Phân tích hình ảnh nhân vật trữ tình trong bài thơ "Đò Lèn"- Nguyễn Duy - 3 bài văn hay

“Đò Lèn” được coi là một trong số những bài thơ hay của Nguyễn Duy. Ở đó, chủ thể trữ tình đã thể hiện những suy nghĩ vừa hồn nhiên lại rất đáng suy ngẫm. Hôm nay, hãy cùng Vforum phân tích hình ảnh nhân vật trữ tình trong bài thơ “Đò Lèn”

“Qua giọng hát, ta nhận ra người hát. Khi phong cách nghệ thuật thành máu thịt nhà văn, nó sẽ tạo nên sắc điệu thẩm mĩ riêng biệt, không thể trộn lẫn với bất kì ai” (R. Gamzatov). Có nhà thơ là tiếng kèn xung trận, có nhà thơ là tiếng sáo véo von, có người lại là dòng thác lũ xô đẩy. Nhưng có một tiếng hát, lúc nào cũng nhẹ nhàng, thâm trầm mà ca bài ca về cuộc đời, mà hát khúc ca về những kiếp người trong cuộc sống. Đó là Nguyễn Duy. Nguyễn Duy được coi là một trong số những gương mặt tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam thời kì đổi mới. Thơ ông hấp dẫn khán giả bởi những tình cảm chân thành, rất mộc mạc và bình dị nhưng vẫn thấm thía, nó không ru ngủ người ta mà làm thức dậy trong lòng người những băn khoăn, những suy tư nào đó về mình, về xã hội mình đang sống. “Đò Lèn” được coi là một trong số những bài thơ đã thể hiện thành công những nét đặc sắc hồn thơ. Bài thơ đơn giản là lời của người cháu trưởng thành nhớ về bà, về những năm tháng tuổi thơ bên bà, những thức nhận mà giờ cháu mới hiểu được nhưng lại thật thấm thía, có chút xót xa, ân hận. Nhân vật trữ tình ấy chính là đối tượng mà chúng ta sẽ phân tích trong bài làm văn này. Khi phân tích, có thể đi theo trình tự những câu thơ, chú ý chia ý sao cho hợp lí và rõ ràng. Cách diễn đạt nên phù hợp với phong cách của tác phẩm. Sau đây là những bài viết tham khảo trước khi mọi người bắt đầu viết bài. Chúc các bạn học tập tốt!

hinh-anh-nhan-vat-tru-tinh.jpg


BÀI VIẾT SỐ 1 CẢM NHẬN HÌNH ẢNH NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG BÀI THƠ “ĐÒ LÈN”
Trong phong trào của các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước, Nguyễn Duy đã xác lập cho mình một lối đi riêng: không ngang tàng bụi bặm như Phạm tiến Duật, không gân guốc như Nguyễn Đức Mậu hay nghiêm trang như Nguyễn Khoa Điềm; ở Nguyễn Duy là những cảm xúc đầm ấm, hồn hậu đã lắng kết ngàn đời, trở thành tâm thức văn hóa, thành những hồi ức không thể nào quên. Những điều ấy được thể hiện qua dòng suy tư của nhân vật trữ tình trong bài thơ “Đò Lèn”.

“Đò Lèn” được sáng tác khi đất nước đã lặng im tiếng súng (1983), cuộc sống yên bình đã trở lại nhưng vẫn còn đó, nguyên vẹn một Nguyễn Duy đằm sâu triết lí mà thanh thoát, nhẹ nhàng trong hơi thở dân dã tự nhiên, một cái tôi có khả năng kết nối từ hồi ức riêng tư đến lịch sử dân tộc. Bài thơ “Đò Lèn” là lời của người cháu đã trưởng thành nhìn lại tuổi thơ, nhìn lại những năm tháng sống bên bà mà suy nghĩ, thức tỉnh. Cái nhìn có vẻ đơn sơ, hồn nhiên mà cũng thấm thía, sâu sắc trong sự song hành quá khứ - hiện tại, trong những suy tưởng triết lí ẩn hiện phía sau. Bài thơ kết cấu theo dòng chảy của hoài niệm tuổi thơ, ngỡ ngọt ngào mà hóa ra xa xót, ngậm ngùi.

