Đọc truyện Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu bản Quốc Ngữ 2082 câu Full

Đọc truyện Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu bản Quốc Ngữ 2082 câu Full, tóm tắt truyện lục vân tiên cứu kiều nguyện nga hay nhất, Vân Tiên Cổ Tích Tân Truyện

Lục Vân Tiên là một tác phẩm truyện thơ nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác vào cuối thế kỷ 19 và được Trương Vĩnh Ký cho xuất bản lần đầu tiên vào năm 1889. Đây là một trong những sáng tác có vị trí cao của văn học miền Nam Việt Nam.

Truyện Lục Vân Tiên (mà người miền Nam thường gọi là thơ Lục Vân Tiên) là một cuốn tiểu thuyết về luân lý, cốt bàn đạo làm người với quan niệm văn dĩ tải đạo. Tác giả muốn đem gương người xưa mà khuyên người ta về cương thường - đạo nghĩa.


— Trích dẫn từ Lục Vân Tiên của Wikipedia, Bách khoa Toàn thư Mở.

diendanbaclieu-127838-200px-lucvantientruyen.jpg


Lục Vân Tiên truyện ấn bản Giáp Tuất do Duy Minh Thị phát hành năm 1874​



Mục lục
(Kích vào từng phần để chuyển đến nhanh hơn)
 
  • Chủ đề
    truyen dan gian truyen hay nhat
  • quanltv

    Sư phụ của ADMIN
    Trước đèn xem truyện Tây minh[1],
    Gẫm cười hai chữ nhơn tình éo le.
    Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
    Dữ răn việc trước lành dè thân sau.
    5
    Trai thời trung hiếu làm đầu,
    Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.

    Có người ở quận Đông-thành,
    Tu nhân tích đức sớm sanh con hiền.
    Đặt tên là Lục Vân Tiên,
    10
    Tuổi vừa hai tám[2] nghề chuyên học hành.
    Theo thầy nấu sử xôi kinh,
    Tháng ngày bao quản sân Trình[3] lao đao.
    Văn đà khởi phụng đằng giao[4],
    Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.
    15
    Xảy nghe mở hội khoa thi,
    Vân Tiên vào tạ tôn sư xin về:
    "Bấy lâu cửa thánh dựa kề,
    Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần.
    Nay đà gặp hội long vân,
    20
    Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.
    Chí lăm bắn nhạn ven mây[5],
    Danh tôi đặng rạng tiếng thầy bay xa[6].
    Làm trai trong cõi người ta,
    Trước là báo bổ sau là hiển vang[7]".
    35
    Tôn sư khi ấy luận bàn:
    "Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa.
    Máy trời[8] chẳng dám nói ra,
    Xui thầy thương tớ xót xa trong lòng.
    Sau dầu tỏ nỗi đục trong,
    30
    Phải toan một phép để phòng hộ thân.
    Rày con xuống chốn phong trần,
    Thầy cho hai đạo phù thần[9] đem theo.
    Chẳng may mà gặp lúc nghèo[10],
    Xuống sông cũng vững lên đèo cũng an".
    45
    Tôn sư trở lại hậu đàng,
    Vân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi:
    "Chẳng hay mình mắc việc chi,
    Tôn sư người dạy khoa kì còn xa?
    Hay là bối rối việc nhà,
    40
    Hay là đức bạc hay là tài sơ?
    Bấy lâu lòng những ước mơ,
    Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao.
    Nên hư chẳng biết làm sao,
    Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh.
    45
    Đặng cho rõ nỗi sự tình,
    Ngõ sau ngàn dặm đăng trình mới an".
    Tôn sư ngồi hãy thở than,
    Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
    Hỏi rằng: "Vạn lý trường đồ,
    50
    Sao chưa cất gánh trở vô việc gì?
    Hay là con hãy hồ nghi,
    Thầy bàn một việc khoa kì ban trưa?"
    Vân Tiên nghe nói liền thưa:
    "Tiểu sanh chưa biết nắng mưa buổi nào.
    65
    Song đường tuổi hạc đã cao[11],
    Xin thầy nói lại âm hao[12] con tường".
    Tôn sư nghe nói thêm thương,
    Dắt tay ra chốn tiền đường coi trăng.
    Nhân cơ tàng sự dặn rằng[13]:
    60
    "Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
    Tuy là soi khắp mọi nơi,
    Khi mờ khi tỏ khi vơi khi đầy.
    Sau con cũng rõ lẽ này,
    Lựa là con phải hỏi thầy làm chi?
    65
    Số con hai chữ khoa kì,
    Khôi tinh đã rạng Tử-vi thêm lòa[14].
    Hiềm vì ngựa chạy đường xa,
    Thỏ vừa ló bóng gà đà gáy tan[15].
    Bao giờ cho tới bắc phang,
    70
    Gặp chuột ra đàng con mới nên danh.
    Sau dầu đặng chữ hiển vinh,
    Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai[16].
    Trong cơ bĩ cực thới lai,
    Giữ mình cho vẹn việc ai chớ sờn".
    75
    Vân Tiên vội vã tạ ơn,
    Trăm năm dốc giữ keo sơn mọi lời.
    Ra đi vừa rạng chân trời,
    Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.
    Tiên rằng: "Thiên các nhứt phương[17],
    80
    Thầy đeo đoạn thảm tớ vương mối sầu.
    Quản bao thân trẻ dãi dầu,
    Mang đai Tử-lộ quảy bầu Nhan Uyên[18].
    Bao giờ cá nước gặp duyên,
    Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay[19]".
    85
    Kể từ lướt dặm tới nay,
    Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương.
    Đoái nhìn phong cảnh thêm thương,
    Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa.
    Chi bằng kiếm chốn lân gia,
    90
    Trước là tìm bạn sau là nghỉ chơn.

    Việc chi than khóc tưng bừng,
    Đều đem nhau chạy vào rừng lên non?
    Tiên rằng: "Bớ chú cõng con!
    Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?"
    95
    Dân rằng: "Tiểu tử là ai,
    Hay là một đản g Sơn-đài[20] theo tao?"
    Tiên rằng: "Cớ sự làm sao,
    Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời".
    Dân nghe tiếng nói khoan thai,
    100
    Kêu nhau dừng lại bày lời phân qua:
    "Nhơn rày có đản g lâu la,
    Tên rằng Đỗ Dự hiệu là Phong Lai.
    Nhóm nhau ở chốn Sơn-đài,
    Người đều sợ nó có tài khôn đương.
    105
    Bây giờ xuống cướp thôn hương,
    Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
    Xóm làng chẳng dám nói chi,
    Cảm thương hai gã nữ nhi mắc nàn!
    Con ai vóc ngọc mình vàng,
    110
    Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng[21].
    E khi mắc đản g hành hung,
    Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu[22].
    Thôi thôi chẳng dám nói lâu,
    Chạy đi cho khỏi kẻo âu[23] tới mình".
    115
    Vân Tiên nổi giận lôi đình,
    Hỏi thăm: "Lũ nó còn đình nơi nao?
    Tôi xin ra sức anh hào,
    Cứu người cho khỏi lao đao buổi này".
    Dân rằng: "Lũ nó còn đây,
    120
    Qua xem tướng bậu[24] thơ ngây đã đành.
    E khi họa hổ bất thành[25],
    Khi không[26] mình lại xô mình xuống hang".
    Vân Tiên ghé lại bên đàn g,
    Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.
    125
    Kêu rằng: "Bớ đản g hung đồ!
    Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân".
    Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
    "Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây.
    Trước gây việc dữ tại mầy,
    130
    Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng".
    Vân Tiên tả đột hữu xông,
    Khác nào Triệu tử phá vòng Đương-dang[27].
    Lâu la bốn phía vỡ tan,
    Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
    135
    Phong Lai trở chẳng kịp tay,
    Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
    Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
    Hỏi: "Ai than khóc ở trong xe nầy?"
    Thưa rằng: "Tôi thiệt người ngay,
    140
    Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ.
    Trong xe chật hẹp khôn phô,
    Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng".
    Vân Tiên nghe nói động lòng,
    Đáp rằng: "Ta đã trừ dòng lâu la.
    145
    Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
    Nàng là phận gái ta là phận trai.
    Tiểu thơ con gái nhà ai,
    Đi đâu nên nỗi mang tai bất kì?
    Chẳng hay tên họ là chi,
    150
    Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
    Trước sau chưa hãn[28] dạ này,
    Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra?".
    Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt Nga,
    Con này tì tất tên là Kim Liên.
    155
    Quê nhà ở quận Tây-xuyên,
    Cha làm tri phủ ở miền Hà-khê.
    Sai quân đem bức thơ về,
    Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
    Làm con đâu dám cãi cha,
    160
    Ví dầu ngàn dặm đường xa cũng đành!
    Chẳng qua là sự bất bình,
    Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.
    Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
    Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
    165
    Trước xe quân tử tạm ngồi,
    Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa:
    Chút tôi liễu yếu đào thơ,
    Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
    Hà-khê qua đó cũng gần,
    170
    Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.
    Gặp đây đương lúc giữa đàng,
    Của tiền chẳng có bạc vàng cũng không.
    Gẫm câu báo đức thù công[29],
    Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi".
    175
    Vân Tiên nghe nói liền cười:
    "Làm ơn há dễ trông người trả ơn?
    Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
    Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
    Nhớ câu kiến ngãi bất vi.
    180
    Làm người thế ấy cũng phi anh hùng[30].
    Đó mà biết chữ thỉ chung,
    Lựa là đây phải theo cùng làm chi".
    Nguyệt Nga biết ý chẳng đi,
    Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
    185
    Thưa rằng: "Tiện thiếp đi đường
    Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?"
    Phút nghe lời nói thanh tao,
    Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha:
    "Đông-thành vốn thiệt quê ta,
    190
    Họ là Lục thị tên là Vân Tiên".
    Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên,
    Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
    Thưa rằng: "Nay gặp tri âm,
    Xin đưa một vật để cầm làm tin".
    195
    Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
    Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn[31] nết na:
    "Vật chi một chút gọi là,
    Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
    Của này là của vất vơ[32],
    200
    Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành!".
    Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
    Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây[33].
    Than rằng: "Đó khéo trêu đây,
    Ơn kia đã mấy của này rất sang.
    205
    Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
    Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.
    Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
    Nào ai chịu lấy của ai làm gì".
    Thưa rằng: "Chút phận nữ nhi,
    210
    Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng.
    Ai dè những đấng anh hùng,
    Thấy trâm thôi lại thẹn cùng cây trâm.
    Riêng than: Trâm hỡi là trâm!
    Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ?
    215
    Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
    Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ".
    Vân Tiên ngó lại rằng ừ:
    "Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu".
    Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu,
    220
    Xuống tay liền tả tám câu năm vần.
    "Thơ rồi này thiếp xin dâng,
    Ngửa trông lượng rộng văn nhân thế nào?"
    Vân Tiên xem thấy ngạt ngào[34],
    Ai dè sức gái tài cao bực này.
    225
    Đã mau mà lại thêm hay,
    Chẳng phen Tạ nữ cùng tày Từ phi[35].
    Thơ ngâm dũ xuất dũ kì[36],
    Cho hay tài gái kém gì tài trai.
    Như vầy ai lại thua ai,
    230
    Vân Tiên họa lại một bài trao ra.
    Xem thơ biết ý gần xa,
    Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai[37].
    Có câu xúc cảnh hứng hoài[38],
    Đường xa vòi vọi dặm dài vơi vơi.
    235
    Ai ai cũng ở trong trời,
    Gặp nhau lời đã cạn lời thời thôi.
    Vân Tiên từ giã phản hồi,
    Nguyệt Nga than thở: "Tình ôi là tình!
    Nghĩ mình mà ngán cho mình,
    240
    Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.
    Nặng nề hai chữ uyên ương,
    Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
    Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông!
    Trăm năm cho vẹn chữ tùng[39] mới an.
    245
    Hữu tình chi bấy Ngưu-lang[40],
    Tấm lòng Chức-nữ vì chàng mà nghiêng.
    Thôi thôi em hỡi Kim Liên!
    Đẩy xe cho chị qua miền Hà-khê".
    Trải qua dấu thỏ đường dê,
    250
    Chim kêu vượn hú tứ bề nước non.
    Vái trời cho đặng vuông tròn,
    Trăm năm cho trọn lòng son với chàng.
    Phút đâu đã tới phủ đàng,
    Kiều công xem thấy lòng càng sanh nghi.
    255
    Hỏi rằng: "Nào trẻ tùy nhi[41],
    Cớ sao nên nỗi con đi một mình?"
    Nguyệt Nga thưa việc tiền trình[42],
    Kiều công tưởng nỗi sự tình chẳng vui.
    Nguyệt Nga dạ hãy ngùi ngùi,
    260
    Nghĩ mình thôi lại sụt sùi đòi cơn[43]:
    "Lao đao phận trẻ chi sờn,
    No nao[44] trả đặng công ơn cho chàng".
    Kiều công nghe nói liền can,
    Dạy rằng: "Con hãy nghỉ an mình vàng.
    265
    Khi nào cha rảnh việc quan,
    Cho quân qua đó mời chàng đến đây.
    Sao sao[45] chẳng kíp thời chầy,
    Cha nguyền trả đặng ơn nầy thời thôi.
    Hậu đường con hãy tạm lui,
    270
    Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già".
    Tây lầu trống điểm sang ba,
    Nguyệt Nga còn hãy xót xa phận mình.
    Dời chơn ra chốn hoa đình[46],
    Xem trăng rồi lại chạnh tình cố nhơn.
    275
    Than rằng: "Lưu thủy cao sơn,
    Ngày nào nghe đặng tiếng đờn tri âm.
    Chữ tình càng tưởng càng thâm[47],
    Muốn pha khó lợt muốn dầm khôn phai.
    Vơi vơi đất rộng trời dài,
    280
    Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền".
    Trở vào bèn lấy bút nghiên,
    Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh.
    Làu làu một tấm lòng thành,
    Họa ra một bức tượng hình Vân Tiên.
    285
    Than rằng: "Ngàn dặm sơn xuyên[48],
    Chữ ân để dạ chữ duyên nhuốm sầu".






