Top những bài thơ của Nguyễn Công Trứ hay nhất

Top những bài thơ của Nguyễn Công Trứ hay nhất



top-nhung-bai-tho-cua-nguyen-cong-tru-hay-nhat-1.png

Có những bài thơ hay nhất nào của Nguyễn Công Trứ nhỉ?

Đối với nền Văn học Việt Nam .Nhiều bạn chắc hẳn sẽ biết đến và yêu mến phong cách thơ Nguyễn Công Trứ muốn hiểu rõ hơn những tác phẩm thơ ca được phân tích rõ ràng và thưỡng thức mọi biện pháp nghệ thuật của nhà thơ này .Ổng đã sở hữu cho riêng mình hơn một trăm bài thơ hay nhiều giá trị cho nền thơ ca Việt Nam.Và hôm nay phạm vị bài viết này Vforum xin tổng hợp Top những bài thơ của Nguyễn Công Trứ hay nhất dành tặng các bạn.Sau đây hãy cùng tìm hiểu nhé!

Tiểu Sử về Nguyễn Công Trứ?



top-nhung-bai-tho-cua-nguyen-cong-tru-hay-nhat-2.jpg

Tranh phác họa Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ (1778-1858) một sĩ phu yêu nước,có tài và được nhiều người dân quý trọng.Lúc sinh thời ông là một vị quan rất được lòng dân.Có công giúp nhân dân khai hoang bờ cõi,xóa tan đi khoảng cách quan-dân.Thế nhưng kể từ khi ông quyết tâm học hành để thoát khỏi cái nghèo,cái tuổi thơ cơ cực ở xã làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Và đỗ trạng nguyên vào năm 1819,cuộc đời làm quan của ông lại vô cùng trắc trở.Có lần ông đã can đảm là người duy nhất trong triều dân sớ để đánh pháp nhưng không được chấp nhận.Qua bất mãn với triều đinh nên Nguyễn Công Trứ đã từ quan,..Sau khi đỗ Trạng,nhiều lần ông bị thăng giáng chức,có lẽ cũng do cái tính khí ngang tàng ,ngạo nghễ ‘’thấu trời xanh’’không xu nịnh.Thật vậy ngoài đức độ, nếu bàn về tài năng của ông thì chính xác đây chính là một vị quan thanh liêm, tài đức vẹn toàn.


Tổng hợp những bài thơ của Nguyễn Công Trứ hay nhất:


Thơ Nguyễn Công Trứ 1:Bài Ca Ngất Ngưỡng


Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!​


Mở đầu với bài thơ ''Bài Ca Ngất ngưỡng'' đã cho chúng ta thấy vẻ ngạo nghễ,trải đời,và ngang tạn của nhà thơ Nguyễn Công Trứ.Ở đây là vẻ ngạo nghễ của một người,vừa có tài,có công danh,lại hiểu thấu sự đời.Đó chính là sự tự tin của một người tài giỏi về mọi mặt mới có được thần thái ngạo nghễ ấy.Ở một triều đình chỉ toàn bọn nịnh thần,thì một trung thần như ông chính là khắc tinh,nỗi sợ hãi của bọn chúng.


Thơ Nguyễn Công Trứ 2:Chí làm trai



Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
Nhân sinh thế thượng thuỳ vô nghệ
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh
Đã chắc ai rằng nhục rằng vinh
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ
Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ
Quyết ra tay lèo lái trận cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi ruợu bầu.

Nổi danh với câu nói [FONT=&quot]“Đã mang tiếng [/FONT]ở trong trời đất[FONT=&quot]. [/FONT]Phải có danh gì với núi sông”.Chẳng phải chỉ là câu nói suông của Nguyễn Công Trứ và bài thơ chí làm trai như đã thể hiện đầy đủ khí phách nam nhi của ông.Dù chặng đượng có khó khăn bao nhiêu phong ba bão táp,quyết phải đi đến cùng và không từ bỏ.Như vậy đến cuối đời mới ''thảnh thơi túi rượu bầu'' mà ngạo nghễ với đời.


Thơ Nguyễn Công Trứ 3:Vịnh Cây Thông



Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thời trèo với thông​

Thích thú với hình ảnh cây thông.Nguyễn Công Chứ đã sáng tác ra một bài Vình về cây thông với cách gieo vần dí dỏm.Mặt khác có lẽ đã quá chán chường với thực tại,với việc chính sự triều đình.Mà ông đã có cách nghĩ đùa rằng.Phải chi kiếp sau làm cây thông sừng sững hiên ngang giữa cái giá rét cuộc đời,..