Bài thơ mở ra với những hồi ức tuổi thơ tươi đẹp:

  • “Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
  • níu váy bà đi chợ Bình Lâm
  • bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
  • và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
  • Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
  • chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
  • mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
  • điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”


Cái “tôi” hồi ức, kể lể, dãi bày về câu chuyện ấu thơ: “Thuở nhỏ tôi…” Đó là cái “tôi” hồn nhiên của một thời vô lo, vô nghĩ với những trò chơi dân gian thân thuộc đã làm nên tuổi thơ: câu cá, theo bà đi chợ, bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, ăn trộm nhãn chùa Trần.” Đó là một cậu bé hiếu động và nghịch ngợm. Nguyễn Duy thật tài tình khi chỉ vài nét bút đã làm hiện lên cậu bé hoạt bát “chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng” và còn có thể làm mờ hóa không gian bằng và trong hai câu thơ sau đẹp như ảo ảnh. Hai câu thơ không một từ nào khó hiểu nhưng đặt cạnh nhau lại tạo nên một ám ảnh da diết lạ thường. Câu trên là một màu sắc, hương thơm ảo; câu dưới là một âm thanh ảo, bóng hình ảo.

Cái hồn nhiên, vô lo nghĩ một thời “níu váy bà đi chợ Bình Lâm” trong cái nhìn hiện tại lại có gì day dứt khôn nguôi:

  • “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
  • bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
  • bà đi gánh chè xanh Ba Trại
  • Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn

Một chữ “thập thững” mang theo bao bước chân già nua trong đói rét, như có cả hơi thở hổn hển. Không phải bước chân hốt hoảng của Hoàng Cầm: “Bước cao thấp bên bờ tre hun hút” (“Bên kia sông Đuống”) mà là bước đi thường ngày của người già: bước lên – bước xuống theo nhịp quang gánh trĩu nặng, yếu ớt. Những địa danh riêng “Quán cháo, đồng Quan, Đồng Giao,…” mà vẫn đem lại cảm xúc chung về quê hương nguồn cội; bà của “tôi” mà như của mọi người. “Tôi đâu biết” là cái giật mình đầy xa xót như cái giật mình đầy xa xót của biết bao người con khi nghĩ về bà, về mẹ - những người phụ nữ Việt Nam. Đại từ “tôi” bé nhỏ, âm thầm, không phải cái thế kiêu bạc của người lính chiến “ung dung buồng lái ta ngồi” (Phạm Tiến Duật) mà trĩu nặng những ân tình, bộc bạch, sẻ chia. Những nhận thức, ăn năn về đạo đức chứ nhẹ nhàng đến mà thấm thía như thế.

Từ đó mà mạch thơ dẫn về tâm linh qua những cảm nhận nguyên sơ của con trẻ:

  • Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
  • giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
  • cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
  • cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”

“Trong suốt” – một cảm nghiệm tâm linh hay một ảo giác, một tín ngưỡng trong tâm hồn thơ dại? “Tiên, Phật, thánh thần” là hư mà cũng từng là thực trong niềm tin tuổi nhỏ. Bà là thực mà cũng là hư trong bao điều mà “tôi đâu biết”. Những tương phản tạo nên sức ám ảnh của câu thơ: hư – thực, hiện thực (“củ dong riềng luộc sượng”) và tâm linh huyền ảo (“mùi huệ trắng hương trầm”) hay niềm tin vượt lên hiện thực? Cái đói là hiện thực nhưng nó cũng không giết được cái đẹp mà giữ người ta trong trạng thái “trong suốt” – nhìn xuyên thấu, hòa nhập vào tâm linh. Trong mắt cháu, bà hiện lên là một ám ảnh, một niềm vui, một nỗi xót xa và cả sự tâm linh lạ kì.

