Tuyên điễm du lich

Đặc điễm khí hậu miền tây

Tiền giang

Tỉnh Tiền Giang
ĐỊA LÝ TIỀN GIANG
Diện tích: 2.484,2 km2.
Dân số (2006):1.717.400 người.
Tỉnh lỵ: thành phố Mỹ Tho.
Thị xã: thị xã Gò Công.
Các huyện: huyện Cái Bè, huyện Cai Lậy, huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo, huyện Gò Công Tây, huyện Gò Công Đông và huyện Tân Phước.
Dân tộc: Việt (Kinh), Hoa, Khmer, Tày...

Tiền Giang là phần đất của hai tỉnh: tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Gò Công cũ, phía Bắc giáp tỉnh Long An, phía Tây giáp tỉnh Đồng Tháp, phía Đông giáp với cửa Soài Rạp và biển Đông, phía Nam giáp tỉnh Bến Tre. Thành phố Mỹ Tho cách thành phố Hồ Chí Minh 70 km.
Khí hậu Tiền Giang chia thành hai mùa rõ rệt, mùa mưa và mùa khô, nhiệt độ trung bình hàng năm là 27oC, lượng mưa trung bình 2.300 mm/năm. Các sông chính: sông Tiền, sông Gò Công, sông Bảo Định và một mạng lưới kênh đào thuận lợi cho giao thông đường thủy.
Từ Tiền Giang có thể đi thành phố Hồ Chí Minh hoặc sang Phnôm Pênh bằng đường sông. Đường bộ chính của Tiền Giang là Quốc lộ 1A, chạy xuyên qua các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Là tỉnh đồng bằng, địa hình Tiền Giang chia thành ba vùng rõ rệt: vùng cây trái ven sông Tiền, vùng Đồng Tháp Mười và vùng ven biển Gò Công. Tiền Giang có 31 km bờ biển, hàng năm đánh bắt rất nhiều cá và hải sản; đất đai phì nhiêu, là một trong những vựa lúa lớn của đồng bằng sông Cửu Long. Tiền Giang là nơi hội tụ đủ loại sản vật và hoa trái nổi tiếng như mận hồng đào Trung Lương, vú sữa Vinh Kim, xoài cát, cam sành, ổi xá lỵ Cái Bè...
Tiền Giang có hệ thống khách sạn, nhà hàng đầy đủ tiện nghi, nhiều món ăn đặc sản nổi tiếng của miệt vườn vùng sông nước Cửu Long.
Trước giải phóng vốn là 2 tỉnh: Định Tường và Gò Công, sau giải phóng ta sát nhập 2 tỉnh lại và đặt tên là Tiền Giang; Tân Hiệp là trung tâm của Tiền Giang ngày xưa thời chúa Nguyễn.
Trên mảnh đất này cũng có 2 vị đệ nhất phu nhân đó là vợ Ông Nguyễn Văn Thiệu và vợ Bác Tôn Đức Thắng; ngoài ra còn có bà Từ Dũ. Trên mảnh đất này cũng nổi tiếng về đờn ca tài tử để rồi từ đó chuyển qua cải lương và gánh hát ông Nguyễn Tấn Triệu đã được mời sang Pháp biểu diễn năm 1920. Đến năm 1920 cũnh tại Mỹ Tho - Tiền Giang đã nảy sinh ra loại hình ca kịch cải lương đầu tiên, đó là gánh thầy Năm Tứ. Ngoài ra ở đây cũng có những truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm rất nổi tiếng như: huyện Châu Thành có chiến thắng Rạch Rầm - Xoài Mút; trận đánh của Quang Trung đại phá quân Xiêm Tại sao vùng này có tên là đồng bằng sông Cửu Long?
Theo giả thuyết: sông này có tên là sông Cửu Long vì : Sông này bắt nguồn từ Tây Tạng (cao hơn 5000m so với mực nước biển); trải qua Trung Quốc, Lào, Campuchia và đổ vào Nam Bộ. Sông có tên khác là MêKông (dài 4220km) phiên âm từ tiếng Lào là Mè Khoỏng, nghĩa là “sông Mẹ”. Khi chảy qua lãnh thổ Việt Nam theo 9 cửa (9 đầu rồng): trong đó chảy vào sông Tiền là 6 cửa (cửa Tiểu; Cửa Đại; Cửa Ba Lai; Cửa Hàm Luông, Cửa Cổ Chiên; Cửa Cung Hầu); sông Hậu 3 cửa (Cửa Định An, Tranh Đề Và Bát Xác). Nên gọi là Cửu Long
Đây là vùng đất hình thành do sự bồi đắp của Sông Mê Kông đây cũng là vùng châu thổ lớn nhất nước.
Đồng Bằng sông Cửu Long ngày nay thuộc vương quốc Phù Nam ngày xưa, vương quốc Phù Nam có một phần lãnh địa thuộc đồng bằng sông Cửu Long vào đầu công nguyên.
Phù Nam là vương quốc rất hùng mạnh và thời kỳ cường thịnh nhất của vương quốc này khỏang từ thế kỷ thứ III -> thế kỷ V bắt đầu triều đại Phạm Sự Nan khoảng từ năm 205 đến 255.
Vương quốc Phù Nam phát triển chính trên địa bàn vùng hạ lưu và châu thổ sông Cửu Long.
Phù Nam là tên gọi theo cách phát âm Founan của người Trung Hoa, vị vua đầu tiên của người Phù Nam được biết đến đầu tiên trong lịch sử là Hỗn Điền. Theo truyền thuyết vị vua nay rất tôn sùng các vị thần BaLaMôn. Một hôm ông nằm mơ thấy các vị thần BaLaMôn trao cho mình một cây cung và truyền lệnh xuất dương trên một thương thuyền lớn. Sáng hôm sau ngài vào đền thờ làm lễ và thấy cây cung ở dưới gốc cây, bèn dong bườm ra biển, gió thần đưa thuyền đến vùng đất tại đây có một nữ vương tên Liễu Diệp, trẻ, khỏe, không khác gì con trai nổi danh trong các cuộc chinh phục các quốc gia láng giềng. Vị nữ quân thấy thuyền lạ liền xua quân ra định đánh cướp nhưng bị Hỗn Điền bắn một phát tên thần xuyên thũng mạng thuyền đến tận chỗ Liểu Vương đứng, trúng một tên quân. Liễu Diệp hoảng sợ xin hàng phục. Sau đó họ lấy nhau rồi cai trị xứ sở nay lập nên vương quốc Phù Nam .
Trong thời kỳ hưng thịnh họ khống chế nền thương nghiệp hàng hóa cả miền Đông Nam A và tự xưng là “Phù Nam Đại Vương “. Sử liệu còn ghi lại mối quan hệ ngọai giao và thương mại giữa Phù Nam với Trung Hoa, Ấn Độ. Nhờ tài nguyên phong phú và nhờ vào vị trí trung gian trên con đường hàng hải Ấn –Trung mà Óc Eo được coi là thành phố cảng của Phù Nam đã sớm trở thành một thị trấn quốc tế .
Giai đọan cuối của lịch sử Phù Nam trùng hợp với sự phát triển của Chân lạp. Mâu thuẩn giữa hai thế lực này dẫn đến sự sụp đỗ của vương quốc Phù Nam vào thế kỷ thứ 6 (theo tài liệu cổ Trung Hoa, vương quốc Phù Nam bị Chân lạp xâm chiếm vào khoảng năm 550 nhưng vẫn còn chống giữ đến năm 627). Sau khi bị Chăm Pa xâm chiếm Phù Nam chia làm hai quốc gia Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp (một phần thuộc ĐBSCL). Thủy Chân Lạp nằm gần bờ biển, vùng ĐBSCL; Lục Chân Lạp thuộc vùng đất cao chính là Campuchia ngày nay .
Từ thế kỷ 7 đến TK10 vùng đất này bị nhấn chìm trong lũ lụt, chỉ còn vài gò đất nổi lên. Từ khoảng TK 10-17 người Việt, Khmer đến định cư vì thế nơi đây hình thành nên nhóm dân tộc chính là người Kinh, Khmer, Chăm, Hoa với nền văn hóa đa dạng. Đồng thời trong thời gian này các tôn giáo được truyền bá và phát triển như đạo phật, đạo Hồi, đạo Thiên Chúa …
Năm 1808 vùng đồng bằng sông Cửu Long, được người Pháp chia như sau :
-Trấn Định Tường: gồm Phủ Kiến An, 3 huyện Kiến Đăng, Kiến Hưng và Kiến Hòa .
-Trấn Hà Tiên: gồm các địa danh còn lại trong vùng .
-Năm 1832, Pháp phân Nam Kỳ ra làm lục tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Đến thời điểm này vùng ĐBSCL có 4 tỉnh là: Định Tường (Tiền giang) An Giang , Vĩnh Long và Hà Tiên (Cần Thơ , Hà Tiên , Cà Mau) .
-Năm 1862, Pháp chiếm 3 tỉnh Đông Nam Bộ ( Biên Hòa, Gia Định, Vĩnh Tường )
-Năm 1867, Nam Kỳ Lục Tỉnh được chia làm 20 tỉnh. Trong đó ĐBSCL có 14 tỉnh: Bạc Liêu, Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Trà Vinh, Bến Tre, Gò Công, Mỹ Tho, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch Giá, Tân An .
-Từ 1955 –>1975 ĐB sông MêKông chia làm 17 tỉnh: Kiên Giang, Sa Đéc, Ba Xuyên (Bạc Liêu ), Vĩnh Bình, Kiến Tường, Chương Thiện, Phong Dinh, Vĩnh Long, Kiến Hòa, Châu Đốc, Định Tường, Bạc Liêu, Gò Công, An Giang, Long An, Long Xuyên, Kiến Phong .
-Năm 1975 đến 1990 ĐBSCL có 9 tỉnh, Hậu Giang, Tiền Giang, An Giang, Long An, Bến Tre, Kiên Giang, Cửu Long, Đồng Tháp, Minh Hải.
-Năm 1991 tỉnh Cửu Long tách thành Trà vinh và Vĩnh Long.
-Năm 1992 Hậu Giang tách thành Cần Thơ và SócTrăng.
-Nắm 1997 Minh Hải tách thành Cà Mau và Bạc Liêu.
-Hiện nay vùng ĐBSCL có 13 tỉnh thành: Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Tp Cần thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Hậu Giang.
-Diện tích ĐBSCL: 40.000km2 chiếm khoảng 1/8 cảnước
-Dân số 19.5 triệu dân (2003) chiếm khoảng 1/4 dân số cả nước
2-Vị trí địa lí-khí hậu-đất đai sông ngòi:
2.1-Vị trí địa lí:
• Đông nam giáp biển Đông.
• Đông bắc giáp đông nam bộ.
• Tây bắc giáp campuchia.
• Phía tây giáp Vịnh Thái Lan.
• Độcao trung bình thấp: từ 0 – 2m.
2.2-Khí hậu đất đai biển:
Khí hậu phù hợp cho sự phát triển của thực vật. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 260C . Có ngày cao khoảng 330C.
Đất phù sa, diện tích khoảng 1.800.000ha, đất phù sa là do sông Hậu và sông Tiền bồi đắp.
Ngoài ra còn có đất ven sông pha màu hơi đỏ, đất mặn đất phèn, đất than bùn.
Rừng nước mặn ven biển chiếm diện tích 30.000ha. Đứng thứ 3 trên thế giới với những cây nổi tiếng như : cây mằm đen, cây đước, cây vẹt, cây đà, sú, bàn…
2.3-Sông ngòi:
Đây là vùng có hệ thống sông ngòi khá chằng chịt. Đồng thời nó cũng là yếu tố giúp cho vùng phát triển kinh tế nông nghiệp. Hệ thống sông ngòi chính của ĐBSCL là sông Hậu và sông Tiền là hai nhánh của sông Mê Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng (Trung Quốc).