Thơ Nguyễn Công Trứ 4:Chí Nam Nhi



Thông minh nhất nam tử,
Yếu vi thiên hạ kỳ.
Trót sinh ra thời phải có chi chi,
Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.
Đố kị sá chi con Tạo,
Nợ tang bồng quyết trả cho xong.
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung,
Làm cho rõ tu mi nam tử.
Trong vũ trụ đã đành phận sự,
Phải có danh mà đối với núi sông.
Đi không chẳng lẽ về không?


Dù là quan văn,thê nhưng khí thê của Nguyễn Công Trứ lại là khí thế của bậc anh hào đất võ.Đối với Nguyễn Công Trứ ngoài bút chính là sức mạnh.Là thứ để ông khát khao thể hiện chí nam nhi với đời.Đối với ông người làm trai phải có danh với núi sông là điều bắt buộc.Đã đi không chẳng lẽ lại về không,và cái danh ấy chính là đích đến mà mọi nam tử hán phải dành lấy được


Thơ Nguyễn Công Trứ 5:Đi Thi Tự Vịnh
Đi không, há lẽ trở về không?
Cái nợ cầm thư phải trả xong!
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết?
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng

Khi đối với nhiều người thi cử như một nỗi sợ.Còn đối với ông đây chỉ là một cuộc chơi để ông thể hiện mình ^^.Và dành lấy được thủ khoa bảng vàng.

Thơ Nguyễn Công Trứ 6:Tự Tình
Vất vất vơ vơ cũng nực cười!
Căm căm cúi cúi có hơn ai ?
Nay còn chị chị anh anh đó,
Mai đã ông ông mụ mụ rồi.
Có có không không, lo hết kiếp,
Khôn khôn, dại dại chết xong đời.
Cho bằng láo láo lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ, ăn ăn, nói chuyện chơi.

Bài thơ với những điệp từ lặp đi lặp lại.Nhưng lại gieo vần cực kì khéo léo tránh cảm giác nhàm chán cho người nghe.Bài thơ với đại ý khuyên răn hãy sống khôn ngoan.Đừng tưởng mình tài giỏi mà chết trong ảo mộng.''Kẻ khờ luôn tỏ ra rằng mình giỏi,còn người khôn lại giả ngô nghê không hơn thua ,thiệt hơn với cuộc đời'',..

Thơ Nguyễn Công Trứ 7:Trò Đời
Một lưng một vốc kém chi mô,
Cho biết chanh chua khế cũng chua.
Ðã chắc bữa trưa chừa bữa tối,
Mà tham con giếc tiếc con rô.
Trăm điều đổ tội cho nhà oản,
Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa.
Khó bó cái khôn còn nói khéo,
Dầu ai có quấy vấy nên hồ.


Nổi tiếng là người thẳng tính ngạo nghễ.Thế nên Nguyễn Công Trứ luôn sử dụng thơ ca để phê phán những thứ không vừa mắt.Giữa xã hội phông kiến lạc hậu với đầy rẫy những điều bất cập,kém hiểu biết.Thì nguyễn công trứ nổi lên như một bậc thánh nhân .Với lối sống và cách tư duy tiến bộ hơn hàng thế kỉ so với xã hội.


Thơ Nguyễn Công Trứ 8:Cầm kỳ thi tửu


Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi
Dở duyên với rượu khôn từ chén
Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời
Cờ sẵn bàn son xe ngựa đó
Đàn còn phím trúc tính tình đây
Ai say, ai tỉnh, ai thua được
Ta mặc ta mà ai mặc ai!


Dù tài năng bậc nhất,thế nhưng Nguyễn Công Trứ lại nghiện rượu,đó cũng là lý do khiến nhân tài như ông mất sớm.Cũng dễ hiểu bởi tâm hồn bay bổng của nhà thơ,vẫn luôn cần một thứ gì đó làm chất xúc tác như rượu,để thoát khỏi thực tại chán ghét mà sống trong thế giới thi ca,..


Thơ Nguyễn Công Trứ 9:Kẻ Sĩ


Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên.
Có giang sơn thì sĩ đã có tên,
Từ Chu, Hán, vốn sĩ này là quý.
Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị
Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường
Khí hạo nhiên chí đại chí cương
So chính khí đã đầy trong trời đất.
Lúc vị ngộ, hối tàng nơi bồng tất
Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn
Xe bồ luân dù chưa gặp Thang, Văn
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.
Cầm chính đạo để tịch tà cự bí
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Mang quách cả sở tồn làm sở dụng.
Trong lang miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thuỳ rạch mũi Can Tương
Làm sao cho bách thế lưu phương
Trước là sĩ, sau là khanh tướng.


Kinh luân khởi tâm thượng, binh giáp tàng hung trung,
Vũ trụ chi gian giai phận sự, nam nhi đáo thử thị hào hùng.
Nước nhà yên mà sĩ được thung dung
Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch
Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch
Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn
Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn
Đồ thích chí chất đầy trong một túi.
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới
Gẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh
Này này sĩ mới hoàn danh.