    Chú thích cuối trang[sửa]

    1. Bài văn tự răn nổi tiếng bàn về đạo hiếu và đạo nhân, do Trương Tái làm
    2. Hai tám: 16 tuổi
    3. Sân Trình: chỉ Trình Chiêu và Trình Di, hai nhà Nho nổi tiếng đời Tống
    4. Văn đã như phượng trỗi dậy, rồng bay cao, tức văn đã thành tài
    5. Ý nói quyết thi đỗ
    6. Danh tôi: danh của kẻ tôi tớ (Vân Tiên nói nhún)
    7. Báo đáp công ơn cha mẹ và thầy
    8. Máy trời: thiên cơ (cơ trời huyền bí)
    9. Phù thần: bùa hộ mệnh
    10. Hiểm nghèo
    11. Song đường: xuân đường, huyên đường (cha mẹ). Tuổi hạc: tuổi thọ
    12. Âm hao: tin tức
    13. Nhân cơ trời đang chứa nhiều bí ẩn (do xem trăng sao mà biết)
    14. Sao Thiên Khôi (sao văn học, thi cử) và sao Tử Vi (thân mệnh) đều sáng rỡ
    15. Nhưng gặp năm xung nên chưa thuận (mão xung dậu)
    16. Tiền trình: con đường phía trước
    17. Mỗi người một phương trời
    18. Tử Lộ, Nhan Uyên: hai học trò giỏi của Khổng Tử, thuở nhỏ rất nghèo, Tử Lộ chỉ có một dây đai, Nhan Uyên chỉ có một bầu nước
    19. Tôi ngay: bề tôi trung thành của vua
    20. Đản g sơn đài: đản g cướp núi
    21. Dung nhan lạnh lùng (tiếng cổ): sắc đẹp tuyệt vời
    22. Thục nữ: con gái đức hạnh. Thất phu: đàn ông thô bỉ
    23. Âu (ưu): lo
    24. Qua: ta. Bậu: ngươi (bạn, anh bạn)
    25. Vẽ hổ không thành: mưu đồ thất bại
    26. Khi không: không dưng
    27. Triệu Tử phá vòng Đương Dương: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại ở Tân Dã phải bỏ chạy. Quân Tháo đuổi theo đến Đương Dương, thì Lưu Bị phải bỏ cả vợ con, cướp đường rút về phía Nam, tướng tá lạc nhau. Triệu Tử Long một mình đánh phá vòng vây trùng điệp của quân Tào, vượt cầu Trường Bản, tìm gặp Lưu Bị
    28. Chưa hãn: chưa rõ, chưa biết chắc chắn
    29. Báo trả ơn đức, đền đáp công lao
    30. Luận ngữ: "Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã", nghĩa là: thấy việc nghĩa không làm là người vô dũng
    31. Thìn: răn, giữ
    32. Của vất vơ: của quấy quá, không mấy giá trị
    33. Lây dây: lỡ dở không xuôi bề nào
    34. Ngạt ngào: mùi thơm nức, đây ý nói thơ hay lắm
    35. Chẳng phen: chẳng bằng, chẳng sánh kịp. Tạ nữ: tức Tạ Đạo Uẩn đời Tấn nổi tiếng thông minh, giỏi thơ văn. Từ phi: tên Huệ, người đời Đường, tám tuổi đã giỏi việc văn thơ
    36. Dũ xuất dũ kì: càng đọc càng thấy hay thấy lạ
    37. Mai điểu: tranh mai và chim đẹp hài hòa. Đây nói thơ xướng họa, tình ý rất xứng hợp nhau
    38. Xúc cảnh hứng hoài: xúc cảm trước cảnh đẹp mà động lòng thơ
    39. Vẹn chữ tùng: trọn đạo làm vợ (theo chồng)
    40. Ngưu Lang: nhân vật thần thoại, chồng của Chức Nữ
    41. Tùy nhi: trẻ theo hầu
    42. Tiền trình: việc đi đường vừa rồi
    43. Đòi cơn: nhiều cơn
    44. No nao: nỏ biết lúc nào, chừng nào
    45. Sao sao: dù thế nào
    46. Hoa đình: nhà nhỏ ngồi thưởng hoa
    47. Thâm: sâu
    48. Sơn xuyên: núi sông, nói sự xa xôi cách trở
     

    quanltv

    Sư phụ của ADMIN
    Truyện nàng sau hãy còn lâu,
    Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra[1].
    Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga,
    290
    Giữa đường lại gặp người ra kinh kì,
    Xa xem mặt mũi đen sì,
    Mình cao sồ sộ dị kì rất hung.
    Nhớ câu bình thủy tương phùng[2],
    Anh hùng lại gặp anh hùng một khi:
    295
    "Chẳng hay danh tánh là chi,
    Một mình mang gói ra đi việc gì?"
    Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi,
    Hớn Minh tánh tự Ô-mi quê nhà".
    Vân Tiên biết lẽ chánh tà,
    300
    Hễ người dị tướng ắt là tài cao.
    Chữ rằng: "Bằng hữu chi giao[3],
    Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây?
    Nên rừng há dễ một cây,
    Muốn cho có đó cùng đây luôn vần.
    305
    Kìa nơi võ miếu hầu gần,
    Hai ta vào đó nghỉ chơn một hồi...".
    Cùng nhau bày họ tên rồi,
    Hai chàng từ tạ đều lui ra đường.
    Hớn Minh đi trước tựu trường,
    310
    Vân Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà.
    Mừng rằng: "Nay thấy con ta,
    Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông.
    Bấy lâu đèn sách gia công,
    Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?"
    315
    Vân Tiên quỳ lạy thưa rằng:
    "Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim.
    Dám xin cha mẹ an tâm,
    Cho con trả nợ thanh khâm[4] cho rồi".
    Mẹ cha thấy nói thêm vui,
    320
    Lại lo non nước xa xôi ngàn trùng.
    Cho theo một đứa tiểu đồng,
    Thư phong một bức dặn cùng Vân Tiên:
    "Xưa đà định chữ lương duyên,
    Cùng quan hưu trí ở miền Hàn-giang,
    325
    Con người là Võ Thể Loan,
    Tuổi vừa hai bảy[5] dung nhan mặn mà.
    Chữ rằng Hồ Việt nhứt gia[6],
    Con đi qua đó trao qua thơ này.
    Con dầu bước đặng thang mây,
    330
    Dưới chơn đã sẵn một dây tơ hồng".
    Song thân dạy bảo vừa xong,
    Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chơn.
    Ra đi tách dặm băng chừng,
    Gió nam rày đã đưa xuân qua hè.
    335
    Lại xem dặm liễu đường hòe,
    Tin ong ngơ ngáo tiếng ve vang dầy.
    Vui xem nước nọ non nầy,
    Nước xao sóng dợn non vầy đá cao.
    Màn trời gấm trải biết bao,
    340
    Trên nhành chim nói dưới ao cá cười.
    Quận thành nhắm kiểng coi người,
    Kiểng xinh như vẽ người tươi như dồi[7].
    Hàn-giang phút đã tới nơi,
    Vân Tiên ra mắt một hồi trình thơ.
    345
    Võ công lấy đọc bấy giờ,
    Mừng duyên cầm sắt[8] mối tơ đặng liền.
    Liếc coi tướng mạo Vân Tiên,
    Khá khen họ Lục phước hiền sanh con.
    Mày tằm mắt phụng môi son,
    350
    Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân.
    Những e kẻ Tấn người Tần[9],
    Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai[10].
    Xem đà đẹp đẽ hòa hai,
    Này dâu nam giản nọ trai đông sàng[11].
    355
    Công rằng: "Ngãi tế[12] mới sang,
    Muốn lo việc nước hãy toan việc nhà".
    Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia,
    Đại khoa dầu đặng tiểu khoa[13] lo gì".
    Công rằng: "Con dốc xuống thi,
    360
    Sao không kết bạn mà đi tựu trường?
    Gần đây có một họ Vương,
    Tên là Tử Trực văn chương tót đời[14].
    Cha đà sai trẻ qua mời,
    Đặng con cùng gã thử chơi một bài.
    365
    Thấp cao cao thấp biết tài,
    Vầy sau trước bạn cùng mai mới mầu[15]".
    Xảy đâu Tử Trực tới hầu,
    Võ Công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
    Công rằng: "Nầy bớ hai con!
    370
    Thơ hay làm đặng rượu ngon thưởng liền.
    Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,
    Lấy câu bình thủy hữu duyên[16] làm đề".
    Song song hai gã giao kề[17],
    Lục Vương hai họ đua nghề một khi.
    375
    Cho hay kì lại gặp kì[18],
    Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành[19].
    Công rằng: "Đơn quế đôi nhành,
    Bảng vàng thẻ bạc đã đành danh nêu.
    Như chuông chẳng đánh chẳng kêu,
    380
    Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình.
    Thiệt trang lương đống[20] đã đành,
    Khá khen hai họ tài lành hòa hai".
    Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,
    Có đâu én hộc[21] sánh vai một bầy.
    385
    Tình cờ mà gặp nhau đây,
    Trực rày xin nhượng Tiên này làm anh.
    Nay đà nên nghĩa đệ huynh,
    Xin về mai sẽ thượng trình[22] cùng nhau".
    Phút xem trăng đã đứng đầu,
    390
    Vân Tiên vào chốn thơ lầu nghỉ an.
    Võ công trở lại hậu đàn g,
    Đêm khuya dạy dỗ Thể Loan mọi lời:
    "Ngày mai vừa rạng chơn trời,
    Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình[23].
    395
    Gọi là chút nghĩa tống tình[24],
    Phòng sau cho khỏi bất bình cùng nhau".
    Bóng trăng vừa lộ nhành dâu,
    Vân Tiên vào tạ giây lâu xuất hành.
    Ra đi vừa thuở bình minh,
    400
    Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung[25].
    Thưa rằng: "Quân tử phó công[26],
    Xin thương bồ liễu chữ tùng ngây thơ.
    Tấm lòng thương gió nhớ mưa[27],
    Đường xa ngàn dặm xin đưa một lời:
    405
    Ngày nay thánh chúa trị đời,
    Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng[28].
    Quản bao chút phận má hồng,
    Phòng khuya vò võ đợi trông khôn lường.
    Chàng dầu cung quế xuyên dương[29],
    410
    Thiếp xin hai chữ tào khương[30] cho bằng.
    Xin đừng tham đó bỏ đăng[31],
    Chơi lê quên lựu chơi trăng quên đèn".
    Tiên rằng: "Như lửa mới nhen,
    Dễ trong một bếp mà chen mấy lò.
    415
    May duyên rủi nợ dễ phô[32],
    Chớ nghi Ngô Khởi hãy lo Mãi Thần[33]".
    Thể Loan vội vã lui chơn,
    Vân Tiên từ biệt trông chừng Trường-an.

    Xa xa vừa mấy dặm đàng,
    420
    Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn đều đi.
    Trải qua thủy tú sơn kì[34],
    Phỉ lòng cá nhảy gặp thì rồng bay[35].
    Người hay lại gặp kiểng hay,
    Khác nào tiên tử chơi rày Bồng-lai.
    425
    Cùng nhau tả chút tình hoài[36],
    Năm ba chén rượu một vài câu thơ.
    Công danh ai chẳng ước mơ,
    Ba tầng cửa Võ[37] một giờ nhảy qua.
    Cùng nhau bàn bạc gần xa,
    430
    Chữ tài chữ mạng xưa hòa ghét nhau.
    Trực rằng: "Rồng xuống vực sâu,
    Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây[38]".
    Tiên rằng: "Hồng hộc đều bay,
    E khi mỏi cánh lạc bầy về sau[39]".
    435
    Mảng còn trò chuyện với nhau,
    Trông chừng kinh địa[40] đã hầu tới nơi.
    Chênh chênh vừa xế mặt trời,
    Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kì.
    Phút đâu gặp bạn cố tri,
    440
    Đều bày tên họ một khi mới tường.
    Một người ở quận Phan-dương,
    Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.
    Một người ở phủ Dương-xuân,
    Họ Bùi tên Kiệm tác chừng[41] đôi mươi.
    445
    Hai người lại gặp hai người,
    Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.
    Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên,
    Nay đã thấy mặt phỉ nguyền ước ao".
    Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao,
    450
    Làm thơ mới biết bậc nào tài năng".
    Bèn kêu ông quán nói rằng:
    "Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề[42]".
    Quán rằng: "Thịt cá ê hề,
    Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
    455
    Kìa là thuốc lá ướp ngâu[43],
    Trà ve tuyết điểm rượu bầu cúc hương[44].
    Để khi đãi khách giàu sang,
    Đãi người văn vật đãi trang anh hùng".
    Bĩ bàng[45] trà rượu đã xong,
    460
    Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ.
    Kiệm Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
    Phút thơ Tiên Trực một giờ đều xong.
    Kiệm Hâm xem thấy lạ lùng,
    Gẫm nghi Tiên Trực viết tùng cổ thi[46].
    475
    Chẳng hay ông quán cười chi,
    Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
    Tiên rằng: "Ông quán cười ai?"
    Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ[47],
    Cười người Tôn Tẫn không lừa.
    470
    Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên[48]".
    Trực rằng: "Lời nói hữu duyên,
    Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng[49]?"
    Quán rằng: "Kinh sử đã từng,
    Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
    475
    Hỏi thời ta phải nói ra,
    Vì chưng hay ghét cũng là hay thương[50]"
    Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
    Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ nào?"
    Quán rằng: "Ghét việc tầm phào[51],
    480
    Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm.
    Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm[52],
    Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
    Ghét đời U Lệ đa đoan[53],
    Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
    485
    Ghét đời ngũ bá phân vân[54],
    Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
    Ghét đời thúc quí phân băng[55],
    Sớm đầu tối đánh[56] lằng nhằng rối dân.
    Thương là thương đức thánh nhân,
    490
    Khi nơi Tống Vệ lúc Trần lúc Khuông[57].
    Thương thầy Nhan tử[58] dở dang,
    Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
    Thương ông Gia-cát tài lành,
    Gặp cơn Hớn mạt đã đành phôi pha[59].
    495
    Thương thầy Đồng tử[60]cao xa,
    Chí thời có chí ngôi mà không ngôi.
    Thương người Nguyên-lượng[61] ngùi ngùi,
    Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
    Thương ông Hàn Dũ[62] chẳng may,
    500
    Sớm dưng lời biểu tối đày đi xa.
    Thương thầy Liêm Lạc[63] đã ra,
    Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
    Xem qua kinh sử mấy lần,
    Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương".
    505
    Trực rằng: "Chùa rách phật vàng[64],
    Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân[65].
    Thương dân sao chẳng lập thân,
    Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?"
    Quán rằng: "Nghiêu Thuấn[66] thuở xưa,
    510
    Khó ngăn Sào Phủ khôn ngừa Hứa Do[67].
    Di Tề chẳng khứng giúp Châu[68],
    Một mình một núi ai hầu chi ai[69].
    Ông Y ông Phó[70] ôm tài,
    Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu.
    515
    Thái công xưa một cần câu[71],
    Hôm mai sông Vị mặc dầu vui chơi.
    Nghiêm Lăng[72] đã mấy đua bơi,
    Cày mây câu nguyệt tả tơi áo cầu[73].
    Trần Đoàn[74] chẳng chút lo âu,
    520
    Gió trăng một túi công hầu chiêm bao[75].
    Người nay có khác xưa nào?
    Muốn ra ai cấm muốn vào ai ngăn".
    Hâm rằng: "Lão quán nói nhăng,
    Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
    525
    Gối rơm theo phận gối rơm,
    Có đâu ở thấp mà chồm lên cao".
    Quán rằng: "Sấm chớp mưa rào,
    Ếch ngồi đáy giếng thấy bao lăm trời.
    Sông trong cá lội thảnh thơi,
    530
    Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
    Uổng thay đờn gảy tai trâu,
    Nước xao đầu vịt gẫm âu nực cười".
    Tiên rằng: "Ông quán chớ cười,
    Đây đà nhớ lại bảy người Trước-lâm[76].
    535
    Cùng nhau kết bạn đồng tâm,
    Khi cờ khi rượu khi cầm khi thi.
    Công danh phú quí màng chi,
    Sao bằng thong thả mặc khi vui lòng.
    Rừng nhu biển thánh[77] minh mông,
    540
    Dù ai lặn lội cho cùng vậy vay".
    Quán rằng: "Đó biết ý đây,
    Lời kia đã cạn rượu này thưởng cho".
    Kiệm Hâm là đứa so đo,
    Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
    545
    Khoa này Tiên ắt đầu công,
    Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.

