Nguồn nhân lực Việt Nam

MỤC LỤC
1.Lý do chọn đề tài: 2
2.Mục đích nghiên cứu: 3
4.Phạm vi nghiên cứu: 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu: 3
6. Phương pháp nghiên cứu: 4
7.Kết cấu đề tài: 4
PHẦN NỘI DUNG.. 4
CHƯƠNG 1:KHÁI QUÁT VỀ NGUỒN NHÂN LỰC.. 4
1.1. Khái niệm nguồn nhân lực: 4
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nhân lực. 5
1.2.1.Trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 5
1.2.2. Giáo dục và đào tạo. 6
1.2.3. Dân số. 7
1.2.4.Trình độ khoa học công nghệ. 7
1.2.5.Chính sách của kinh tế - xã hội của nhà nước. 7
1.3. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển bền vững của một số quốc gia trên thế giới 8
1.3.1.Kinh nghiệm của Mỹ: 8
1.3.2. Kinh nghiệm của Singapore: 9
1.3.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản: 10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM HIỆN NAY 13
2.1. Thực trạng về nguồn nhân lực của Việt Nam. 13
2.1.1. Lao động. 13
2.1.2. Trình độ văn hóa. 13
2.1.3. Đào tạo. 15
2.1.4.Trình độ chuyên môn kỹ thuật 15
2.1.5. Sử dụng nhân lực. 15
2.1.6.Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng. 16
2.2. Đánh giá chung về thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay. 17
2.2.1. Ưu điểm, lợi thế của nguồn nhân lực Việt Nam . 17
2.2.2 Nhược điểm, thách thức của nguồn nhân lực Việt Nam.. 20
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ CHO SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM... 22
3.1. Nâng cao trình độ văn hóa, thúc đẩy mạnh cải cách giáo dục. 22
3.2. Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực. 24
3.3. Đảm bảo nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực. 24
3.4. Chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam. 25





MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:

Thực tế đã chứng minh rằng: Nguồn nhân lực là tài sản quý báu nhất, quan trọng nhất trong quá trình phát triển của doanh nghiệp. Nhưng khi nói nguồn nhân lực là tài sản quý báu nhất, quan trọng nhất thì cần phải hiểu đó là những con người có tri thức, sáng tạo, đầy nhiệt huyết, tận tâm, và có trách nhiệm cho việc đạt tới tầm nhìn, sứ mạng của doanh nghiệp chứ không phải con người chung chung. Chất lượng nguồn nhân lực sẽ quyết định sự thành bại trong cạnh tranh. Điều này càng trở nên bức bách trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO và chủ động trong quá trình hội nhập quốc tế.
Khi mới bắt đầu mở cửa hội nhập, nhiều người tự hào cho rằng một trong những đặc tính hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là lao động giá rẻ và tự hào về vấn đề này. Quá trình hội nhập đã cho thấy rõ, lao động giá rẻ không phải là lợi thế, nó thể hiện sự yếu kém của chất lượng nguồn nhân lực và từ đó dẫn tới giá trị gia tăng thấp, sức cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế thấp, và cuối cùng dẫn tới chất lượng cuộc sống thấp.
Trong điều kiện toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và trong điều kiện của thế giới chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang văn minh tri thức ngày nay, bối cảnh cạnh tranh của thế giới cũng đã và đang thay đổi. Để đứng trong môi trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các nước nói chung và Việt Nam nói riêng phải xây dựng cho mình một đội ngũ cán bộ có chất lượng về năng lực, trình độ chuyên môn để đáp ứng đúng nhu cầu của xã hội cũng như theo kịp trình độ khoa học kĩ thuật tiến bộ của thế giới. Chính vì vậy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một chủ đề quan trọng cho sự tồn tại và phát triển bền vững của các quốc gia!
Tuy nhiên, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực hiện nay đang còn rất nhiều bất cập, biên chế nhiều nhưng không tinh, lực lượng lao động nhiều nhưng không mạnh. Bên cạnh đó sự mất cân bằng đối nghiêm trọng về cơ cấu trình độ, ngành nghề, kinh nghiệm,.. Nhìn chung nguồn nhân lực ở Việt Nam đều chưa đáp ứng được yêu cầu theo quy định.
Khi tìm hiểu về vấn đề “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” qua các giáo trình, tài liệu, công trình nghiên cứu khoa học, báo, tạp chí,… nhận thấy vấn đề này nhận được rất nhiều sự quan tâm. Từ đó rút ra được vấn đề cơ bản để giúp nâng cao nguồn nhân lực . Bên cạnh các vấn đề tích cực khi nâng cao nguồn nhân lực thì cũng có nhiều tiêu cực mà cần đưa ra được những giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển của đất nước.
Do đó, nhóm tôi đã chọn đề tài “ Phân tích giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển bền vững của Việt Nam.”
2.Mục đích nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu là đề xuất giải pháp định hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế- xã hội trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài là:
- Hệ thống hóa vấn đề lý luận về nhân lực và giải pháp nâng cao nguồn nhân lực của Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá giải pháp thực trạng công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất định hướng và một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giúp cho các nước nói chung và Việt Nam nói riêng có được đội ngũ lao động chất lượng trong thời gian tới.

3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
4.Phạm vi nghiên cứu:

Về mặt lý luận, chất lượng nguồn nhân lực là tổng hòa của 3 yếu tố: thể lực, trí lực và phẩm chất người lao động. Tuy nhiên, để có thể nghiên cứu sâu, đề cương chỉ tập trung nghiên cứu
- Tập trung nghiên cứu chất lượng nguồn nhân lực trong phạm vi nước Việt Nam
- Không gian nghiên cứu: Việt Nam.
- Thời gian nghiên cứu: 2005-2016.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Đề cương sẽ hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam, phải thu thập dữ liệu và phân tích các khía cạnh của nguồn nhân lực nhằm làm rõ thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay. Đồng thời đưa ra những ưu, nhược điểm để đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
6. Phương pháp nghiên cứu:

Sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh, trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật. Đề cương sử dụng số liệu của Tổng cục Thống kê, số liệu của các công trình, dự án, bài viết trên các sách, báo, tạp chí.
7.Kết cấu đề tài:

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Khái quát về nguồn nhân lực.
Chương 2: Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển bền vững của Việt Nam.

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1:KHÁI QUÁT VỀ NGUỒN NHÂN LỰC