Sự kiện “Bom Mĩ dội nhà bà tôi bay mất” khiến nhân vật bừng tỉnh. Bầu trời cổ tích vỡ tan và hiện thực nghiệt ngã về cuộc đời hiện ra: “Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”. Sự bừng tỉnh đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời nhân vạt trữ tình. Cậu bé hồn nhiên sống trong tình yêu thương vô điều kiện đã bước khỏi tuổi thơ để nhìn thấy bà trong đời thực. Khiến thánh thần bay mất: “thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết” như đang giải huyền thoại cho một niềm tin ngây thơ. Những ngôn ngữ đậm chất dân dã, hài hước càng rõ nét cho sự giải thiêng để khẳng định sức sống của con người bình thường.

Và rồi kết thúc câu chuyện là một nỗi buồn sâu, buồn lâu và một suy ngẫm phổ quát rất “Nguyễn Duy”, đậm tính suy tưởng Nguyễn Duy:

  • “Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
  • dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
  • khi tôi biết thương bà thì đã muộn
  • bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”

Cách kể “Tôi đi lính lâu không về quê ngoại” ngỡ như một lời tự sự bình thường mà dồn nén thời gian cả một cuộc chiến, chất chứa trong đó cả một cuộc đời. Đứa trẻ năm nào nhìn dòng sông trong sự toàn vẹn của nó: “bên lở bên bồi”. Thì ra, cuộc đời này vẫn luôn là thế: là sự được – mất, thành – không luôn song hành. Con người ta đôi khi để có được điều gì đó lại phải đánh đổi những điều rất quý giá của mình. Đôi khi, đến cuối con đường, lại nhận ra sự trả giá ấy là quá đắt: “biết thương bà thì đã muộn”. Cái “nấm cỏ” kia có thể là “cỏ khâu xanh rì” hay “sè sè nắm đất bên đường”, chẳng hề vô tri mà là cuộc đời của cả một con người, là dòng thác cuộn chảy của cả một thời kì lịch sử.

Bài thơ tưởng như rất cá nhân (từ nhan đề “Đò Lèn” – một địa danh cụ thể đến danh xưng “tôi”) lại mang đậm màu sắc nhân sinh là một cách thức nhận lại mình, lại lịch sử một cách công bằng và trung thực hơn. Triết lí mà không cao siêu, nhẹ nhàng mà thấm thía trong cách cảm vè sự đời và con nười, giản dị trong tiếng nói mà gây thành ấn tượng, ám ảnh. Mỗi đoạn thơ chỉ có chữ đầu tiên đoạn viết hoa, tưởng như là mỗi câu văn của một câu chuyện được thủ thỉ, tâm tình, giãi bày rất thân thương, gần gũi. Ngôn từ không một chút khó hiểu nhưng khi ứng hiện với nhau tạo lên một hình thức lấp lánh, đầy sức gợi mở. Bài thơ đã thực hiện sứ mệnh của văn học: làm cho người ta không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người, quên rằng đó là tiếng nói của ai nà chỉ thấy nó như tiếng ca từ trong lòng mình, như là của mình vậy. Và như thế, văn học không rao giảng đạo đức mà là sự “ăn năn về đạo đức” để tự nhận thức, tự đổi thay.

Như Thanh Thảo chiêm nghiệm: “Muôn đời thơ vẫn là chuyện rút ruột rút gan mình ra mà thôi”. Bằng những tiếng lòng sâu thẳm nhất, đó chính là điều đã giữ bài thơ đến tận ngày hôm nay và kéo tên tuổi Nguyễn Duy ra khỏi quy luật băng hoại nghiệt ngã của thời gian.