    Mảng còn nghĩ việc tới lui,
    Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
    Kẻ thùng người tráp đầy đường,
    550
    Lao xao đoàn bảy chàng ràng lũ ba.
    Vân Tiên vừa bước chơn ra,
    Bỗng đâu xảy gặp tin nhà gởi thơ.
    Khai phong mới tỏ sự cơ[78],
    Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.
    555
    Hai hàng lụy ngọc nhỏ sa,
    Trời nam đất bắc xót xa đoạn trường.
    Anh em ai nấy đều thương,
    Trời ơi há nỡ lấp đường công danh!
    Những lăm công toại danh thành,
    560
    Nào hay từ mẫu u minh sớm dời.
    Gắng vào trong quán an nơi,
    Tớ thầy than thở liệu lời qui lai[79].
    Tiểu đồng than vắn than dài,
    Trời sao trời nỡ phụ tài người ngay!
    565
    Trực rằng: "Đã đến nỗi này,
    Tiểu đồng bậu hãy làm khuây giải phiền.
    Sớm hôm thang thuốc giữ gìn,
    Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay,
    Bây giờ kíp rước thợ may,
    570
    Sắm đồ tang phục nội ngày cho xong.
    Dây rơm mũ bạc áo thùng,
    Cứ theo trong sách Văn công[80] mà làm".
    Tiên rằng: "Con bắc mẹ nam,
    Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì!
    575
    Trong mình không cánh không vi,
    Lấy chi lướt dặm lấy chi bớt đàng.
    Vào tràng phút lại gặp tang,
    Ngẩn ngơ kẻ ở lỡ làng người đi.
    Việc trong trời đất biết chi,
    580
    Sao dời vật đổi còn gì mà trông!"
    Hai hàng lụy ngọc ròng ròng,
    Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
    Cánh buồm bao quản gió xiêu,
    Ngàn trùng biển rộng chín chìu ruột đau!
    585
    Thương thay chín chữ cù lao[81].
    Ba năm nhũ bộ[82] biết bao nhiêu tình.
    Quán rằng: "Trời đất thình lình,
    Gió mưa đâu phút gãy nhành thiên hương[83].
    Ai ai trông thấy cũng thương,
    590
    Lỡ bề báo hiếu lỡ đường lập thân.
    Dầu cho chước quỷ mưu thần,
    Phong trần ai cũng phong trần như ai.
    Éo le ai khéo đặt bày,
    Chữ tài liền với chữ tai một vần.
    595
    Đường đi hơn tháng chẳng gần,
    Khi qua khi lại mấy lần xông pha".
    Xảy đâu bạc tác[84] vừa ra,
    Trực cùng Hâm Kiệm xúm mà đưa Tiên.
    Hâm rằng: "Anh chớ ưu phiền,
    600
    Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau.
    Thấy nhau khó nổi giúp nhau,
    Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương".
    Vân Tiên cất gánh lên đường,
    Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa.
    605
    Đi vừa một dặm xa xa,
    Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng.
    Quán rằng: "Thương đấng anh hùng,
    Đưa ba hườn thuốc để phòng hộ thân.
    Chẳng may gặp lúc gian truân,
    610
    Đương khi quá đói thuốc thần cũng no".
    Tiên rằng: "Cúi đội ơn cho,
    Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần[85]".
    Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng,
    Thấy vầy nên mới tị trần[86] đến đây.
    615
    Non xanh nước bích vui vầy,
    Khi đêm rượu cúc khi ngày trà lan.
    Dấn thân vào chốn an nhàn,
    Thoát vòng danh lợi lánh đàng thị phi".
    Nói rồi quày quã[87] ra đi,
    620
    Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng.
    Trông chừng dặm cũ thẳng xông,
    Nghĩ đòi cơn lại não nồng đòi cơn:
    "Nên hư chút phận chi sờn,
    Nhớ câu dưỡng dục lo ơn sanh thành[88].
    625
    Mang câu bất hiếu đã đành,
    Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.
    Trọn đời một tấm lòng son,
    Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
    Nào hay nước chảy hoa trôi,
    630
    Nào hay phận bạc như vôi thế này.
    Một mình ngơ ngẩn đường mây,
    Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.
    Đến nay lâm việc mới tường,
    Hèn chi thầy dạy khoa trường còn xa".
    635
    Tiểu đồng thấy vậy thưa qua:
    "Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu.
    Thầy sao chẳng ngớt cơn sầu,
    Mình đi đã mỏi dòng châu thêm nhuần.
    E khi mang bịnh nửa chừng,
    640
    Trong non khó liệu giữa rừng khôn toan".
    Tiên rằng: "Khô héo lá gan,
    Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu!
    Mịt mù nào thấy chi đâu[89],
    Chơn đi đã mỏi mình đau như dần.
    645
    Có thân phải khổ với thân,
    Thân ôi thân biết mấy lần chẳng may!"
    Đồng rằng: "Trời đất có hay,
    Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau.
    Một mình nhắm trước nhắm sau,
    650
    Xanh xanh bờ cõi dào dào cỏ cây.
    Vốn không làng xóm chi đây,
    Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang".

    Vừa may gặp khách qua đàng,
    Người người đều chỉ vào làng Đồng-văn.
    655
    Dắt nhau khi ấy hỏi phăn[90],
    Gặp thầy làm thuốc tên rằng Triệu Ngang.
    Ngang rằng: "Khá tạm nghỉ an,
    Rạng ngày coi mạch đầu thang[91] mới đành.
    Gặp ta bịnh ấy ắt lành,
    660
    Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?"
    Đồng rằng: "Tiền bạc chẳng nhiều,
    Xin thầy nghĩ lượng đặng điều thuốc thang.
    May mà bịnh ấy đặng an,
    Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy".
    665
    Ngang rằng: "Ta ở chốn nầy,
    Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.
    Sách chi cũng đủ trong nhà,
    Nội kinh đã sẵn ngoại khoa thêm mầu.
    Trước xem Y học làm đầu,
    670
    Sau coi Thọ thế thứ cầu Đông y[92].
    Gẫm trong Ngân hải tinh vi[93],
    Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang[94].
    Gẫm trong Tập nghiệm lương phang[95],
    Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi xuân[96].
    675
    Vị chi sẵn đặt quân thần[97],
    Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan[98].
    Mạch thời đọc phú Lư-san[99],
    Đặt vào tay bịnh biết đàng tử sinh.
    Lục quân Tứ vật thang danh[100].
    680
    Thập toàn Bát vị[101] sẵn dành nội thương.
    Lại thông Bát trận tân phương[102],
    Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài[103]".
    Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài,
    Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi".
    685
    Ngang rằng: "Lục bộ[104] đều suy,
    Bộ quan bên tả mạch đi phù hồng[105].
    Cứ trong Kinh lạc[106] mà thông,
    Mạng môn tướng hỏa đã xông lên đầu[107].
    Tam tiêu tích nhiệt đã lâu,
    690
    Muốn cho giáng hỏa phải đầu tư âm[108].
    Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm[109],
    Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình[110].
    Ngoài thời cho điểm vạn linh[111],
    Trong thời cho uống hoàn tình[112] mới xong.
    695
    Khá trao hai lượng bạc ròng,
    Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.
    Chẳng qua làm phúc cho chàng,
    Nào ai đòi cuộc đòi đàn[113] chi ai".
    Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài,
    700
    Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.
    Mười ngày chẳng bớt chút nào,
    Thêm đau trong dạ như bào như xoi.
    Đồng rằng: "Vào đó thầy coi,
    Bịnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm".
    705
    Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm,
    Tiên sư[114] mách bảo một điềm chiêm bao.
    Quỉ thần người ở trên cao,
    E khi đường sá lẽ nào biết đâu[115]?
    Tiểu đồng người khá qua cầu[116],
    710
    Cùng ông thầy bói ở đầu Tây-viên".
    Tiểu đồng nghe nói đi liền,
    Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
    Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi,
    Bói hay đã dậy người coi đã đầy.
    715
    Ta đây nào phải các thầy,
    Bá vơ bá vất nói nhây không nhằm.
    Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm,
    Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào[117].
    Huỳnh kim Dã hạc sách cao[118],
    720
    Lục nhâm Lục giáp[119] chỗ nào chẳng hay.
    Can chi[120] đều ở trong tay,
    Đã thông trời đất lại hay việc người.
    Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
    Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành.
    725
    Thầy bèn gieo đặng quẻ linh,
    Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi[121]?
    Ứng vào rùa với cỏ thi[122],
    Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường".
    Đồng rằng: "Người ở đông phương,
    730
    Nhơn đi buôn bán giữa đường chẳng an.
    Con nhà họ Lục là chàng,
    Tuổi vừa hai tám còn đàng thơ ngây"
    Bói rằng: "Đinh mão năm may,
    Hèn chi Giáp tí ngày rày chẳng an.
    735
    Mạng kim lại ở cung càn,
    Tuổi này là tuổi giàu sang trong đời.
    Cầu tài quẻ ấy xa vời,
    Khen người khéo nói những lời trêu ta".
    Cầm tiền gieo xuống xem qua,
    740
    Một giao hai sách lại ba hào trùng[123].
    Trang thành là quẻ lục xung[124],
    Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.
    Hóa ra làm quẻ du hồn[125],
    Lại thêm thế động khắc dồn hào quan[126].
    745
    Cứ trong quẻ ấy mà bàn:
    "Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình.
    Xui nên phát bịnh thình lình,
    Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng.
    Muốn cho bịnh ấy đặng yên,
    750
    Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày".
    Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây?"
    Bói rằng: "Cũng ở chốn này bước ra,
    Phép hay tiếng dậy đồn xa,
    Tên là Đạo sĩ ở Trà-hương thôn".
    755
    Tiểu đồng mới chạy bôn bôn,
    Hỏi thăm Đạo sĩ hương thôn chốn nào.
    Chợ đông buôn bán lao xao,
    Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa.
    Đồng đi một buổi tới nhà,
    760
    Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay!
    Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây,
    Trừ ma ếm quỷ phép thầy rất hay".
    Pháp rằng: "Ấn[127] đã cao tay,
    Lại thêm phù chú[128] xưa nay ai bì.
    765
    Qua sông cá thấy xếp vi,
    Vào rừng cọp thấy phải quì lạy đưa.
    Pháp hay hú gió kêu mưa,
    Sai chim khiến vượn duổi lừa vật trâu.
    Pháp hay miệng niệm một câu,
    770
    Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh[129].
    Pháp hay sái đậu thành binh[130],
    Bện hình làm tướng phá thành Diêm Vương.
    Pháp hay đạo hỏa phó thang[131],
    Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang[132].
    775
    Có ba lượng bạc trao sang,
    Đặng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho".
    Đồng rằng: "Tôi chẳng so đo,
    Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.
    Bấy lâu thầy tớ theo nhau,
    780
    Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng.
    Chữa chuyên bệnh ấy đặng an,
    Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy".
    Pháp rằng: "Về lấy sang đây,
    Cho thầy toan liệu lập bày đàn ra".
    785
    Đồng rằng: "Tôi đã lo xa,
    Cực vì người bịnh ở nhà chẳng yên.
    Xin thầy gắng sức chịu phiền,
    Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào".
    Pháp rằng: "Có khó chi sao,
    790
    Người nằm ta chữa rối trao phù về".
    Đồng rằng: "Tôi vốn thằng hề[133],
    Bịnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?"
    Pháp rằng: "Ta biết kinh quyền,
    Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài".
    795
    Tiểu đồng nghe lọt vào tai,
    Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên.
    Pháp bèn cất tiếng hét lên:
    "Mời ông Bàn Cổ[134] tọa tiền chứng miêng.
    Thỉnh ông đại thánh Tề thiên[135],
    800
    Thỉnh bà Võ hậu[136] đều liền đến đây.
    Thỉnh ông Nguyên soái chinh tây[137],
    Cùng bà Vương mẫu[138] sum vầy một khi.
    Thỉnh ông Phật tổ A-di,
    Thập phương chư Phật phù trì giúp công.
    805
    Lại mời công chúa Ngũ-long[139],
    Bình nam ngũ hổ hội đồng an dinh[140].
    Thỉnh trong thiên tướng thiên binh,
    Cùng là tam phủ Động-đình Xích-lân[141].
    Thỉnh trong khắp hết quỉ thần,
    810
    Cùng đều xuống chốn dương trần vui chơi.
    Cho người ba đạo phù trời,
    Uống vào khỏe mạnh như lời chẳng sai".
    Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời,
    Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang.
    815
    Vào nhà thưa với thầy Ngang:
    "Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào?"
    Ngang rằng: "Còn bạc trong bao,
    Thời người khá lấy mà trao cho thầy".
    Đồng rằng: "Tôi hãy ở đây,
    820
    Bịnh kia dầu khá mình này bán đi".
    Triệu Ngang biết chẳng còn chi,
    Kiếm đường tráo chác[142] đuổi đi khỏi vòng:
    "Ở đây làng xóm khó lòng,
    E khi mưa nắng ai cùng đỡ che".
    825
    Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe,
    Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm.
    Những lo chạy hết một trăm,
    Mình ve khô xép ruột tằm héo don.
    Thương thay tiền mất tật còn,
    830
    Bơ vơ đất khách thon von[143] thế này.
    Thôi thôi gắng gượng khỏi đây,
    Tôi đi khuyên giáo[144] đỡ ngày gạo rau".
    Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,
    Tiểu đồng dìu dắt gần cầu Lá-buôn[145].
    835
    Đương khi mưa gió luông tuồng,
    Nguời buồn lại gặp kiểng buồn khá thương!
    Xiết bao ăn tuyết nằm sương,
    Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao!
    Dầu cho tài trí bực nào,
    840
    Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ.
    Tiên rằng: "Đi đã ngất ngơ,
    Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chơn".
    Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng,
    Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi".

    845
    Non tây vừa khuất mặt trời,
    Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại-đề.
    Trường thi một lũ vừa về,
    Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm:
    "Anh về nay đã hai rằm[146],
    850
    Cớ sao mang bịnh còn nằm nơi đây".
    Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may,
    Chẳng hay chư hữu khoa này thế nao?"
    Hâm rằng: "Tử Trực đậu cao,
    Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân.
    855
    Một mình về trước viếng thân,
    Hai người trở việc còn lần đi sau.
    Đương cơn hoạn nạn gặp nhau,
    Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
    Từ đây tới quận Đông-thành,
    860
    Trong mình có bịnh bộ hành sao xong.
    Lần hồi đến chốn giang trung,
    Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau".
    Tiên rằng: "Tình trước ngãi sau,
    Có thương xin khá giúp nhau phen này".
    865
    Hâm rằng: "Anh tạm ngồi đây,
    Tiểu đồng người tới trước này cùng ta.
    Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa,
    Phòng khi sông biển phong ba bất kì".
    Tiểu đồng vội vã ra đi,
    870
    Muốn cho đặng việc quản gì lao đao.
    Trịnh Hâm trong dạ gươm dao,
    Bắt người đồng tử trói vào gốc cây:
    "Trước cho hùm cọp ăn mày,
    Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong".
    875
    Vân Tiên ngồi những đợi trông,
    Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn.
    Vân Tiên than khóc nằm lăn:
    "Có đâu địa hãm thiên băng thình lình[147]!
    Bấy lâu đất khách lưu linh,
    880
    Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau.
    Nay đà hai ngả phân nhau.
    Còn ai nưng đỡ trước sau cho mình!".
    Hâm rằng: "Anh chớ ngại tình,
    Tôi xin đưa tới Đông-thành thời thôi".
    885
    Vân Tiên chi xiết lụy rơi,
    Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề.
    Tiểu đồng bị trói khôn về,
    Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang:
    "Phận mình đã mắc tai nàn,
    890
    Cám thương họ Lục suối vàng bơ vơ.
    Xiết bao những nỗi dật dờ,
    Đò giang nào biết bụi bờ nào hay.
    Vân Tiên hồn có linh rày,
    Đem tôi theo với đỡ tay chơn cùng!".
    895
    Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng,
    Đêm khuya ngồi dựa cội tòng ngủ quên.
    Sơn quân[148] ghé lại một bên,
    Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng.
    Tiểu đồng thức dậy mơ màng,
    900
    Xem qua dấu đất ràng ràng[149] mới hay.
    Nửa mừng nửa lại sợ thay,
    Chạy ra chốn cũ kiếm thầy Vân Tiên.
    Mặt trời vừa khỏi mái hiên,
    Người buôn kẻ bán chợ phiên nhộn nhàng.
    905
    Hỏi thăm bà quán giữa đàng:
    "Bữa qua có thấy người tang[150] chăng là?"
    Quán rằng: "Thôi đã ra ma,
    Khi mai làng xóm người đà đi chôn".
    Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,
    910
    Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng".
    Tay lau nước mắt rưng rưng,
    Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao.
    Tiểu đồng vội vã bước vào,
    Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?"
    915
    Đồng rằng: "Tớ tới kiếm thầy,
    Chẳng hay người thác mả này là ai?"
    Người rằng: "Một gã con trai,
    Ở đâu không biết lạc loài đến đây.
    Chơn tay mặt mũi tốt thay,
    920
    Đau chi nên nỗi nước này khá thương".
    Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han,
    Nằm lăn bên mả khóc than một hồi.
    Người đều xem thấy thương ôi!
    Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.
    925
    Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,
    Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.
    Một mình ở đất Đại-đề,
    Sớm đi khuyên giáo tối về quải đơm[151].
    Dốc lòng trả nợ áo cơm,
    930
    Sống mà trọn nghĩa thác thơm danh hiền.

