Top những bài thơ của Bà Huyện thanh quan hay nhất và tiểu sử
Có những bài thơ nào của Bà Huyện Thanh Quan hay nhất nhỉ?
Trong phong trào thơ ca Việt Nam.Đã xuất hiện không ít những ‘’quái kiệt thơ ca’’ với lối sáng tác thơ xuất thần những thường ẩn mình. Vì vậy nên người đời thường ít biết về tiểu sử của tác giả,mà chỉ biết đến những tác phẩm mà thôi.và một trong số đó chúng ta có thể kể đến là Bà Huyện Thanh Quan với những tập thi ca đã đi vào lòng người theo năm tháng.Sau đây hãy cùng Vforum tìm hiểu Top những bài thơ của Bà Huyện thanh quan hay nhất và tiểu sử của nhà thơ này qua bài viết nhé!
Tiểu Sử của Bà Huyện Thanh Quan?
Bà Huyện Thanh Quan thật ra chỉ là bút danh mà người đời được biết đến qua những bài thơ của nhà thơ này.Tên thật của nhà thơ là Nguyễn Thị Hinh. Bà Huyện Thanh Quan chính là một nữ sĩ có niềm đam mê sâu sắc với thơ ca.Và xem đó như thú vui không thể thiếu của cuộc sống.Bà Huyện Thanh Quan sống ở thời Vua Minh Mạng.Chồng bà được phong làm tri huyện Thanh Quan.Vì vậy bút danh Bà Huyện Thanh Quan mới được bắt nguồn từ đó.Ở thời vua Minh Mạng bà được mời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi.Thơ của bà đa phần là vịnh những khung cảnh đẹp mà bà từng có dịp đi qua.Đồng thời bà cũng là một con người thích phiêu du,tự tại,thích một cuộc sống tự do.nhiều tư liệu ghi chú là bà sinh năm 1805 và mất năm 1848 ở tuổi 43.
Top những bài thơ của Bà Huyện thanh quan hay nhất:
Thơ Bà Huyện Thanh Quan 1: Qua đèo Ngang
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Quang cảnh trong bài thơ được Bà Huyện lấy cảm hứng từ một buổi hoàng hôn giữa đèo ngang hùng vĩ của non nước Việt Nam.Khi anh sáng lụi tàn nhường chỗ cho bóng xế tà cũng là lúc những suy nghĩ của Bà Huyện về cuộc đời cuộc sống tìm về.Hình ảnh đau lòng con ‘’cuốc cuốc’’ chính là hình ảnh đắt giá nhất bài thơ.Chính vì sống trong thời buổi loạn lạc rối ren của thế kỉ XIX chứng kiến bao nhiêu là ‘’vận đổi sao dời’’ của triều chính đất nước.Thế nên lòng ‘’nhớ nước thương nhà’’ chính là đặc điểm chung của các nhà thơ thời kỳ này.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan 2:Thăng Long hoài cổ
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn chau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Bài thơ như là một sự lên án của Bà Huyện đối với những thú vui kinh hãi của quý tộc xưa, tại kinh thành Thăng Long.Trong bài thơ có nhắc đến ‘’Hý trường’’ là một nơi mua vui đáng sợ với những trò tiêu khiển diễn kịch .Mà giới quý tộc thường bắt nô lệ để phục vụ mình.Nói lên thực trạng đáng sợ của xã hội khi cùng là con người với nhau nhưng lại đối xử phân biệt.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan 3:Chiều hôm nhớ nhà
Vàng toả non tây, bóng ác tà,
Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa.
Ngàn mai lác đác, chim về tổ,
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà.
Còi mục thét trăng miền khoáng dã,
Chài ngư tung gió bãi bình sa.
Lòng quê một bước nhường ngao ngán,
Mấy kẻ tình chung có thấu là?
Bài thơ là tâm trạng da diết nhớ nhà của tác giả.Sau nhiều ngày phiêu du vớn bốn bể non sông.Lại cảm thất nhớ và thèm cảm giác ấm áp khi về bên ngôi nhà.Trong cuộc sống đôi khi chúng ta cũng vậy.Đi đâu đó quá xa,thường sẽ có cảm giác thèm được trở về nhà
Thơ Bà Huyện Thanh Quan 3:Buổi chiều lữ thứ
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa lẩn trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn trang đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
Người lữ thứ là những người đi đường xa.Trong bài thơ ý nói về tâm trạng của một du khách xa khi đặt chân đến một mảnh đât xa lạ,đầy cô đơn.Không một người thân bơ vơ một mình giữa xứ lạ,
Thơ Bà Huyện Thanh Quan 4:Cảnh Hương Sơn
Đệ nhất nam thiên ấy cảnh này
Thuyền nan đón khách máy chèo lay
Hai bên quả núi lồng hương suối
Bốn mặt hoa ngàn rủ bóng cây
Cửa Phật lơ thơ tầng đá dãy
Chùa tiên bát ngát khói hương bay
"Nam vô" tiếng dậy thưa trần tục
Non nước Bồng Lai mới thấy đây!