-Hương Đoànn-

BÀI VIẾT SỐ 2 PHÂN TÍCH HÌNH ẢNH NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG "ĐÒ LÈN" - NGUYỄN DUY
Nguyễn Duy là gương mặt tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt Nam giai đoạn sau 1975. Thơ ông vừa chứa đựng những cảm xúc chân thành vừa thể hiện những suy tư sâu lắng về cuộc đời, con người. Bài thơ "Đò Lèn" trích trong tập thơ "Ánh trăng" là một trong những sáng tác đặc sắc của ông ghi lại những mảnh kí ức về một thời thơ ấu, đặc biệt nhân vật trữ tình trong bài thơ đã đem đến những suy tư sâu lắng về cuộc đời và con người.

Nguyễn Duy nổi tiếng với lối viết hướng về cái đẹp giản dị quanh mình, phát hiện trong thế giới ấy sự gắn kết của những giá trị vĩnh hằng. Được chấp bút và hoàn thành vào năm 1983, 8 năm sau khi đất nước ta giành độc lập, bài thơ là dòng kí ức của nhà thơ về một thời thơ ấu cơ cực mà ấm áp bên bà, gửi vào đó những suy ngẫm và triết lí sâu sắc. Để thể hiện những suy tư đó, tác giả đã dựng nên hình ảnh nhân vật trữ tình - một cậu bé hiếu động, nghịch ngợm cũng là hình ảnh thuở nhỏ của chính ông. Nhân vật đó đã để lại dư ba trong tâm trí người đọc, gửi lại đó những dòng suy tưởng về con người và cuộc đời.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh nhân vật trữ tình thuở còn thơ bé:

  • "Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
  • níu váy bà đi chợ Bình Lâm
  • bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
  • và đôi khi ăn trộm nhã ở chùa Trần"

Nhà thơ sử dụng biện pháp liệt kê để nói những lời tự thú, chân thành của thuở nhỏ. Nhân vật trữ tình hiện lên với phong thái hiếu động và nghịch ngợm của một cậu bé vùng quê với những việc làm rất hồn nhiên và vô tư: câu cá, theo bà đi chợ, bắt chim sẻ, ăn trộm nhãn. Đó phải chăng cũng chính là dòng hồi tưởng của nhà thơ về thuở thiếu thời nghịch ngợm, vô ưu vô lo với cuộc sống miền quê dân dã, được bảo bọc trong vòng tay gia đình và tâm hồn đầy ắp những niềm vui:

  • "Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
  • chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
  • mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
  • điệu hát văn lảo đảo bóng cô hồn"

Có lẽ vì lớn lên trong sự săn sóc tỉ mỉ của người bà nên dù nghèo khổ và khó khăn, cậu bé vẫn sống hồn nhiên, đắm mình trong bầu không khí cổ tích với hương huệ trắng thoang thoảng mà thanh tao, hương trầm, tiên phật, thánh hiền thiêng liêng đến lạ. Có thể nói rằng nhân vật trữ tình ở đây dù có một tuổi thơ cơ cực nhưng chưa hề thiếu thốn tình cảm tinh thần. Cậu bé đó vẫn vô tư, hồn nhiên với tấm lòng con trẻ, vẫn ngày ngày đắm mình trong bầu không gian huyền hoặc của cổ tích xa xưa. Cái nhìn trong trẻo của nhân vật "tôi" đã đồng nhất thực và ảo, con người hầu đồng và thần tiên trong cổ tích để có một tuổi thơ trọn vẹn.

Có lẽ cũng vì hồn nhiên, ngây thơ mà cậu đã quên mất sự cơ cực và vất vả của người bà:

  • "Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
  • bà mò cua xúc tép ở đồng Quan"

Rồi những năm đói kém đi về trong kí ức của cậu bé vẫn không thể thôi quên được hương huệ trắng thanh khiết như tấm lòng trẻ thơ của cậu, bởi lẽ dẫu cuộc sống có vất vả trăm bề thì cậu vẫn chưa bao giờ thôi hạnh phúc. Bom đạn và cái đói, cái nghèo có thể cướp đi miếng ăn, nhà cửa nhưng không thể cướp đi cái trong veo của tâm hồn. Nhân vật "tôi" đi giữa hai miền hư thực để sống với thế giới cổ tích, có bà tiên và Phật, thánh, thần, để sống trọn với tuổi thơ dẫu có bất hạnh tới nhường nào.