    Thứ này đến thứ Vân Tiên,
    Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than.
    Trong khăn lụy nhỏ chứa chan,
    Cám thương phận tớ mắc nàn khi không.
    935
    Lênh đênh thuyền giữa biển đông,
    Riêng than một tấm cô bồng[152] ngẩn ngơ.
    Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
    Nghinh ngang sao mọc[153] mịt mờ sương bay.
    Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
    940
    Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời[154].
    Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
    Cho người thức dậy lấy lời phôi pha[155].
    Trong thuyền ai nấy kêu la,
    Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.
    945
    Vân Tiên mình lụy giữa dòng,
    Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày.
    Vừa may trời đã sáng ngày,
    Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
    Hối con vầy lửa một giờ[156].
    950
    Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày.
    Vân Tiên vừa ấm chơn tay,
    Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi.
    Ngỡ thân mình phải nước trôi,
    Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian.
    955
    Ngư ông khi ấy hỏi han,
    Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.
    Ngư rằng: "Người ở cùng ta.
    Hôm mai hẩm hút[157] với già cho vui".
    Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi,
    960
    Thân tôi như thể trái mùi[158] trên cây.
    May đà trôi nổi đến đây,
    Không chi báo đáp mình này trơ trơ".
    Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ,
    Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?
    965
    Nước trong rửa ruột sạch trơn,
    Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
    Rày doi[159] mai vịnh vui vầy,
    Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng.
    Một mình thong thả làm ăn,
    970
    Khỏe quơ chài kéo mệt quăng câu dầm.
    Nghêu ngao nay chích mai đầm[160],
    Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
    Kinh luân đã sẵn trong tay,
    Thung dung dưới thế vui say trong trời.
    975
    Thuyền nan một chiếc ở đời,
    Tắm mưa chải gió trong vời Hàn-giang."
    Tiên rằng: "Vậy cũng một làng,
    Võ công người ở gần đàng đây chăng?"
    Ngư rằng: "Nhà ở cũng gần,
    980
    Khói ba khúc vịnh thì lần đến nơi."
    Tiên rằng: "Xưa đã gá lời,
    Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương.
    Vợ chồng là đạo tào khương,
    Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.
    985
    Trăm năm muốn trọn ân tình,
    Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau.
    Chút nhờ cứu tử[161] ơn sâu,
    Xin đem tới đó trước sau cho tròn."
    Ngư rằng: "Làm đạo rể con,
    990
    Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim.
    Sợ bay mà mỏi sức chim,
    Bơ vơ cảnh lạ khôn tìm cây xưa.
    E khi chậm bước tới trưa,
    Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm.
    995
    Mấy ai ở đặng hảo tâm,
    Nắng toan giúp nón mưa dầm giúp tơi.
    Mấy ai hay nghĩ việc đời,
    Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giàu.
    Đã ba thứ tóc trên đầu,
    1000
    Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời".

    Vân Tiên thưa đã hết lời,
    Ngư ông chẳng đã[162] tách vời đưa sang.
    Dắt Tiên vào chốn hậu đàng,
    Võ công xem thấy lòng càng hổ ngươi.
    1005
    Chẳng qua sợ thế gian cười,
    Một lời gượng gạo: "Chào người ngày xưa!
    Ngư ông đã có công đưa,
    Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn".
    Ngư rằng: "Tôi chẳng lòng sờn,
    1010
    Xin tròn nhơn ngãi còn hơn bạc vàng.
    Nhớ xưa trong núi Lư-san,
    Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên[163].
    Tới sau đình trưởng đỗ thuyền,
    Giúp người Hạng Võ qua miền Ô-giang[164].
    1015
    Xưa còn thương kẻ mắc nàn,
    Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi nhơn".
    Một lời gắng giúp keo sơn,
    Ngư ông từ giã lui chơn xuống thuyền.
    Võ công khôn ngớt lòng phiền,
    1020
    Ân tình thế lợi khó tuyền đặng vay.
    Dạy Tiên: "Ngươi hãy ngồi đây,
    Cho ta trở lại sau này liệu toan".
    Công rằng: "Hỡi mụ Quỳnh Trang,
    Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào?
    1025
    Mặc con toan liệu làm sao,
    Vốn không ép vợ lẽ nào ép con".
    Loan rằng: "Gót đỏ như son,
    Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn?
    Ai cho sen muống một bồn,
    1030
    Ai từng chanh khế sánh phồn[165] lựu lê?
    Thà không trót chịu một bề,
    Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu.
    Dốc lòng chờ đợi danh nhu,
    Rể đâu có rể đui mù thể ni.
    1035
    Đã nghe người nói hội này,
    Rằng Vương Tử Trực chiếm rày thủ khoa.
    Ta dầu muốn kết sui gia,
    Họ Vương họ Võ một nhà mới xinh".
    Công rằng: "Muốn trọn việc mình,
    1040
    Phải toan một chước dứt tình mới xong.
    Nghe rằng: trong núi Thương-tòng,
    Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra.
    Đông-thành ngàn dặm còn xa,
    Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu".
    1045
    Phút vừa trăng đã đứng đầu,
    Vân Tiên ngồi trước nhà cầu[166] thở than.
    Võ công ra trước dỗ chàng:
    "Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông-thành".
    Ra đi đương lúc tam canh,
    1050
    Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên.
    Bỏ rồi rón rén bước liền,
    Xuống gay[167] chèo quế dời thuyền tách xa.
    Tiên rằng: "Các chú đưa ta,
    Xin đưa cho tới quê nhà sẽ hay.
    1055
    Ghi lòng dốc trọn thảo ngay,
    Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên".
    Lặng nghe vẳng tiếng hai bên,
    Trong hang tăm tối đá trên chập chồng.
    Vân Tiên khi ấy hãi hùng,
    1060
    Nghĩ ra mới biết Võ công hại mình.
    Nực cười con tạo trớ trinh[168],
    Chữ duyên tráo chác chữ tình lãng xao.
    Ngẫm mình tai nạn biết bao,
    Mới lên khỏi biển lại vào trong hang.
    1065
    Dây sầu ai khéo vương mang,
    Tránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheo[169].
    Trong hang sau trước quạnh hiu,
    Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi.
    Oan gia nợ đã khéo gây,
    1070
    Ôi thôi thân thể còn gì mà toan.
    Đã đành xa cõi nhơn gian,
    Dựa mình vào chốn thạch bàn nằm co.
    Đêm khuya ngọn gió thổi lò,
    Sương sa lác đác mưa tro lạnh lùng[170].
    1075
    Năm ngày chịu đói khát ròng,
    Nhờ ba huờn thuốc đỡ lòng hôm mai.
    Du thần[171] xem thấy ai hoài,
    Xét trong mình gã có bài phù tiên.
    Mới hay là Lục Vân Tiên.
    1080
    Cùng nhau dìu dắt đều liền đem ra.
    Khỏi hang một dặm vừa xa,
    Đến nơi đại lộ trời đà hừng đông.
    Du thần trở lại sơn trung,
    Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê man.
    1085
    Lão tiều cơm gói sẵn sàng,
    Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng.
    Tới đường đại lộ là chừng,
    Xảy nghe có tiếng trong rừng thở than.
    Hay là yêu quái tà gian,
    1090
    Rung cây nhát lão làm đuờng hại nhân.
    Lão tiều liền bước lại gần,
    Thiệt là một gã văn nhân mắc nàn.
    Chi bằng lên tiếng hỏi han:
    "Nhơn sao mắc việc tai nàn thế nay?"
    1095
    Vân Tiên nghe tiếng mừng thay,
    Vội vàng gượng dậy trình bày trước sau.
    Lão tiều nghe nói giờ lâu,
    Gẫm trong thế sự gật đầu thở than:
    "Ít người trong tuyết đưa than[172],
    1100
    Khó ngồi giữa chợ ai màng đoái thương".
    Vân Tiên nghe nói mới tường,
    Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay:
    "Ngửa trông lượng cả cao dày,
    Cứu trong một buổi ơn tày tái sanh.
    1105
    Mai sau về tới Đông-thành,
    Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi".
    Lão tiều mới nói: "Thôi thôi,
    Làm ơn mà lại trông người sao hay?
    Già hay thương kẻ thảo ngay,
    1110
    Này thôi để lão dắt ngay về nhà".
    Tiên rằng. "Trong dạ xót xa,
    Nay đà sáu bữa không hòa mùi chi[173].
    Lại thêm rũ liệt tứ chi,
    Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi".
    1115
    Lão tiều vội ngửa áo tơi,
    Mở cơm trong gói miệng mời Vân Tiên:
    "Gắng mà ăn uống cho yên,
    Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà".

    Khỏi rừng ra tới ngã ba,
    1120
    May đâu gặp một chàng là Hớn Minh.
    Lão tiều lật đật bôn trình[174],
    Hớn Minh theo hỏi sự tình một khi.
    Vân Tiên nghe tiếng cố tri,
    Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình.
    1125
    Minh rằng: "Dám hỏi nhơn huynh[175],
    Cớ sao nên nỗi thân hình thể ni?"
    Tiên ràng: "Chẳng xiết nói chi,
    Thân này nào có khác gì cây trôi.
    Linh đinh gió dập sóng dồi,
    1130
    Rày đây mai đó khôn rồi gian nan."
    Minh rằng: "Đây khó hỏi han,
    Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau."
    Tiều rằng: "Chẳng dám ngồi lâu.
    Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên."
    1135
    Hớn Minh quỳ gối lạy liền:
    "Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành.
    Này hai lượng bạc trong mình,
    Tôi xin báo đáp chút tình cho ông".
    Tiều rằng: "Vốn lão tình không,
    1140
    Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.
    Tấm lòng chẳng muốn của ai,
    Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng.
    Kìa non nọ nước thong dong,
    Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.
    1145
    Công hầu phú quý mặc ai,
    Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày".
    Vân Tiên nghe biết người ngay,
    Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn.
    Lão tiều trở lại lâm sơn,
    1150
    Tiên Minh hai gã đều hoàn am mây[176].
    Tiên rằng: "Đã gặp khoa này,
    Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì?"
    Minh rằng: "Xưa dốc xuống thi,
    Gặp nơi miếu võ đều đi một lần.
    1155
    Anh thời về trước tỉnh thân[177].
    Tôi thời mang gói sau lần ra kinh.
    Đi vừa tới huyện Loan-minh,
    Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng.
    Giàu sang ỷ thế nghinh ngang,
    1160
    Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì[178].
    Tôi bèn nổi giận một khi,
    Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò.
    Mình làm nỡ để ai lo,
    Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng.
    1165
    Án đày ra quận Sóc-phang,
    Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây.
    Vừa may mà gặp chùa này,
    Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương".
    Vân Tiên nghe nói thảm thương,
    1170
    Lại bày một khúc tai ương phận mình.
    Minh nghe Tiên nói động tình,
    Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng.
    Tiên rằng: "Thương cội xuân huyên[179],
    Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.
    1175
    Trông con như hạn trông dào,
    Mình này trôi nổi phương nào biết đâu.
    Vầng mây giăng bạc trên đầu,
    Ba năm chưa trọn một câu sanh thành[180].
    Hữu tam bất hiếu đã đành[181],
    1180
    Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan.
    Tưởng thôi như cắt ruột gan,
    Quặn đau chín khúc chứa chan mấy lần".
    Minh rằng: "Người ở trong trần,
    Có khi phú quí có lần gian nan.
    1185
    Thấp cao vàng biết tuổi vàng,
    Gặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuê.
    Thôi thôi anh chớ vội về,
    Ở đây nương náu toan bề thuốc thang.
    Bao giờ hết lúc tai nàn,
    1190
    Đem nhau ta sẽ lập đàng công danh.
    Cam La[182] sớm gặp cũng xinh,
    Muộn mà Khương tử[183] cũng vinh một đời.
    Nên hư có số ở trời,
    Bôn chôn[184] sao khỏi đổi dời sao xong".
    1195
    Vân Tiên khi ấy an lòng,
    Ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh.

    Võ công làm việc trớ trinh[185],
    Dứt tình họ Lục mến tình họ Vương.
    Kể từ định chước hại chàng,
    1200
    Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui.
    Ngày ngày trang điểm phấn dồi,
    Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê.
    Xảy đâu Tử Trực vừa về,
    Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên.
    1205
    Công rằng: "Chớ hỏi thêm phiền,
    Chàng đà lâm bịnh huỳnh tuyền[186] xa chơi.
    Thương chàng phận bạc trong đời,
    Cũng vì Nguyệt lão xe lơi mối hồng".
    Nghe qua Tử Trực chạnh lòng,
    1210
    Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.
    Than rằng: "Chạnh nhớ linh xưa,
    Nghĩa đà kết nghĩa tình chưa phỉ tình.
    Trời sao nỡ phụ tài lành,
    Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn.
    1215
    Cùng nhau chưa đặng vuông tròn.
    Người đà sớm thác ta còn làm chi?
    Trong đời mấy bực cố tri,
    Mấy trang đồng đạo mấy người đồng tâm?".
    Công rằng: "Ta cũng thương thầm,
    1220
    Tủi duyên con trẻ sắt cầm[187] dở dang.
    Thôi thôi khuyên chớ thở than,
    Đây đà tính đặng một đàng rất hay.
    Tới đây thời ở lại đây,
    Cùng con gái lão sum vầy thất gia[188].
    1225
    Phòng khi hôm sớm vào ra,
    Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên".
    Trực rằng: "Ngòi bút dĩa nghiên[189],
    Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.
    Vợ Tiên là Trực chị dâu,
    1230
    Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.
    Chẳng hay người học sách chi,
    Nói sao những tiếng dị kì khó nghe?
    Hay là học thói nước Tề,
    Vợ người tử Củ đưa về Hoàn công[190].
    1235
    Hay là học thói Đường cung[191],
    Vợ người Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân?
    Người nay nào phải nhà Tần,
    Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm[192].
    Nói sao chẳng biết hổ thầm,
    1240
    Người ta há phải là cầm thú sao?"
    Võ công hổ thẹn xiết bao,
    Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua.
    Thể Loan trong cửa bước ra,
    Miệng chào: "Thầy cử tân khoa mới về.
    1245
    Thiếp đà chẳng trọn lời thề,
    Lỡ bề sửa trắp lỡ bề nưng khăn.
    Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng[193],
    Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy.
    Chẳng ưng thời cũng làm khuây,
    1250
    Nỡ buông lời nói chẳng vì chẳng kiêng?".
    Trực rằng: "Ái Lữ Phụng-tiên,
    Phòng toan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi[194]?
    Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi,
    Lòng nào mà nỡ buông lời nguyệt hoa?
    1255
    Hổ hang vậy cũng người ta,
    So loài cầm thú vậy mà khác chi?
    Vân Tiên anh hỡi cố tri,
    Suối vàng có biết sự ni chăng là?"
    Tay lau nước mắt trở ra,
    1260
    Về nhà sắm sửa tìm qua Đông-thành.
    Võ công hổ thẹn trong mình,
    Năm ngày nhuốm bịnh thất tình chết oan[195].
    Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang,
    Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà.