Bài thơ thể hiện tư tưởng rõ ràng của Nguyễn Công Trứ,chính là tư tưởng của kẻ sĩ.Với quan niệm phải làm được gì đó có ích cho đời,chứ đừng ham mộng cái danh hão huyền nhưng bản thân lại bất tài vô dung,Và hướng đi của Nguyễn Công Trứ là vô cùng đúng đắn.Mỗi tác phẩm của ông như là một lời răn dạy đối với xã hội con người mai sau.


Thơ Nguyên Công Trứ 10:Chơi Xuân Kẻo Hết Đi



Ngẫm cho kỹ đến bất nhân là tạo vật
Đã sinh người lại hạn lấy năm
Kể chi thằng lên bẩy, đứa lên năm
Dẫu ba vạn sáu nghìn ngày là mấy chốc?
Lại mang lấy lợi danh, vinh nhục
Cuộc đời kia lắm lúc bi hoan
E đến khi hoa rữa trăng tàn
Xuân một khắc, dễ nghìn vàng đổi chác?
Tế suy vật lý tu hành lạc
An dụng phù danh bạn thử thân
Song bất nhân mà lại chí nhân
Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi bấy
Nếu không chơi, thiệt ấy ai bù?
Nghề chơi cũng lắm công phu!

Thơ Nguyễn Công Trứ 11:Hàn Nho Phong vị Phú

Chém cha cái khó!
Chém cha cái khó!
Khôn khéo mấy ai ?
Xấu xa một nó!
Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,
Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.
Kìa ai:
Bốn vách tường mo,
Ba gian nhà cỏ.
Đầu kèo mọt đục vẽ sao,
Trước cửa nhện giăng màn gió.
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối dũi quanh co,
Góc tường đất, giun đùn lố nhố.
Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó.
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,
Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua,
Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,
Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
Đỡ mồ hôi, võng lác, quạt mo,
Chống hơi đất, dép da, guốc gỗ.
Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon,
Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của.
Đồ chuyên trà, ấm đất sứt vòi,
Cuộc uống rượu, be sành chắp cổ.
Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thuỷ mạc lờ mờ,
Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ.
Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ,
Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.
Lộc nhĩ điền lúa chất đầy rương,
Phương tịch cốc khoai vừa một rỏ.
Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,
Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một chiêng một bó,
Mỏng lưng xem cũng không giầu,
Nhiều miệng lấy chi cho đủ.
Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,
Qúa kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó.
Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ý dã, thế nào cho đáng giá lương y,
Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được nổi danh pháp chủ.
Quẻ dã hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối đổ biển, ta chẳng bõ bèn,
Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chỗ.
Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh, mập mờ nên hàng chẳng có lời,
Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại dành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ.
Gâp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,
Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ.
Đến lúc niên chung nguyệt quý, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công ?
Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,
Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.
Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,
Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
Láng giềng ít kẻ tới nhà,
Thân thích chẳng ai nhìn họ.
Mất việc toan dở nghề cơ tắc, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,
Túng đường mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần,
Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú.
Tất do thiên, âu phận ấy là thường,
Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.
Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề,
Cần nghiệp kho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ.
Nơi thành hạ đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm,
Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ.
Khó ai bằng Mãi Thần Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,
Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ.
Mới biết:
Khó bởi tại trời,
Giàu là cái số.
Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền,
Cũng bất quá thủ tài chi lỗ.


bài thơ tập trung phản ánh cái khó ở đời ở cuộc sống,từ đó thể hiện quan niệm chán ghét và căm thù cái nghèo khó.Và nên nhớ Nguyễn Công Trứ cũng là từ cái nghèo khó đi lên.Thế nên ở đây chính là sự chia sẽ là động lực để Nguyễn Công Trứ giúp đời thoát khỏi cái nghèo,cái khó.Bởi vì trong cuộc sống nghèo khó luôn tồn tại và đa số con người sẽ phải xuất phát điểm từ cái nghèo khó ấy mà vươn lên


Thơ Nguyễn Công Trứ 12:Bõ vợ lẽ Cảm Tác



Mười hai bến nước, một con thuyền
Tình tự xa xôi, đố vẽ nên!
Tự biệt nhiều lời so vắn giấy
Tương tư nặng gánh chứa đầy thuyền
Rồi đây nỏ biết quên hay nhớ
Từ đó mà mang nợ với duyên
Tình ấy trăng kia như biết với
Chia làm hai nửa giọi hai bên!


Thơ Nguyễn Công Trứ 13:Bỡn Tình Nhân



Tao ở nhà tao tao nhớ mi,
Nhớ mi nên phải bước ra đi.
Không đi mi nói răng không đến,
Đến thì mi nói đến làm chi.
Làm chi tao đã làm chi được,
Làm được tao làm đã lắm khi.