Tuổi trưởng thành tới cũng là lúc thế giới hồ ảo đó tan biến để trở về với thực tại. Bom Mĩ dội, nhà bà bay mất khiến nhân vật "tôi" bừng tỉnh:

  • "Bom Mĩ dội, nhà bà tôi bay mất
  • đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền"

Bầu trời cổ tích vỡ tan và hiện thực nghiệt ngã của cuộc đời bước ra: "bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn". Sự bừng tỉnh ấy đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật trữ tình: cậu bé hồn nhiên, trong sáng bước khỏi tuổi thơ để nhìn hình ảnh bà trong cuộc sống hiện thực, bước ra tuổi trưởng thành để thấu rõ hơn thực tại nghiệt ngã và thấu hiểu nỗi cơ cực của người bà. Người cháu đó rời miền quê thân thương để bước chân vào mặt trận, bởi lúc đó cậu đã ý thức được trách nhiệm của mình: gìn giữ thế giới thần tiên cho trẻ thơ và bảo vệ cuộc sống bình yên cho người bà:

  • "Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
  • dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
  • khi tôi biết thương bà thì đã muộn
  • bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi"

Sự bừng ngộ khi trở về đứng trước nấm mộ đơn sơ và nhỏ bé của mình, nhân vật trữ tình dành niềm tiếc thương vô hạn của mình cho người bà đã khuất. Dòng sông bên lở bên bồi là tượng trưng cho dòng đời hai bên được mất, con người ta luôn đi giữa ranh giới đó, lúc mất, khi được bởi trời đất bao la sẵn sàng lấy đi bất cứ thứ gì, cũng có thể trao cho ta bất cứ điều gì. Lúc tuổi trưởng thành đến đưa cho đứa cháu tấm lòng biết thương bà, biết ơn bà thì cũng là lúc dòng đời lấy đi người bà mà cháu đã gắn bó từ thuở ấu thơ. "Nấm mộ" nhỏ bé của bà là ẩn dụ cho sự hữu hạn và nhỏ bé của con người trước cuộc đời, cũng là lời nhắc nhở của tác giả rằng đừng vô tâm với những gì đang có, hãy biết nâng niu những gì quý giá xung quanh để không phải nuối tiếc, ân hận. Nhân vật trữ tình là tấm gương phản chiếu của chính nhà thơ, cũng là sự thức nhận của chính Nguyễn Duy về những điều tưởng như tầm thường, nhỏ nhặt trên đời mà lại mang ý nghĩa sâu sắc. Thơ Nguyễn Duy xưa nay vẫn mang đậm triết lí như vậy.

Xây dựng hình ảnh nhân vật trữ tình với nguyên tác bản thân, Nguyễn Duy đã khơi sâu vào lòng người đọc những liên tưởng sâu xa và mới mẻ. Bài thơ như lời bộc bạch rất tự nhiên của chính tác giả về cuộc đời của mình, gửi gắm những triết lí và nhắc nhở con người hãy sống và trân trọng những giá trị vĩnh hằng xung quanh mình để không phải nuối tiếc, ân hận.

Có những bài thơ đi cùng năm tháng nhờ những giá trị tự thân của nó. "Đò Lèn" của Nguyễn Duy cũng sẽ ghi dấu ấn vào thời gian, vào lòng người nhờ những triết lí sâu sắc mà tác giả đã dày công gửi gắm.

-Minh Anh-vfo.vn

BÀI VIẾT SỐ 3 PHÂN TÍCH HÌNH ẢNH NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG BÀI THƠ “ĐÒ LÈN”
Nguyễn Duy là nhà thơ có đóng góp lớn trong việc làm mới thơ ca Việt Nam. Thơ Nguyễn Duy có những bài ngang tàn nhưng luôn đổ về phía trầm tĩnh, giàu chiên nghiệm. Cái lắng sâu của cảm xúc ấy cũng là nét thơ của tác phẩm “Đò Lèn”. Bài thơ đã đưa ta men theo những kỉ niệm quê hương theo dòng cảm xúc của người cháu. Hình ảnh nhân vật trữ tình trong bài thơ là nét trầm tĩnh thể hiện những nghĩ suy và xúc cảm của nhà thơ với người bà và với mảnh đất xưa.