1.1. Khái niệm nguồn nhân lực:

Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người của một quốc gia, vùng lãnh thổ có khả năng huy động, quản lý để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Theo nghĩa hẹp có thể lượng hóa được là một bộ phận của dân số bao gồm những người trong độ tuổi quy định, có khả năng lao động, không kể đến trạng thái có hay không làm việc. Tại Điều 6 và Điều 145 Bộ Luật lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định độ tuổi lao động của nam là từ 15-60 tuổi và của nữ là từ 15-55 tuổi.
Theo từng mức độ, nguồn nhân lực có thể chia thành các loại sau:
- Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng và nhu cầu lao động.
- Nguồn nhân lực tham gia làm việc trong thị trường lao động, nguồn lực này được gọi là lực lượng lao động.
- Nguồn nhân lực dự trữ bao gồm những người trong độ tuổi lao động nhưng không có nhu cầu hay không tham gia lao động có ký kết hợp đồng đó là những bà nội trợ và người thất nghiệp.
Các định nghĩa trên khác nhau về việc xác định quy mô nguồn nhân lực, nhưng đều có chung một ý nghĩa nói lên khả năng lao động của xã hội. Theo khái niệm trên, số lượng nguồn nhân lực được xác định dựa trên quy mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính, sự phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ của dân số.
Nguồn nhân lực không chỉ được xem xét dưới góc độ số lượng mà còn ở khía cạnh chất lượng. Chất lượng nguồn nhân lực là một khía cạnh tổng hợp, bao gồm cả trí lực, thể lực, đạo đức và phẩm chất. Nó thể hiện trạng thái nhất định của nguồn nhân lực với tư cách vừa là một khách thể vật chất đặc biệt vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội. Các yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, là tiền đề phát triển của nhau. Muốn nâng cao nguồn nhân lực phải nâng cao cả ba mặt là trí lực, thể lực và đạo đức, phẩm chất. Tuy nhiên mỗi yếu tố trên lại liên quan đến một lĩnh vực rất rộng lớn. Thể lực và tình trạng sức khỏe gắn với chế độ dinh dưỡng, y tế và chăm sóc sức khỏe. Trí lực gắn với lĩnh vực giáo dục đào tạo, còn phẩm chất, đạo đức gắn liền với truyền thống văn hóa dân tộc, nền tảng văn hóa và thể chế chính trị. Do đó, để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực thường xem xét trên ba mặt là sức khỏe, trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật và phẩm chất của người lao động.

1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nhân lực

Như đã chỉ ra ở trên, chất lượng nguồn nhân lực liên quan đến nhiều lĩnh vực, do đó nó chịu chi phối của rất nhiều yếu tố và dưới đây là các nhân tố chủ yếu có ảnh hưởng lớn nhất:
1.2.1.Trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước

Trình độ phát triển kinh tế xã hội là tấm gương phản ánh chính xác, trung thực mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và phát triển nguồn nhân lực. Trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước là động lực, là nền tảng quan trọng để nâng cao mọi mặt đời sống dân cư của một quốc gia. Kinh tế phát triển tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Khoản ngân sách nhà nước nói chung và kinh tế gia đình nói riêng không ngừng tăng lên tạo điều kiện để đầu tư tái tạo lại giáo dục. Và nền giáo dục lại tác động trực tiếp tới sự gia tăng về trí tuệ, kĩ năng của người lao động, tức chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện.
Sự phát triển kinh tế với cơ cấu biến đổi theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ , giảm nông nghiệp dẫn đến sự phân bố lao động trong các lĩnh vực hoạt động đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, có khả năng tự học hỏi, thích ứng với nền sản xuất mới.
Bên cạnh mặt tích cực của quá trình tăng trưởng kinh tế cũng có một số ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực. Tăng trưởng kinh tế thường gắn liền với quá trình đô thị hóa, thay đổi trong lối sống. Các nghiên cứu cho thấy quá trình đô thị hóa gắn liền với mức độ ô nhiễm môi trường tăng cao, tỷ lệ tai nạn gia tăng đáng kể gây ảnh hướng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân, tồn tại phổ biến đồng thời mô hình bệnh tật của nước nghèo và của “mức sống cao” .
1.2.2. Giáo dục và đào tạo

Trong các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực thì trí tuệ và sự sáng tạo là yếu tố quyết định trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đảm nhận trọng trách lớn lao này chính là giáo dục và đào tạo. Sự phát triển giáo dục ở mỗi quốc gia có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển nguồn nhân lực phục vụ các quá trình kinh tế - xã hội chính của mỗi quốc gia và ngược lại, sự phát triển của hệ thống giáo dục ở mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ nào đó diễn ra chậm chạp thì chính quốc gia ấy sẽ gặp bất lợi trong quá trình phát triển. Trình độ phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân đặc biệt là hệ thống đào tạo nguồn nhân lực càng kém bao nhiêu thì chất lượng nguồn nhân lực càng yếu bấy nhiêu.
Trong bối cảnh thay đổi công nghệ nhanh, giáo dục giữ vai trò chủ yếu trong tiếp thu và phát triển công nghệ. Các nước đang phát triển có thể tham gia vào hưởng lợi của tiến bộ công nghệ hay không phụ thuộc vào điều kiện tiên quyết là giáo dục. Giáo dục cơ bản là nền tảng để tạo ra một xã hội học vấn, nhưng chưa đủ để quốc gia cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Giáo dục đại học mới có khả năng đào tạo những con người có khả năng theo dõi các khuynh hướng công nghệ, đánh giá được sự thích ứng của chúng đối với những triển vọng của đất nước và giúp xây dựng, triển khai một chiến lược phát triển công nghệ quốc gia thích hợp. Chiến lược phát triển cho phần lớn các quốc gia đang phát triển là thu nhận được công nghệ nước ngoài giá rẻ và có thể sử dụng nó một cách hiệu quả nhất bằng cách thích nghi nó với các điều kiện của địa phương. Những khám phá khoa học và phát minh không chỉ đòi hỏi phải có nguồn tài chính dồi dào mà còn cần lực lượng lao động có chất lượng cao với năng lực tinh vi của con người và sự nhạy bén kinh doanh để thắng lợi trong cạnh tranh.
1.2.3. Dân số

Dân số là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng lao động của mỗi quốc gia. Số lượng lao động phụ thuộc vào tốc độ gia tăng dân số, quy mô dân số và chất lượng dân cư. Hiện tại Việt Nam đang nằm ở “điểm rơi vàng” của dân số thế giới, số lượng dân cư trong độ tuổi lao động lớn tạo nên một nguồn nhân lực dồi dào vững mạnh.
1.2.4.Trình độ khoa học công nghệ

Khoa học và công nghệ và nền kinh tế tri thức có tác động trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, làm thay đổi quá trình tổ chức, trình độ chuyên môn và là động lực để người lao động không ngừng học hỏi, tự đào tạo và trau dồi kiến thức. Tuy là nước đi sau về công nghệ, nhưng các nước Đông Á đã rất thành công trong phát triển kinh tế nhờ thích nghi rất tốt công nghệ nước ngoài do các nước này có một lực lượng lao động kỹ thuật cao, đặc biệt khi các công nghệ thay đổi nhanh chóng.
1.2.5.Chính sách của kinh tế - xã hội của nhà nước

Các chính sách y tế và chăm sóc sức khỏe, chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách tiền lương, chính sách phân bổ và thu hút nhân tài,… của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nguồn nhân lực. Các chính sách tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao thể trạng lao động, giúp người lao động có tâm hồn trong sáng, tinh thần thoải mái. Chính sách phân bổ và thu hút nhân tài tạo động lực để nguồn lao động phấn đấu và cống hiến. Chính sách về tiền lương, bảo hiểm xã hội và các chính sách an sinh xã hội phù hợp sẽ là động lực thôi thúc tinh thần sáng tạo, ý thức trách nhiệm, tinh thần kỷ luật của người lao động. Khi mà cơ hội thăng tiến rộng mở trên tiêu chí phẩm chất đạo đức và tài năng của lao động là nền móng để người lao động phát huy tối đa sự sáng tạo trong công việc, là bệ phóng để họ khẳng định tài năng và chuyên tâm lao động, sản xuất cống hiến cho đất nước.
Ngoài ra, những chính sách về quản lý xã hội, quản lý kinh tế, chính sách phân phối, đặc biệt là chính sách trả công lao động cũng có ảnh hưởng rất lớn. Chúng có thể kìm hãm, triệt tiêu hoặc nhân lên nhiều lần những yếu tố tốt của chất lượng nguồn nhân lực. Nếu trả công đúng theo chất lượng và hiệu quả của lao động sẽ khuyến khích học tập và rèn luyện để nâng cao kỹ năng, kiến thức. Ngược lại, chế độ phân phối bình quân sẽ hạn chế tính năng động và sáng tạo của người lao động.
1.3. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển bền vững của một số quốc gia trên thế giới