Thơ Nguyễn Công Trứ 14:Cảm Tác Lúc Về Già



Kẻ ghét song còn có kẻ ưa,
Nghĩ đâu mà lựa được cho vừa.
Khó giàu đã định thời không oán,
Khôn dại đành hay há dám từ.
Bể học dò nguồn cho chúng trẻ,
Ngày nhàn vui chuyện với người xưa.
Lâng lâng rũ rạch niềm nhân, ngã,
Gẫm thú phồn hoa đáng thế chưa.


Thơ Nguyễn Công Trứ 15:Cách Ở Đời


Ăn ở sao cho trải sự đời,
Vừa lòng cũng khó, há rằng chơi?
Nghe như chọc ruột, tai làm điếc,
Giận đã căm gan, miệng mỉm cười.
Bởi số chạy đâu cho khỏi số?
Luỵ người nên nỗi phải chiều người.
Mặc ai, chớ để điều ân oán,
Chung cục thời chi cũng tại trời.


Thơ Nguyễn Công Trứ 16:Ca Tự Biệt


Kẻ về người ở
Bồi hồi thay lúc phân kỳ
Khéo quấy người hai chữ tình si
Lửa ly biệt bầng bầng không lúc nguội!
Bát ngát trăm đường bối rối
Biệt thì dung dị, kiến thì nan
Trót đa mang khúc hát cung đàn
Nên dan díu mối tình chưa dứt
Sá nghĩ xa xôi nghìn dặm đất
Tiếc công đeo đẳng mấy năm trời
Khi ra vào tiếng nói giọng cười
Một ngày cũng là người tri kỷ
Sao nỡ để kẻ vui người tẻ
Gánh tương tư riêng nặng bề bề?
Thương thay người ở đôi quê
Nẻo đi thì nhớ, nẻo về thì thương!
Tính sao cho vẹn trăm đường?


Thơ Nguyễn Công Trứ 17:Cảnh Xa Nhà



Nỗi nọ đường kia, xiết nói năng!
Đêm nằm không ngủ, biết mần răng?
Đầu ngành mấy tiếng chim kêu gió
Trước điếm năm canh chó sủa giăng
Phảng phất lòng quê khôn nén được
Mơ màng cuộc thế cũng cầm bằng
Đêm gà eo óc, trời chưa rạng
Tình tự này ai biết hay chăng?


Thơ Nguyễn Công Trứ 18:Cái Già Theo Đuổi


Lão trục thiếu lai ưng bất phóng,
Nhục tuỳ vinh hậu định tu quân.
Lò âm dương san sẻ bình phân,
Con tạo hóa cầm cân nhiệm nhặt.
Mới đó đỉnh mây còn ngắt ngắt,
Phút đâu mái tuyết đã phau phau.
Cái khoá dàm là giống ở đâu,
Cứ lẽo đẽo cặp kè hiên cái.
Đôi kẻ biết sao không tỉnh lại,
Dẫu thiên hô vạn hoán cũng u ơ.
Xót cho ta biết bao giờ.


Thơ Nguyễn Công Trứ 19:Cây Cau



Ơn chúa vun trồng kể xiết bao
Một ngày càng một rấn lên cao
Lưng đeo đai bạc, sương nào nhuốm?
Đầu đội tàn xanh, nắng chẳng vào
Buồng chất cháu con khôn xiết kể
Nhà nhiều quan khách dễ khuyên chào
Kình thiên một cột giơ tay chống
Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao


Thơ Nguyễn Công Trứ 20: Duyên gặp gỡ



Minh quân lương tướng tao phùng dị
Tài tử giai nhân tế ngộ nan
Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên
Trong nhất kiến tình duyên như đã
Tỳ bà hữu hạnh phùng Tư mã
Quân tử đa tình cánh khả lân
Nọ mấy người tài tử giai nhân
Duyên chỉ thắm bỗng dần dần đưa lại
Dầu nghìn dặm băng sơn quế hải
Đã tình duyên xe lại cũng nên gần
Liễu hoa vừa gặp chúa xuân
Châu Trần nào có Châu Trần này hơn
Anh hùng hà xứ bất giang sơn?


Trên đây là bài viết của Vforum về Top những bài thơ của Nguyễn Công Trứ hay nhất.Mong rằng qua bài viết sẽ đem đến cho các bạn kiến thức về thơ ca Nguyễn Công Trứ,cũng như tìm hiểu về một vị quan với tính cách ngông nghênh nhưng cực tài giỏi của lịch sử Việt Nam nhé.Chúc các bạn xem thơ vui vẻ!

Xem Thêm:
Top những bài thơ của Bà Huyện thanh quan hay nhất và tiểu sử
 
Top