    [h=4]Chú thích cuối trang[sửa][/h]
    • Thứ đầu: lớp đầu, phần đầu
    • Bình thủy tương phùng: bèo nước gặp nhau, tình cờ mà gặp
    • Bằng hữu chi giao: tình bạn bè
    • Thanh khâm: áo cổ xanh là áo của học trò thời xưa thường bận. Nợ thanh khâm, cũng như nói nợ bút nghiên
    • Hai bảy: mười bốn
    • Hồ Việt nhứt gia: người Hồ (phía Bắc) người Việt (phía Nam) chung một nhà
    • Dồi: trau dồi son phấn
    • Duyên cầm sắt: duyên vợ chồng hòa thuận êm ấm (như tiếng đàn sắt, đàn cầm hòa nhau)
    • Kẻ ở nước Tấn (phía Đông) người ở nước Tần (phía Tây), chỉ sự xa cách mỗi người một ngả
    • Tức giai ngẫu (một đôi tốt đẹp), chỉ vợ chồng tốt đôi
    • Dâu nam giản: người con dâu trung hậu, đảm đang, lấy ý từ Kinh Thi: "Hái rau tần từ bờ suối phía Nam", là thơ khen người vợ trẻ đảm đang lo việc nội trợ. Trai đông sàng: chỉ chàng rể tốt
    • Ngãi tế: con rể
    • Đại khoa: là thi đỗ. Tiểu khoa: là cưới vợ
    • Tót đời: hơn đời, hơn hết mọi người
    • Trước: là trúc. Đây ý nói hai người kết bạn thân với nhau là rất tốt, như trúc, mai
    • Bình thủy hữu duyên: bèo nước có duyên
    • Giao kề: sánh ngồi gần kề bên nhau
    • : chỉ người tài giỏi khác thường
    • Bạch Hàm, Như Hoành: hai nhân vật nổi tiếng thơ văn, tài hoa trong truyện Bình Sơn Lãnh Yến
    • Lương đống: rường cột, chỉ người có tài đức lớn giúp nổi việc nước
    • Én hộc: ý nói chim én không sánh được với chim hộc (Trực nói nhún)
    • Thượng trình: lên đường
    • Tiểu nhi: con trẻ, tiếng cha mẹ gọi con. Lê đình: sân có trồng lê
    • Tống tình: tiễn nhau trong tình cảm
    • Liễm dung: nghiêm chỉnh dáng điệu để tỏ ý tôn trọng
    • Phó công: đi thi lập công danh
    • Nôn nao không yên, như mưa, như gió luôn xao động
    • Chim phượng thiêng đậu đúng cây ngô đồng, ví người hiền tài được ở vị trí xứng đáng
    • Cung quế xuyên dương: ví việc thi đỗ, công thành danh đạt
    • Tào khương: tấm cám, vợ chồng lấy nhau từ lúc còn nghèo hèn
    • Nói lòng dạ đổi thay, tham mới bỏ cũ. Đó và đăng là hai dụng cụ đan bằng tre để bắt cá
    • May thì gặp duyên, rủi thì gặp nợ, lẽ đó bày ra rành rành
    • Để được làm quan to, Ngô Khởi đã giết vợ. Chu Mãi Thần vì nghèo nên vợ bỏ đi lấy chồng khác. Sau Mãi Thần làm đến chức thái thú
    • Sông đẹp núi lạ, nói cảnh đẹp
    • Gặp thời, thỏa lòng đua sức đua tài
    • Tình hoài: tâm tình cảm xúc ở trong lòng
    • Cửa Võ: mỏm núi đá hình cái cửa có sóng dữ, tục truyền hàng năm vào tiết tháng ba, cá chép khắp nơi kéo về vượt Vũ môn, con nào nhảy qua được thì hóa rồng. Nhân đó, cửa Vũ chỉ trường thi, và thi đỗ gọi là vượt qua Vũ môn
    • Trực nói phen này mặc sức vẫy vùng
    • Vân Tiên e ngại lần này không theo kịp chúng bạn
    • Kinh địa: đất kinh đô
    • Tác chừng: tuổi tác chừng vào khoảng
    • Cho bề: cho nhiều, như nói bề bộn, bề bề
    • Ướp ngâu: ướp hoa ngâu vàng rất thơm
    • Trà ve: chè đựng trong chai, lọ nhỏ. Điểm tuyết: lấm tấm màu tuyết, nói trà ngon Cúc hương: hương hoa cúc
    • Bĩ bàng: đầy đủ, tươm tất
    • Viết tùng cổ thi: viết dựa dẫm theo thơ cũ có sẵn
    • Bất tài đồ thơ: không có tài năng về sách vở, tức là nói người học tồi, sức học kém cỏi
    • Tôn Tẫn là bạn học binh pháp với Bàng Quyên, sau bị Quyên hại, chặt hai chân, để ghìm tài. Thầy học Quỷ Cốc Tử đã bảo trước cho Tôn Tẫn nhưng ông không đề phòng (không lừa, không lực chọn)
    • Tuyền: trọn đủ cả. Ý cả câu: ông có thông thuộc cả kinh sử hay không?
    • Hay ghét hay thương: biết ghét và ghét thương
    • Tầm phào: vu vơ, hão huyền
    • Kiệt Trụ: vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương, cả hai đều bạo ngược, vô đạo, hoang dâm
    • U Lệ: U Vương và Lệ Vương thời nhà Chu làm nhiều việc bạo ngược, vô đạo. Đa đoan: lắm chuyện rắc rối
    • Ngũ bá: cuối đời nhà Chu, năm vua chư hầu kế tiếp nhau nổi lên làm chủ một thời, nhân dân phải lầm than điêu đứng. Phân vân: lộn xộn bối rối như cảnh loạn
    • Đời thúc quí: đời suy loạn sắp bị diệt vong. Phân băng: chia lìa
    • Sơm đầu tối đánh: sớm đầu hàng, tối lại đánh
    • Thánh nhân: chỉ Khổng Tử, không được dùng, từng đi khắp các nước Tống, Vệ, Trần, Khuông tìm cách hành đạo của mình mà không được. Về sau ông trở về nước Lỗ mở trường dạy học
    • Nhan tử: tức Nhan Uyên, học trò giỏi của Khổng Tử
    • Gia Cát: tức Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, giúp Lưu Bị đánh bại Tào Tháo, dựng nước ở đất Thục, hết sức lo việc trung hưng nhà Hán, nhưng không thành
    • Đổng Tử: tức Đổng Trọng Thư, danh nho đời Hán
    • Nguyên Lượng: tức Đào Tiềm đời Tấn, tính tình cao thượng, không cầu danh lợi, giỏi thơ văn
    • Hàn Dũ: đời Đường, tinh thông lục kinh, bách gia chư tử, đỗ tiến sĩ làm quan ở triều. Vua mê tín đạo Phật, rước xương Phật vào cung, ông dâng sớ cực lực ngăn cản. Vì thế ông bị đổi ra làm quan ở đất Triều Châu
    • Liêm, Lạc: chỉ Chu Đôn Di ở Liêm Khê và hai anh em họ Trình ở Lạc Dương. Cả ba đều là những nhà triết học đời Tống, có ra làm quan nhưng không được đắc dụng, lại trở về dạy học
    • Nói nhân tài ở chỗ nghèo hèn
    • Kinh luân: tài sắp đặt tổ chức việc nước
    • Nghiêu Thuấn: hai vua truyền thuyết được nhà nho coi là mẫu mực, đã theo được đạo trời mà trị dân
    • Sào Phủ Hứa Do: hai ẩn sĩ nổi tiếng đời Nghiêu
    • Bá Di và Thúc Tề, hai người lấy việc nước mất làm xấu hổ, bỏ lên núi Thú Dương hái rau vi mà ăn, không chịu ăn thóc nhà Chu.Chăng khứng: không chịu
    • Ai hầu chi ai: không ai chịu hầu hạ, phục dịch cho ai cả
    • Hai đại công thần nhà Thương
    • Thái công: Khương Tử Nha, già hơn 70 tuổi vẫn ngồi câu cá ở bờ sông Vị. Chu Văn Vương nhân đi săn gặp ông, bèn đón ông về kinh, tôn làm thầy. Ông giúp Văn Vương và con là Vũ Vương dựng nghiệp nhà Chu
    • Nghiêm Lăng: ẩn sĩ đời vua Quang Vũ
    • Cày mây câu nguyệt: cày trong mây, câu dưới trăng là nói cảnh thanh tao ẩn dật. Áo cầu: áo cừu, áo may bằng da thú. Nghiêm Lăng ngồi lâu năm áo cừu đã rách nát
    • Trần Đoàn: học rộng, tinh thông Kinh Dịch, ẩn ở núi Vũ Dương, tu luyện đạo tiên
    • Túi thơ ngâm phong vịnh nguyệt, coi công danh phú quý như giấc chiêm bao
    • Bảy người đời Tấn, tính tình phóng đạt, thường họp nhau vui chơi nơi rừng Trúc (Trúc Lâm thất hiền)
    • Rừng nhu biển thánh: đạo Nho dày như rừng, rộng như biển
    • Khai phong: mở phong thư. Sự cơ: sự tình, nông nỗi
    • Qui lai: trở về, quay về (vì mẹ chết)
    • Sách Văn công: sách quy định nghi lễ về tang ma cưới xin
    • Chín chữ cù lao: công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi dạy con
    • Nhũ bộ: bú sữa, mớm cơm
    • Thiên hương: hương trời, đây dùng chỉ tài năng lỗi lạc của Vân Tiên
    • Bạn tác: bạn cùng tuổi, cùng lứa
    • Lòng còn lo ngại về đường xa nỗi gần chưa biết rồi sẽ ra sao
    • Tị trần: tránh bụi, xa lánh cuộc đời loạn lạc mà đi ở ẩn
    • Quày quã: vội quay phắt ngay đi
    • Dưỡng dục: nuôi nấng, dạy dỗ. Sinh thành: sinh ra và gây dựng nên người
    • Vân Tiên thấy mắt bỗng tối mù
    • Hỏi phăn: hỏi lần cho ra manh mối
    • Đầu thang: bốc thuốc
    • Y học, Thọ thế, Đông y là các bộ sách y học cổ truyền
    • Ngân hải tinh vi: sách thuốc về cách chữa mắt
    • Cang mục: sách nói về tính chất các vị thuốc. Thanh nang: chỉ sách chép các phương thuốc chưa hề truyền cho ai
    • Sách tập hợp các phương thuốc hay đã được dùng
    • Ngự Toản, Hồi xuân: các sách thuốc cổ
    • Quân thần: vị chính vị phụ trong một thang thuốc đông y
    • Nỏ nan: nói thuốc sao khô cẩn thận
    • Lư san: bài phú dạy phép xem mạch
    • Lục quân, Tứ vật: tên hai thang thuốc căn bản chữa khí, huyết
    • Thập toàn, Bát vị: hai bài thuốc bổ chữa bệnh tạng phủ suy
    • Bát trận tân phương: sách thuốc do danh y Trương Giới Tân đời Minh soạn
    • Khi bị cảm thường uống thang Ngũ sài
    • Lục bộ: sáu bộ mạch
    • Phù hồng: mạch nổi
    • Kinh lạc: các đường truyền dẫn khí huyết trong thân người
    • Mạng môn: huyệt ở giữa hai quả thận. Tướng hỏa: dương khí (thận hỏa)
    • Cơ thể tích nhiệt đã lâu, cần hạ nhiệt (giáng hỏa). Tư âm: làm vượng âm lên
    • Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm: ba vị thuốc chữa nóng
    • Phải thêm gấp bội ba vị này vào, thì nóng ở tim mới bình thường trở lại
    • Vạn linh: thuốc chữa mắt đau
    • Hoàn tình: thuốc uống cho mắt thêm sáng ra
    • Đòi cuộc đòi đàn: đòi người bệnh phải đặt tiền cược trước
    • Tiên sư: đây nói tiên sư nghề làm thuốc
    • E khi đi đường, Vân Tiên có làm điều gì phạm đến quỷ thần nên bị quỷ thần phạt
    • Cầu: cầu xin giúp
    • Châu Diệc: Kinh Dịch đời Chu. Sách có 64 quẻ, 384 hào. Thời xưa sách dùng vào việc bói toán
    • Huỳnh kim, Dã hạc: hai sách nói về thuật bói toán
    • Lục nhâm, Lục giáp: hai môn thuật số bói toán
    • Can, chi: trong khoa lý số
    • Chiêm: bói. Lộ trình: nói việc đi đường
    • Mai rùa, cỏ thi là hai thứ dùng để bói
    • Giao, sách, trùng: cách bói dùng ba đồng tiền gieo sáu lần xuống đĩa
    • Trang: trang quẻ. Lục xung: sáu hào trong quẻ xung khắc nhau
    • Quẻ du hồn: quẻ nói việc hồn đi chơi vơ vẩn, ứng vào việc Vân Tiên bị long đong nơi đường xa đất khách
    • Đời Vân Tiên bị xáo động, công danh trắc trở
    • Ấn: phù phép trừ tà của thầy pháp
    • Phù chú: lá bùa và câu thần chú
    • Hồ linh: bầu thiêng, có thể thu chứa cả trời đất
    • Sái đậu thành binh: rảy hạt đậu mà hóa thành binh lính
    • Đạo hỏa: giẫm lên lửa. Phó thang: dấn mình vào nước sôi
    • Mở đàng thiên hoang: mở đường trời đất
    • Hề: hề đồng
    • Bàn Cổ: ông tổ của trời đất, vạn vật. Tọa tiền chứng miêng: trước bàn thờ chứng minh cho
    • Tôn Ngộ Không
    • Võ hậu: tên một vị thần thường đi lại trên đại dương
    • Vị tướng đời Đường
    • Bà tiên cai quản tiên nữ
    • Công chúa Ngũ Long: năm công chúa của Long vương
    • Bình nam ngũ hổ: năm tướng dũng mãnh đánh chiếm phương Nam. An dinh: đóng yên doanh trại
    • Chỉ chung các vị thần ở trên trời, dưới âm phủ, và trong lòng sông ở Động Đình và Xích Lân
    • Tráo chác: lừa dối, trở mặt
    • Thon von: cô đơn sa sút gian nguy
    • Khuyên giáo: đi xin của bố thi
    • Cầu bắc qua rạch Lá Buôn (Biên Hòa)
    • Hai rằm: hai ngày rằm, tức hai tháng
    • Đất sụt trời sập, chỉ tai biến lớn
    • Sơn quân: vua núi, chỉ con hổ
    • Ràng ràng: rành rành
    • Người tang: người bận áo tang
    • Quảy đơm: cúng lễ
    • Cô bồng: con thuyền lẻ loi
    • Sao mọc nhiều không theo hàng lối nào
    • Vời: khoảng nước rộng, lòng sông
    • Phôi pha: qua quýt cho xong chuyện
    • Hối: giục. Vầy lửa: nhóm lửa
    • Hẩm hút chỉ thứ gạo xấu, thức ăn người nghèo
    • Trái mùi: trái chín nục
    • Doi: dải đất ở cửa sông hay dọc sông
    • Chích, đầm: ao hồ
    • Cứu tử: cứu cho khỏi chết
    • Chẳng đã: cực chẳng đã
    • Ngũ Viên (Ngũ Tử Tư) một lần bị đuổi rất nguy, may được ông chài đưa thoát qua sông
    • Hạng Vũ lúc bị mấy ngàn kị binh Hán đuổi gấp tới sông Ô giang có ông đình trưởng mời qua sông (nhưng Hạng Vũ từ chối, ở lại quyết chiến và tự sát
    • Phồn: giống, thứ hạng
    • Nhà cầu: nhà phụ làm lối đi thông nối hai nhà chính
    • Gay: vặn quai chèo chặt cọc chèo
    • Trớ trinh: trớ trêu
    • Cheo: loài nai xạ hương
    • Thổi lò: thổi lùa mạnh vào một nơi. Mưa tro: mưa bụi, mưa phùn
    • Du thần: thần đi xem xét chốn dân gian
    • Trong tuyết đưa than: gặp trời giá tuyết đưa giúp người than sưởi
    • Không hòa mùi chi: không ăn uống gì
    • Bôn trình: lên đường
    • Nhơn huynh: người anh tốt
    • Hoàn: trở về. Am mây: chùa nhỏ hẻo lánh
    • Tỉnh thân: thăm nom cha mẹ
    • Cưỡng bức phụ nữ, bất chấp đạo nghĩa
    • Xuân huyên: cha mẹ
    • Để tang ba năm cũng chưa đủ để báo đáp công sinh thành của cha mẹ
    • Hữu tam bất hiếu: ba điều bất hiếu
    • Cam La: mưu sĩ thời Chiến Quốc
    • Khương Tử Nha
    • Bôn chôn: nôn vội
    • Lừa dối
    • Huỳnh tuyền: suối vàng
    • Sắt cầm: tình duyên
    • Thất gia: chỉ vợ chồng
    • Nhắc lại chuyện làm thơ tỏ tình gắn bó
    • Hoàn Công sai người nói với vua Lỗ giết Tử Củ, chiếm vợ của em
    • Đường cung: cung vua Đường
    • Bất Vi kén trong số vợ mình, một người tuyệt đẹp đã có mang, dâng cho Tử Sở làm vợ. Thái tử Sở lên làm vua, tức Trang Tương vương. Ba năm sau chết, con Sở (thực chất là con Bất Vi) lên ngôi Tần vương (Tần Thủy Hoàng)
    • Tục truyền thơ trông bóng trăng mà chửa. Nằng nằng: quyết một bề không đổi
    • Điêu Thuyền dùng mĩ nhân kế quyến rũ Lã BốĐổng Trác, khiến Bố giết Trác
    • Có điều trái với ý mình mà đâm ra uất ức phiền muộna -
     

