưng không gắn với nỗi sầu thế sự, duyên phận, tha hương như trong thơ cổ:
  • "Vầng trăng ai xẻ làm đôi
  • Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường"
Hoặc xuất hiện trong tứ thú thanh cao:
  • "Khi chén rượu, khi cuộc cờ
  • Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên"
Vầng trăng trong thơ Tố Hữu là ánh trăng "rọi" - một luồng sáng mạnh mẽ của thượng ngàn, một ánh sáng của hòa bình vừa êm ả lại vừa thanh bình. Ánh trăng ấy cũng nhuốm màu thời đại và mang nét hi vọng và niềm tin của người ra đi. Đại từ phiếm chỉ "ai" khiến câu thơ nhue trôi về một cõi xa xưa, cũng có thể là sự phân thân, hóa thân của chủ thể nhà thơ để nói về tấm lòng chung thủy với nhân dân, đất nước, cũng có thể chỉ đồng bào và nhân dân chiến khu. Tiếng hát nơi thủ đô gió ngàn sẽ đi về trong kí ức nhà thơ, vừa là niềm nhớ, vừa là niềm thương, là kỉ niệm của những đêm trăng thanh hòa bình trên chiến khu Việt Bắc, vừa là khúc hát của sự thủy chung, tình cảm sắt son người dân miền núi dành cho cán bộ. Tiếng hát vừa ân tình vừa tha thiết ấy sẽ đọng lại mãi trong hồi ức nhà thơ.

Có ý kiến cho rằng đoạn thơ vừa đậm đà màu sắc cổ điển vừa mới mẻ hiện đại. Bằng cảm quan riêng của một nhà thơ chiến sĩ, Tố Hữu đã vẽ nên bức tranh tứ bình của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông vừa quen lại vừa lạ, quen mà không mòn, vừa đậm đà tính dân tộc vừa mới mẻ trong tinh thần thời đại. Đó cũng là nét đặc sắc trong phong cách thơ Tố Hữu, đồng thời cũng thể hiện quy luật kế thừa và cách tân vốn không lạ trong văn học. Tố Hữu đã mượn thơ để ca ngợi thiên nhiên và vẻ đẹp con người Việt Bắc, để rồi để lại cho thơ ca Việt Nam một bức tranh bốn mùa đặc sắc và đẹp đến nao lòng.

"Việt Bắc" đã đi vào thơ ca, đi vào lòng người bằng cách viết hồn hậu như thế đó. Và dẫu bụi mờ thời gian có phủ dày lên các tác phẩm thì giá trị của chúng sẽ sáng mãi để gột rửa cái vô tình của thời gian, khắc sâu vào lòng người.

-Minh Anh-
 
  • Chủ đề
    việt bắc
  • Top