Bài thơ nói lên vẻ đẹp non nước của Hương Sơn.Là Đệ nhất cảnh đẹp đất Việt.Một chốn bồng lai tiên cảnh mà ai đi qua nơi này.Cũng vấn vương chìm trong cõi hùng vĩ của thiên nhiên.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan 5:Tức cảnh chiều thu
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá trường giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ.
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
Bài thơ là nỗi hoài niệm đã qua mà tác giả tiếc thương cho mùa HẠ.Đứng trước khoảnh khắc chuyển mình sang Thu của thiên nhiên.Tác giả như có thêm nhiềm niềm cảm hứng mới,để sáng tác ra những tác phẩm thơ văn
Thơ Bà Huyện Thanh Quan 6:Chùa Trấn Bắc
Thơ Bà Huyện Thanh Quan 7:Đền Trấn Võ
Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm sóng
Một vũng tang thuơng, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây, chín rõ mười
Bài thơ là khung cảnh chiều xuân về trên Đài Trấn Bắc.Trong chiều xuân ấy sau mọi đau thương,khổ ải từng xảy ra tất cả như bình yên hơn.Bởi giờ đây sau những hồi chuông gầm sóng.Tất cả sẽ đến với miền cực lạc thanh thản,nhẹ nhàng,...
Thơ Bà huyện Thanh Quan 8:Song nữ tế tế thái thuỷ văn
Trước sàng linh khóc mà than rằng:
Kỳ trăm năm chưa mãn, mẹ vội lên cõi Phật chẳng nhìn con,
Ơn chín chữ khôn đền, con tìm khắp dưới trời không thấy mẹ.
Mẹ lìa! Mẹ ơi!
... con, tình thảm thiết, sao đành,
Con nhớ mẹ, nỗi sau xưa, xiết kể.
Duyên tác hợp, lạm nghe mười chín tuổi, rổ tần phồn từng theo dấu mẹ đi.
Mối sinh thành đã hầu bảy tám lần, sân chi diệp lại ví dòng Tạ thị.
Thúi từ nhân đà nức tiếng nghi gia,
Đường thanh lịch cũng đủ mùi thù thế.
Ngoài ba kỷ chưa vẹn nguyền giai lão, buồng hung từng gió tủi mưa sầu,
Năm mươi năm chưa trọn kiếp phù sinh, chồi liễu bỗng sương giăng nắng xế.
Ôi!
Lá rụng ngàn xuân,
Mây lồng đỉnh dãy.
Trên tiên cảnh chợt mách tin, thanh điểu rước cùng đi cho vẹn nghĩa tao khang,
Dưới trần hoàn dầu cưu dạ từ ô tìm đâu thấy để đền ơn non bể.
Núm đồng nghiêng, dễ cấm tiếng chuông rè,
Chùm quả nặng, khôn nâng cành lá ủ.
Song cũng biết một trai là có, nhưng đà mây bay hạc lánh, thừa điêu phải cậy tôn hàng,
Đã hay mười gái cũng là không, khôn biết quả mãn thuyền đầy, tương sự chỉ nhờ tay nữ tế.
Rày:
Nhân tiết hạ thiên,
Lâm tuần đoan ngọ.
Gọi là bát nước điển hương, lòng thành kính dãi bày trong ngu tế.
Là bài văn của hai chàng rể tế mẹ vợ. Bài này được viết bằng chữ Nôm, chép trong Quốc phong ngẫu vịnh, ký hiệu VHv.2248, lưu trữ tại Thư viện Hán Nôm.
Trên đây là bài viết của Vforum về Top những bài thơ của Bà Huyện thanh quan hay nhất và tiểu sử.Mong rằng bài viết sẽ đem đến những tác phẩm hay nhất của Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ nhà thơ tài sắc vẹn toàn của nền thơ ca cận đại lịch sử Việt Nam.Dành cho các nhé!
Xem Thêm:Top những bài thơ hay nhất của Trần Đăng Khoa
Có những bài thơ nào của Bà Huyện Thanh Quan hay nhất nhỉ?