    quanltv

    Sư phụ của ADMIN
    Đoạn này đến thứ Nguyệt Nga,
    Hà-khê phủ ấy theo cha học hành.
    Kiều công lên chức thái khanh,
    Chỉ sai ra huyện Đông-thành chăn dân[1].
    Ra tờ khắp hết xa gần,
    1270
    Hỏi thăm họ Lục tìm lần đến nơi.
    Khiến quân đem bức thư mời,
    Lục ông vưng lịnh tới nơi dinh tiền.
    Kiều công hỏi chuyện Vân Tiên,
    Lục ông thấy hỏi bỗng liền khóc than.
    1275
    Thưa rằng: "Nghe tiếng đồn vang,
    Con tôi nhuốm bịnh giữa đàng bỏ thây.
    Biệt tin từ ấy nhẫn nay[2],
    Phút nghe người hỏi dạ này xốn xang!"
    Kiều công trong dạ bàng hoàng,
    1280
    Trở vào nói lại với nàng Nguyệt Nga:
    "Lục ông nói lại cùng cha.
    Duyên con rày đã trôi hoa giạt bèo.
    Riêng than chút phận tơ điều[3],
    Hán-giang chưa gặp Ô-kiều lại rơi[4]".
    1285
    Nàng rằng: "Phải thiệt như lời,
    Xin cha sai kẻ mời người vào trong".
    Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng,
    Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa.
    Công rằng: "Nào bức tượng xưa,
    1290
    Nguyệt Nga con khá đem đưa người nhìn".
    Lục ông một buổi ngồi nhìn,
    Tay chơn mặt mũi giống in con mình.
    Chuyện trò sau trước phân minh,
    Lục ông khi ấy sự tình mới hay:
    1295
    "Thương con phận bạc lắm thay,
    Nguyền xưa còn đó con rày đi đâu?"
    Nguyệt Nga chi xiết nỗi sầu,
    Lục ông thấy vậy thêm đau gan vàng.
    Kiếm lời khuyên giải với nàng:
    1300
    "Giải cơn phiền não kẻo mang lấy sầu.
    Người đời như bóng phù du[5],
    Sớm còn tối mất công phu lỡ làng[6].
    Cũng chưa đồng tịch đồng sàng[7],
    Cũng chưa nên nghĩa tào khang đâu mà!
    1305
    Cũng như cửa sổ ngựa qua,
    Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền".
    Nàng rằng: "Trước đã trọn nguyền,
    Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ".
    Công rằng: Chút nặng tình xưa,
    1210
    Bèn đem tiền bạc tạ đưa cho người.
    Lục ông cáo tạ xin lui:
    "Tôi đâu dám chịu của người làm chi?
    Ngỡ là con trẻ mất đi,
    Hay đâu cốt cách còn ghi tượng này.
    1215
    Bây giờ con lại thấy đây,
    Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào?
    Ngửa trông đất rộng trời cao,
    Tre còn măng mất lẽ nào cho cân!"
    Lục ông từ tạ lui chân,
    1320
    Kiều Công sai kẻ gia thần đưa sang.
    Nguyệt Nga nhuốm bịnh thở than,
    Năm canh lụy ngọc xốn xang lòng vàng:
    "Nhớ khi thề thốt giữa đàng,
    Chưa nguôi nỗi thảm lại vương lấy sầu.
    1325
    Công đà chờ đợi bấy lâu,
    Thà không cho gặp buổi đầu thời thôi.
    Biết nhau chưa đặng mấy hồi,
    Kẻ còn người mất trời ôi là trời.
    Thề xưa tạc dạ ghi lời,
    1330
    Thương người quân tử biết đời nào phai.
    Tiếc thay một đấng anh tài,
    Việc văn việc võ nào ai dám bì?
    Thương vì đèn sách lòng ghi,
    Uổng công nào thấy tiếng gì là đâu!
    1335
    Thương vì hai tám tuổi đầu,
    Người đời như bóng phù du lỡ làng.
    Thương vì chẳng đặng hiển vang,
    Nước trôi sự nghiệp hoa tàn công danh.
    Thương vì đôi lứa chưa thành,
    1340
    Vùa hương bát nước[8] ai dành ngày sau.
    Năm canh chẳng ngớt giọt châu,
    Mặt nhìn bức tượng ruột đau như dần.
    Dương gian nay chẳng đặng gần,
    Âm cung biết có thành thân chăng là?"
    1345
    Kiều công thức dậy bước ra,
    Nghe con than khóc xót xa lòng vàng.
    Khuyên rằng: "Con chớ cưu mang,
    Gẫm trong còn mất là đàng xưa nay.
    Đờn cầm ai nỡ dứt dây,
    1350
    Chẳng qua con tạo đổi xây không thường"
    Nàng rằng: "Khôn xiết nỗi thương,
    Khi không gãy gánh giữa đường chẳng hay.
    Nay đã loan phụng lẽ bầy,
    Nệm nghiêng gối chích phận này đã cam.
    1355
    Trăm năm thề chẳng lòng phàm,
    Sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người[9].
    Thân con còn đứng giữa trời,
    Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi".
    Kiều công trong dạ chẳng vui:
    1360
    "Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?"
    Có người sang cả ngôi cao,
    Thái sư chức trọng trong trào sắc phong.
    Nghe đồn con gái Kiều công,
    Nay mười sáu tuổi tơ hồng chưa vương.
    1365
    Thái sư dùng lễ vật sang,
    Mượn người mai chước[10] kết đàng sui gia.
    Kiều công khôn ép Nguyệt Nga,
    Lễ nghi đưa lại về nhà thái sư.
    Thái sư chẳng biết rộng suy,
    1370
    Đem điều oán hận sớm ghi vào lòng.
    Xảy đâu giặc mọi hành hung,
    Ô-qua[11] quốc hiệu binh nhung dấy loàn.
    Đánh vào tới ải Đồng-quan,
    Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần:
    1375
    "Sao cho vững nước an dân,
    Các quan ai biết mưu thần bày ra?"
    Thái sư nhớ việc cừu nhà,
    Vội vàng quì xuống tâu qua ngai vàng:
    "Thuở xưa giặc mọi dấy loàn,
    1380
    Vì ham sắc tốt phá tàn Trung-hoa.
    Muốn cho khỏi giặc Ô-qua,
    Đưa con gái tốt giao hòa thời xong.
    Nguyệt Nga là gái Kiều công,
    Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh.
    1385
    Nàng đà có sắc khuynh thành,
    Lại thêm rất bực tài tình hào hoa.
    Đưa nàng về nước Ô-qua,
    Phiên vương ưng dạ ắt là bãi binh".
    Sở vương nghe tấu thuận tình,
    1390
    Châu phê dạy sứ ra dinh Đông-thành.
    Sắc phong Kiều lão thái khanh:
    "Việc trong nhà nước đã đành cậy ngươi,
    Nguyệt Nga nàng ấy nên người,
    Lựa ngày tháng chín hai mươi cống Hồ".
    1395
    Kiều công vâng lịnh nhà vua,
    Lẽ nào mà dám nói phô điều nào.
    Nguyệt Nga trong dạ như bào,
    Canh chầy chẳng ngủ những thao thức hoài.
    Thất tình trâm nọ biếng cài,
    1400
    Dựa mình bỏ xả tóc dài ngồi lo:
    "Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,
    Bởi người Diên Thọ họa đồ gây nên[12].
    Hạnh Ngươn[13] xưa cũng chẳng yên,
    Bởi chưng Lư Kỉ cựu hiềm còn ghi.
    1405
    Hai nàng chẳng đã phải đi,
    Một vì ngay chúa một vì thảo cha.
    Chiêu Quân nhảy xuống giang hà,
    Thương vua nhà Hớn nàng đà quyên sinh.
    Hạnh Ngươn nhảy xuống Trì-linh,
    1410
    Thương người Lương Ngọc duyên lành phôi pha.
    Tới nay phận bạc là ta,
    Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân.
    Tình phu phụ nghĩa quân thần,
    Nghĩa xa cũng trọn ơn gần cũng nên.
    1415
    Nghĩa tình nặng cả hai bên,
    Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng.
    Sao sao[14] một thác thời xong,
    Lấy mình báo chúa lấy mình sự phu".
    Kiều công nương gối đang lo,
    1420
    Nghe con than thở mấy câu thêm phiền.
    Kêu vào ngồi dựa trướng tiền,
    Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh[15]:
    "Chẳng qua là việc triều đình,
    Nào cha có muốn ép tình chi con".
    1425
    Nàng rằng: "Con kể chi con,
    Bơ vơ chút phận mất còn quản bao.
    Thương cha tuổi tác đã cao,
    E khi ấm lạnh buổi nào biết đâu.
    Tuổi già bóng xế nhành dâu,
    1430
    Sớm xem tối xét ai hầu cho cha?"
    Công rằng: "Chẳng sá việc nhà,
    Hãy an dạ trẻ mà qua nước người.
    Hôm nay đã tới mồng mười,
    Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành".
    1435
    Nàng rằng: "Việc ấy đã đành,
    Còn lo hai chữ ân tình chưa xong.
    Con xin sang lạy Lục ông,
    Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên.
    Ngõ cho ơn ngãi vẹn tuyền,
    1440
    Phòng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp nhau".
    Kiều công biết nghĩ trước sau,
    Dạy cho tiền bạc cấp hầu đưa đi.
    Lục ông ra rước một khi,
    Nguyệt Nga vào đặt lễ nghi sẵn sàng.
    1445
    Ngày lành giờ ngọ đăng đàn,
    Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên.
    Mở ra bức tượng treo lên,
    Trong nhà cho tới láng giềng đều thương.
    Nguyệt Nga cất tiếng khóc than:
    1450
    "Vân Tiên anh hỡi suối vàng có hay!"
    Bảy ngày rồi việc làm chay,
    Lại đem tiền bạc tạ rày Lục ông:
    "Trông chồng mà chẳng thấy chồng,
    Đã đành một nỗi má hồng vô duyên.
    1455
    Rày vua gả thiếp về Phiên,
    Quyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau.
    Chẳng chi cũng gọi là dâu,
    Muốn lo việc nước phải âu đạo nhà.
    Một ngày một bước một xa,
    1460
    Của này để lại cho cha dưỡng già".
    Lạy rồi nước mắt nhỏ sa,
    Ngùi ngùi lạy tạ bước ra trở về.
    Các quan xe giá bộn bề,
    Năm mươi thể nữ hầu kề chơn tay.
    1465
    Hai mươi nay đã đến ngày,
    Các quan bảo hộ đưa ngay xuống thuyền.
    Nguyệt Nga vội khiến Kim Liên,
    Lên mời thân phụ xuống thuyền xem qua.
    Công rằng: "Thật dạ xót xa,
    1470
    Con đừng bịn rịn cho cha thảm sầu".
    Nàng rằng: "Non nước cao sâu,
    Từ đây xa cách khôn hầu thấy cha.
    Thân con về nước Ô-qua,
    Đã đành một nỗi làm ma đất người.
    1475
    Hai phương nam bắc cách vời,
    Chút xin gởi lại một lời làm khuây.
    Hiu hiu gió thổi ngọn cây,
    Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha".
    Kiều công lụy ngọc nhỏ sa,
    1480
    Các quan ai nấy cũng là đều thương.
    Chẳng qua việc ở quân vương,
    Cho nên phụ tử hai đường xa xuôi.
    Buồm trương thuyền vội tách vời,
    Các quan đưa đón ngùi ngùi đứng trông.
    1485
    Mười ngày đã tới ải Đồng,
    Mênh mông biển rộng đùng đùng sóng xao.
    Đêm nay chẳng biết đêm nào,
    Bóng trăng vằng vặc bóng sao mờ mờ.
    Trên trời lặng lẽ như tờ,
    1490
    Nguyệt Nga nhớ nỗi tóc tơ chẳng tròn.
    Than rằng: "Nọ nước kìa non,
    Kiểng thời thấy đó người còn về đâu?"
    Quân hầu đều ngủ đã lâu,
    Lén ra mở bức rèm châu một mình:
    1495
    "Vắng người có bóng trăng thanh,
    Trăm năm xin gởi chút tình lại đây.
    Vân Tiên anh hỡi có hay?
    Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng".
    Than rồi lấy tượng vai mang,
    1500
    Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay.
    Kim Liên thức dậy mới hay,
    Cùng quân thể nữ một bầy đều lo.
    Cùng nhau lặng chẳng dám hô,
    Thầm toan mưu kế chẳng cho lậu tình:
    1505
    "Việc này là việc triều đình,
    Đốc quan hay đặng ắt mình thác oan.
    Muốn cho cẩn nhiệm trăm đàng,
    Kim Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga.
    Trá hôn về nước Ô-qua,
    1510
    Ai mà vạch lá ai mà tìm sâu?"
    Tính rồi xong xả chước mầu,
    Phút nghe thuyền đã đến đầu ải quan.
    Đốc quan xe giá sửa sang,
    Kiệu trương lọng phụng rước nàng về Phiên.
    1515
    Nào hay tì tất Kim Liên,
    Đặng làm hoàng hậu nước Phiên một đời.
    Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời,
    Sóng thần đưa đẩy vào nơi bãi rày.
    Bóng trăng vừa khuất ngọn cây,
    1520
    Nguyệt Nga hồn hãy chơi rày âm cung.
    Xiết bao sương tuyết đêm đông,
    Mình nằm giữa bãi lạnh lùng ai hay?
    Quan-âm thương đấng thảo ngay,
    Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa.
    1525
    Dặn rằng: "Nàng hỡi Nguyệt Nga!
    Tìm nơi nương náu cho qua tháng ngày.
    Đôi ba năm nữa gần đây,
    Vợ chồng sao cũng sum vầy một nơi".
    Nguyệt Nga giây phút tỉnh hơi,
    1530
    Định hồn mới nghĩ mấy lời chiêm bao.
    Nên hư chưa biết làm sao,
    Bây giờ biết kiếm chốn nào dung thân?