“Đò Lèn” là tác phẩm được Nguyễn Duy sáng tác năm 1983 nhân dịp ông trở về quê hương, những kỉ niệm tuổi ấu thơ bên bà, có vui có buồn ùa về để chả tràn trên trang giấy. Hình ảnh thơ hiện lên trong cái nhìn và hồi tưởng của nhân vật “tôi”, nhân vật trữ tình và cũng là sự hiện thân của chính nhà thơ.

Nhân vật trữ tình hiện lên gắn với những hồi ức tuổi thơ nơi quê nhà:

  • “Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
  • níu váy bà đi chợ Bình Lâm
  • bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
  • và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
  • Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
  • chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
  • mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
  • điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”

Những địa danh được nhân vật trữ tình nhắc đến: cống Na, chợ Bình Lâm, tượng Phật, chùa Trần, đề Cây Thị, đền Sòng đều là những nơi “tôi” từng đặt chân tới trong những tháng ngày tuổi thơ. Tuổi thơ “tôi” hiện ra đầy những kỉ niệm của một thời tinh nghịch: “bắt chim sẻ”, “ăn trộm nhãn”, “chân đất đi xem lễ”, hình ảnh tuổi thơ bình dị nhưng lại rất thân thường. Sự xuất hiện của những địa danh cụ thể và những chi tiết nhỏ làm hiện ra một miền quá khứ khắc sâu trong tâm trí “tôi”. Qua ngần ấy năm rồi, nhân vật trữ tình vẫn còn nhớ như in những nơi thuở nhỏ từng chơi đùa, vẫn nhớ như in dáng vẻ của chính mình để hồi tưởng lại khi bàn chân lại một lần nữa đặt lên trên miền đất xưa. Chi tiết “níu váy bà đi chợ” hiện lên một cậu bé vừa sợ lại vừa tò mò về cuộc sống rộng lớn, háo hức muốn nhìn ngắm nơi mà mai đây mình sẽ hòa mình để bảo vệ và gắn bó. Kí ức vẫn thật đậm khi tâm hồn “tôi” vẫn thoảng mùi hương, vẫn vang tiếng “hát văn lảo đảo” tỏa lại từ quá khứ.

Nhân vật trữ tình hiện lên qua những dòng xúc cảm về quá khứ, và quá khứ ấy gắn liền với người bà:

  • “bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
  • bà đi gánh chè xanh Ba Trại
  • Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”

Nhân vật trữ tình hồi tưởng lại bà, nhớ lại hình ảnh người bà lam lũ tảo tần mặc “những đêm hàn” để nuôi cháu lớn khôn. Quá khứ với bà ở đây không chỉ đơn giản là sự hồi tưởng lại mà nó gắn liền với xúc cảm thật thiêng liêng: “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”. Có lẽ là tuổi nhỏ vô tư, nên khi trở lại quê nhà, nhớ lại bà nên tâm hồn “tôi” mới bật thốt những cảm xúc như thế. Câu thơ là lời thú nhận về sự hồn nhiên của tuổi thơ và cũng mang theo nồng đượm những day dứt về quá khứ. Hồi ấy có biết bà vất vả thế nào, chỉ đến khi lớn lên rồi mới biết khó nhọc của bà, nên bấy giờ tâm hồn “tôi” chỉ còn biết ăn năn day dứt.