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn chau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Bài thơ như là một sự lên án của Bà Huyện đối với những thú vui kinh hãi của quý tộc xưa, tại kinh thành Thăng Long.Trong bài thơ có nhắc đến ‘’Hý trường’’ là một nơi mua vui đáng sợ với những trò tiêu khiển diễn kịch .Mà giới quý tộc thường bắt nô lệ để phục vụ mình.Nói lên thực trạng đáng sợ của xã hội khi cùng là con người với nhau nhưng lại đối xử phân biệt.
Vàng toả non tây, bóng ác tà,
Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa.
Ngàn mai lác đác, chim về tổ,
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà.
Còi mục thét trăng miền khoáng dã,
Chài ngư tung gió bãi bình sa.
Lòng quê một bước nhường ngao ngán,
Mấy kẻ tình chung có thấu là?
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa lẩn trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn trang đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
Đệ nhất nam thiên ấy cảnh này
Thuyền nan đón khách máy chèo lay
Hai bên quả núi lồng hương suối
Bốn mặt hoa ngàn rủ bóng cây
Cửa Phật lơ thơ tầng đá dãy
Chùa tiên bát ngát khói hương bay
"Nam vô" tiếng dậy thưa trần tục
Non nước Bồng Lai mới thấy đây!
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá trường giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ.
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
Bài thơ là nỗi hoài niệm đã qua mà tác giả tiếc thương cho mùa HẠ.Đứng trước khoảnh khắc chuyển mình sang Thu của thiên nhiên.Tác giả như có thêm nhiềm niềm cảm hứng mới,để sáng tác ra những tác phẩm thơ văn
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Khách đi qua đó chạnh niềm đau
Mấy toà sen rót mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa, cảnh cũ, nào đâu tá?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu!
Chùa trấn Bắc là một ngôi chùa ở bờ phía đông Hồ Tây,Hà Nội.Bài thơ là cảm giác yên bình tịnh tâm khi tìm về chốn phật pháp chủa nhà thơ.Cùng với nét cổ kính,tòa sen của chùa Trấn Bắc đã tạo nên bức tranh cực đẹp cho bài thơKhách đi qua đó chạnh niềm đau
Mấy toà sen rót mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa, cảnh cũ, nào đâu tá?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu!
Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm sóng
Một vũng tang thuơng, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây, chín rõ mười
Thơ Bà huyện Thanh Quan 8:Song nữ tế tế thái thuỷ văn
Trước sàng linh khóc mà than rằng:
Kỳ trăm năm chưa mãn, mẹ vội lên cõi Phật chẳng nhìn con,
Ơn chín chữ khôn đền, con tìm khắp dưới trời không thấy mẹ.
Mẹ lìa! Mẹ ơi!
... con, tình thảm thiết, sao đành,
Con nhớ mẹ, nỗi sau xưa, xiết kể.
Duyên tác hợp, lạm nghe mười chín tuổi, rổ tần phồn từng theo dấu mẹ đi.
Mối sinh thành đã hầu bảy tám lần, sân chi diệp lại ví dòng Tạ thị.
Thúi từ nhân đà nức tiếng nghi gia,
Đường thanh lịch cũng đủ mùi thù thế.
Ngoài ba kỷ chưa vẹn nguyền giai lão, buồng hung từng gió tủi mưa sầu,
Năm mươi năm chưa trọn kiếp phù sinh, chồi liễu bỗng sương giăng nắng xế.
Ôi!
Lá rụng ngàn xuân,
Mây lồng đỉnh dãy.
Trên tiên cảnh chợt mách tin, thanh điểu rước cùng đi cho vẹn nghĩa tao khang,
Dưới trần hoàn dầu cưu dạ từ ô tìm đâu thấy để đền ơn non bể.
Núm đồng nghiêng, dễ cấm tiếng chuông rè,
Chùm quả nặng, khôn nâng cành lá ủ.
Song cũng biết một trai là có, nhưng đà mây bay hạc lánh, thừa điêu phải cậy tôn hàng,
Đã hay mười gái cũng là không, khôn biết quả mãn thuyền đầy, tương sự chỉ nhờ tay nữ tế.
Rày:
Nhân tiết hạ thiên,
Lâm tuần đoan ngọ.
Gọi là bát nước điển hương, lòng thành kính dãi bày trong ngu tế.
Trên đây là bài viết của Vforum về Top những bài thơ của Bà Huyện thanh quan hay nhất và tiểu sử.Mong rằng bài viết sẽ đem đến những tác phẩm hay nhất của Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ nhà thơ tài sắc vẹn toàn của nền thơ ca cận đại lịch sử Việt Nam.Dành cho các nhé!
Xem Thêm:Top những bài thơ hay nhất của Trần Đăng Khoa