    Một mình luống những bâng khuâng,
    Phút đâu trời đã rạng hừng vừng đông.
    1535
    Một mình mang bức tượng chồng,
    Xảy đâu lại gặp Bùi ông dạo vườn.
    Ông rằng: "Nàng ở hà phương,
    Việc chi mà tới trong vườn hoa ta?"
    Nàng rằng: "Trận gió hôm qua,
    1540
    Chìm thuyền đến nỗi mình ra thế này.
    Tối tăm sẩy bước tới đây,
    Xin soi xét tới thơ ngây lạc đàng".
    Bùi ông đứng nhắm tướng nàng,
    Chẳng trang đài các cũng hàng trâm anh.
    1545
    Đầu đuôi han hỏi sự tình,
    Nàng bèn lời thiệt việc mình bày qua.
    Bùi ông mừng rước về nhà,
    Thay xiêm đổi áo nuôi mà làm con.
    Rằng: "Ta sanh đặng chồi non,
    1550
    Tên là Bùi Kiệm hãy còn ở kinh.
    Trong nhà không gái hậu sinh,
    Ngày nay đặng gặp minh linh phước trời".
    Nguyệt Nga ở đã an nơi,
    Đêm đêm nghĩ lượng việc đời gần xa.
    1555
    Một lo về nước Ô-qua,
    E vua bắt tội cha già rất oan.
    Hai lo phận gái hồng nhan,
    Sợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ gì[16]:
    Nguyệt Nga luống những sầu bi,
    1560
    Xảy đâu Bùi Kiệm tới khi về nhà.
    Từ ngày thấy mặt Nguyệt Nga,
    Đêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần.
    Thấy nàng thờ bức tượng nhân,
    Nghiệm trong tình ý dần lân[17] hỏi liền:
    1565
    "Tượng này sao giống Vân Tiên?
    Bấy lâu thờ có linh thiêng đều gì?"
    Nàng rằng: "Làm phận nữ nhi,
    Một câu chánh tiết[18] phải ghi vào lòng.
    Trăm năm cho vẹn đạo tòng,
    1570
    Sống sao thác vậy một chồng mà thôi".
    Kiệm rằng: "Nàng nói sai rồi,
    Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa?
    Làm người trong cõi gió mưa,
    Bảy mươi mấy mặt người xưa thấy nào.
    1575
    Chúa xuân còn ở vườn đào,
    Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần.
    Chúa đông ra khỏi vườn xuân,
    Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang.
    Ở đời ai cậy giàu sang,
    1580
    Ba xuân[19] mòn hết, ngàn vàng khôn mua.
    Hay chi như vãi ở chùa,
    Một căn cửa khép bốn mùa lạnh tanh.
    Linh đinh một chiếc thuyền tình,
    Mười hai bến nước biết mình vào đâu?
    1585
    Ai từng mặc áo không bâu[20],
    Ăn cơm không đũa ăn trầu không cau?
    Nàng sao chẳng nghĩ trước sau,
    Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt mình".
    Nàng rằng: "Xưa học sử kinh,
    1590
    Làm thân con gái chữ trinh làm đầu.
    Chẳng phen thói nước Trịnh đâu[21],
    Hẹn người tới giữa vườn dâu tự tình".
    Kiệm rằng: "Đã biết sử kinh,
    Sao không soi xét để mình ngồi không.
    1695
    Hồ-dương xưa mới góa chồng,
    Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa[22].
    Hạ Cơ[23] lớn nhỏ đều ưa,
    Sớm đưa Doãn Phủ, tối ngừa Trần quân.
    Hớn xưa Lữ hậu thanh xuân,
    1600
    Còn vừa Cao tổ mấy đành Dị Ki[24].
    Đường xưa Võ Hậu thiệt gì,
    Di Tôn khi trẻ Tam Tư lúc già[25].
    Cứ trong sách vở nói ra,
    Một đời sung sướng cũng qua một đời.
    1605
    Ai ai cũng ở trong trời,
    Chính chuyên trắc nết[26] chết thời cũng ma.
    Người ta chẳng lấy người ta,
    Người ta đâu lấy những là tượng nhân?
    Cho nên tiếc phận hồng nhan,
    1610
    Học đời Như Ý vẽ chàng Văn Quân[27]".
    Nguyệt Nga biết đứa tiểu nhân,
    Làm thinh toan chước thoát thân cho rồi.
    Bùi ông ngon ngọt trau dồi,
    Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình:
    1615
    "Làm người chấp nhứt[28] sao đành,
    Hễ là lịch sự có kinh có quyền[29].
    Tới đây duyên đã bén duyên,
    Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai?
    Nhớ câu: Xuân bất tái lai,
    1620
    Ngày nay hoa nở e mai hoa tàn.
    Làm chi thiệt phận hồng nhan,
    Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng.
    Vọng phu xưa cũng trông chồng,
    Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
    1625
    Thôi thôi khuyên chớ thở ra,
    Vầy[30] cùng con lão một nhà cho xuôi".
    Nguyệt Nga giả dạng mừng vui,
    Thưa rằng: "Người có công nuôi bấy chầy.
    Tôi xin dám gởi lời này,
    1630
    Hãy tua[31] châm chậm sẽ vầy nhơn duyên.
    Tôi xin lạy tạ Vân Tiên,
    Chay đàn bảy bữa cho tuyền thỉ chung".
    Cha con thấy nói mừng lòng,
    Dọn nhà sửa chỗ động phòng cho xuê.
    1635
    Chiếu hoa gối sách bộn bề,
    Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra[32].
    Xảy vừa tới lúc canh ba,
    Nguyệt Nga lấy bút đề và câu thơ.
    Dán trong vách phấn một tờ,
    1640
    Vai mang bức tượng kịp giờ ra đi.
    Hai bên bờ bụi rậm rì,
    Đêm khuya vắng vẻ gặp khi trăng lờ.
    Lạ chừng đường sá bơ vơ,
    Có bầy đôm đốm sáng nhờ đi theo.
    1645
    Qua truông rồi lại lên đèo,
    Dế kêu giắng giỏi sương gieo lạnh lùng.
    Giày sành đạp sỏi[33] thẳng xông,
    Vừa may trời đã vừng đông lố đầu.
    Nguyệt Nga đi đặng hồi lâu,
    1650
    Tìm nơi bàn thạch ngỏ hầu nghỉ chưn.
    Người ngay trời phật cũng vưng,
    Lão bà chống gậy trong rừng bước ra.
    Hỏi rằng: "Nàng phải Nguyệt Nga,
    Khá tua[34] gắng gượng về nhà cùng ta.
    1655
    Khi khuya nằm thấy Phật bà,
    Người đà mách bảo nên già tới đây".
    Nguyệt Nga bán tín bán nghi,
    Đành liều nhắm mắt theo đi về nhà.
    Bước vào thấy những đàn bà,
    1660
    Làm nghề bô vải lụa là mà thôi.
    Nguyệt Nga đành dạ ở rồi,
    Từ đây mới biết nổi trôi chốn nào.
    Hỏi thăm ra chốn Ô-sào,
    Quan san mấy dặm đi vào tới nơi[35]!






    Chú thích cuối trang[sửa]

    • Chăn dân: trị dân, cho dân yên ổn làm ăn
    • Nhẫn nay: đến nay, tới bây giờ
    • Tơ điều: tơ đỏ xe duyên
    • Nguyệt Nga chưa nên nghĩa vợ chồng với Vân Tiên, cũng như Chức nữ, Ngưu lang chưa kịp gặp nhau trên sông Ngân mà nhịp cầu Ô đã rơi mất, không bao giờ gặp lại được nữa
    • Phù du: con vờ
    • Công phu lỡ làng: bỏ sức ra làm dang dở
    • Đồng tịch đồng sàng: cùng giường cùng chiếu
    • Vùa hương bát nước: bát hương và chén nước thờ
    • Vừa đưa chồng về lại bên kia sông Ngân, thì đã lại đến Cầu Lam rước người tình khác. Ý nói mất chồng này tìm chồng khác
    • Mai chước: người làm mối
    • Ô Qua: tên ngầm chỉ giặc Qua Oa ở bể vào cướp phá miền Châu Đốc, Hà Tiên
    • Chiêu Quân thời Hán Nguyên Đế bị tuyển làm cung nữ. Nàng không chịu đút lót cho Mao Diên Thọ nên bị y vẽ xấu đi, vua không vời đến. Về sau bị chọn tiến vua Hung Nô
    • Hạnh Ngươn: nhân vật truyện Nhị độ mai
    • Sao sao: dù thế nào đi nữa
    • Thân danh: thân mình và danh dự
    • E rằng người che chở và nuôi nấng mình có mưu toan gì?
    • Dần lân: lân la dần dần
    • Chánh tiết: trinh tiết, ngay thẳng
    • Ba xuân: ba tháng xuân, tuổi xuân
    • Bâu: cổ áo
    • Chẳng phen: chẳng bắt chước. Thói nước Trịnh: thói tà dâm như trai gái nước Trịnh trèo tường đón ngõ rủ rê nhau ra nơi đồng nội để thỏa lòng dục
    • Công chúa Hồ Dương chồng chết, phải lòng Tống Hoằng
    • Hạ Cơ: con gái Trịnh Mục Công, xinh đẹp, lẳng lơ, có chồng mà vẫn một lúc ngoại tình với nhiều người
    • Lữ Hậu: vợ Hán Cao Tổ. Cao Tổ mất, Lữ Hậu tư thông với Dị Ki (Thẩm Tự Cơ) cho Tự Cơ làm tả thừa tướng để tiện bề chung chạ
    • Võ Hậu thông tình với hai anh em Trương Xương Tông và Trương Dịch Chi (tức Di Tôn, Tam Tư)
    • Chính chuyên: một bề tiết hạnh. Trắc nết: mất hết
    • Nàng Như Ý sau khi cứu Văn Quân thoát nạn, đem lòng yêu chàng, vẽ hình chàng. Sau hai người lấy nhau (tuồng cổ)
    • Chấp nhứt: câu nệ về một lẽ
    • Hễ là người trải đời thì phải biết cả chấp kinh (tuân thủ nguyên tắc) lẫn tòng quyền (vượt ngoài nguyên tắc)
    • Vầy: sum họp
    • Tua: nên phải
    • Gối sách: gối gấp nhiều lớp, có thể chồng lên nhau mà ngồi dựa. Bát bửu: tám vật quý là gươm, giáo, búa... bằng đồng hay bạc để bày cho thêm sang trọng
    • Giầy xéo lên sành, đạp lên sỏi
    • Khá tua: phải nên
    • Nguyệt Nga đã trôi dạt tới chốn cửa ải và núi non, xa xôi cách trở
     

    quanltv

    Sư phụ của ADMIN
    Đoạn này tới thứ ra đời[1],
    Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
    Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
    Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
    Kể từ nhuốm bịnh đường xa,
    1670
    Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm.
    Tuổi cha rày đã năm lăm,
    Chạnh lòng nhớ tới đầm đầm lụy sa.
    Vân Tiên tính trở lại nhà,
    Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.
    1675
    Tiên rằng: "Ta lại hồi hương,
    Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay".
    Minh rằng: "Tôi vốn chẳng may,
    Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
    Dám đâu bày mặt ra thi,
    1680
    Đã đành hai chữ quy y[2] chùa này".
    Tiên rằng: "Phước gặp khoa này,
    Sao sao cũng tính sum vầy cùng nhau.
    Mấy năm hẩm hút tương rau[3],
    Khó nghèo nỡ phụ sang giàu đâu quên.
    1685
    Lúc hư còn có lúc nên,
    Khuyên người giữ dạ cho bền thảo ngay".
    Hớn Minh trở lại am mây,
    Vân Tiên về một tháng chầy tới nơi.
    Lục ông nước mắt tuôn rơi,
    1690
    Ai dè con sống trên đời thấy cha.
    Xóm giềng cô bác gần xa,
    Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm.
    Ông rằng: "Kể đã mấy năm,
    Con mang tật bịnh ăn nằm nơi nao?"
    1695
    Thưa rằng: "Hoạn nạn xiết bao,
    Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an?"
    Đặt bày lễ vật nghiêm trang,
    Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh[4]:
    "Suối vàng hồn mẹ có linh,
    1700
    Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay.
    Tưởng bề nguồn nước cội cây[5],
    Công cao ngàn trượng ngãi dày chín trăng[6].
    Suy trang nằm giá khóc măng[7],
    Hai mươi bốn thảo[8] chẳng bằng người xưa".
    1705
    Vân Tiên nước mắt như mưa,
    Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà.
    Ông rằng: "Có nàng Nguyệt Nga,
    Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê.
    Nhờ nàng nên mới ra bề[9],
    1710
    Chẳng thì khó đói bỏ quê đi rồi".
    Vân Tiên nghe nói hỡi ôi!
    Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu.
    Hỏi rằng: "Nàng ấy ở đâu?
    Đặng con đến đó đáp câu ân tình".
    1715
    Lục ông thuật việc triều đình,
    Đầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên.
    "Kiều công rày ở Tây-xuyên,
    Cũng vì mắc nịnh biếm quyền[10] đuổi ra".
    Tiên rằng: "Cám nghĩa Nguyệt Nga
    1720
    Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng".
    Tây-xuyên ngàn dặm thẳng xông,
    Đến nơi ra mắt Kiều công khóc liền:
    "Nguyệt Nga rày ở nước Phiên,
    Biết sao cho đặng đoàn viên cùng chàng.
    1725
    Mấy thu Hồ Việt đôi phang[11],
    Cũng vì máy tạo én nhàn rẽ nhau.
    Thấy chàng dạ lại thêm đau,
    Đất trời bao nỡ chia bâu[12] cho đành?
    Hẹp hòi đặng chút nữ sanh,
    1730
    Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn[13]".
    Nói rồi lụy nhỏ đôi cơn,
    "Cũng vì một sự oán hờn nên gây.
    Thôi con ở lại bên này,
    Hôm mai thấy mặt cho khuây lòng già".
    1735
    Vân Tiên từ ấy lân la,
    Ôn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kì,
    Năm sau lịnh mở khoa thi,
    Vân Tiên vào tạ xin đi tựu trường.
    Trở về thưa với xuân đường,
    1740
    Kinh sư[14] ngàn dặm một đường thẳng ra.
    Vân Tiên dự trúng khôi khoa[15],
    Đương trong nhâm tý thiệt là năm nay.
    Nhớ lời thầy nói thật hay,
    Bắc phương gặp chuột hẳn rày nên danh.
    1745
    Vân Tiên vào tạ triều đình,
    Lệnh ban y mão hiển vinh về nhà.
    Xảy nghe tin giặc Ô-qua,
    Phủ vây quan ải binh ba bốn ngàn.
    Sở Vương phán trước ngai vàng,
    1750
    Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong[16].
    Trạng nguyên tâu trước bệ rồng:
    "Xin dâng một tướng anh hùng đề binh[17].
    Có người họ Hớn tên Minh,
    Sức đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi.
    1755
    Ngày xưa mắc án trốn di,
    Phải về nương náu từ bi ẩn mình".
    Sở Vương phán trước triều đình,
    Chỉ sai tha tội Hớn Minh đòi về.
    Sắc phong phó tướng bình di[18],
    1760
    Tiên Minh tương hội[19] xiết gì mừng vui.
    Nhứt thinh phấn phát oai lôi[20],
    Tiên phuông hậu tập[21] trống hồi tấn binh.
    Quan sơn ngàn dặm đăng trình,
    Lãnh cờ bình tặc[22] phá thành Ô-qua.
    1765
    Làm trai ơn nước nợ nhà,
    Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.
    Phút đâu binh đáo quan thành[23],
    Ô-qua xem thấy xuất hành cự đang[24].
    Tướng Phiên hai gã đường đường,
    1770
    Một chàng Hỏa Hổ một chàng Thần Long.
    Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung,
    Mắt hùm râu đỏ tướng hung lạ lùng.
    Hớn Minh ra sức tiên phong,
    Đánh cùng Hỏa Hổ Thần Long một hồi.
    1775
    Hớn Minh chùy giáng dường lôi[25],
    Hai chàng đều bị một hồi mạng vong.
    Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung,
    Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh.
    Hớn Minh sức chẳng dám kình,
    1780
    Thấy chàng hóa phép thoát mình trở lui.
    Vân Tiên đầu đội kim khôi,
    Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô[26].
    Một mình lướt trận xông vô,
    Thấy người Cốt Đột biến hô yêu tà.
    1785
    Vội vàng trở ngựa lui ra,
    Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ.
    Ba quân gươm giáo đều dơ,
    Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan.
    Phép tà Cốt Đột hết phang,
    1790
    Phừng phừng nổi giận đánh chàng Vân Tiên.
    Trung tiên tả hữu lưỡng biên,
    Trạng nguyên Cốt Đột đánh liên tối ngày.
    Sa cơ Cốt Đột chạy ngay,
    Vân Tiên giục ngựa kịp rày đuổi theo.
    1795
    Đuổi qua mới đặng bảy đèo,
    Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao[27].
    Chạy ngang qua núi Ô-sào,
    Phút đâu con ngựa sa hào thương ôi!
    Vân Tiên chém Cốt Đột rồi,
    1800
    Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân.
    Ôi thôi bốn phía đều rừng,
    Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa.
    Một mình lạc nẻo vào ra,
    Lần theo đường núi phút đà tam canh[28].
    1805
    Một mình trong chốn non xanh,
    Không ai mà hỏi lộ trình trở ra.