Trên thế giới có nhiều quốc gia đạt được thành công trong tăng trưởng và phát triển kinh tế nhờ chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người. Do đó việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước này không chỉ góp phần luận chứng các luận điểm đã nêu ở trên mà còn cung cấp bài học bổ ích vận dụng trong quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở Việt Nam. Kinh nghiệm và xu hướng phát triển nguồn nhân lực của các nước phát triển hàng đầu:
1.3.1.Kinh nghiệm của Mỹ:

Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới và cũng là quốc gia có nền khoa học – công nghệ tiên tiến nhất. Năm 2012, dân số của Mỹ là 314,07 triệu người. Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2011 là 0,910, GDP năm 2011 là 15.094 tỷ USD, GDP bình quân đầu người năm 2011 là 48.386 USD. Để có kết quả như trên, Mỹ đã trải qua hơn 200 năm phát triển với triết lý thực dụng và phương châm “nguồn nhân lực là trung tâm của mọi phát triển”. Mỹ đã đưa ra chiến lược xây dựng nguồn nhân lực với hai hướng chủ lực: tập trung cho đầu tư giáo dục – đào tạo và thu hút nhân tài.
Về phát triển giáo dục – đào tạo: Mỹ được xem là quốc gia không thành công trong giáo dục phổ thông nhưng lại là một điển hình cần được nhân rộng trong giáo dục đại học. Hệ thống giáo dục đại học của Mỹ được xây dựng với hai đặc trưng cơ bản là tính đại chúng và tính khai phóng. Với hơn 324 triệu dân nhưng Mỹ có tới hơn 4.200 trường đại học. Theo kết quả đánh giá và xếp hạng các trường đại học hàng đầu thế giới thì Mỹ có tới 88/200 trường đại học hàng đầu thế giới, chiếm 44%. Mỹ phát triển rộng rãi hệ thống đại học cộng đồng (nơi đào tạo đại trà, giải quyết số lượng), tỷ lệ là 1/30. Tức là cứ có một trường đại học nghiên cứu thì có 30 trường đại học cộng đồng. Mức học phí cũng khác nhau phù hợp với mọi đối tượng, học phí trường đại học cộng đồng rẻ hơn nhiều so với đại học nghiên cứu. Với hệ thống giáo dục đại học đa dạng (trường công lập, trường tư thục, trường cộng đồng …), nước Mỹ đã đào tạo được một nguồn nhân lực chất lượng cao đồi dào, chiếm tới 40% tổng số lực lượng lao động quốc gia.
Về thu hút nhân tài: Chính phủ Mỹ không chỉ chú ý đến việc đào tạo mà còn chú trọng việc thu hút và sử dụng nhân lực, đặc biệt là người tài từ các quốc gia khác. Những nhân tài kiệt xuất của nước Đức, những nhà khoa học lỗi lạc của Nga và châu Âu, những chuyên gia tầm cỡ quốc tế của Ấn Độ, Trung Quốc và nhiều quốc gia đang phát triển khác đã “hội tụ” về Mỹ. Hiện nay toàn cầu có 1,5 triệu lưu học sinh và học giả đang học tập hoặc làm công tác nghiên cứu ở nước ngoài, trong đó có 500.000 người tập trung ở Mỹ. Con số này làm cho Mỹ trở thành quốc gia của người nhập cư. Trong quá trình thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nước Mỹ đặc biệt chú trọng thu hút đội ngũ các nhà khoa học sáng chế và đội ngũ chuyên gia trong các ngành công nghệ cao, tạo điều kiện tốt về lương, chỗ ở, điều kiện đi lại…để các chuyên gia làm việc và cống hiến.
Như vậy, nhờ có chiến lược và chính sách đúng qua hơn 200 năm phát triển, nền giáo dục Mỹ đã phát triển mạnh và là một trong những nền giáo dục tốt nhất thế giới. Nền giáo dục này đã tạo ra một lớp công dân có trình độ học vấn cao, tay nghề vững và kỹ năng giỏi, góp phần đưa đất nước lên vị trí siêu cường về kinh tế và khoa học – công nghệ.

1.3.2. Kinh nghiệm của Singapore:

Từ khi tách khỏi Malaysia năm 1965, Singapore đã thực hiện thành công nhiều giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau, bao gồm giai đoạn công nghiệp hóa (1960 – 1970), giai đoạn tái cấu trúc nền kinh tế (1970 – 1980), và giai đoạn phát triển công nghệ cao để xây dựng nền kinh tế tri thức (từ 1990 đến nay). Singapore là quốc gia có diện tích nhỏ, dân số không đông (5,1 triệu người năm 2010), tài nguyên thiên nhiên ít, nông nghiệp chiếm tỷ trọng 0%, GDP bình quân đầu người năm 2011 là 59.711 USD. Để đạt được mục tiêu trên là kết quả của rất nhiều nỗ lực của Chính phủ Singapore. Một trong những chính sách được đánh giá cao nhất của Chính phủ Singapore là chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao để mở rộng và phát triển khoa học và công nghệ cho nền kinh tế, từ đó đưa nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao.
Giáo dục – đào tạo, vốn được đặc biệt coi trọng ở Singapore, lại tiếp tục được nhận thức như là chìa khóa để củng cố nhân lực, phát triển đất nước. Các nhà lãnh đạo Singapore quan niệm rằng: thắng trong cuộc đua về giáo dục sẽ thắng trong cuộc đua về phát triển kinh tế. Vì vậy, chính phủ Singapore đã thực hiện những bước đi trọng tâm trong giáo dục để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính phủ Singapore đã dành một khoản đầu tư rất lớn để phát triển giáo dục. Từ mức đầu tư khoảng 3% GDP những năm 1990 đã tăng dần lên 3,6%, 4% và dự kiến tăng lên tới 5% trong những thập niên đầu thế kỷ XXI. Mức chi cho giáo dục tài khóa 2007 – 2008 là 6,796 tỷ đô la Singapore (SGD), 2008 – 2009 là 8,22 tỷ SGD và 2009 – 2010 là 8,7 tỷ SGD. Để phát triển nguồn nhân lực phục vụ quá trình phát triển kinh tế, Singapore đã xây dựng một hệ thống trường cao đẳng nghề, trường đại học quy mô lớn và khuyến khích các công ty tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
Ngoài việc đầu tư mạnh cho giáo dục – đào tạo, Singapore còn được đánh giá là một trong những quốc gia có chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là nguồn nhân lực tài năng bài bản nhất thế giới. Quốc gia này coi việc thu hút nhân tài là chiến lược ưu tiên hàng đầu. Chính phủ Singapore đã xây dựng chính sách sử dụng người nhập cư hay còn gọi là chính sách tuyển mộ nhân tài nước ngoài như đòn bẩy về nhân khẩu để bù vào sự thiếu hụt lực lượng lao động người bản địa. Nguồn nhân lực có kinh nghiệm và chất lượng tốt ở nước ngoài được tuyển dụng một cách tích cực và có hệ thống bổ sung cho những khu vực còn hạn chế của nguồn nhân lực trong nước. Những người này được trợ giúp để cư trú tại Singapore. Chính phủ Singapore miễn xét thị thực cho du học sinh quốc tế, không đòi hỏi phải chứng minh tài chính, chi phí học tập vừa phải, môi trường học tập hiện đại, các ngành nghề đào tạo đa dạng.
Như vậy, là một quốc gia đi lên từ điểm xuất phát thấp và đạt được nhiều thành tựu ấn tượng mà cả thế giới phải thừa nhận. Có thể nói Singapore đã biến việc trọng dụng nhân tài trở thành một thương hiệu quốc gia, từ đó, tạo lực kéo người đến và giữ người ở lại phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Singapore được coi là hình mẫu cho các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới.