Lịch Sử Hình Thành Nền Văn Minh Miệt Vườn ở Tiền Giang
Tiền Giang có những tiếp cận với nền văn hóa Ấn Độ, Khơ Me, Trung Quốc qua người Hoa, Hồi giáo qua người Chăm. Tất cả đều được liên kết một cách phong phú trong nền văn hóa Việt Nam.
Ngay từ thế kỉ 18, phố chợ Mỹ Tho đã là nơi buôn bán nổi tiếng, ghe thuyền ở các ngả sông, biển đến đậu đông đúc làm thành một đô hội rất phồn hoa huyên náo.
Mỹ Tho là tỉnh lỵ của tỉnh Tiền Giang hình thành vào năm 1679. Ngày nay còn dấu vết một khu thương mại cổ nằm trên đường Nguyễn Huỳnh Đức, thuộc phường 2 và phường 8. Hồi ấy gọi là Mỹ Tho đại phố. Năm 1791, đại phố này được xây dựng lại.
Đây là khu phố do chính người Việt người Hoa Minh Hương, cánh Dương Ngạn Địch lập nên. Mỹ Tho Đại phố là một trong ba trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ vào giữa thế kỷ 17 và Mỹ Tho Đại Phố, Nông Nại Đại Phố (Cù Lao Phố ngày nay ở Biên Hòa) và Hà Tiên.
Vào 3 thế kỷ trước, Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh dẫn quân từ Nam Vinh (Phnôm Pênh ngày nay) ghé qua cù lao Cây Sao và sau đó, trên đường về đất Đồng Nai, khi qua Rạch Gầm (sách cũ gọi là Sầm Khê) thuộc huyện Kiến Đăng, đất Mỹ Tho xưa thì bị bạo bệnh, trút hơi thở cuối cùng. Tên Rạch Gầm là do xưa kia cọp rất nhiều cọp thường hay kêu gầm nên một thời được gọi là Rạch Cọp Gầm, về sau người ta bỏ tiếng cọp, còn gọi là Rạch Gầm. Đây là nơi nổi tiếng với những trận đánh ác liệt trong kháng chiến chống Pháp thời nhà Nguyễn và chiến thắng của Tây Sơn đập tan đoàn quân xâm lược Xiêm thời chúa Nguyễn.
Ba sông chính chảy qua Tiền Giang: sông Tiền, Gò Công, Bảo Định đã bồi đắp phù sa, biến đất đai vùng này trở nên phì nhiêu. Giữa sông Tiền lộng gió, nổi lên một hòn đảo nhỏ, có tên Cù Lao Thới Sơn, cây ăn trái xum xuê. Là miệt vườn nổi tiếng của xứ sở cây trái Nam Bộ và sản vật trà mật ong thanh nhiệt thật thơm ngon.
Nằm ở đoạn sông Tiền, giáp ranh giữa ba tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, chợ nổi Cái Bè sầm uất từ lâu là điểm mưu sinh quen thuộc của người dân vùng sông nước Cửu Long. Hàng ngày có khoảng 400 thuyền lớn chở đầy hàng hoá neo hai bên bờ chờ thương lái. Trên sông, hàng trăm thuyền nhỏ xuôi ngược như mắc cửi, buôn bán rộn ràng.
Vùng sông nước này củng là điểm du lịch hấp dẩn Du lịch Tiền Giang tham gia du lịch Du lịch miệt vườn, hay Du lịch vào mùa nước nổi. Tiền Giang còn có nhiều địa điểm lý thú như: Chùa Vĩnh Tràng, Trại rắn Đồng Tâm, và cả Khu du lịch sinh thái Thới Sơn.
Vùng đất của hai nhánh sông và gần biển này có nhiều món ngon mà hiếm nơi nào có được như: Sam biển Gò Công, Cá bống dừa, Bánh giá chợ Giồng, Hủ tiếu Mỹ Tho, Bún gỏi già Mỹ Tho, Chuối quét dừa , ...
Tiền Giang cũng có những lễ hội đặc trưng như: Hội Vàm Láng, Hội tứ kiệt.

Đôi nét về tỉnh tiền giang
Diện tích : 2367 Km2
Dân số : 1.649.300 người (2002)
Mật độ : 727 người/Km2
Tỉnh lỵ : Thành phố Mỹ Tho cách TP.Hồ Chí Minh 71 km theo quốc lộ 1A
Có một thị xã và 7 huyện
+Một thị xã : GÒ CÔNG
+Bảy huyện : Cái Bè , Cai Lậy , Châu Thành , Chợ Gạo , Gò Công Đông , Gò Công Tây , Tân Phước
Dân tộc : Kinh , Hoa….
_ Là phần đất của hai tỉnh Mỹ Tho và Gò Công cũ
_ Phía bắc giáp Long An
_ Phía tây giáp Đồng Tháp
_ Phía đông giáp với cửa Soài Rạp và biển Đông
_ Phía nam giáp Bến Tre
Khí hậu Tiền Giang có hai mùa rõ rệt , đó là mùa mưa và mùa khô . Nhiệt độ trung bình là 27 độ C , lượng mưa trung bình là 2300 mm/ năm
Các sông chính là sông Tiền , sông Gò Công , sông Bảo Định và một mang lưới kênh đào thuận lợi cho giao thông đường thủy . Từ Tiền Giang có thể đi TP. Hồ Chí Minh hoặc Phnôm Pênh bằng đường sông .Đường bộ chính là quốc lộ 1A chạy xuyên qua cac tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long
Là tỉnh đồng bằng , địa hình Tiền Giang chia thành ba vung rõ rệt là vùng cây trái ven sông Tiền ,vùng Đồng Tháp Mười và vùng ven biển Gò Công . Tiền Giang có 32 km bờ biển , hàng năm đánh bắt rất nhiều cá và hải sản , đất đai phì nhiêu , là một trong những vựa lúa lớn của Đồng Bằng Sông Cửu Long . Là nơi hội tụ đủ loại sản vật và hoa trái nổi tiếng như : mận hồng đào Trung Lương , vú sữa Vĩnh Kim , xoài cát , cam sành , ổi xá lị Cái Bè…Có hệ thống khách sạn , nhà hàng đầy đủ tiện nghi và nhiều món ăn dặc sản của miệt vườn sông nước Cửu Long
Truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc Nam Bộ , là một trong những cái nôi của ca nhạc cải lương nổi tiếng , nơi diễn ra các sự kiện lịch sử Rạch Gầm – Xoài Mút , Ap Bắc… quê hương của các anh hùng Trương Định , Thủ Khoa Huân . Có nhiều tôn giáo như Nho giáo , Phật giáo , Công giáo …
Bên cạnh những di tích tôn giáo như đền chùa , đình miếu , nhà thờ , còn giữ được nhiều di tích lịch sử , đó là các di chỉ Oc Eo , chiến lũy ,pháo đài …Có nhiều danh lam thắng cảnh như Cù lao Thới Sơn , trại rắn Đồng Tâm tạo nên bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên , đời sống vật chất và văn hóa đặc trưng của Nam Bộ

Rạch Rầm – Xòai Mút
Khu di tích được khánh thành năm 2005 để kỉ niệm 220 năm chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút 20.1.1785 – 20.1.2005
Khu di tích thuộc địa phận ấp Đông , xã Kim Sơn, huyện Châu Thành, Tiền Giang ,rộng gần 2 ha, hơn một nửa diện tích để xây dựng các nhà trưng bày
Trận thủy chiến diễn ra trên sông Tiền ( sông Mỹ Tho ) nay thuộc địa phận bốn xã là Kim Sơn , Thới Sơn , Song Thuận , Bình Đức của huyện Châu Thành cách Thành phố Mỹ Tho 7km
Tại đây Nguyễn Huệ đã chỉ huy đội quân từ Quy Nhơn vào Mỹ Tho. Đêm 19 rạng 20.1.1785 đã nhấn chìm hàng trăm chiến thuyền của giặc , tiêu diệt hàng van quân Xiêm và hàng ngàn tàn quân của Nguyễn Anh.
Để kỉ niệm chiến thắng vang dội đó , tại khu di tích Rạch Gầm – Xoài Mút đã xay dựng tượng đài chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút . Tượng đài cao 8 m , nặng 20 tấn bằng đồng màu với ba nhân vật : ở giữa là vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ tay đang vuốt gươm , bên trái là hình ảnh người nông dân Định Tường chèo thuyền hỗ trợ chiến đấu còn bên phải là hình ảnh võ công Tây Sơn giương cung bắn vào kẻ thù
Dưới chân nhóm tượng đái này là một loại hình kiến trúc dạng đền . Bên ngoài đền co dải phù điêu bằng đồng màu nặng 6 tấn phác họa lên từ hình ảnh con người và chim lạc được cách điệu từ mặt trống đồng
Cổng và tường rào của khu di tích có hình ảnh những chiến thuyền gợi cho ta có cảm giác mình đang chứng kiến cảnh thủy chiến diễn ra nơi đây
Tiếp theo du khach sẽ được tham quan nhà trưng bày số 1. Ở đây trưng bày rất nhiều hiện vật như súng thần công là hiện vật phục chế còn các hiện vật khác là nguyên bản . Trong nhà trưng bày có dải tranh ghép gốm màu với 1440 viên gạch ghép lại với nhau được nung ở nhiệt độ 1100 độ C . Dải tranh ghép cao 1.8m , với diện tích 57 m2 .Nội dung gồm 4 chương nói về quá trình khẩn hoang , lập ấp , trận thủy chiến , khúc khải hoàn. Ngoài ra còn có mang phù điêu với diện tích 13 m2 phác hoa lên từ hình ảnh chim muông và cây trái của vùng quê sông nước Tiền Giang
Ngoài ra ở đây còn có ngôi nhà cỏ Nam Bộ cất theo kiểu ba gian và hai chái . Ngôi nhà có diện tích 225 m2 , có 48 cây cột trong đó có 24 cây cột tròn và 24 cây cột vuông biểu tượng cho mẹ tròn con vuông . Ở giữa nhà có bàn thờ tổ tiên , phía trước có bộ ghế trường kỉ làm cho ta liên tưởng đến phong tục ăn coi nồi ngồi coi hướng . Ngày xưa những người lớn tuổi có thể ngồi ở đây uống trà và trò chuyện ; đặc biệt con dâu và con gái không được lên nhà trên

Trại Rắn Đồng Tâm
Sau khi dùng điểm tâm sáng, anh Nguyễn Đình Lam ,hướng dẫn viên địa phương dã dẫn đoàn đến tham quan trại rắn Đồng Tâm . Nơi đây cách Thành phố Mỹ Tho 12 km . Trại rắn thuộc địa phận xã Bình Đức huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang khoảng 3 ha.
Đây là trung tâm nuôi rắn lớn lấy nọc xuất khẩu , kết hợp trồng nhiều loại cây dược liệu và nghiên cứu chữa bệnh rắn cắn cho nhân dân vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long . Bên cạnh đó , nơi đây còn là một khu vườn thật đẹp – tổ ấm cho đủ các loại chim và động vật quý hiếm tại Nam Bộ ,
Trước kia đây là căn cứ quân sự của Mĩ có tên là Đồng Tâm; ngày xưa người dân thường gọi nay là vành đay trắng. Nơi nay có địa thế hiểm trở thường diễn ra những trận đánh cá liệt giữa lực lượng cách mạng và Mỹ-Ngụy. Khu căn cứ rộng 15 hecta. sau năm 1975, được bàn giao về quân khu 9, một người có tên là Huỳnh Văn Diệp tức trung tá Huỳnh Văn Diệp đã thành lập ra nơi nuôi rắn lớn nhất mi ền Nam.
Trước đây khi “ ông Tư Được “ còn quản lý thì ông đã sưu tầm được rất nhiều loại rắn và trăn. Sau khi ông mất thì người khác lên thay ông số rắn đã giảm dần. Hiện nay ở đây có khoảng 6 loài rắn như : hổ mang , hổ chúa , mái rầm , lục đầu dồ , rắn nước , rắn bông súng.
Khi ta đi thấy rất nhiều loại rắn được nuôi ở nhiều môi trường khác nhau; chẳng hạn như tại một hốc cây người ta làm một long sắt để thả một con rắn vào doing trong môi trường thiên nhiên này để rắn đẻ và ấp trứng thành con; hoặc có những khu vực được tạo ra những giống sống hoang dã và trồng rất nhiều cây cối để mà thả rắn vào sống trong môi trường thiên nhiên.
Tới nay quý khách sẽ thấy được loài rắn độc nhất là rắn hổ chúa. Trước nay, rắn hổ chúa ở nay không nhiều nhưng bay giờ thì rắn hổ chúa đã được nhân giống ra rất nhiều. Nọc độc của rắn hổ chú khi chạm vào cơ thể chúng ta thì khoảng 2 phút sau cơ thể ta hoàn toàn bị tê liệt, rắn hổ chúa có rất nhiều biệt tài là bò dưới nước hoặc leo lên cây.
Ngoài rắn hổ chúa, còn có rắn hổ mang, hổ ngựa, hổ mèo, hổ đất. Để phân biệt rắn hổ chúa và hổ mang; hổ mang có thân hình nhỏ và ngắn hơn hổ chúa và khi ngóc đầu lean nó có hình trăng tròn; còn hổ mèo thì cũng ngóc đầu và phùng mang nhưng không có hình trăng tròn mà có 2 vòng tròn nên người ta thường gọi rắn mắt kính. Nọc độc rắn hổ mang thì không bằng rắn hổ chúa. Vì vậy khi nộc độc rắn hổ mang chạm vào cơ thể thì 10-15 phút thì nọc độc mới lam truyền làm tê liệt cơ thể. Ngoài ra khi bắt mồi không can tiếo xúc trực tiếp mà có thể phun nọc độc xa 2 m.
Ta thấy rắn đầu có hình tam giác và có khoan trắng và đen là bò cạp nia
Còn loại có khoan vàng và đen gọi là bò cạp nông.
Còn loại có màu xanh lục như lá cây đó là rắn lục. Có 2 Lọai chính là: rắn lục day khuôn và rắn lục vời.
Giá thịt rắn dao động từ 35 - 40 USD/ kg , thi trường tiêu thụ ở Châu Á chủ yếu là Đài Loan , Trung Quốc , Hàn Quốc Trại rắn Đồng Tâm chủ yếu nuôi rắn lấy nọc không phải để tham quan.
Với giá vé 10. 000 đối với khách Việt Nam và 20000 đối với khách nước ngoài , du khách sẽ được vào tham quan trại rắn với các khu như :
Khu nuôi rắn và trăn ở trong nhà gồm nhiều loài trăn và rắn khác nhau . Ở đây du khách co thể quấn trăn lên mình va chụp ảnh lưu niệm
Khu ngoài sân là khu nuôi rắn ở trong khoang bể nuôi bằng bê tông với rất nhiều loài rắn
Khu phía sau la khu nuôi thú gồm nhiều loài như : công , khỉ , cá sấu , đà điểu . Đi vao đây du khách có cảm giác như đi trong sở thú . Và đặc biệt hơn nữa tại đây còn co chu ba ba vang rất quý hiếm nặng khoảng 30 kg chỉ còn hai con ở Việt Nam
Khu nhà bảo tòan rắn là nơi trưng bày hầu như đầy đu các chủng loại rắn và được ngâm trong chất phoocmon nên nhìn chúng sống động như vẫn còn sống
Tại đây du khách nên mua sắm vài sản phẩm từ rắn để làm quà cho người thân bởi hàng tốt và giá cả hợp lý:

Rượu rắn : 40.000đ/chai
Cao trăn : 600.000đ/kg
Cao rắn : 500.000đ/kg
Cao khỉ : 300.000đ/kg
Cobratax : 20.000đ/kg
Rượu rắn lục : 100.000đ/chai
Mật ong : 50.000đ/chai
Mỡ trăn : 12.000đ/lọ
Viên điều trị rắn cắn : 20.000đ/tube
Bột rắn lục : 8000đ/lọ
Bột rắn hổ : 70.000đ/lọ
Bột cù lần : 80000đ/lo

Cù Lao Thới Sơn - Cồn Thới Sơn
Nằm ở hạ lưu sông Tiền, Thới Sơn có diện tích khoảng 1.200 ha. Toàn xã Thới Sơn là một vùng chuyên canh cây ăn trái, quanh năm được phù sa bồi đắp. Theo anh Huỳnh Văn Phương, Giám đốc Sở Thương mại - Du lịch Tiền Giang, từ những năm 90 của thế kỷ trước, Tiền Giang đã chủ trương phát triển du lịch theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" để khai thác hiệu quả tiềm năng sẵn có tại địa phư ơng. Công ty Du lịch Tiền Giang đầu tư năm tỷ đồng xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng ở các điểm du lịch chính. Các hộ dân trong khu vực đã đóng góp mặt bằng, nhà cửa và hơn 100 chiếc đò với tổng trị giá hơn 20 tỷ đồng. Cách tổ chức du lịch theo mô hình này đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách, đồng thời huy động được vốn và các tiềm lực khác trong dân. Phát triển du lịch ở cù lao Thới Sơn góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao mức sống. Hiện nay, số hộ giàu, khá ở Thới Sơn chiếm tỷ lệ 78%, chỉ còn 2,7% số hộ nghèo.
Sự hấp dẫn, quyến rũ của Thới Sơn ở chỗ, đến mảnh đất này, người ta sẽ quên sự ồn ào, bí bức của phố phường. Khách đến Thới Sơn, xuống đò chèo xuôi theo những con rạch ngoằn ngoèo giữa hai hàng dừa nước rậm rạp, giữa hàng thủy liễu ven sông luôn nghiêng mình ngả bóng đón chào. Nếu muốn tản bộ, sẽ theo những con đường đá uốn lượn, băng qua những vườn cây trái xum xuê. Khách có thể ngồi trong những nhà vườn nhấm nháp tách trà mật ong thơm ngọt và lắng nghe đàn ca tài tử. Đêm Thới Sơn thật huyền diệu với đầy trăng, gió, sóng nước mênh mang. Khách có thể đi thuyền trên sông, ngắm trăng lên, hoặc cùng bạn ngồi đối ẩm trong tiếng ca mượt mà, sâu lắng của thôn nữ.
Những ngôi nhà của 6.000 người dân Thới Sơn vẫn giữ được nét cổ kính, nguyên sơ. Ðiểm du lịch của nhà ông Tám Cho là một tiêu biểu về kiểu nhà xưa. Ngôi nhà của ông được xây dựng với hàng cột gỗ căm xe; mỗi mái nhà có chín cây đòn tay bố trí theo thuật phong thủy: Kiên - Trừ - Mãn - Bình - Định - Chấp - Phá - Nguy - Thành. Trong nhà, cách bài trí cũng theo phong cách cổ với chiếc tủ thờ cẩn xà cừ lóng lánh, tràng kỷ chạm trổ tinh vi, cùng với đôi liễn chạm câu đối sơn son thếp vàng... Chung quanh nhà là vườn hoa cảnh với nhiều cây bon-sai được trồng tỉa công phuD9ến Thới Sơn, khách được tham quan cách làm kẹo dừa bằng phương pháp thủ công, mua những đồ mỹ nghệ, đồ dùng sinh hoạt gia đình làm từ cây dừa. Bên cạnh chương trình du lịch sinh thái, người dân Thới Sơn còn giới thiệu với khách về văn hóa ẩm thực với các món ăn: cá nướng, lẩu cá kèo, cá lóc hấp bầu, cá tai tượng chiên xù...
Năm 1995, Thới Sơn đón hơn 40.000 lượt khách, năm 1996 đón khoảng 80.000 lượt khách, năm 1997 đón 120.000 lượt và năm 2001 đón khoảng 200.000 lượt khách trong đó 65% là khách nước ngoài. Cô Lê Trang, một người kinh doanh du lịch ở Thới Sơn cho biết, Thới Sơn thu hút được khách là nhờ chương trình, sản phẩm du lịch sinh thái ngày càng đa dạng, hoàn chỉnh và cách phục vụ chu đáo. Thới Sơn đang trở thành điểm thu hút khách đến Tiền Giang.
Theo kế hoạch, từ năm 2002 đến năm 2005, Công ty Du lịch Tiền Giang tiếp tục đầu tư năm tỷ đồng để xây dựng cù lao Thới Sơn thành làng du lịch. Khách sẽ có dịp tham quan những làng nghề truyền thống với các công cụ lao động, thô sơ, được phục chế. Bên cạnh, Thới Sơn mở rộng hơn nữa các điểm du lịch vệ tinh ở các hộ dân; trồng cây ăn trái nhiều chủng loại, đủ cung cấp quanh năm cho du khách. Ðồng thời, vận động nhân dân giữ lại các dụng cụ sinh hoạt bình dị, truyền thống như: bát sành, chén đá, đũa tre, đũa dừa, bình tích đựng nước trong vỏ dừa... Thới Sơn là làng du lịch xanh đặc trưng của vùng sông nước Cửu Long với vườn cây, trời nước và tấm lòng hồn hậu, hiếu khách của người dân Nam Bộ.
Từ bến phà 30-4, chúng tôi lại xuống thuyền đi thăm cồn Lân và ăn trái cây. Thuyền cập vào một bến nhỏ, anh hướng dẫn viên đưa chúng tôi len lỏi qua những khu vườn mướt xanh với đủ loại cây: sapoche, nhãn, chuối, sầu riêng... quả treo lủng lẳng.
Khác với những ngôi nhà vườn nổi tiếng ở Huế, thường là nhà vườn văn hóa, vườn ở đây là vườn kinh tế. Người dân Nam Bộ gắn bó cả đời mình với sông nước, vườn cây cũng vậy, nước sông theo các con rạch nhỏ chảy vào từng khu vườn, từng gốc cây. Người ta trồng cây theo hàng như những ô trên bàn cờ, dưới các hàng cây là hệ thống mương rạch rộng độ 5m, lan tỏa khắp vườn. Lúc triều lên nước sông chảy vào vườn khiến du khách có cảm giác cá nhảy lên cả vườn cây. Lúc triều xuống, nước lại đổ ra sông, lòng mương chỉ còn xâm xấp nước và một màu phù sa đỏ quánh. Cũng nhờ lớp phù sa này mà cây trái nơi đây quanh năm cho trái ngọt.
Chúng tôi được mời đến một khu vườn do công ty du lịch Tiền Giang bỏ vốn đầu tư nâng cấp. Nhiều khách nước ngoài đang ngồi ăn trái cây ở đó. Mùa nào thức nấy nhưng thông thường chủ vườn sẽ mời khách ăn 6 loại trái cây: thơm, chuối, thanh long, sapôchê, chôm chôm, nhãn. Khách ăn không hết, chủ vườn bỏ vào trong túi, trao lại cho khách với lời cám ơn và câu chào: "see you again" rất ngọt ngào.
Chúng tôi được mời ăn trưa trên một cù lao khác cách cồn Lân khoảng 20 phút đi thuyền, cồn Thới Sơn. Nơi đây có một garden restaurant rất đẹp. Song cái hấp dẫn tôi nhất lại không ở kết cấu của cái nhà hàng "thập nhị giác" này mà ở món cá tai tượng chiên xù và những bộ đồ bà ba trắng, đen của các cô phục vụ. Tiếp viên của nhà hàng mặc đồng phục bà ba trắng, quần lụa đen nhẹ nhàng đi giữa các hàng ghế, lúc thêm chút mắm, khi gắp ngọn rau nhút đặc sản vào bát du khách, lúc lại lúng liếng cười duyên khiến thực khách chưa ăn đã thấy ngon.

CỒN PHỤNG – ĐẠO DỪA
Chúng tôi vào cù lao Phụng để thăm "Nam quốc Phật tự" của ông tổ Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam. So với cù lao Rồng, cồn Phụng nhỏ hơn, nhưng lại được biết đến nhiều hơn bởi nơi này có di tích của Đạo Dừa. Theo lời thuyết minh của anh hướng dẫn viên, đây là một tôn giáo quái chiêu do Nguyễn Thành Nam, một con cờ chính trị mắc chứng hoang tưởng tự cao - một dạng của bệnh tâm thần phân liệt, sáng lập năm 1963. Sinh thời, Nguyễn Thành Nam (sinh năm 1909) học hành không mấy giỏi giang nhưng được gia đình cho qua Pháp học theo lối mà ngôn ngữ hiện đại gọi là du học tự túc. Ông ta đã học tập ở nước Pháp không phải để thành nhân tài mà để thành một "vị thánh". Sau khi về nước, Nguyễn Thành Nam tu luyện 10 năm ở Thất Sơn (An Giang). Đến năm 1963 thì tới miệt Mỹ Tho, leo lên cồn Phụng, xây "Nam quốc Phật tự" và sáng lập ra Đạo Dừa.
Đạo Dừa chủ trương chuyên ăn cùi dừa và uống nước dừa để tồn tại và hành đạo. Đó là một sự kết hợp của Phật giáo, Thiên Chúa giáo, rồi Cao Đài... Lúc đông nhất có đến 3.600 tín đồ. Nguyễn Thành Nam còn dụng chữ Dừa theo biến âm của phương ngữ Nam Bộ nghĩa là Vừa (ví như: Cầu, Dừa, Đủ, Xoài - tức là Cầu vừa đủ xài) để cho rằng tôn giáo do ông ta sáng lập sẽ làm vừa lòng tất cả mọi người. Ông ta cho dựng trên cồn Phụng một ngôi chùa, kết hợp nhiều trường phái kiến trúc khác nhau. Trước chùa cho đúc Cửu đỉnh bằng ximăng gắn sành sứ (thực ra chỉ có một đỉnh mà thôi), rồi gắn ảnh của mình vào, tự nhận là người có công thống nhất đất nước, kế vận hưng nghiệp của vua Minh Mạng (1820 - 1841).
Nguyễn Thành Nam còn cho xây một sân chầu với những hàng cột vẽ rồng sặc sỡ. Cuối sân có một động nhỏ, nơi "Phật tổ" Nguyễn Thành Nam đến giảng kinh. Sau động là một tòa sen nằm trong lồng cầu và hai cột xi măng, ở bai bên tượng trưng cho Sài Gòn và Hà Nội. Hằng ngày, Nguyễn Thành Nam chui vào quả cầu, ngồi lên tòa sen rồi sai đệ tử kéo lên cao. 12 giờ trưa, ông ta "nhập thế", bằng cách ra khỏi lồng đi đến hai bao lơn đặt trên hai cột ximăng tượng trưng cho Sài Gòn và Hà Nội. Đi từ bên này sang bên kia, Nguyễn Thành Nam cho rằng ông ta đã thống nhất được tổ quốc.
Ông ta còn cho làm mô hình phi thuyền APOLLO bằng... tôn, trèo vào trong đó, biểu đệ tử kéo lên... vũ trụ để thỉnh thị thánh chỉ của Ngọc Hoàng. Lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ ở vào thời kỳ ác liệt, Nguyễn Thành Nam tổ chức hoạt cảnh hòa bình để mị dân. Ông ta thuê người, chia làm hai phe mặc áo quần của quân giải phóng và quân đội Sài Gòn rỗi bắn nhau tá hỏa... bằng súng giả. Đang lúc cuộc chiến căng thẳng, thây người "chết" chất đầy một... sân chầu thì "Phật tổ" Nguyễn Thành Nam giáng thế bằng cách "hạ thổ" từ tòa sen, để đến cứu vớt những sinh linh.
Phía trong sân rồng có công trình cửu đỉnh, nếu nhìn từ trên xuống ta sẽ thấy cửu đỉnh được xây theo lối ngủ hành âm dương. Nếu nhìn kỷ sẽ thấy một con rồng đứng ở giữa có đuôi hình vuông ; hình vuông tượng trưng cho tứ tượng, những con rồng còn lại đứng trên bệ có hình tam giác. Hai cây cột phía sau tượng trưng cho lưỡng nghi đó là âm dương hợp lại. Điểm khác của con rồng trung tâm là đuôi có được thiết kế phía sau, còn những con xung quanh thiết kế phía trước. Đây là biểu tượng của rồng đực ; hiện thân của ông Đạo Dừa và những con rồng cái là những cô gái xung quanh ông đạo Dừa.
Xung quanh Cửu Đỉnh còn có một số hình ảnh như ; Long, Lân, Quy, Phụng, Mai, Lan, Cúa, Trúc và một số cảnh về Tiên Ong, Bát Tiên. Ngoài ra còn có hai cái quai nâng hai con rồnglên tượng trưng cho vua chúa. Cửu Đỉnh được đặt trên thần Kim Quy đang ngậm thanh kiếm thần hướng về Bến Tre. Ngụ ý là ông Đạo Dừa vừ kết nối với lịch sử với thời vua lê để thần Kim Quy mang thanh gương về Bến Tre để ông trị vì thiên hạ.
Vậy là chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình. Con người với những triệu chứng tâm thần đó đã được chế độ cũ bật đèn xanh để mị dân chúng. Lúc ông còn sống ông đạo dừ muốn khi qua đời thì hài cốt của ông sẽ được rãi trong Cửu Đỉnh nhưng khi ông qua đời thì những tín đồ đã mang hài cốt của ông ang táng tại phần mộ của gia đình. Đặc trưng của ngươì theo Đạo Dừa là mặc áo nâu sẫm và để một búi tóc cao quấn quanh đầu.
Đạo Dừa không cò kinh riêng. Mà là tất cả các kinh của đạo phật, thiên chúa giáo và cao đài. Một năm đạo có 3 ngày lễ vào 3 ngày rằm lớn, chứ không có ngày lễ nào đặc trưng của đạo giáo
Hiện nay có một số người tu đạo này nhưng tu lại gia chứ không lập chùa chiền để tu.
Ngoài ra tại đây còn được trưng bày nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ làm từ trái dừa . Du khách đến đây tham quan khu sản xuất bánh kẹo dừa và thưởng thức kẹo dừa .
Chúng ta có thể quan sát được quy trình làm keọ dừa như sau :
_ Thành phần lam kẹo dừa gồm : 50% dừa
25% đường
25% mạch nha
_ Và các thành phần phụ như ca cao , đậu phụng , lá dứa , sầu