Dòng tâm trạng men theo thời gian xuôi về quá khứ, người bà hiện ra trong “tôi” bấy giờ tựa như “thánh thần”:

  • “Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
  • giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần
  • cả năm đói, củ dong riềng luộc sượng
  • cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm"

Nhân vật trữ tình hình dung người bà là bà tiên, là thánh, là thần, là Phật bởi bà đã đưa “tôi” qua những ngày đói. Những hình dung mang theo một “tôi” đầy ngưỡng vọng, nồng đậm sự biết ơn với người bà đã nuôi mình lớn khôn. Cháu bây giờ không còn hồn nhiên nữa, cháu đã lớn rồi nên cháu thấy trân trọng quá khứ đói nghèo nhưng có bà, bà đã soi sáng để cháu thoát bóng tối đói nghèo mà lớn lên.

Quá khứ nghèo khó nhưng vẫn đẹp vì có bà, có hồn nhiên con trẻ. Nhưng sự kiện “Bom Mĩ giội” đã làm nhân vật trữ tình bừng ngộ về hiện thực nghiệt ngã. Hiện thực ấy, đói nghèo có, nhưng đáng sợ nhất vẫn là chiến tranh:

  • “đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
  • thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
  • bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”

Những nét tâm linh đã nâng đỡ tuổi thơ đều bị khói đạn chiến tranh làm sụp đổ, nghĩa là những đôi cánh nâng đỡ tâm hồn tuổi thơ của cháu đều không còn nữa, khi ấy chỉ còn “bà”. Những “trong suốt giữa hai bà hư – thực” nay không còn nữa, thánh và phật cũng chẳng tồn tại, chỉ còn mỗi bà “đi bán trứng ở ga Lèn”. Bà không còn là Phật hay một sức mạnh tâm linh nào nữa mà là một người bà chân thật-một người giàu tình thương, chịu khó và luôn hết mình nâng đỡ cháu qua khó khăn.

Rời khỏi quá khứ, người cháu trở về với thực tại đầy xót xa:

  • "Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
  • dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
  • khi tôi biết thương bà thì đã muộn
  • bà chỉ còn là một nấm mồ thôi"

Thời gian trôi đi, “tôi” không còn là cậu bé hồn nhiên vô tư lự như ngày xưa nữa mà đã trở thành một người lính từng chiến đấu hết mình nơi sa trường. Trở về quê sau những ngày đi lính, quê hương nay đã đổi thay, không còn những chợ những chùa như hồi ức nữa mà chỉ còn thấy “dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi”, và đau hơn là không còn bà nữa. Quá khứ dẫu vui vẻ nhưng vẫn chỉ là quá khứ, chúng ta vẫn phải sống với thực tại, nên chá khi trở về từ quá khứ êm đềm bấy giờ thật ê chề xót xa. Quê hương lặng im trong dòng nước sông, và bà “chỉ còn là một nấm mồ thôi”. Chữ “thôi” ở cuối câu nghe như tiếng thở dài của nhân vật trữ tình, đầy đau xót, tiếc nuối và day dứt. Đứng trước nấm mộ của bà, nhân vật trữ tình như đang trút xuống những tâm sự, những tiếc nuối vì không yêu thương và gắn bó với bà lâu hơn, không hiểu cho những khó nhọc của bà sớm hơn để giờ đủ lớn rồi, đủ tự do rồi thì chỉ có thể nhìn bà qua hồi ức.

Nhân vật trữ tình tựa như là hình ảnh phản chiếu của chính Nguyễn Duy. Có lẽ những chợ những chùa ấy là hiện thân của quá khứ của nhà thơ khi bên bà, những nuối tiếc day dứt ấy là của chính chàng trai Nguyễn Duy khi trở về quê nhà sau cuộc chiến. Lời tâm sự của nhân vật trữ tình, lời tâm sự của chính nhà thơ là lời nhắc nhở mỗi người hãy biết trân trọng thực tại, trân trọng những người thân bên cạnh mình để không phải nuối tiếc khi rời xa, để không phải day dứt vì quá khứ một đi không trở lại.

-QP-




hinh-anh-nhan-vat-tru-tinh-do-len.jpg
 
  • Chủ đề
    hình ảnh nhân vật trữ tình
  • Top