1.3.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản:

Nhật là nền kinh tế đứng thứ ba thế giới, diện tích 378 ngàn km2 , dân số 127,8 triệu người (2011), chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2011 là 0,901, GDP bình quân đầu người năm 2011 là 34.739 USD. Nhật là một trong những nước có sự thành công trong phát triển kinh tế với tốc độ nhanh dựa trên nguồn nhân lực kỹ thuật được đào tạo tốt, có đủ khả năng, trình độ tiếp thu, lĩnh hội kỹ thuật, công nghệ tiên tiến nhập khẩu. Có thể nói, Nhật là nước đầu tiên ở châu Á đi đầu trong phát triển nguồn nhân lực. Xuất phát từ việc Nhật nghèo về tài nguyên thiên nhiên, lại luôn gặp thiên tai, phần lớn nguyên nhiên vật liệu lại nhập khẩu, nền kinh tế Nhật lại bị phá hủy trong Chiến tranh thế thới thứ hai. Sau đại chiến thế giới thứ hai, Chính phủ Nhật ưu tiên tuyển chọn, đào tạo những người tài giỏi thích hợp cho công cuộc hiện đại hóa đất nước. Nhật đã có nhiều chính sách đào tạo trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học nhằm xóa khoảng cách về khoa học – công nghệ giữa Nhật và các nước tiên tiến khác. Chính phủ Nhật đã triển khai thực hiện triết lý phát triển: con người Nhật cộng với khoa học kỹ thuật phương Tây.
Để đảm bảo nguồn nhân lực thường xuyên cho phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành hệ thống giáo dục – đào tạo nghề trong các công ty, doanh nghiệp. Cùng với việc tăng cường giáo dục – đào tạo (nhất là đào tạo nghề), Chính phủ có chính sách ưu đãi đối với lực lượng lao động có tay nghề cao, chuyên môn giỏi, đồng thời khích lệ hoạt động sáng tạo của người lao động luôn thích ứng với mọi điều kiện. Về sử dụng và quản lý nguồn nhân lực, Nhật thực hiện chế độ lên lương và tăng thưởng theo thâm niên.
Như vậy, phương thức đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực của Nhật là nhằm phát huy cao độ tính chủ động sáng tạo của người lao động; tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có khả năng thích ứng nhanh với điều kiện làm việc luôn thay đổi và nhạy bén trong việc làm chủ công nghệ và các hình thức lao động mới.

Những bài học quan trọng rút ra từ việc khảo cứu là:
Các nước đều có sự quan tâm đặc biệt tới việc phát triển nguồn nhân lực và thấy rõ vai trò quan trọng của vấn đề này trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Mỗi quốc gia trong quá trình phát triển đều xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho từng giai đoạn nhất định. Chẳng hạn, mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đến năm 2020 là đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực phải gắn với quá trình công nghiệp hóa, phải tạo ra lực lượng lao động thúc đẩy mạnh mẽ quá trình này.
- Thứ nhất, thực hiện mô hình giáo dục đại học đại chúng để gia tăng nguồn nhân lực chất lượng cao. Để gia tăng nhanh chóng số lượng nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phải thực hiện mô hình giáo dục đại học cho số đông. Trong mô hình này có sự kết hợp giữa đào tạo chuyên sâu mang tính nghiên cứu với đào tạo đại trà mang tính cộng đồng. Mô hình giáo dục này được thực hiện thông qua việc thành lập mới các trường đại học trong nước và quốc tế, đẩy mạnh việc liên kết đào tạo giữa các trường đại học trong nước và các trường nước ngoài, đặc biệt là với các nước có nền giáo dục tiên tiến. Có quy định pháp lý rõ ràng về hệ thống đại học công và đại học tư, trong đó quan niệm rõ ràng về đại học tư vị lợi và đại học tư vô vị lợi.
- Thứ hai, Nhà nước cần chú trọng đầu tư để phát triển giáo dục đại học quốc gia, phải thực sự coi giáo dục đại học là quốc sách hàng đầu. Việc đầu tư lớn phải kết hợp với việc quản lý hiệu quả nguồn đầu tư, tránh thất thoát, lãng phí. Trong quá trình đầu tư, không nên dàn trải, cào bằng. Cần đầu tư có trọng điểm để có những đại học thực sự trở thành những đại học tiêu biểu. Tận dụng và phát huy khả năng tài chính của các cá nhân, tổ chức nhằm đầu tư cho nền giáo dục quốc gia. Xây dựng đội ngũ giảng viên đại học có đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng. Đội ngũ giảng viên đại học cần được đào tạo trong nước, gửi đi đào tạo ở nước có nền giáo dục tiên tiến. Ngoài việc đào tạo, cần thu hút những giáo sư, những chuyên gia, những nhà hoạt động thực tiễn tài năng là Việt kiều hoặc người ngoại quốc tham gia vào đội ngũ cán bộ giảng dạy bậc đại học ở Việt Nam.
- Thứ ba, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu thị trường lao động theo ngành nghề. Trong thực tế phát triển đất nước hiện nay, đào tạo nguồn nhân lực cần phải đi theo nhu cầu thực tế của xã hội. Các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp tập trung đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến như báo cáo chính trị đại hội VIII đã chỉ ra. Nhân lực được đào tạo có chất lượng, cơ cấu hợp lý là nhân tố quan trọng để thực hiện chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế có tỉ trọng nông nghiệp khá cao như nước ta sang nền kinh tế có tỉ trọng đóng góp chủ yếu từ công nghiệp và dịch vụ. Chương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cần gắn bó chặt chẽ với các chương trình phát triển khoa học – công nghệ mũi nhọn nhằm khắc phục sự bất hợp lý về cơ cấu đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật, sự mất cân đối nghiêm trọng trong phân phối cán bộ giữa khu vực sản xuất vật chất và phi vật chất, giữa thành thị và nông thôn, giữa khu vực quốc doanh và khu vực tư nhân.
- Thứ tư, quan tâm tạo điều kiện tốt cho nguồn nhân lực trẻ tài năng. Thế hệ trẻ là tương lai của mỗi quốc gia. Vì vậy, quốc gia nào biết quan tâm, tạo điều kiện để lực lượng nhân lực trẻ phát huy tối đa khả năng thì họ sẽ góp phần to lớn vào quá trình phát triển vững vàng của quốc gia trong tương lai. Lao động chất lượng cao phải được trả giá cao, tương xứng để thúc đẩy khả năng sáng tạo của họ. Cần áp dụng thước đo của thị trường để trả công xứng đáng cho những tài năng ở cả khu vực công và khu vực tư. Đặc biệt, vấn đề thu nhập trong khu vực công cần được điều chỉnh một cách mềm dẻo, linh hoạt để thích ứng với những biến động của thị trường lao động. Chỉ có như thế mới giữ được những người tài năng làm việc lâu dài trong khu vực công.
- Thứ năm, tăng cường công tác đào tạo nghề cho người lao động, hoàn thiện hệ thống đào tạo từ bậc phổ thông, đào tạo nghề, đào tạo đại học. Xây dựng chương trình hướng nghiệp cho học sinh phổ thông và bắt buộc thực hiện ở các trường; hoàn thiện hệ thống giáo trình ở các trường đào tạo theo hướng các trường tự xây dựng giáo trình và phải đáp ứng các tiêu chuẩn quốc gia theo quy định; chương trình đào tạo nghề cần tăng cường giờ thực hành nhiều hơn nữa. Thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho người lao động để đáp ứng nhu cầu của công việc. Xây dựng mối quan hệ giữa trường đào tạo và doanh nghiệp, thông qua chính sách, cơ chế hoạt động và khuyến khích các doanh nghiệp gắn với các trường đào tạo và ngược lại các trường đào tạo gắn với doanh nghiệp đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng lao động một cách có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của lao động của doanh nghiệp.
- Thứ sáu, phát triển nguồn nhân lực phải dựa trên cơ sở kế thừa và phát huy giá trị văn hóa truyền thống kết hợp với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đây là bài học kinh nghiệm sâu sắc của nhiều nước, mà thành công nhất là Nhật, Singapore, Trung Quốc… Việt Nam có hệ giá trị văn hóa truyền thống hàng ngàn năm, trong đó nổi bật là “chủ nghĩa yêu nước”. Những giá trị này cần được kế thừa và phát huy trong điều kiện hội nhập quốc tế. Đồng thời, cần tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của nền văn minh nhân loại. Phát triển nguồn nhân lực phải gắn liền với nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.
Những phân tích ở trên cho thấy nguồn nhân lực luôn luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên , ở mỗi trình độ, giai đoạn phát triển đòi hỏi những tiêu chuẩn khác nhau, do đó phát triển nguồn nhân lực nói chung là yêu cầu tất yếu, khách quan.
CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM HIỆN NAY
Như phần trên đã trình bày, nguồn nhân lực có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên ở mỗi trình độ, giai đoạn phát triển đòi hỏi nguồn nhân lực những tiêu chuẩn khác nhau, do đó việc nâng cao chất lượng là yêu cầu tất yếu, khách quan và cần được thực hiện thường xuyên, liên tục thông qua những chiến lược và giải pháp cụ thể. Để có thể đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính định hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần phải đánh giá đúng thực trạng cũng như phân tích cụ thể các yếu tố ảnh hưởng.
2.1. Thực trạng về nguồn nhân lực của Việt Nam.