Chùa Vĩnh Tràng
Du khách đến Mỹ Tho mà không thăm chùa Vĩnh Tràng là một điều thiếu sót. Đây là ngôi chùa cổ danh tiếng và là một công trình kiến trc tiu biểu ở Nam Bộ. Cha tọa lạc trn mảnh vườn cây ăn trái rộng gần 2 hecta, thuộc làng Mỹ Hóa, nay là x Mỹ Phong, bn con rạch Bảo Định hiền hịa nước ngọt quanh năm.
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, chùa vốn là một thảo am do ông Tri Huyện Bùi Công Đạt phát nguyện xây cất để di dưỡng tinh thần sau khi về hưu. Ông thỉnh Hịa thượng Từ Lâm ở cha Bửu Lm về trụ trì. Sau khi ơng Bi Cơng Đạt qua đời, Hịa thượng Huệ Đăng d vận động tín đồ xây dựng thành ngôi đại tự với tên Vĩnh Tràng, hoàn thành vào mùa hè năm Canh Tuất (1850).
Lúc đầu mang tên LÀ Vĩnh Trường (sư muốn ngôi chùa mãi mãi trường tồn và vĩnh cửu theo thời gian) nhưng do nhiều ngươì miền Nam đọc trại đi thành Vĩnh Tràng. Kế vị trụ trì là hoà thượng Thích Thiện Đề. Khi ngài viên tịch thì ngôi chùa hương khói lạnh tanh. Năm 1890, bổn đạo đến chùa Sắc Tứ Linh Thứu thỉnh hòa thượng Quảng An-Chánh Hậu về trụ trì. Năm 1895, ngài đã tồ chức xây lại ngôi chùa. Chùa hư hỏng nặng vì trận bão năm 1905. từ năm 1907->1911, này đã khuyến giáo tín đồ đóng góp công của đại trùng tu ngôi chùa và mời điêu khắc gia Tài Công Nguyên đảm nhận phần trang trí và tạc các tượng trong chùa. Hòa thượng Chánh Hậu gốc người Minh Hương, sinh năm 1852 tại làng Điều Hòa tỉnh Định Tường cũ. Năm 1897, ngài quy y thọ giới với hòa thượng Thích Minh Phước tại chùa Bửu Lâm. Ngài được cử làm thủ thượng tọa chùa sắc tứ linh thou từ năm 1880, trụ trì chùa vĩnh tràng từ năm 1890 và đã thường xuyên mở các lớp gia giáo để đào tạo tăng tài. Ngài viên tịch năm 1923. hòa thượng Tâm Liễu –An Lạc(tức Minh Đàng, thế danh Lê Ngọc Xuyên) kế tục, cho xây cổng Tam Quan, mặt tiền chánh điện và nhà tổ.

Chùa trải qua bốn lần trùng tu: lần trùng tu thou 1 vào năm 1907, hòa thượng Chánh Hậu đã trùng tu và tôn tạo lại mặt chùa. Mặt tiền chánh hậu được xây doing theo lối kiến trúc á, âu; lần trùng tu thứ 2 vào năm 1930; lần trùng tu thứ 3 là 1990; lần trùng tu thứ tư là 2004. hiện nay đang được trùng tu lần nữa.
Trước cửa chùa có cổng tam quan rất tráng lệ do tốp người Huế thực hiện năm 1933 với sự tài trợ về kinh phí của 2 ông Hùynh Trí Phú và Lý Văn Quang. Cổng giữa làm bằng sắt theo kiểu Pháp; 2 cổng bên làm bằng xi măng vươn cao như 2 tòa lâu đài cổ, được ghép tòa những mảnh sành sứ tạo nên những bức tranh với màu sắc hài hòa, minh họa sự tích nhà phật, truyện tích nhân gian và các đề tài Tứ Quý, Tứ Linh, hoa lá…tầng lầu thượng của cổng Tam Quan có vòm cửa rộng, bên phải đặc tượng hòa thượng chánh hậu, bên trái đặt tượng hòa thượng Minh Đàng. Cả 2 tượng này đều đắp bằng xi măng giống như tượng thật, do điêu khắc gia Nguyễn Phi Hoanh thực hiện.
Mặt tiền chùa vĩnh tràng trang trí theo kiểu kết hợp đặc điểm kiến trúc cả Á, lẫn Âu. Ơ nay có những hoa văn theo thời phục hưng, vòm cửa theo kiểu La Mã, bông sắt Ấn Độ, gạch men nhật bản…những câu ngữ Hán viết theo lối thể chữ truyện cổ kính xen với chữ quốc ngữ viết theo lối chữ Gô-Tích. Từ xa trông vào du khách có thể hình dung ngôi chùa như đền Ăngkor có năm tháp. Theo truyền tụng của nhân dân địa phương thì hòa thượng Minh đàn và ông quỳnh trí phú từng du học sang xứ chùa tháp nên tiếp thu được cái trong kiến thức ngôi chùa tên đó, kết hợp với kiến trúc phương tây.
Tượng có nhiều tay nhiều mắt gọi là chuan đề bồ taut, vị này là hiện thân của quan thế âm bồ taut có nhiều tay, nhiều mắt để cứu độ chúng sinh: nhiều mắt để thấy được nổi khổ của chúng sinh
Trong chùa có chuông đồng một tấn do vua Tự Đức cho kinh phí đúc, chuông được làm sau năm giáp dần




Ẩm Thực Tiền Giang
Nấu mẳnĐây là một trong những món ăn đặc trưng của văn hóa ẩm thực vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nó thể hiện rất rõ nét tính hoang dã và hào phóng của vùng đất mới. Không là kho, không là canh, nó nằm giữa hai món đó.
Hủ tiếu Mỹ Tho - Tỉnh Tiền Giang
Hủ tiếu Mỹ Tho khác hủ tiếu Tàu, hủ tiếu Nam Vang, phở Bắc, bún bò Huế... ở chỗ không ăn với xà lách, giấm, rau ghém, mà dùng giá sống, chanh, ớt, nước tương. Ðiều làm nên hương vị riêng khiến cho hủ tiếu Mỹ Tho trở nên nổi tiếng và nhiều người "bén mùi" kể từ thập niên sáu mươi nhờ sự hoàn thiện từ khâu chọn hột gạo làm ra cọng bánh tới nồi nước lèo cùng tuyệt kỹ pha chế của các đầu bếp trứ danh đất Mỹ Tho như: Phánh Ký, Nam Sơn, Tuyền Ký... cùng các lớp thợ nấu sau này


Bún gỏi già Mỹ Tho - Tiền Giang
Không biết món ăn này xuất xứ từ đâu. Nhưng tôi chưa thấy trên thành phố này có một nơi nào bán món này cả, cả tên gọi cũng rất khác biệt. Bún gỏi già... Tôi không thể giải thích được vì sao nó lại có tên như thế. Mỗi lần về Mỹ Tho là tôi lại chạy ra quán ăn quen thuộc, gọi một món quen thuộc:” Bún gỏi già”. Chắc các bạn sẽ thắc mắc lắm vì không biết tại sao cái món bún có cái tên lạ tai lại làm tôi thích thú... Tôi ăn nhiều rồi, nhưng chưa lần nào thử nấu cả, không phải lười biếng đâu, vì không có bí quyết, tôi sợ mình sẽ làm hư món khoái khẩu của mình.


Cá bống dừa - Tiền Giang
Cũng như tôm tép có nhiều loại, cá bống cũng thế. Nào là: bống mú, bống vượng, bống cát, bống trứng, bống nhật, bống sao, bống bọt, bống xèo, bống nhảy... Trong các loại bống đó, tôi đặc biệt nhớ loài cá bống dừa. Có lẽ vì vùng quê tôi (thuộc huyện Gò Công Tây - Tiền Giang) chúng sinh sản nhiều, sống thích hợp với địa thế dừa nước (lá dùng lợp nhà) mọc đầy ven sông rạch. Bống dừa vảy nhuyễn, miệng rộng, lưng đen, lườn trắng; con to cỡ nửa cổ tay, hiếm khi lớn hơn.


Mắm còng xứ rẫy Gò Công
Ở Gò Công Tiền Giang, rẫy là tên gọi chung của những miền đất thấp, ven các kênh rạch, hằng năm thường bị nhiễm mặn trong một thời gian khá dài. Ðiển hình như các xã cặp theo sông Trà là Ðồng Thạnh, Ðồng Sơn, Bình Phú, Thành Công của huyện Gò Công Tây hay Bình Ðông, Bình Xuân cặp theo sông Soài Rạp, Phú Ðông, Phú Tân kẹp giữa hai vàm Cửa Tiểu và Cửa Ðại của huyện Gò Công Ðông. Miệt này, mỗi năm bà con chỉ có thể canh tác được có 1 vụ lúa mùa.


Sam biển Gò Công - Tiền Giang
Ngoài các loại cá tôm thiên nhiên ưu đãi, ở vùng biển xã Vàm Láng, Tân Thành, huyện Gò Công Ðông (Tiền Giang) có đặc sản khá hiếm: sam biển. Với hình thù lạ mắt: vỏ cứng như mai cua, mình tròn dẹt, đường kính độ gang tay, tám chân càng nhỏ dưới bụng, phần đầu là mũi nhọn ba cạnh rất linh hoạt dài cỡ 20 cm. Khoảng từ tháng 10 cho tới tháng 2 âm lịch, sam bắt cặp phối giống và sau đó sam cái mang bụng đầy trứng nhỏ như hạt tiêu đợi ngày sinh nở. Gió chướng thổi về, người dân ven biển chúng tôi sáng sớm đi dọc bờ thỉnh thoảng vẫn bắt được những cặp sam tấp mé.


Chuối quết dừa - Tiền Giang
Kể từ khi xuất hiện trên AT tháng 5.1992 với món ăn bình dân mà vô cùng hấp dẫn cho cả "mày râu" lẫn "kẹp tóc" là xòai tượng mắm đường đến nay, tôi cứ mãi bận rộn với những lo toan đời thường mà quên khuấy đi cái nghiêp... ăn uống vốn dĩ là một trong những "tứ khóai" của thiên hạ, thật là sai sót biết chừng nào! Hôm qua, nhân dịp về một làng nhỏ hiền hòa nằm bên bờ sông Tiền lộng gió, chúng tôi có dịp thưởng thức một món ăn hòan tòan "cây nhà lá vườn" và đậm đà hương vị đồng quê đến nỗi khi lên xe trở về, ai nấy cũng chắc lưỡi hít hà khen ngon quá xá. Đó là món ăn mà ngọai tôi gọi đơn giản là chuối quết dừa.

Những Thông Tin Cần Thiết Cho Quý Khách Khi Đi Du lịdh Tiền Giang
_ TP. HCM đi Mỹ Tho theo quốc lộ 1A , dài 71 km có thể đi về trong ngày bằng xe gắn máy dễ dàng
_ Khi tới ngã ba Trung Lương du khách nên ghé vào nhà hàng Trung Lương vì các quán khác tại khu vực này thường đắt hơn và không ngon bằng
_ Mã điện thoại vùng là 073
_ Đường Trưng Trắc là con đường đầy màu sắc nhất của Thành phố
_ Bến đò du lịch ở đọan đường 30-4 do công ty độc quyền tổ chức các
chuyến tham quan không có thuyền tư nhân . Vé tàu đi lẻ là 40000 đồng
_ Phà Rạch Miễu để qua sông Tiền vào tỉnh Bến Tre . Ngay bến phà tỉnh Bến tre cũng có trạm bán vé đi tham quan Cồn Phụng.

