Tôn Nữ Thị Ninh (sinh ngày vi.wikipedia.org/wiki/30_th%C3%A1ng_10 - 30 tháng 10 năm vi.wikipedia.org/wiki/1947 - 1947) từng là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Liên minh Châu Âu (vi.wikipedia.org/wiki/EU - EU) và một số quốc gia như vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%89 - Bỉ, vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_Lan - Hà Lan, v.v... Bà cũng từng là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam. Bà có vai trò tích cực trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam.
Tôn Nữ Thị Ninh sinh ra tại thành phố vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BA%BF - Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế, là hậu duệ của hoàng tộc nhà Nguyễn. Năm vi.wikipedia.org/wiki/1950 - 1950 bà theo gia đình sang vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p - Pháp và sau đó lại cùng gia đình trở về vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A0i_G%C3%B2n - Sài Gòn. Vào năm vi.wikipedia.org/wiki/1964 - 1964, bà sang Pháp du học ở Đại học Paris (Pháp) và Đại học Cambridge (Anh), bà đã tham gia hoạt động với Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Bà còn dạy vi.wikipedia.org/wiki/Anh_v%C4%83n - Anh văn và văn học Anh ở Đại học Paris 1, École Normale Supérieure, Fontenay-aux-Roses và Université des Droits. Sau đó, khi về nước, bà dạy ở Đại học Văn khoa Sài Gòn. Cho đến năm vi.wikipedia.org/wiki/1975 - 1975, tình cờ bà gặp Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là ông Xuân Thuỷ - người đã từng biết bà trong thời gian hội nghị Paris (1968-1972) và theo lời khuyên của ông, bà về làm việc tại Ban Đối ngoại Trung ương.
Bà trở thành nhà ngoại giao bắt đầu bằng công việc phiên dịch và bà đã học được nhiều kinh nghiệm khi đi dịch cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông Xuân Thuỷ, ông Nguyễn Cơ Thạch... Ông Jean-Pierre Debris, khi nghe bà dịch cho Tổng thống Pháp François Mitterrand trong chuyến thăm Việt Nam năm vi.wikipedia.org/wiki/1993 - 1993 đã ví bà như người thợ kim hoàn lành nghề. Bà đã làm đại sứ ở ba nước vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%89 - Bỉ, vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_Lan - Hà Lan và vi.wikipedia.org/wiki/Luxembourg - Luxembourg và Liên minh châu Âu (EU). Bà còn giữ cương vị là người đứng đầu đại diện của phái đoàn Việt Nam ở Liên minh châu Âu tại vi.wikipedia.org/wiki/Brussel - Brussel (Bỉ) và đã từng giữ một nhiệm kỳ trong Ủy ban Trung ương của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Cương vị gần đây nhất mà bà nắm giữ là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội. Trên cương vị đó bà đã có một số những phản bác tương đối mạnh mẽ trước một số cáo buộc về vấn đề nhân quyền từ phía Hoa Kỳ và Quốc hội Hoa Kỳ. Tháng 8 năm 2007, bà đã thôi giữ chức tại quốc hội và tham gia vào lĩnh vực giáo dục với tư cách Chủ tịch Hội đồng sáng lập Trường Đại học Tư thục Trí Việt.
Tôn Nữ Thị Ninh sinh ra tại thành phố vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BA%BF - Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế, là hậu duệ của hoàng tộc nhà Nguyễn. Năm vi.wikipedia.org/wiki/1950 - 1950 bà theo gia đình sang vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p - Pháp và sau đó lại cùng gia đình trở về vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A0i_G%C3%B2n - Sài Gòn. Vào năm vi.wikipedia.org/wiki/1964 - 1964, bà sang Pháp du học ở Đại học Paris (Pháp) và Đại học Cambridge (Anh), bà đã tham gia hoạt động với Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Bà còn dạy vi.wikipedia.org/wiki/Anh_v%C4%83n - Anh văn và văn học Anh ở Đại học Paris 1, École Normale Supérieure, Fontenay-aux-Roses và Université des Droits. Sau đó, khi về nước, bà dạy ở Đại học Văn khoa Sài Gòn. Cho đến năm vi.wikipedia.org/wiki/1975 - 1975, tình cờ bà gặp Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là ông Xuân Thuỷ - người đã từng biết bà trong thời gian hội nghị Paris (1968-1972) và theo lời khuyên của ông, bà về làm việc tại Ban Đối ngoại Trung ương.
Bà trở thành nhà ngoại giao bắt đầu bằng công việc phiên dịch và bà đã học được nhiều kinh nghiệm khi đi dịch cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông Xuân Thuỷ, ông Nguyễn Cơ Thạch... Ông Jean-Pierre Debris, khi nghe bà dịch cho Tổng thống Pháp François Mitterrand trong chuyến thăm Việt Nam năm vi.wikipedia.org/wiki/1993 - 1993 đã ví bà như người thợ kim hoàn lành nghề. Bà đã làm đại sứ ở ba nước vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%89 - Bỉ, vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_Lan - Hà Lan và vi.wikipedia.org/wiki/Luxembourg - Luxembourg và Liên minh châu Âu (EU). Bà còn giữ cương vị là người đứng đầu đại diện của phái đoàn Việt Nam ở Liên minh châu Âu tại vi.wikipedia.org/wiki/Brussel - Brussel (Bỉ) và đã từng giữ một nhiệm kỳ trong Ủy ban Trung ương của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Cương vị gần đây nhất mà bà nắm giữ là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội. Trên cương vị đó bà đã có một số những phản bác tương đối mạnh mẽ trước một số cáo buộc về vấn đề nhân quyền từ phía Hoa Kỳ và Quốc hội Hoa Kỳ. Tháng 8 năm 2007, bà đã thôi giữ chức tại quốc hội và tham gia vào lĩnh vực giáo dục với tư cách Chủ tịch Hội đồng sáng lập Trường Đại học Tư thục Trí Việt.