Vấn đề nguồn nhân lực thực chất là vấn đề con người. Xây dựng nguồn nhân lực Việt Nam tức là xây dựng con người Việt Nam có đủ tầm vóc, tố chất, tiêu chuẩn, tài đức, đủ sức đảm đương công việc được giao.
Theo tổ chức y tế thế giới WHO, Việt Nam có quy mô dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố không đều và có sự khác biệt lớn theo vùng. Dân cư Việt Nam phần đông vẫn còn là cư dân nông thôn (khoảng 68 % - năm 2013). Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá; tuổi thọ trung bình tăng khá nhanh (năm 2013 đạt 73,1 tuổi).
2.1.1. Lao động

Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người; hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể lực và tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao, tuy nhiên so với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Trung Quốc,..) nói chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo dai. Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, tuy nhiên ý thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm,… còn nhiều hạn chế.
2.1.2. Trình độ văn hóa

Số lượng người biết chữ của lao động Việt Nam là khá cao so với các nước có cùng mức thu nhập.
Bảng 2-2. Trình độ văn hóa của lực lượng lao động
Đơn vị tính: Phần trăm
Trình độ học vấn
Tổng số
Nam
Nữ
Tổng số
100
100
100
Chưa đi học
3,7
2,7
4,7
Chưa tốt nghiệp tiểu học
11,3
10
12,7
Tốt nghiệp tiểu học
23,7
23
24,4
Tốt nghiệp THCS
30,3
30,4
30,2
Tốt nghiệp THPT
12,5
13,1
11,9
Có trình độ chuyên môn kỹ thuật
18,2
20,4
15,8

Nguồn: Tổng hợp số liệu thống kê lao động việc làm ở Việt Nam năm 2014, Nxb Lao động- Xã hội
Nhìn vào bảng số liệu trên,có thể thấy trình độ học vấn cấp THCS ở nước ta là cao nhất (chiếm 30.3%), số người không biết chữ chiếm tỷ lệ nhỏ(3.7% trên cả nước). Mặc dù tỷ lệ người biết chữ khá là cao nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật của nước ta còn thấp(chỉ đạt 18.2%). Cụ thể: lao động nam chiếm 20.4% cao hơn so với lao động nữ (15.8%), tỷ lệ lao động nữ được đào tạo có trình độ chuyên môn kỹ thuật rất ít và còn chênh lệch khá nhiều so với nam giới.
Vì vậy, phát triển giáo dục, đào tạo lao động có trình độ chuyên môn cao là việc làm cần thiết hiện nay-đặc biệt là lao động nữ.
2.1.3. Đào tạo

Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực. Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng là 2.058.922 người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
2.1.4.Trình độ chuyên môn kỹ thuật

Bên cạnh trình độ văn hóa, chất lượng nguồn nhân lực còn được phản ánh bởi trình độ chuyên môn kỹ thuật thể hiện ở số lượng, cấp bậc và cơ cấu của lao động qua đào tạo.
Tỷ trọng lực lượng lao động đã qua đào tạo ở nước ta vẫn còn thấp (Bảng 2-3). Trong tổng số 53,487 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động của cả nước, chỉ có 9,99 triệu người được đào tạo, chiếm 18,6% tổng lực lượng lao động. Ngược lại, tính đến năm 2014 cả nước có khoảng 43,76 triệu người ( chiếm 81,4% lực lượng lao động) chưa được đào tạo để đạt một trình độ chuyên môn kỹ thuật ( CMKT) nào đó. Như vậy, nguồn lực của nước ta trẻ và dồi dào nhưng trình độ tay nghề và chuyên môn kỹ thuật còn thấp.
Bảng 2-3: Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo năm 2014
Đơn vị tính: Phần trăm
Nơi cư trú/vùng
Tổng số
Dạy nghề
Trung cấp
Cao đẳng
Đại học trở lên
Cả nước
18,6
4,9
3,7
2,2
7,8
Nam
20,8
7,6
3,4
1,7
8,1
Nữ
16,3
2,2
4,0
2,8
7,4
Thành thị
34,7
7,8
5,7
3,3
1,80
Nông thôn
11,5
3,7
2,9
1,7
3,3


2.1.5. Sử dụng nhân lực

Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong nền kinh tế là khá cao. Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá XIII, nền kinh tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58-1,6 triệu việc làm mới; tỷ lệ thất nghiệp là 2,18% (trong đó thành thị là 3,59%, nông thôn là 1,54%), tỷ lệ thiếu việc làm là 2,75% (trong đó thành thị là 1,48%, nông thôn là 3,31%).
Với tình trạng đó, Nhà nước ta cần cơ cấu lại việc làm, phân bổ hợp lý. Bên cạnh đó cần chú trọng công tác đào tạo tay nghề, tổ chức các buổi hướng nghề hướng nghiệp.
2.1.6. Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng


Theo cách tính năng suất lao động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số người làm việc bình quân trong 1 năm, năng suất lao động năm 2005 là 21,4 triệu đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu đồng/người, sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người.