Những điều cần biết khi du lịch Miền Tây
Khi đến với du khách cần phải nắm bắt kỷ những thông tin và giá cả nơi đây nếu như khách đi riêng mà không đi theo Tour của công ty du lịch.
Khi tham gia vào Tour Tiền Giang này ngoài việc tham quan sông nước miệt vườn, tham quan vườn cây ăn trái, tham quan thắng cảnh đẹp…quý khách còn có thể mua sắm bất cứ thứ gì khách muốn; vì nơi đây đồ ăn, hàng hóa rất rẻ nhưng nếu như khách muốn mua “đúng cách” (không bị lầm giá) thì hãy tham khảo ý kiến các hướng dẫn viên.
Trên chuyến đi với một chiếc máy ảnh du khách có thể chụp laị những khung cảnh đẹp ở nơi đây, mua những đặc sản nơi đây về cho gia đình, bạn bè… đó cũng là những món quà đáng quý biết bao.
Chẳng những thế trước khi đến với miền tây du khách phải tìm hiểu trước các Nhà Hàng-Khách Sạn để du khách có thể nghĩ nghơi ở những nơi an toàn sạch sẽ không hại đến chính bản thân chúng ta.
Không nên đi dạo một mình vào buổi tối, tránh nơi đông ngươì để đảm bảo sự an toàn của bạn.

Đứng trên cầu Rạch Miễu, nghĩ về “Tứ linh”
Rất khó có cây cầu nào như cầu Rạch Miễu. Đứng trên cầu mà hướng về biển Đông sẽ bắt gặp bốn cù lao “chụm đầu” lại, hợp thành “Tứ linh” giữa sông nước mênh mông. Khen ai khéo đặt tên cồn để có được một bộ “Tứ linh”: Long, Lân, Quy, Phụng. Mỗi cù lao đều có nét đặc thù, mang sắc thái riêng tạo nên một quần thể sinh động.
Vừa hết đoạn dây văng, cầu Rạch Miễu đổ xuống cồn Lân, còn gọi là cù lao Thới Sơn. Nhìn lên bản đồ, cù lao Thới Sơn như thể “long chầu” trong cung đình Huế. Thới Sơn đang sở hữu bốn cái “nhất”: tuổi đời cao nhất, diện tích lớn nhất, cũng được coi là đẹp và hài hòa nhất trong “Tứ linh”. Lịch sử mở đất của Thới Sơn thật hào hùng. Có thể nói mỗi mảnh vườn, con rạch Thới Sơn đều ghi dấu chiến công của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm. Sang thế kỷ XX, nơi đây lại ghi đậm chiến công của các “dũng sĩ diệt Mỹ” trên vành đai Bình Đức nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Cồn Lân
Đất Thới Sơn màu mỡ, con người Thới Sơn hiền hòa, cần cù, chân chất cùng với bàn tay khéo léo luôn tạo nên một diện mạo mới. Đến Thới Sơn không chỉ ngắm nhìn cảnh sắc miệt vườn, thưởng thức hương vị ngọt ngào của cây trái xứ cồn, mà còn chiêm ngưỡng những công trình mà người dân nơi đây gìn giữ từ thuở khai hoang, lập ấp. Dẫu trải qua bao tháng năm mưa bom, bão đạn, nhưng ngôi nhà chữ đinh theo phong cách cổ xưa, cùng với vật dụng trong nhà được khảm xà cừ tinh xảo, sắc màu lấp lánh, đôi liễn sơn son, thiếp vàng của Nguyễn Văn Vinh vẫn còn đó, thách thức thời gian.
Đến Thới Sơn còn là để được thưởng thức rượu mật ong, cùng tấm lòng đôn hậu của người phụ nữ với chiếc áo bà ba, khăn rằn quấn cổ, chèo xuồng trên sông rạch, đưa khách đến những làng nghề truyền thống như đan len, thêu thùa, cùng nhịp nhàng tát mương bắt cá với khách… một hoạt động thường nhật của người dân Nam bộ, luôn chân thành, quyến rũ. Đến đây còn có nhiều loại hình giải trí đậm nét chân quê, dân dã như nhảy dây, nhảy kẹng, đu quay,… rõ nét văn minh miệt vườn. Quả là thú vị.
Nằm kế cạnh cồn Lân là cồn Phụng, còn gọi là cù lao Tân Vinh, nơi có di tích đạo Dừa do Nguyễn Thành Nam lập nên từ những năm 60 thế kỷ XX. Tuy đạo Dừa có một triết lý mơ hồ, lạc lỏng và tự cho mình là “vua nhà Nguyễn tái sinh”, nhưng cũng để lại một số công trình như chiếc bình được cẩn những mảnh sành sứ, một cái sân rồng tượng trưng cho chín cửa sông Cửu Long, rồi những chiếc tháp cao, những mô hình núi non, hang động hợp thành một quần thể kiến trúc khá tinh xảo, khó quên. Bàn tay khéo léo của những người thợ năm xưa thật đáng khâm phục.
Trong “Tứ linh”, chỉ có cồn Thới Sơn và cồn Phụng là có đờn ca tài tử. Nếu như ở Thới Sơn du khách có thể tận hưởng những thanh âm mượt mà, sâu lắng từ tiếng đàn, lời ca qua dòng nhạc tài tử của gia đình ông Nguyễn Văn Du có đến 5 thế hệ nối tiếp nhau cứ “ngọt lịm” như hương vị cây trái của xứ cù lao, thì ở cồn Phụng, những câu hò, điệu lý như âm vang, mặn mà thêm từ ngón tay, giọng hát điêu luyện của các tài tử mang về từ nhiều miền quê khác nhau của Bến Tre, có cùng đam mê một loại hình nghệ thuật của cha ông và cách duy trì một nền âm nhạc cổ truyền của dân tộc, được phát ra từ một hang đá nhân tạo mát lạnh bởi làn gió trong lành miền sông nước.
Ở cồn Phụng cũng có nhà hàng, nhà nghỉ. Khu giải trí với phong cảnh hài hòa, độc đáo. Cồn Phụng còn có bánh tráng Mỹ Lồng, đặc sản của Bến Tre. Khách sẽ trực tiếp chứng kiến, thậm chí tham gia từ khâu chọn gạo, nạo dừa, cùng với bàn tay khéo léo, không ít điệu nghệ của người xứ dừa tráng bánh, phơi bánh vừa mỏng vừa tròn, đẹp lại vừa ngon, ngọt.
Nếu như người Bến Tre tự hào về dừa, thì dân cồn Phụng chính là người đi tiên phong làm cho cây dừa tăng thêm giá trị. Xót xa thấy thân dừa ngã xuống vì bom đạn, họ đã “tận dụng” nó để làm đũa ăn, đũa bếp phục vụ con người. Từ khung cảnh thơ mộng trên cồn Phụng đã hình thành một “làng” nghề thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu dừa, nhanh chóng lan rộng khắp Bến Tre và không ngừng lớn mạnh. Cùng với bàn tay của hàng ngàn nghệ nhân xuất thân từ nông dân giàu sáng tạo, những sản phẩm xinh xắn có thể sử dụng trong nhà bếp cho đến trang trí phòng ngủ, phòng khách, từ nhà ở bình dân đến khách sạn sang trọng, từ trong nước ra nước ngoài. Đi đâu cũng thấy cây dừa phục vụ cho đời, với nét tinh xảo kết tinh từ tình người, tình đất Bến Tre, không ngừng tô đẹp thêm cho sắc diện quê hương.
Thiên nhiên lại khéo sắp đặt khi hai đầu cồn Thới Sơn và cồn Phụng hướng về cồn Rồng, phía xa bên kia của sông Tiền, người đời gọi là cù lao Tân Long. Cù lao Tân Long hình thành đã lâu, nhưng chỉ được khai thác chừng trăm năm nay. Để tránh bom đạn trong chiến tranh, người Bến Tre đã đến đây sinh sống, và ngày nay Tân Long trở thành đơn vị hành chánh của thành phố Mỹ Tho thuộc tỉnh Tiền Giang. Ngoài vườn cây trái, Tân Long cũng nuôi cá bè như những cồn khác trong “Tứ linh”. Khác hẳn là ở bờ Bắc, có cảnh quan nhộn nhịp bởi đội tàu đánh cá trên vùng biển phía Nam, thay nhau neo đậu che kín cả một đoạn mặt sông. Tàu của người Tân Long thì ít, đa phần là tàu của bà con khắp nơi. Sở dĩ càng nhiều tàu cặp bến Tân Long là vì nơi đây lòng sông sâu và rộng, ít sóng gió và gần cảng cá Mỹ Tho. Nhưng trên tất cả vẫn là lòng người, cùng bàn tay khéo léo của người thợ Tân Long sửa chữa ghe tàu. Nếu như đàn ông bận rộn cho việc sửa máy, tu bổ thân tàu, thì người phụ nữ lại luôn tay vá lưới, kết phao trên những boong tàu. Lời qua tiếng lại líu lo như chim hót, cùng với tiếng búa cọc cọc, tiếng cưa rào rào,… cả ngày lẫn đêm, không khác gì một bản nhạc mang âm hưởng lâu ngày thành quen, không nghe thì khó mà ngủ được.
Image
Cồn Phụng
Tân Long còn có lợi thế về nghề nuôi thủy sản. Cù lao hiện có trên 500 bè cá, đủ các loại có giá trị như cá chép, điêu hồng, cá tra, rô phi. Chỉ cần 50 - 60 m2 bè, mỗi năm sẽ thu về gần 10 tấn cá. Một nguồn lợi lớn.
Người em út trong “Tứ linh” là cồn Quy, mới được khai phá từ những năm 60 của thế kỷ XX, vẫn còn dấu vết hoang sơ, nhưng không kém phần hấp dẫn đối với du khách. Đâu có mảnh đất nào mà không có nghĩa tình của những bàn tay lao động. Những cảnh sắc quyến rũ của quá trình mở mang khai phá mảnh đất này vẫn còn lưu giữ, cùng với con người cần cù, phóng khoáng và đất đai màu mỡ, đã làm từng mầm cây trở thành những khu vườn quả ngọt, trái say.
Cồn Quy nổi danh vì cây trái có hương thơm đặc biệt. Nhãn hồng, nhãn tiêu cơm dày ngọt lịm. Khi đến mùa nhãn trổ hoa, người cồn Quy thanh thản vui với đàn ong kêu chăm chỉ. Dù chỉ nuôi nghiệp dư, ong cồn Quy vẫn cần mẫn chắt lọc hương vị đậm đà của hoa, những gì tinh túy của nắng, của gió và phù sa tặng lại cho con người, một thùng cũng được vài lít mật mỗi mùa. Người cồn Quy gắn với vườn cây và con rạch. Họ sẵn lòng giới thiệu khách phương xa những món ăn đậm đà hương vị đồng quê. Ngoài uống nước dừa tại gốc, còn có nhãn, có mận, có cam, quít, bưởi quanh năm, là món tôm càng xanh nướng, luộc, làm gỏi tự thích cùng với tấm lòng đôn hậu của người dân nơi đây, sẽ níu khách lại bởi một tình cảm ấm cúng trong gia đình.
Đi sâu vào ba dãy cù lao, Bến Tre còn có những vườn cây trái ở Cái Mơn, Sơn Định, Vĩnh Bình (Chợ Lách) hay Tiên Long, Tiên Thủy, Tân Phú (Châu Thành) cứ như quấn lấy chân người. Vườn chim Vàm Hồ, khu rừng Liệt Địa ở Ba Tri, du khách thỏa thích tận hưởng những gì còn hoang dã. Và chỉ cần qua Cống đập Ba Lai, xuôi về Thừa Đức, tha hồ ngâm mình trong nước biển Đông. Bến Tre còn có các danh nhân như nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu; tiến sĩ đầu tiên Nam kỳ lục tỉnh Phan Thanh Giản; nhà giáo Võ Trường Toản; chí sĩ Phan Văn Trị; nhà bác học Trương Vĩnh Ký; nữ tướng Nguyễn Thị Định, … Còn có khu lưu niệm Đồng Khởi và đầu cầu của chuyến tàu không số chở vũ khí từ Bắc vào Nam. Về những nơi này sẽ biết thêm tình người, tình đất Bến Tre thủy chung, sâu lắng và nồng thắm.
Ngày 19-1-2009, cầu Rạch Miễu sẽ chính thức được đưa vào sử dụng, sẽ xóa đi cảnh ngăn sông cách trở của Bến Tre, là điều kiện để cho tỉnh phát triển thuận lợi hơn. Nhưng khi đường cao tốc từ thành phố Hồ Chí Minh về miền Tây đưa vào vận hành và cùng vài thứ khác nữa, lúc ấy Bến Tre mới thật sự trở thành “lá phổi” lý tưởng cho thành phố và các khu công nghiệp trong những ngày nghỉ cuối tuần, ngày lễ, ngày tết.