    Đoạn này tới thứ Nguyệt Nga,
    Ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
    Đêm khuya chong ngọn đèn ngồi,
    1810
    Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi:
    "Quan-âm thuở trước nói chi,
    Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.
    Đã đành đá nát vàng phai,
    Đà đành xuống chốn dạ đài gặp nhau.
    1815
    Khôn trông mồng bảy đêm thu,
    Khôn trông bầy quạ đội cầu đưa sao[29].
    Phải chi hỏi đặng Nam Tào,
    Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau".
    Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu,
    1820
    Xảy nghe lạc ngựa ở đâu tới nhà.
    Kêu rằng: "Ai ở trong nhà,
    Đường về quan ải chỉ ra cho cùng".
    Nguyệt Nga ngồi sợ hãi hùng,
    Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
    1825
    Lão bà lật đật hỏi chào:
    "Ở đâu mà tới rừng cao một mình?"
    Vân Tiên mới nói sự tình:
    "Tôi là quốc trạng trào đình sai ra.
    Đem binh dẹp giặc Ô-qua,
    1830
    Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây".
    Lão bà nghe nói sợ thay:
    "Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già".
    Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệt Nga,
    Lại xem bức tượng lòng đà sanh nghi.
    1835
    Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi,
    Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình.
    Đầu đuôi chưa rõ sự tình,
    Lão bà khá nói tánh danh cho tường".
    Lão bà chẳng dám lời gian:
    1840
    "Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây".
    Tiên rằng: "Nàng xách lại đây,
    Nói trong tên họ tượng này ta nghe".
    Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè,
    Mặt thời giống mặt còn e lạ người.
    1845
    Ngồi che tay áo hổ ngươi,
    Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.
    Rằng: "Sao nàng chẳng nói đi,
    Hay là ta hỏi động chi chăng là?"
    Nguyệt Nga khép nép thưa qua:
    1850
    "Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
    Chàng đà về chốn cửu tuyền,
    Thiếp lăm trọn đạo lánh miền gió trăng".
    Vân Tiên nghe nói hỏi phăn:
    "Chồng là tên ấy vợ rằng tên chi?"
    1855
    Nàng bèn tỏ thiệt một khi,
    Vân Tiên vội vã xuống quì vòng tay.
    Thưa rằng: "May gặp nàng đây,
    Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
    Để lời thệ hải minh sơn[30],
    1860
    Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
    Vân Tiên vốn thiệt là tôi,
    Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ".
    Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ[31],
    Nửa tin rằng bạn nửa ngờ rằng ai.
    1865
    Thưa rằng: "Đã thiệt tên ngài.
    Khúc nôi[32] xin cứ đầu bài phân qua".
    Vân Tiên dẫn tích xưa ra,
    Nguyệt Nga khi ấy khóc òa như mưa
    Ân tình càng kể càng ưa,
    1870
    Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay.
    Xảy nghe quân ó vang dầy,
    Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua.
    Vân Tiên lên ngựa trở ra,
    Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh.
    1875
    Hớn Minh khi ấy dừng binh,
    Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.
    Minh rằng: "Tẩu tẩu[33] ở đâu,
    Cho em ra mắt chị dâu thể nào?"
    Vân Tiên đem Hớn Minh vào,
    1880
    Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên.
    Minh rằng: "Tưởng chị ở Phiên,
    Quyết đem binh mã sang miền Ô-qua.
    May đâu sum hiệp một nhà,
    Giặc đà an giặc khải ca hồi trào".
    1885
    Tiên rằng: "Nàng tính thể nào?"
    Nàng rằng: "Anh hãy về trào tâu lên.
    Ngỏ nhờ lượng cả bề trên,
    Lịnh tha tội trước mới nên về nhà".
    Trạng nguyên từ giã lão bà,
    1890
    Dặn dò gởi lại Nguyệt Nga ít ngày:
    "Tôi về đem bức tượng này,
    Tâu cho khỏi tội rước ngay về nhà".
    Tiên Minh trở ngựa đều ra,
    Đem binh trở lại trào ca đề huề[34].
    1895
    Sở Vương nghe trạng nguyên về,
    Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai.
    Sở Vương bước xuống kim giai,
    Tay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyên.
    Phán rằng: "Trẫm sợ nước Phiên,
    1900
    Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng.
    Nay đà trừ Cốt Đột xong,
    Thiệt trời sanh trạng giúp trong nước nhà.
    Phải chi trước có trạng ra,
    Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ".
    1905
    Lệnh truyền mở yến trào đô,
    Rày mừng trừ đặng giặc Ô-qua rồi.
    Trạng nguyên quì tấu một hồi,
    Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng.
    Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng,
    1910
    Phán rằng: "Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên.
    Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên,
    Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu".
    Thái sư trước bệ quì tâu:
    "Ô-qua dấy động qua mâu[35] cũng vì
    1915
    Trá hôn oán ấy nên gây,
    Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân".
    Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng,
    Bèn đem bức tượng quì dâng làm bằng.
    Sở vương xem tượng phán rằng:
    1920
    "Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa,
    Thái sư trước chẳng lo lừa,
    Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng.
    Dầu cho nhựt nguyệt rõ ràng,
    Khôn soi chậu úp[36] cũng mang tiếng đời.
    1925
    Ngay gian sao cũng có trời,
    Việc này vì trẫm nghe lời nên oan".
    Trạng nguyên tâu trước trào đàng:
    "Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
    Trịnh Hâm là đứa gian tà,
    1930
    Hại tôi buổi trước cũng đà ghê phen[37]".
    Sở Vương phán trước bệ tiền:
    "Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền[38] mà thôi.
    Vậy cũng đạo chúa nghĩa tôi,
    Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng[39].
    1935
    Hớn xưa có gã Đổng công[40],
    Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng nhà Lưu.
    Đời xưa tôi nịnh biết bao,
    Thái sư nay có khác nào người xưa.
    Thấy người trung chánh chẳng ưa,
    1940
    Rắp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.
    Trịnh Hâm tội đáng chém đầu,
    Ấy là mới hết người sau gian tà".
    Sở vương phán trước trào ca:
    "Thái sư cách chức về nhà làm dân.
    1945
    Trịnh Hâm là đứa bạo thần,
    Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.
    Nguyệt Nga là gái tiết trinh,
    Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng.
    Kiều công xưa mắc tội oan,
    1950
    Trẫm cho phục chức làm quan Đông-thành.
    Trạng nguyên dẹp giặc đã bình,
    Kiệu vàng tán bạc hiển vinh về nhà".

    Bãi chầu chư tướng trở ra,
    Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.
    1955
    Họ Vương họ Hớn họ Bùi,
    Cùng nhau uống rượu đều vui đều cười.
    Trạng nguyên mới hỏi một lời:
    "Trịnh Hâm tội ấy các người tính sao?"
    Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào,
    1960
    Mặt nhìn khắp hết miệng chào: "Các anh!".
    Minh rằng: "Ai mượn kêu anh?
    Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
    Kéo ra chém quách cho rồi,
    Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan".
    1965
    Trực rằng: "Minh nóng nói ngang,
    Giết ruồi ai dụng gươm vàng làm chi.
    Xưa nay mấy đứa vô nghì,
    Dầu cho có sống làm gì nên thân?"
    Hâm rằng: "Nhờ lượng cố nhân,
    1970
    Vốn em mới dại một lần xin dung".
    Trạng rằng: "Hễ đấng anh hùng,
    Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
    Thôi thôi ta cũng rộng suy,
    Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi".
    1975
    Trịnh Hâm khỏi giết rất vui,
    Vội vàng cúi lạy chơn lui ra về.
    Còn người Bùi Kiệm máu dê,
    Ngồi chai bề mặt như sề thịt trâu.
    Hớn Minh Tử Trực vào tâu,
    1980
    Xin đưa quốc trạng kịp chầu vinh qui.
    Một người Bùi Kiệm chẳng đi,
    Trong lòng hổ thẹn cũng vì máu dê.
    Trạng nguyên xe giá chỉnh tề,
    Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.
    1985
    Bạc vàng đem tạ lão bà,
    Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông-thành.
    Võng điều gươm bạc lọng xanh,
    Trạng nguyên Tử Trực Hớn Minh lên đàng.
    Trịnh Hâm về tới Hàn-giang,
    1990
    Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
    Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
    Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng.
    Thấy vầy nên dửng dừng dưng[41],
    Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.
    1995
    Tiểu đồng trước giữ mộ phần.
    Ngày qua tháng lại đã gần ba năm.
    Của đi khuyên giáo mấy năm,
    Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.
    Hiềm chưa thuê đặng người ta,
    2000
    Còn đương thơ thẩn vào ra Đại-đề.
    Trạng nguyên khi ấy đi về,
    Truyền quân bày tiệc lo bề tế riêng:
    "Tiểu đồng hồn bậu có thiêng,
    Thỏa tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay?"
    2005
    Đọc văn nhớ tới châu mày,
    Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng.
    Người ngay trời phật động lòng,
    Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi.
    Trạng nguyên còn hãy sụt sùi,
    2010
    Ngó lên bài vị[42] lại xui lòng phiền.
    Tiểu đồng nhắm ngửa nhìn nghiêng:
    "Ông này sao giống Vân Tiên cũng kì?
    Ông nào mất xuống âm ti,
    Ông nào còn sống nay thì làm quan?"
    2015
    Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng:
    "Phải người đồng tử mắc nàn chốn ni?"
    Mấy năm tớ mới gặp thầy,
    Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn[43].
    Ai dè còn thấy bổn quan[44],
    2020
    Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi.
    Trạng nguyên khi ấy mừng vui,
    Tớ thầy sum hiệp tại nơi Đại-đề.
    Đoạn thôi xe giá ra về,
    Tuần dư[45] phút đã gần kề Hàn-giang.
    2025
    Võ công từ xuống suối vàng,
    Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu.
    Mẹ con những mảng lo âu;
    "Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh.
    Cùng ta xưa có ân tình,
    2030
    Phải ra đón rước lộ trình họa may".
    Loan rằng: "Mình ở chẳng hay,
    E người còn nhớ những ngày trong hang".
    Trang rằng: "Con có hồng nhan,
    Cho chàng thấy mặt thời chàng ắt ưa.
    2035
    Dầu người còn nhớ tích xưa,
    Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công".
    Cùng nhau bàn luận đã xong,
    Soi gương đánh phấn ra phòng[46] rước duyên.
    Nay đà tới thứ trạng nguyên,
    2040
    Hàn-giang đã tới bỗng liền đóng quân.
    Bạc vàng châu báu áo quần,
    Trạng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiều,
    Ngư tiều nay đặng danh biêu[47],
    Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
    2045
    Trạng nguyên chưa kịp trở về,
    Thấy Quỳnh Trang đã đứng kề trong quân.
    Trang rằng: "Tưởng chữ hôn nhân,
    Mẹ con tôi đến lễ mừng trạng nguyên.
    Võ công đã xuống huỳnh tuyền,
    2050
    Xin thương lấy chút thuyền quyên phận này".
    Trạng rằng: "Bưng bát nước đầy.
    Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong.
    Oan gia nợ ấy trả xong,
    Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi[48]".
    2055
    Hớn Minh Tử Trực đứng coi,
    Cười rằng: "Hoa khéo làm mồi trêu ong.
    Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,
    Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi?
    Ca ca sao chẳng chịu đi[49],
    2060
    Về cho tẩu tẩu để khi xách giày".
    Mẹ con đứng thẹn thùng thay,
    Vội vàng cúi lạy chơn rày trở ra.
    Trở về chưa kịp tới nhà,
    Thấy hai con cọp chạy ra đón đàng.
    2065
    Thảy đều bắt mẹ con nàng,
    Đem vào lại bỏ trong hang Thương-tòng.
    Bốn bề đá lấp bịt bùng,
    Mẹ con than khóc khôn trông ra rồi.
    Trời kia quả báo mấy hồi,
    2070
    Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
    Làm người cho biết ngãi sâu,
    Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn.
    Đừng đừng theo thói mẹ con,
    Thác đà mất kiếp tiếng còn bia danh.

    ** *​

    2075
    Trạng nguyên về tới Đông-thành
    Lục ông trước đã xây dinh ở làng.
    Bày ra sáu lễ[50] sẵn sàng,
    Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.
    Sui gia đã xứng sui gia,
    2080
    Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
    Trăm năm biết mấy tinh thần,
    Sanh con sau nối gót lân[51] đời đời.






    Chú thích cuối trang[sửa]

    • Ra đời: ra hoạt động, giúp đời
    • Quy y: đi tu
    • Hẩm hút tương rau: cảnh nghèo
    • Minh sinh: mảnh lụa, vải hay giấy dài ghi tên họ, chức tước người chết để cúng
    • Người ta có tổ tiên cha mẹ như nước có nguồn cây có gốc
    • Chín trăng: chín tháng (mẹ mang thai con chín tháng)
    • Nằm giá: nằm trên băng giá. Sổ Liêu xưa nằm trên băng để băng tan, bắt được cá chép về cho mẹ ăn chữa bệnh. Khóc măng: Mạnh Tông thương mẹ vốn thích ăn măng. Mùa đông ông vào rừng kiếm măng không được, ôm trúc mà khóc, tự nhiên măng mọc
    • Nhị thập tứ hiếu: 24 gương hiếu xưa
    • Ra bề: ra bề thế
    • Biếm quyền: giáng chức quan
    • Hồ phương Bắc, Việt phương Nam
    • Chia bâu: chia li
    • Kiều công mong cho Nguyệt Nga sẽ thành gia thất và sinh được con hay
    • Kinh sư: kinh đô
    • Khôi khoa: đỗ đầu (trạng nguyên)
    • Chỉ: lệnh vua. Quốc trạng: trạng nguyên của cả nước. Dẹp loàn: dẹp loạn
    • Đề binh: đem binh đi đánh giặc
    • Bình di: dẹp giặc
    • Tương hội: cùng hội họp với nhau
    • Một tiếng truyền lệnh, oai hùng như sấm làm mọi người phấn khởi
    • Tiên phong: quân xông trận mặt trước. Hậu tập: quân đánh bọc mặt sau
    • Bình tặc: dẹp yên giặc
    • Binh đáo quan thành: quân đến trước cửa thành
    • Ra quân, chống trả
    • Dường lôi: như sấm sét đánh
    • Siêu: binh khí có lưỡi dài. Ngựa ô: ngựa lông đen
    • Không quản hiểm nghèo
    • Tam canh: canh ba
    • Nguyệt Nga không mong gặp được Vân Tiên như Chức Nữ gặp Ngưu Lang
    • Thề bể hẹn non, bền chặt
    • Bảng lảng bơ lơ: kinh ngạc ngẩn người
    • Khúc nôi: nỗi niềm, sự tình
    • Tẩu tẩu: chị dâu
    • Triều ca: buổi thiết triều. Đề huề: dắt tay nhau cùng đi
    • Qua mâu: binh khí thời xưa
    • Chậu úp: nói nơi tối tăm, ánh sáng không lọt tới, trong ngoài không thông nhau, ví nỗi oan không cách giải tỏ
    • Ghê phen: nhiều phen
    • Tướng ngỏ tôi hiền: khanh tướng và bầy tôi hiền
    • Chín trùng: vua
    • Đổng công: tức Đổng Trác
    • Ý nói thản nhiên như không
    • Bài vị: miếng gỗ hay mảnh giấy cứng, mặt có ghi tên người chết để thờ
    • Các thứ lớp từ trước đến nay
    • Chỉ Vân Tiên
    • Tuần dư: hơn mười ngày
    • Phòng: hóng chờ
    • Biêu: nêu lên cho mọi người biết
    • Ý câu: Vân Tiên bị xem là kẻ oán thù với nhà Thể Loan, thì Vân Tiên đã bị nhà Thể Loan hãm hại, tức là Vân Tiên trả xong nợ rồi
    • Ca ca: anh. Chịu đi: ưng thuận đi
    • Sáu lễ: sáu lễ trong việc cưới hỏi thời xưa
    • Gót lân: chỉ con cháu có tài đức
     

    Thống kê

    Chủ đề
    100,676
    Bài viết
    467,452
    Thành viên
    339,833
    Thành viên mới nhất
    duythinh2222
    Top