Như vậy, có thể nói đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng lượng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh doanh, từng bước tiếp cận trình độ quốc tế.

2.2. Đánh giá chung về thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay.

2.2.1. Ưu điểm, lợi thế của nguồn nhân lực Việt Nam .

Một trong những ưu thế của lao động Việt Nam hiện nay là nguồn nhân lực dồi dào. Đó là do quy mô dân số lớn, cơ cấu dân số trẻ được coi là “cơ cấu vàng” nên số người lao động trong độ tuổi lao động cũng lớn. Tỷ lệ tăng bình quân năm của nguồn nhân lực qua nhiều năm đều lớn hơn tỷ lệ tăng dân số, hệ số phụ thuộc có xu hướng giảm. Vì vậy quy mô nguồn nhân lực lớn thể hiện: Tại thời điểm 1/7/2005, lực lượng lao động nói chung của cả nước là 43.255,3 nghìn người, tăng gần 2,7% so với cùng thời điểm năm 2004 với quy mô tăng thêm là 1.130,6 nghìn người. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động có 40.805,3 nghìn người chiếm 94,3%, tăng 2,4% so với cùng thời điểm năm 2004, với quy mô tăng thêm là 939,3 nghìn người.
Năm
2004
(nghìn người)
2005
(nghìn người)
Dân số trong và trên độ tuổi lao động
42.124,7
43.255,3
Dân số trong độ tuổi lao động
39.866.0
40.805,3

Bảng 1: Quy mô nguồn nhân lực
Với ưu thế này nếu được khai thác triệt để sẽ là yếu tố quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước.
Một ưu thế khác là nước ta có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số lớn. Tại thời điểm 1/7/2005 tính chung cả nước tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số từ đủ 15 tuổi trở lên là 71,4%, giảm 0,6% so với thời điểm 1/7/2004. Ở khu vực thành thị là 63,2% ( giảm 1,1%), khu vực nông thôn là 74,6% ( giảm 0,3%).
Năm
2004(%)
2005(%)
Khu vực thành thị
64,3
63,2
Khu vực nông thôn
74,9
74,6
Chung
72,0
71,4

Bảng 2: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 2004,2005
Nhờ chính sách cải cách đổi mới phát triển kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực đã được nâng cao nhiều. Trình độ học vấn và dân trí của nguồn nhân lực Việt Nam là khá cao. Trong những năm qua do Đảng và nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo nên đã đạt được một số thành tựu nhất định. Việt Nam được Liên Hợp Quốc đánh giá cao về chỉ số phát triển con người: chỉ số HDI đạt 0,682 cao hơn nhiều nước trong khu vực. Tỷ lệ mù chữ của lực lượng lao động cả nước là 5,01%, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cơ sở là 3,28%, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học là 19,7%, so với thời điểm 1/4/2004 tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cơ sở tăng 2,6%, tốt nghiệp phổ thông trung học tăng 1,4%.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực không ngừng được nâng cao. Tỷ lệ đã qua đào tạo nói chung của lực lượng lao động là 22,5% tăng nhiều so với các năm trước trong đó tỷ lệ đã qua đào tạo nghề ( bao gồm đào tạo nghề ngắn hạn và dài hạn không phân biệt có hoặc không có chứng chỉ hoặc bằng nghề và tốt nghiệp sơ cấp) là 13,3%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,4%; tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên là 4,8%.So với thời điểm 1/7/2004, tỷ lệ đã qua đào tạo nói chung của lực lượng lao động cả nước tăng 1,5%; trong đó tỷ lệ đã qua đào tạo nghề tăng 0,8%; tỷ lệ tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp tăng 0,3%; tỷ lệ tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên tăng 0,4%.
Năm
2004(%)
2005(%)
Mù chữ
4,31
5,01
Tốt nghiệp PTCS
30,2
32,8
Tốt nghiệp PTTH
18,3
19,7

Bảng 3: Tỷ lệ trình độ học vấn phổ thông của nguồn nhân lực Việt Nam
Năm
2004(%)
2005(%)
Tỷ lệ đã qua đào tạo nói chung
21,0
22,5
Tỷ lệ đã qua đào tạo nghề
12,5
13,3
Tỷ lệ tốt nghiệp THCN
4,1
4,4
Tỷ lệ tốt nghiệp CĐ,ĐH trở lên
4,4
4,8

Bảng 4: Tỷ lệ nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật ở Việt Nam.
Công tác nghiên cứu khoa học cũng được chú trọng. Chúng ta cũng đã phát triển được một đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đông đảo. Nhiều nhà kinh tế, nhiều cán bộ khoa học của Việt Nam cũng đã tiếp thu và tiếp cận được với nhiều tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới; nhiều công nhân, lao động Việt Nam thông qua xuất khẩu lao động và các chuyên gia nước ngoài đã có điều kiện tiếp cận được với những máy móc thiết bị hiện đại và tác phong lao động công nghiệp. Qua chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng đã được nâng cao hơn.
Nguồn nhân lực nước ta còn có lợi thế là được tiếp thu truyền thống lịch sử của đất nước: Truyền thống cần cù, siêng năng, chịu khó, yêu lao động. Người lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, cần cù, khéo léo, có trình độ dân trí, học vấn khá cao so với mức thu nhập quốc dân, tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ của thế giới. Đây là lợi thế so sánh có ý nghĩa đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình tham gia hội nhập.
2.2.2. Nhược điểm, thách thức của nguồn nhân lực Việt Nam

Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam đạt mức 3,79/10 điểm, xếp hạng thứ 11 trên 12 quốc gia được khảo sát tại châu Á. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91/10 điểm, Ấn Độ đạt 5,76/10 điểm, Malaysia đạt 5.59/10 điểm. Đánh giá này cũng cho biết nhân lực nước ta yếu về chất lượng, thiếu năng động và sáng tạo, tác phong lao động công nghiệp. Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị đó. Đây cũng là nhận định của các chuyên gia trong nước: chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam thấp và có khoảng cách lớn với các nước trong khu vực.
Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả. Theo số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo nghề chiếm gần 85% (thành thị 71%, nông thôn 91%), đa số doanh nghiệp sử dụng lao động (82%-WB) chưa hài lòng về chất lượng lao động, nhất là kĩ năng làm việc của người lao động. Cơ cấu phân bố lao động theo ngành nghề mất cân đối. Tỷ lệ lao động làm việc cho các ngành cần tăng tốc phát triển giai đoạn 2011-2020 phục vụ công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước như: Công nghệ thông tin, công nghiệp phụ trợ, y tế, giáo dục – đào tạo.... chỉ xấp xỉ 1% mỗi ngành, trong khi có tới 47,4% lao động làm việc trong khu nông-lâm-ngư nghiệp hoặc lao động giản đơn. Cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực không hợp lý. Tỷ lệ đào tạo đại học, cao đẳng so với trung cấp, công nhân kỹ thuật nghề là 7/3 dẫn tới tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”. Sinh viên ra trường khó tìm được công việc phù hợp, thiếu kỹ năng hòa nhập, làm việc nhóm, giao tiếp với người nước ngoài, ứng dụng công nghệ thông tin.....Việt Nam xuất khẩu lao động giản đơn, nhập khẩu lao động có tay nghề cao. Hiện có khoảng 400.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại nước ngoài trong hơn 30 nhóm nghề khác nhau nhưng đa số là lao động giản đơn, trong khi phải nhập khẩu nguồn lao động có trình độ từ nước ngoài để làm các công việc mà lao động Việt Nam không thể đảm nhận.
Ngoài ra, một bộ phận lớn người lao động hiện nay chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp, tùy tiện giờ giấc và hành vi, khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc, thiếu khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng chế và chia sẻ kinh nghiệm làm việc, năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so với các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam còn nhiều hạn chế như thế là do:
+ Thứ nhất, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực của phần lớn các gia đình còn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo đảm chất lượng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. Nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực còn hạn chế; chưa huy động được nhiều các nguồn lực trong xã hội (nhất là các doanh nghiệp) để phát triển nhân lực.
+Thứ hai, quản lý nhà nước về phát triển nhân lực còn những bất cập so với yêu cầu. Chủ trương, đường lối phát triển nguồn nhân lực chưa được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách và các kế hoạch phát triển một cách kịp thời và đồng bộ; việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách chưa kịp thời, chưa nghiêm túc. Nhiều mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chưa tính toán đầy đủ các điều kiện thực hiện. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chưa chặt chẽ.
+Thứ ba, hệ thống giáo dục quốc dân - lực lượng nòng cốt trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đất nước bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể là: công tác phân luồng định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông chưa tốt; công tác đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự dựa trên cơ sở nhu cầu xã hội, chưa thu hút được sự tham gia phát triển nguồn nhân lực từ các đơn vị sử dụng lao động; đội ngũ giáo viên, giảng viên còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ, còn sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển giữa các địa phương, vùng, miền; hệ thống phương pháp, công cụ kiểm tra, giám sát, kiểm định và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo còn lạc hậu, kém hiệu quả; mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng…
+Thứ tư, hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng về kinh tế, xã hội, văn hoá nước ta với thế giới. Còn nhiều sự khác biệt trong các quy định về giáo dục nghề nghiệp, đào tạo nhân lực của hệ thống pháp luật Việt Nam so với pháp luật của các nước; mô hình hệ thống giáo dục và đào tạo, nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo nhân lực chưa tương thích và chưa phù hợp với các tiêu chuẩn phổ biến của các nước trong khu vực và thế giới; chưa thu hút được nhiều các nguồn lực quốc tế cho phát triển nhân lực. Việc tổ chức, đánh giá chất lượng dạy và học ngoại ngữ, bồi dưỡng một số hiểu biết, kỹ năng cần thiết để hội nhập quốc tế chưa đáp ứng yêu cầu. Môi trường pháp lý, điều kiện làm việc, cơ chế chính sách chưa bảo đảm cho trao đổi nhân lực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học giữa Việt Nam và các nước được thực hiện thuận lợi, chưa phát huy hết tiềm năng của khả năng hợp tác quốc tế này phục vụ phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Trong bối cảnh đó, việc cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) được mở ra vào cuối năm 2015 và Việt Nam vừa tham gia “Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương” (TPP) đã khiến cho thị trường lao động trong các khu vực ký kết dần trở nên đồng nhất với nhau. Điều này có nghĩa là, trong tương lai gần thị trường lao động sẽ không còn phân định biên giới lãnh thổ, các lao động có chuyên môn được công nhận sẽ có cơ hội di chuyển, tìm kiếm việc làm theo khả năng, nhu cầu bản thân. Các thỏa thuận công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn, trình độ, kỹ năng, nghề nghiệp... sẽ là những công cụ quan trọng cho việc tự do di chuyển lao động.
Với thị trường mở như vậy, nếu người lao động Việt Nam không thích ứng được bằng cách hoàn thiện mình về kiến thức, tay nghề, trình độ ngoại ngữ thì sẽ không có cơ hội vượt ra tầm khu vực, thậm chí còn có thể thua ngay trên sân nhà.
CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ CHO SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Như ở trên đã phân tích rất rõ những ưu điểm cũng như mặt hạn chế của nguồn nhân lực nước ta hiện nay, vì thế chúng ta cần thực hiện, đổi mới theo những giải pháp sau để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao tính cạnh tranh nguồn nhân lực của nước ta trong thời đại mở cửa hiện nay.
3.1. Nâng cao trình độ văn hóa, thúc đẩy mạnh cải cách giáo dục.

Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế kinh tế từ phương thức kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy trong nhiều trường hợp, cơ chế quản lý kinh tế mới chưa theo kịp sự biến đổi nhanh chóng của nền kinh tế, trong đó có giáo dục mang sắc thái thị trường. Lâu nay phê phán đào tạo “thừa thầy thiếu thợ”, nhưng “thiếu thợ” ở đâu? Địa chỉ cụ thể nào cần đào tạo? Tỷ lệ lực lượng lao động thiếu trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp, nhưng tỷ lệ thất nghiệp của số này ở thành thị lại khá cao, lĩnh vực, ngành nghề nào thất nghiệp nhiều? Việc lập kế hoạch giáo dục cần dựa trên những thông tin này để đào tạo gắn kết được với sản xuất và đời sống. Giữ vai trò định hướng, Nhà nước phải từng bước khắc phục tình trạng mất cân đối về bậc, ngành nghề đào tạo thông qua cải tiến cơ chế, chính sách và phương pháp kế hoạch hóa phù hợp với nền kinh tế thị trường. Để đạt được mục tiêu này cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các trường dạy nghề và đào tạo chuyên nghiệp. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước.
Thứ hai, xây dựng nền giáo dục theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Chuẩn hóa có thể bao gồm nội dung, chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình đào tạo ở bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ ,đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Cải cách mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đồng thời nâng cao chất lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo. Đặc biệt nhấn mạnh chuẩn hóa tiêu chí đánh giá sản phẩm cuối cùng của nền giáo dục là con người và nguồn nhân lực, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học ở các cấp, bậc học. Hiện đại hóa giáo dục hiểu trong nội tại của ngành là cập nhật với thời đại ngày nay trên các mặt nội dung, phương pháp, quy trình đào tạo nhằm phản ánh những thành tựu mới nhất của thế giới và phù hợp với sự tiến bộ của trang thiết bị dạy và học. Xã hội hóa giáo dục là huy động lực lượng của toàn xã hội cùng tham gia vào quá trình giáo dục – đào tạo, tạo điều kiện cho mọi người dân được hưởng những thành quả do hoạt động giáo dục đem lại.
Thứ ba, thiết lập được hệ thống thông tin thị trường lao động để cung cấp, xử lý thông tin tạo cơ sở tin cậy xác định nhu cầu đào tạo và bồi dưỡng, gắn sử dụng nhân lực với việc làm. Khi có hệ thống thông tin này sẽ giám sát được việc vận hành của thị trường lao động, cung cấp thông tin cho cá nhân, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo cũng như cân bằng giữa lợi ích xã hội và chi phí đào tạo. Trên cơ sở này, cơ quan lập kế hoạch Nhà nước có khả năng tiến hành các nghiên cứu trung hạn chính xác về loại công nghệ, thành phần và trình độ chuyên môn của lực lượng lao động tương lai làm cơ sở quyết định quy mô, ngành nghề, nội dung chương trình giảng dạy. Như vậy, chương trình, kế hoạch đào tạo sẽ gắn với nhu cầu thị trường lao động, tăng tính thiết thực của giáo dục và sát với thực tế.
Thứ tư, coi trọng hướng nghiệp, dạy nghề, tập trung vào mục tiêu nhân lực. Phương hướng hiện nay là phải làm cho toàn bộ nền giáo dục thích ứng với nhu cầu và đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển giáo dục theo kế hoạch và theo yêu cầu của thị trường lao động. Do đó, hệ thống giáo dục cần coi trọng hướng nghiệp, dạy nghề, tập trung vào mục tiêu nhân lực.
3.2. Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực.