[h=2]Chợ nôi cái bè[/h] Đặc chợ nỗi
[h=2][/h] Vị trí: Chợ nổi Cái Bè thuộc thị trấn Cái Bè, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, nằm ở đoạn sông Tiền Giang giáp gianh giữa ba tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long và Bến Tre.

Đặc điểm: Chợ Cái Bè là chợ đầu mối lớn nhất ở miền Tây Nam Bộ. Chợ diễn ra trên sông, họp suốt ngày đêm trên quy mô lớn. Hàng hoá rất đa dạng, phong phú.

Cái Bè là huyện có nhiều vườn cây ăn trái lớn nhất tỉnh Tiền Giang với các loại trái cây ngon nổi tiếng như cam sành, cam mật, xoài cát, ổi xá lỵ, quýt đường…

Khách du lịch đến với Cái Bè ngày một đông bởi thị trấn này có những dãy phố nằm dọc theo bờ sông, lúc ẩn lúc hiện dưới hàng dừa nước và những rặng bần mà nhìn xa ngỡ như một bức tranh thủy mặc. Cái Bè mang một vẻ đẹp thuần quê, thấm đẫm chất miệt vườn. Ở đây, vườn nối tiếp vườn, sông nối tiếp sông, kênh rạch đan xen nhau. Phương tiện giao thông ở Cái Bè hoàn toàn bằng đường thủy.

Chợ Cái Bè diễn ra trên sông, ghe thuyền đi lại như mắc cửi. Chợ họp suốt ngày đêm trên một quy mô lớn, có đủ các ghe thuyền từ miệt vườn xa xôi về đây bán hàng và mua hàng. Chính vì vậy mà hàng hóa ở chợ rất phong phú và đa dạng, từ hàng vái, đồ gia dụng cho đến hàng gia cầm, thủy hải sản… cho tới cả đồ ăn, thức uống cũng không thiếu. Khu vực buôn bán trái cây nằm ở vàm chợ nổi, dọc theo cù lao Tân Long, dài tới cả cây số. Ghe thuyền từ thành phố Hồ Chí Minh, Long An, An Giang, Cần Thơ, Cà Mau tới để mua hàng. Ghe tam bản chở đầy trái cây: chôm chôm đỏ rực, xoài màu vàng ửng, sầu riêng thơm nồng, dưa hấu xanh tươi… từ sáng sớm đã được chở đến. Khi bình minh vừa lên cũng là lúc khu chợ nổi đã nhộn nhịp như một thành phố nổi trên sông. Những chiếc xuồng nhỏ bán hàng rong như cơm, phở, hủ tiếu, đồ tạp hóa chạy luồn lách theo các mạn ghe, mạn tàu để bán hàng. Ngồi trên thuyền, du khách có thể thưởng thức ngay tô hủ tiếu nóng hổi, hay ly cà phê thơm phức vào buổi sáng…

Khu chợ nổi Cái Bè là trạm trung chuyển trái cây và các sản vật đi khắp mọi miền (sang cả Trung Quốc). Giá cả ở đây rẻ đến bất ngờ.

Khu vực bán các loại củ, quả chạy dài từ ngã ba Nhà Thờ đến cửa Vàm Long Hải. Khu này thường có loại ghe lớn có trọng tải từ 5-10 tấn từ các tỉnh khác chở hàng đặc sản từ tỉnh mình về đây bán rồi lại mua hàng ở đây chở về tỉnh mình.

Khu bán gạo, cám thì nằm riêng biệt ở một khúc sông. Nét độc đáo của chợ nổi là ghe thuyền bán thứ gì thì treo thứ ấy lên đầu ngọn sào để người mua biết, không phải rao mời.

Khi mặt trời khuất sau rặng cây phía xa xa thì cũng là lúc “thành phố nổi” lên đèn. Ban đêm chợ nổi đèn đóm sáng trưng trông như sao sa. Có những chiếc ghe treo những chiếc đèn lồng nho nhỏ ở trước mũi thuyền trông thật sinh động.

Đến với chợ nổi Cái Bè, du khách sẽ cảm nhận được nhiều điều thú vị và khám phá nhiều điều mới lạ của chốn sông nước miền Tây.


Chợ nổi là một loại hình vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A3 - chợ thường xuất hiện tại vùng sông nước được coi là tuyến giao thông chính. Nơi cả người bán và người mua đều dùng ghe/thuyền làm phương tiện vận tải và di chuyển. Địa điểm có chợ nổi thường tại các khúc sông không rộng quá mà cũng không hẹp quá. Khúc sông phải tương đối rộng, không cạn quá mà cũng không sâu quá. Nếu sông sâu quá, lớn quá thì không thể neo đậu ghe, xuồng một cách dễ dàng và rất nguy hiểm.


Ở Việt Nam chợ thường họp ở miền Tây Nam Bộ. Chợ nổi là nét văn hóa đặc thù của vùng sông nước miền Tây. Chợ họp trên sông, giữa một vùng sông nước bao la là hàng trăm ghe, thuyền, vi.wikipedia.org/wiki/Xu%E1%BB%93ng - xuồng của cư dân. Chợ họp cả ngày, nhưng thường nhộn nhịp nhất vào buổi sáng. Trên thuyền chất đầy hàng hóa, phổ biến là các loại trái cây. Nét riêng của các thuyền là trên mỗi thuyền có một vài cây sào, trên đó treo lủng lẳng các loại sản phẩm mà mình có bán. Cho nên khách hàng chỉ cần nhìn vào cây sào đó là có thể biết trên thuyền, ghe đó có thứ mình cần hay không.
Chợ nổi Việt Nam có đặc điểm chung là:

  • Chợ là nơi mua bán thật sự của cư dân địa phương, là nơi người dân địa phương trao đổi sản vật, vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%B4ng_s%E1%BA%A3n - nông sản, thực phẩm, v.v. Khác hoàn toàn với chợ nổi Damnoen Saduak tại vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1i_Lan - Thái Lan[SUP][1][/SUP].
  • Các cửa hàng hay các ghe thuyền thường không có bảng hiệu, chợ bán sản vật gì người ta treo sản vật đó lên cây sào hoặc trên mũi thuyền. Người ta gọi cây này "cây bẹo"[SUP][2][/SUP]. Người bán dùng cây chống ngay trước mũi xuồng, ghe của mình rồi treo tượng trưng lên đấy những loại nông sản mà mình muốn bán. Chẳng hạn như bán cam thì người ta treo lên vài quả vi.wikipedia.org/wiki/Cam - cam; bán xoài thì treo vài trái vi.wikipedia.org/wiki/Xo%C3%A0i - xoài; bán chuối thì treo nải vi.wikipedia.org/wiki/Chu%E1%BB%91i - chuối, bán vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%ADa - mía thì dựng lên bó mía... Với cách tiếp thị độc đáo này, những người mua tới chợ từ xa đã quan sát thấy.
C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image001.jpg

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image002.gif

Một ghe trái cây đến từ Vĩnh Long

  • Muốn biết các ghe thuyền và các cư dân sông nước đến từ địa phương nào, chỉ cần nhìn vào mạn thuyền, trên thuyền có ghi mã tỉnh được viết tắt bằng 2 chữ cái đầu. Ví dụ, trên thuyền ghi "TG" thì thuyền đó đến từ vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%81n_Giang - Tiền Giang. Chợ nổi là nơi tụ họp của rất nhiều cư dân đến từ khắp miền đất nước.
Tuy rằng người dân "treo gì bán đó" thông qua những cây bẹo, tuy nhiên có 3 trường hợp ngoại lệ:

  1. "Cái gì treo mà không bán?" Chính là quần áo. Cư dân chợ nổi thường sinh sống và sinh hoạt ngay trên thuyền, vì thế, quần áo họ thường phơi cả trên thuyền, do đó "mặt hàng" này họ không bán.
  2. "Cái gì bán mà không treo?" Chính là các thuyền bán hàng ăn uống và nước giải khát. Những thứ này không thể treo lên được.
  3. "Cái gì mà treo cái này, bán cái khác?" Chính là treo lá dừa nhưng lại bán thuyền. Người dân muốn bán ghe thuyền của họ thường treo lên thuyền một cây sào, trên đó có gắn một miếng lá dừa.
Một số chợ nổi nổi tiếng ở Việt Nam là:

  • Chợ nổi Cái Bè nằm ở đoạn sông Tiền giáp ranh giữa ba tỉnh vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%81n_Giang - Tiền Giang, vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%A9nh_Long - Vĩnh Long và vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%BFn_Tre - Bến Tre.
  • Chợ nổi Phụng Hiệp (vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%ADu_Giang - Hậu Giang), Phụng Hiệp là tên của huyện, còn địa điểm họp chợ là giao điểm của bảy nhánh sông…
  • Chợ nổi Châu Đốc (vi.wikipedia.org/wiki/An_Giang - An Giang) gần thị xã Châu Đốc…
  • Chợ nổi Cái Răng: Nằm cách trung tâm thành phố vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7n_Th%C6%A1 - Cần Thơ khoảng 5 km theo hướng quốc lộ về tỉnh vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B3c_Tr%C4%83ng - Sóc Trăng. Tương lai chợ nổi Cái Răng sẽ trở thành chợ trung tâm tự sản tự tiêu lớn nhất vùng.
  • Chợ nổi Phong Điền: Nằm cách trung tâm thành phố Cần Thơ 17 km, đây là nơi mua bán sản phẩm miệt vườn.
C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image003.jpg

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image002.gif

Treo cái này mà bán cái khác, đó chính là treo lá dừa nhưng bán thuyền
Các chợ nổi này hoạt động tự phát từ xưa đến nay, không có sự quản lý hành chính, thu thuế nào một cách chặt chẽ. Chợ nổi tự phát là do những người buôn bán trên sông đã lâu, cùng với những người nông dân làm vườn địa phương và một số người buôn bán nhỏ lẻ ở địa phương hình thành nên.
Đồng bằng sông Cửu Long là xứ nhiệt đới gió mùa điển hình, trái cây, khoai, củ, rau quả rất đa dạng và phong phú cho nên mùa nào cũng có thể đi mua bán những mặt hàng này được. Từ đó, một số cư dân ở đây hình thành nên thói quen một cách tự phát là đi mua bán các loại trái cây, khoai củ, rau quả lúc nông nhàn hoặc thành nghề truyền từ đời này sang đời khác. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt tạo điều kiện thuận lợi cho xuồng, ghe đi khắp nơi trong đồng bằng. Chính vì ghe, xuồng có thể lưu thông tự do khắp nơi trong đồng bằng như vậy nên thương lái có thể len lỏi mọi ngõ ngách ở đồng bằng tìm mua các loại trái cây, khoai, rau quả mà nông dân, người làm vườn bán tại vườn với số lượng nhiều, giá rẻ.
Các khu vực khác ở Việt Nam không thể có chợ nổi trên sông buôn bán nông sản như vậy, do hệ thống sông ngòi và bị đê bao quanh sông cái ngăn lũ nên ghe, xuồng không thể hoạt động, không thể len lỏi khắp nơi trong đồng bằng được.
[h=2]Ghi chú[/h]
  1. ^ Theo định nghĩa chợ: chợ là nơi mua bán và trao đổi hàng hóa của con người, trong khi đó, chợ nổi của Thái Lan chỉ bán cho khách du lịch và không có hoạt động trao đổi và mua bán giữa cư dân với cư dân địa phương
  2. ^ "Bẹo" ở đây là bẹo hình, bẹo dáng. Vốn cư dân xưa của vùng đất Nam Bộ là những cư dân chưa biết chữ, họ dùng cây bẹo để nói lên cái mà bán, tập tục lưu giữ đến ngày nay



Hô chí minh

Bến nhà rồng ( cuôc đoi HCM)

Dinh thống nhất

Chợ bến thành

Chợ bình tây

Một số bảo tàng

Chùa vĩnh nghiêm
[h=1]Bí mật" nhà thờ Đức Bà[/h] ,
C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image004.jpg

Đàn organ ống cổ phần còn lại
Nhà thờ Đức Bà (còn gọi là nhà thờ lớn, Vương cung thánh đường, nhà thờ chính tòa) TP.HCM đồ sộ, đẹp, đứng sừng sững ở trung tâm thành phố luôn thu hút nhiều người lui tới. Thế nhưng qua 124 năm tồn tại, mấy ai đã biết gì về nhà thờ này. Sau khi được phép của linh mục chánh sở Huỳnh Công Minh, PV báo TS đã được linh mục phụ tá Vương Sĩ Tuấn hướng dẫn vào nhà thờ... Trăm năm, gạch ngói không phai màu Nhìn từ bên ngoài, toàn bộ nhà thờ từ mái đến tường là một màu đỏ gạch nung. Đặc điểm của loại gạch và ngói xây dựng nhà thờ là giữ nguyên màu từ ngày xây dựng đến nay và không hề đóng rêu mốc. Theo quan sát của chúng tôi, một số ngói vỡ trong nhà thờ có in hàng chữ Guichard Carvin, Marseille St André France (nơi sản xuất loại ngói này?), mảnh ngói khác lại có hàng chữ Wang - Tai Saigon. Có thể đây là mảnh ngói được sản xuất sau tại Sài Gòn dùng để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, thời gian mà theo linh mục Vương Sĩ Tuấn, có nhiều cửa kính của nhà thờ bị vỡ.

Bên trong nhà thờ khá rộng, có sức chứa 1.200 người, với hai hàng cột chính hình chữ nhật mỗi bên sáu chiếc (tổng cộng 12 chiếc) tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang có khá nhiều khoang có những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) với các bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Trên tường được trang trí nổi bật là 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Rất tiếc trong số cửa kính này hiện chỉ còn hai cửa là nguyên vẹn như xưa... Đàn cổ nhất nhì trong nước (?) Đứng từ bàn thờ chính của nhà thờ nhìn về phần trên cao phía cửa chính, chúng ta sẽ thấy một bức tường gỗ lớn. Đó là nơi được gọi là “gác đàn” và bức tường gỗ ấy chính là cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất nước hiện nay, theo linh mục Vương Sĩ Tuấn. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn. Ước lượng phần thân đàn cao 3m, ngang chừng 4m, dài khoảng 2m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một tấc. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường hiện nay dùng tay gõ và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3m, ngang khoảng 1m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Bên trong đàn được thiết kế tương tự đàn piano nhưng phức tạp hơn nhiều. Đàn còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh, tương tự kiểu đánh đàn k’lông pút của Tây nguyên. Theo ông Nam Hải, người phụ trách phần nhạc của nhà thờ, để đánh được cây đàn này người đánh phải học riêng vì không có trường lớp nào dạy. Điều đáng tiếc là cây đàn này đã hoàn toàn hỏng do thiếu bảo quản (bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay). Hiện nhà thờ còn có một cây đàn tương tự nhưng nhỏ hơn rất nhiều, trị giá khoảng 70.000 USD, còn khá mới, do một cựu lãnh sự Pháp tại TP.HCM “gửi”.
C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image005.jpg

Máy đồng hồ với đồng hồ nhỏ theo dõi
Chiếc đồng hồ khổng lồ Hai bên hông gác đàn là một khoảng trống, đó là gác chuông. Từ khoảng trống này nhìn thẳng lên mái tháp chuông - hơn 26m, cao hun hút và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng bốn tấc bề ngang. Khoảng giữa cầu thang nhỏ ấy ở độ cao chừng 15m, chúng tôi thấy một khung cửa tò vò nhỏ bằng lưới. Chui vào cánh cửa ấy với khá nhiều bụi bặm và phân dơi, phần chủ yếu của chiếc đồng hồ nhà thờ Đức Bà hiện ra. Bộ máy đồng hồ to như một chiếc tủ chứa quần áo loại lớn, cao khoảng 2,5m, dài khoảng 3m và ngang độ hơn 1m. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo trong gia đình. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Theo anh Phan Vĩnh Du, người chịu trách nhiệm đánh chuông và bảo trì đồng hồ, mỗi tuần lên giây đồng hồ một lần và chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe.
C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image006.jpg

Những quả chuông đúc từ năm 1879
Gần 30 tấn... chuông Trên gác chuông, cao 36,6m kể từ mặt đất, rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút rợn người. Gác chuông bên phải (phía bên Trường Hòa Bình) có hai chuông mang tên nốt nhạc là la và do. Gác chuông bên trái có bốn quả chuông sol, si, mi và re. Ba quả chuông to nhất là sol nặng 8.745kg, si nặng 3.150kg và quả re nặng 2.194kg. Tổng cộng sức nặng của các quả chuông, theo linh mục Vương Sĩ Tuấn, là gần 30 tấn, tất cả đều được đúc ở Pháp vào năm 1879. Đặc điểm của chuông nhà thờ là có âm sắc riêng không thể lẫn vào đâu, vì vậy theo anh Nam Hải, không có bậc fa. Khi xây nhà thờ, gác chuông không có mái. Năm 1885, kiến trúc sư Gardes đã thêm mái chóp vào để che gác chuông với tổng chiều cao tính từ đất là 57m. Những chiếc chuông của nhà thờ được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Song riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật rờle điện. Khi đổ cùng lúc sáu chuông, tiếng chuông vang xa trong phạm vi chừng 10km.

Từ lâu khá nhiều khách tham quan trong và ngoài nước đã vào đây. Linh mục Vương Sĩ Tuấn cho biết năm 2005 là năm kỷ niệm 125 năm thành lập nhà thờ và cũng để ủng hộ ngành du lịch thành phố, nhà thờ sẽ thành lập một đội hướng dẫn viên tình nguyện biết nhiều thứ tiếng để hướng dẫn khách tham quan. Có thể việc này sẽ giúp nhiều người trong và ngoài nước hiểu biết thêm về nhà thờ Đức Bà và chúng ta có thêm một điểm tham quan thú vị nằm ngay trung tâm thành phố.




Tây ninh

tòa thanh tây ninh

đạo cao đài

quãng bình

động phong nha

thạch nhũ
Nhũ đá hay thạch nhũ đựơc hình thành do cặn của nước nhỏ giọt đọng lại trải qua hàng trăm, nghìn năm. Nó là khoáng vật hang động thứ sinh treo trên trần hay tường của các hang động.
[h=2]Hình thành và kiểu[/h]
C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image007.jpg

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image008.gif

Nhũ đá ở động Phong Nha, Quảng Bình.
C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image009.jpg

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image008.gif

Đụn gạo trong động Hương Tích.
C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image010.jpg

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image008.gif

Nhũ đá trong động Vân Trình ở vi.wikipedia.org/wiki/Ninh_B%C3%ACnh - Ninh Bình
Nhũ đá được tạo thành từ vi.wikipedia.org/wiki/Cacbonat_canxi - CaCO[SUB]3[/SUB] và các khoáng chất khác kết tụ từ dung dịch nước khoáng. vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A1_v%C3%B4i - Đá vôi là đá chứa cacbonat canxi bị hoà tan trong nước có chứa khí cacbonic tạo thành dung dịch CaHCO[SUB]3[/SUB]. Phương trình phản ứng như sau[SUP][1][/SUP]:
CaCO[SUB]3[/SUB](r) + H[SUB]2[/SUB]O(l) + CO[SUB]2[/SUB](kh) → Ca(HCO[SUB]3[/SUB])[SUB]2[/SUB](dd)
Dung dịch này chảy qua kẽ đá cho đến khi gặp vách đá hay trần đá và nhỏ giọt xuống. Khi dung dịch tiếp xúc với không khí, phản ứng hoá học tạo thành nhũ đá như sau:[SUP][1][/SUP]
Ca(HCO[SUB]3[/SUB])[SUB]2[/SUB](dd) → CaCO[SUB]3[/SUB](r) + H[SUB]2[/SUB]O(l) + CO[SUB]2[/SUB](dd)
Nhũ đá "lớn" lên với tốc độ 0,13 mm một năm. Các nhũ đá "lớn" nhanh nhất là nhũng nơi có dòng nước dồi dào cacbonat canxi và CO[SUB]2[/SUB], tốc độ lớn có thể đạt 3 mm mỗi năm[SUP][2][/SUP].
Mọi nhũ đá đều bắt đầu với một giọt nước chứa đầy khoáng chất. Khi giọt nước này rơi xuống, nó để lại phía sau một vòng mỏng nhất chứa vi.wikipedia.org/wiki/Canxit - canxit. Mỗi giọt tiếp theođược hình thành và rơi xuống đều ngưng tụ một vòng canxit khác. Cuối cùng, các vòng này tạo thành một ống rỗng rất hẹp (0,5 mm), nói chung gọi là nhũ đá "cọng rơm xô đa". Các cọng rơm xô đa có thể mọc ra rất dài, nhưng nói chung rất dễ gãy. Nếu chúng bị bít lại bởi mảnh vụn, nước bắt đầu chảy ở mặt ngoài, ngưng tụ nhiều canxit hơn và tạo thành nhũ đá hình nón quen thuộc hơn. Cùng các giọt nước này rơi xuống từ đầu của nhũ đá ngưng tụ nhiều canxit hơn trên nền phía dưới, cuối cùng tạo thành măng đá thuôn tròn hay hình nón. Không giống như nhũ đá, các măng đá không bao giờ bắt đầu như là một "cọng rơm xô đa" rỗng. Khi có đủ thời gian, các dạng hình thành này có thể gặp nhau và hợp nhất để tạo thành các cột đá.
Nhũ đá cũng có thể hình thành trong các ống dung nham, mặc dù cơ chế hình thành của nó đủ khác biệt.
[h=3][Bê tông[/h] Các nhũ đá cũng có thể hình thành trên vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%AA_t%C3%B4ng - bê tông cũng như từ các mối hàn chì nếu có sự rò rỉ chậm của nước và đá vôi (hay các khoáng vật khác) có trong nguồn cấp nước, mặc dù chúng hình thành nhanh hơn nhiều so với khi trong môi trường hang động tự nhiên.
Cách thức mà nhũ đá hình thành trên bê tông là do bản chất hóa học khác so với sự hình thành của các nhũ đá trong các hang động đá vôi và là kết quả của sự hiện diện của vi.wikipedia.org/wiki/%C3%94x%C3%ADt_canxi - ôxít canxi trong be tông. Ôxít canxi này phản ứng với bất kỳ lượng nước mưa nào thẩm thấu vào bê tông và tạo thành vi.wikipedia.org/wiki/Dung_d%E1%BB%8Bch - dung dịch chứa hiđrôxít canxi. Phản ứng hóa học của nó là[SUP][1][/SUP]:
CaO(r) + H[SUB]2[/SUB]O(l) → Ca(OH)[SUB]2[/SUB](dd)
Theo thời gian dung dịch hiđrôxít canxi này thoát ra tới rìa của khối bê tông và nếu bê tông là treo lơ lửng trong không khí, chẳng hạn, trên trần nhà hay các xà rầm thì nó sẽ nhỏ giọt xuống từ các rìa này. Khi điều đó xảy ra thì dung dịch tiếp xúc với vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%B4ng_kh%C3%AD - không khí và một phản ứng hóa học khác sẽ xảy ra. Đó là phản ứng của dung dịch với điôxít cacbon trong không khí và tạo thành các ngưng tụ của vi.wikipedia.org/wiki/Cacbonat_canxi - cacbonat canxi[SUP][1][/SUP]:
Ca(OH)[SUB]2[/SUB](dd) + CO[SUB]2[/SUB](kh) → CaCO[SUB]3[/SUB](r) + H[SUB]2[/SUB]O(l)
Khi các giọt dung dịch này nhỏ xuống nó sẽ để lại phía sau các hạt cacbonat canxi và theo thời gian chúng sẽ tạo thành nhũ đá. Thông thường các nhũ đá này chỉ dài vài centimet với đường kính chỉ khoảng nửa centimet[SUP][1][/SUP].
[h=2]Kỷ lục[/h] Trong khi người ta cho rằng nhũ đá dài nhất là các nhũ đá treo trong khoang Rarities tại Gruta Rei do Mato (Sete Lagoas, vi.wikipedia.org/wiki/Minas_Gerais - Minas Gerais, vi.wikipedia.org/wiki/Brasil - Brasil) với độ dài 20 m, nhưng các hang động theo chiều thẳng đứng thường có thể có các nhũ đá dài hơn khi được phát hiện. Một trong các nhũ đá dài nhất có thể được nhìn thấy nằm tại hang Doolin, hạt Clare, vi.wikipedia.org/wiki/Ireland - Ireland, trong khu vực vi.wikipedia.org/wiki/Karst - karst gọi là The Burren, với ấn tượng đặc biệt hơn là nhũ đá này được giữ bởi một tiết diện canxit có diện tích nhỏ hơn 0,3 mét vuông. Khoang White trong hang trên của hang động Jeita tại vi.wikipedia.org/wiki/Lebanon - Lebanon giữ một nhũ đá dài 8,2 m, được cho là nhũ đá dài nhất trên thế giới mà các du khách cũng có thể tiếp cận[SUP][3][/SUP].
Ở vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam - Việt Nam, nhũ đá có ở vịnh Hạ Long, Tam Cốc-Bích Động, hang động Tràng An, động Tam Thanh, động Phong Nha.