Trong đó, cần tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nhân lực. Cần hình thành một cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực trên địa bàn cả nước nhằm bảo đảm cân đối cung - cầu nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới các chính sách, cơ chế, công cụ phát triển nhân lực (bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài). Cải tiến và tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành, các chủ thể tham gia phát triển nhân lực.
3.3. Đảm bảo nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực.

Ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020. Tăng đầu tư phát triển nhân lực cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung chi để thực hiện các chương trình, nhiệm vụ, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội (hỗ trợ đào tạo, phát triển nhân lực ở các vùng sâu, vùng xa, cho các đối tượng là người dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách,…). Nghiên cứu đổi mới cơ chế phân bổ và hỗ trợ bằng ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực từ hỗ trợ cho các đơn vị cung ứng sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng và bảo đảm công bằng giữa các cơ sở công lập và ngoài công lập.
Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể thao; Góp vốn, mua công trái, hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực. Cần quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế, chính sách mạnh để doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng đầu tư phát triển nhân lực nói chung và đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề nói riêng. Mở rộng các hình thức tín dụng ưu đãi cho các cơ sở giáo dục, đào tạo và cho học sinh, sinh viên để học nghề, học đại học, cao đẳng, hỗ trợ người lao động học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ. Bên cạnh đó, cơ cấu chi trong đào tạo cũng cần điều chỉnh tăng chi phí cho dạy nghề đạt mức khoảng 10% vì đây là lĩnh vực đang có yêu cầu mở rộng quy mô, củng cố chất lượng để đào tạo công nhân kỹ thuật , lao động lành nghề. Ngoài ra, cũng nên tập trung đầu tư khoảng 12-15% tổng chi ngân sách Nhà nước giành cho giáo dục đào tạo .
Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển nhân lực Việt Nam; sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực (ODA); thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển nhân lực (đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..).
3.4. Chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam.

Xây dựng, thường xuyên cập nhật hệ thống pháp luật về phát triển nguồn nhân lực Việt Nam phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông lệ và luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam tham gia, ký kết, cam kết thực hiện.
Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây dựng nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo theo định hướng phù hợp chuẩn quốc tế và đặc thù Việt Nam; tăng cường quan hệ liên thông chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và các ngành đào tạo của Việt Nam và quốc tế; thực hiện công nhận lẫn nhau chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam và của thế giới; thỏa thuận về việc công nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa Việt Nam với các nước.
Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và thế giới.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam.
Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng một số trường đại học, cao đẳng và dạy nghề đạt chuẩn quốc tế. Thu hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động.
Tăng cường dạy và bồi dưỡng ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh), văn hoá thế giới, kỹ năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc tế cho người Việt Nam.
Để thực hiện thành công các giải pháp trên, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, làm cho cán bộ, công chức của toàn bộ hệ thống chính trị các cấp, các tầng lớp nhân dân, các nhà trường, các doanh nghiệp, tổ chức hiểu rõ vai trò và trách nhiệm đào tạo và sử dụng nhân lực, biến thách thức về nhân lực thành lợi thế để phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.















KẾT LUẬN
Chất lượng nguồn nhân lực có vai trò rất lớn đến sự phát triển kinh tế. Các mô hình phát triển kinh tế đều khẳng định điều này khi cho rằng sự phát triển bền vững đòi hỏi phải tích lũy vốn, phát triển kỹ thuật và công nghệ. Đây là những nhân tố gắn liền và phụ thuộc vào chất lượng nguồn nhân lực, khi chất lượng lao động thấp hay vốn nhân lực ít thì việc tạo ra và thực hiện tích lũy vốn và phát triển kỹ thuật công nghệ khó mà thực hiện được. Các bằng chứng cả vi mô và vĩ mô cho thấy tầm quan trọng của chất lượng nhân lực với sự phát triển bền vững của nền kinh tế của các nước cũng như của Việt Nam.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực rõ ràng rất cần thiết. Muốn nâng cao chất lượng nhân tố này không những tập trung vào trình độ học vấn hay trình độ chuyên môn cho người lao động mà cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý nhà nước, phân bổ và sử dụng hợp lý nguồn ngân sách của nhà nước và hơn nữa là chủ động hội nhập với các nước phát triển, có nền kinh tế bền vững và không ngừng phát triển. Chăm lo phát triển con người là sự ưu việt của Việt Nam trong nhiều năm qua thể hiện bởi chỉ số HDI cao hơn hẳn so với nhiều nước có GDP tương đương. Những năm gần đây Nhà nước càng chú trọng hơn nữa phát triển nguồn nhân lực do nhận thức vai trò hết sưc đặc biệt của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đã đạt được nhiều kết quả khả quan được ghi nhận đánh giá cao.
Mặc dù vậy, so với nhu cầu chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam còn rất hạn chế, đặc biệt tỷ lệ lao động có trình độ văn hóa cấp II, cấp III và có chuyên môn kỹ thuật rất thấp. Thêm vào đó, cơ cấu bậc đào tạo và sự phân bố giữa các ngành, vùng kinh tế cũng rất không đều, còn nhiều bất hợp lý. Đây là thách thức lớn cho quá trình phát triển, nhất là hiện nay đang có nhu cầu lớn về lao động trình độ cao để tiếp thu và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến tình trạng trên là một số chính sách trong lĩnh vực y tế, giáo dục còn khiếm khuyết, thiếu đồng bộ và không thích ứng kịp với sự biến chuyển của nền kinh tế. Những thực trạng và nguyên nhân được chỉ ra cùng với tham khảo của các nước trên thế giới cho thấy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là nhu cầu bức thiết hiện nay.
Xuất phát từ quan điểm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đồng nghĩa với việc phát triển toàn diện con người và hệ thống giáo dục đào tạo giữ vai trò quyết định để thực hiện điều đó, đề cương đã phân tích và đưa ra một số giải pháp định hướng trong lĩnh vực giáo dục,... Mục đích của các giải pháp này là hoàn thiện chính sách hiện nay theo hướng đổi mới hệ thống y tế, giáo dục nhằm mục tiêu công bằng và hiệu quả, nhanh chóng tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghiên cứu chất lượng nguồn nhân lực là một đòi hỏi vừa cấp bách, vừa cơ bản do đó cần được tiến hành thường xuyên và trên nhiều phương diện nhằm phát huy cao nhất vai trò của yếu tố con người trong sự phát triển kinh tế, xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1, TS. Đặng Xuân Hoan – Tổng thư ký Hội đồng quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực (2015) Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2015-2020 đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Tạp chí cộng sản.
2, Th.S Trịnh Hoàng Lâm (2016) Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, Tạp chí lao động và xã hội.
3, Th.S Cảnh Chí Hoàng – Th.S Trần Vĩnh Hoàng (2013) Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Phát triển & Hội nhập.
4, H.Chung (2015) Việt Nam đứng gần chót bảng xếp hạng chất lượng nhân lực châu Á, Cafef.
5, Đình Phương-Trí thức trẻ (2016) Xếp hạng chất lượng nguồn nhân lực thấp, lao động Việt Nam có thể thua ngay trên sân nhà, Cafef.



 
Top