huế
Thừa Thiên Huế dưới thời Trần (1306 - 1400)
Năm 1306, vua Chế Mân đã dùng hai châu Ô, Lý làm lễ vật dẫn cưới công chúa Huyền Trân (nhà Trần), một dải đất xung yếu từ bờ Nam sông Thạch Hãn đến bờ Bắc sông Thu Bồn đã gia nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Năm 1307, nhà Trần đã đổi tên châu Ô thành châu Thuận, châu Lý thành châu Hóa. Thừa Thiên Huế là một phần lớn của châu Hóa, mà cư dân chủ yếu còn là người Chăm sống rải rác ở đồng bằng sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương và sông Thu Bồn, kể cả vùng đầm phá ven biển. Từ đây, sự chung sống, hòa hợp giữa hai cộng đồng người Chăm bản địa và người Việt nhập cư khai hoang lập làng bắt đầu tạo nên những biến đổi tích cực trong việc xây dựng đất nước. Từ năm 1307, công cuộc di dân chính thức của người Việt từ đồng bằng Thanh - Nghệ vào đất mới đã khởi đầu và ngày càng bổ sung thành phần cư dân Việt. Tại Thừa Thiên Huế việc di dân của người Việt diễn ra rải rác trong thuế kỷ XIV. Đến cuối thế kỷ XIV, nhà Trần đã lập tại vùng đất Hóa Châu 7 huyện mới: Trà kệ, Lợi Bồng, Sạ Lệnh, Tư Dung, Bồ Đài, Bồ Lãng và Thế Vinh với khoảng trên 40 làng, ấp, thôn, trại, sách. Sau khi Chế Mân chết, công chúa Huyên Trân trở về Đại Việt, lấy cớ này các vua kế vị Chế Mân đem quân đánh châu Thuận và châu Hóa, các vua Trần đã phải nhiều lần cử quân đi đánh dẹp, đề ra nhiều đối sách như giao việc trấn giữ châu Hóa cho các trọng thần hay hoàng thân, năm 1372, vua Trần Nghệ Tông đã cất nhắc một viên quan người địa phương là Hồ Long làm Đại tri châu châu Hóa nhưng miền biên viễn này vẫn không yên ổn. Năm 1377, với sự kiện vua Trần Duệ Tông tử trận vì mắc mưu trá hàng của vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga, quân Chiêm Thành đã chiếm châu Thuận, châu Hóa, châu Tân Bình và Nghệ An trong suốt 12 năm, cho đến khi Chế Bông Nga bị quân Đại Việt bắn chết, quân Chiêm Thành tan vỡ, rút quân khỏi vùng đất này. Năm 1391, vua Trần Thuận Tông cử Lê Quý Ly đi tuần châu Hóa, xét định quân ngũ, sửa chữa thành trì, châu Hóa mới ổn định. Tình hình biến động trên vùng đất Thừa Thiên Huế rải rác suốt thế kỷ XIV, đã làm nhịp độ di dân vào đây chững lại. Chiến tranh cũng đã làm cho những làng mạc mới thành lập xơ xác, tiêu điều. Những thế hệ đầu tiên khai canh lập làng ấp phần lớn bị phiêu tán và ruộng đồng hầu hết hoang hóa, phải đến thế kỷ sau mới phục hồi.
Thừa Thiên Huế với cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh đầu thế kỷ XV
Sang đến thế kỷ XV, Thừa Thiên Huế có những biến chuyển tích cực hơn do việc Hồ Hán Thương cho sửa chữa đường thiên lý từ Tây Đô (Thanh Hóa) đến châu Hóa, đồng thời bờ cõi của Đại Việt được mở rộng về phương Nam với 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa kéo dài đến tận Bắc Quảng Ngãi ngày nay. Từ đây châu Hóa không còn là phên giậu của đất nước; việc di dân từ phía Bắc vào châu Hóa lại tiếp tục. Sau khi nhà Hồ bị giặc Minh đánh bại, vua tôi bị bắt giải về Trung Quốc, giang sơn Đại Việt rơi vào tay nhà Minh, vùng đất Hóa Châu cũng nằm trong hoàn cảnh ấy. Năm 1407, cuộc khởi nghĩa chống quân Minh do Trần Ngỗi (Giản Định Đế - dòng dõi nhà Trần) phát động nổi lên ở Nghệ An, Đại tri châu Thuận Hóa là Đặng Tất đã đem quân Thuận Hóa ra phò Trần Ngỗi. Cuộc khởi nghĩa kéo dài được 6 năm (lúc đầu do Trần Ngỗi lãnh đạo, ba năm sau do Trần Quý Khoáng chỉ huy), nhân dân Thuận Hóa đã sát cánh cùng với nghĩa quân lăn lộn trên các chiến trường Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Định, Tân Bình, Thuận Châu. Hóa Châu lại là một trọng địa, căn cứ để củng cố và bổ sung lực lượng cho nghĩa quân. Tinh thần yêu nước, xả thân kháng chiến cứu nước của nhân dân vùng đất Hóa Châu đã được khẳng định. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, quân Minh áp dụng chính sách cai trị hà khắc, tàn bạo: đàn áp lực lượng nghĩa quân còn sống sót, tăng tô thuế, vơ vét rài sản của nhân dân, bắt cống nạp của ngon vật lạ..., chủ trương đồng hóa nhân dân ta qua việc thay đổi phong tục, tuyên truyền mê tín dị đoan, tổ chức giáo dục theo tinh thần tam giáo của nhà Minh. Hai châu Thuận, Hóa sáp nhập thành một châu Thuận Hóa, chỉ còn 79 làng, 1.470 hộ và 5.662 khẩu dân đinh. Năm 1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hóa), nhân dân Thuận Hóa lại tiếp tục hưởng ứng cuộc kháng chiến chông quân Minh xâm lược. Ngoài đông đảo đinh tráng tham gia nghĩa quân, ở châu Hóa đã có một số nhân tài đóng góp nhiều chiến công trong hàng ngũ chỉ huy tham mưu của nghĩa quân như: ngài họ Hà ở làng La Chữ có công theo Lê Lợi bình Ngô được phong tước Đại Liêu; Phạm Bá Tùng ở làng Thanh Thủy Thượng, xã Thủy Dương được phong chức Chỉ huy sứ. Quân dân Tân Bình, Thuận Hóa đã được Lê Lợi ban dụ khen ngợi: “Ngay ở kinh lộ của ta cũng chưa thấy ai dốc lòng hết sức, lập công nêu danh mà bọn các ngươi là bề tôi ở chốn phên giậu biên cương lại biết nghĩ tới công sức của ông cha ngày trước, hết lòng với vua mà đánh giặc, lập công trước. Lòng trung thành đó, thực đáng ngợi khen” (Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2 – Ngô Sĩ Liên). Nhận định đó đã khẳng định công sức của quân dân Thừa Thiên Huế đầu thế kỷ XV trong công cuộc kháng chiến gian khổ và oanh liệt của dân tộc.
Thừa Thiên Huế thời Lê sơ
Sau khi đánh đuổi giặc Minh, Vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đã cử các trọng thần vào trấn thủ Thuận Hóa, tổ chức ổn định đời sống nhân dân, tăng cường di dân, khai hoang phục hóa, thành lập các làng xã mới. Tình hình Thuận Hóa cơ bản ổn định, nhưng vẫn bị sự quấy nhiễu của quân Chiêm Thành. Từ sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà (1434), quân Chiêm Thành nhiều lần tấn công châu Hóa, năm 1446 vua Lê Nhân Tông cử đại quân chủ động đánh Chiêm Thành nhằm giữ yên bờ cõi. Trong thời kỳ này vẫn tiếp tục quá trình di dân từ phía Bắc vào châu Thuận Hóa, hàng loạt các làng mới được thành lập như: Đa Cảm, Vĩnh Cố (nay là Vĩnh An), Đàm Bổng (nay là Ưu Điềm), Phò Trạch, Đường Long (Chí Long), Chánh Lộ (Chánh Lộc), An Triền (Hòa Viện), Hương Triền (Thanh Hương), Vĩnh Áng (Vĩnh Xương), Thanh Cần, Triều Sơn, Địa Linh, La Khê, Bao Vinh, Đức Bưu, Dương Xuân, Hoài Lai, Phổ Lại, Vân Căn, Sơn Tùng, Hoa Lang, Trung Tuyền (Trung Đồng), Đại Lộc, Kế Môn, Thế Chí, Toản Vũ (Thành Công), Bình Trị (Vĩnh Trị), Thai Dương, Hòa Duân, Hà Cùng (An Dương), Cự Lại, Kế Chủng (Kế Sung), Đông Dương, Vinh Hoài, Duy Sơn, Tân Chu, Nghi Giang, Diêm Trường, Phụng Chính. Năm Bính Tuất (1466) vua Lê Thánh Tông tổ chức cải cách hành chính đặt 13 đạo Thừa tuyên trong cả nước, trong đó có Thừa tuyên Thuận Hóa; đổi lộ thành phủ, trấn thành châu, các chức Chuyển vận thành Tri huyện, Tuần sát thành Huyện thừa, Xã quan thành Xã trưởng. Thừa tuyên Thuận Hóa được tổ chức thành phủ Tân Bình gồm 2 huyện, 2 châu và phủ Triệu Phong gồm 6 huyện, 2 châu. Phần đất Thừa Thiên Huế ngày nay thuộc 3 huyện Kim Trà, Đan Điền và Tư Vinh nằm trong phủ Triệu Phong. Năm 1469, quân Chiêm Thành lại khởi sự chiến dịch quấy phá Hóa Châu, Tháng 9/1470, vua Chiêm Thành là Bàn Trà Toàn chỉ huy 10 vạn quân và voi ngựa tiến đánh châu Hóa. Cuối năm đó vua Lê Thánh Tông ngự giá thân chinh đánh Chiêm Thành. Sau nhiều trận giao tranh, quân Chiêm tan vỡ, vua Lê Thánh Tông đã đưa quân đánh vào tận kinh đô Bồ Đàn của Chiêm Thành, bắt sống Trà Toàn đem theo về Đại Việt. Chiến dịch bình định phương Nam của quân dân Đại Việt dưới quyền Tiết chế của vua Lê Thánh Tông đã chấm dứt mối đe dọa xâm lấn Hóa Châu của quân Chiêm Thành (1741). Phần đất Thừa Thiên Huế không còn là phên giậu, mà biên cương đã vào tận phía Nam Bình Định. Quan quân và nhân dân đã ra sức khôi phục và tái thiết Thuận Hóa. Hưởng ứng chủ trương di dân, một số quan quân Nam chinh trở về đã đem gia đình và bà con từ các vùng quê phía Bắc, đa số là Thanh Hóa, Nghệ An vào khai khẩn đất hoang và các vùng đất bị tàn phá, nhân dân lưu tán do chiến tranh, lập thành những làng ấp mới trên đất Thuận Hóa. Theo danh mục trong Hồng Đức bản đồ soạn ngày 6/4 năm Hồng Đức 21 (1490), 3 huyện thuộc phần đất Thừa Thiên Huế ngày nay gồm có: Kim Trà 22 làng, 20 thôn, 3 nguồn, Đan Điền 60 làng, 14 thôn, 4 sách, 1 nguồn, Tư Vinh 69 làng, 4 sách, 1 thôn. Sau chiến thắng Bồ Đàn năm 1471 của quân dân Đại Việt, trong đó có sự đóng góp công sức, xương máu của quân dân Thuận Hóa, vùng đất này đã được hưởng thanh bình, ổn định liên tục trong vòng 50 năm.
Thừa Thiên Huế dưới thời Lê - Mạc phân tranh
Bắt đầu từ thập niên 20 của thế kỷ XVI, vùng đất Thuận Hóa lại xảy ra nhiều bất ổn, bắt đầu từ việc các quan lại địa phương lộng quyền, chia bè phái, vơ vét của cải, nhũng nhiễu nhân dân, làm cho cuộc sống của người dân ngày càng khó khăn. Đặc biệt, năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, Thuận Hóa bắt đầu một thời kỳ đầy biến động. Sau khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi một số dòng tộc, gia tộc bỏ đất Bắc di cư vào châu Hóa lập nghiệp. Phó tướng Thuận Hóa là Hoàng Công Châu chống mệnh vua Mạc, chắn thuyền ngang cửa biển Nhật Lệ chiến đấu khi Mạc Quyết (em của vua Mạc) thống lĩnh quân đội tuần du Thuận Hóa. Ông bị bắt đưa về kinh xử chém. Năm 1531, các bề tôi cũ của nhà Lê là Bích Khê hầu Lê Công Uyên, Nguyễn Ngãi, Nguyễn Thọ Trường và Nguyễn Nhân Liễn dấy quân ở Thanh Hóa và các địa phương Tân Bình, Thuận Hóa. Cả một dải đất từ Thanh Hóa đến Quảng Nam nổi loạn. Năm 1547, con trai thứ của Mạc Đăng Dung dấy quân tranh chấp ngôi vua với Mạc Phúc Nguyên tại đất Bắc, vùng Hóa Châu lại biến động. Nhà Mạc liên tục phải cử quan quân vào đánh dẹp. Năm 1548, lực lượng phục hưng triều Lê do Nguyễn Kim lãnh đạo ngày càng lớn mạnh thu phục cả vùng Thanh Nghệ, vùng đất Thuận Hóa trở thành nơi tranh chấp giữa nhà Mạc với lực lượng này. Sau khi quân nhà Mạc bị tiêu diệt, nhà Lê đặt các quan phủ huyện và quan tam ty, mở trường dạy học, khuyến khích phát triển nông nghiệp, tu bổ đề điều, phát triển thương nghiệp, củng cố quân đội.... từ đó Thuận Hóa mới trở lại yên ổn. Trong hơn 200 năm (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI) Hóa Châu đã có sự phát triển vượt bậc về kinh tế, văn hóa, giáo dục. Sái Thuận, một nhà thơ đất Bắc trong một lần vào Hóa Châu đã làm thơ ca ngợi: “Ghe thuyền nườm nượp khắp đông tây Cầu mống giăng sông cửa nước đầy” (Dịch Thuận Hóa thành tức sự) Cho đến thế kỷ XVI, ở Thừa Thiên Huế đã có khoảng 180 làng, 50 thôn, sách, nguồn. Dân các làng thôn đa số sống ở vùng trung lưu và hạ lưu các sông Bồ, sông Hương, sông Phù Bài, sông Nong, sông Truồi, sông La Ỷ, sông Mộc Hàn và ven đầm phá cũng như dọc theo đồi cát ven biển. Trung tâm của Hóa châu là phủ Triệu Phong với lỵ sở là thành Hóa Châu, nơi đặt nha môn của Tam ty, với phủ thự, trường học, binh xá của vệ sở làm cho cả một vùng làng mạc xung quanh sầm uất, phồn thịnh. Cư dân sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, các làng ven biển vừa làm ruộng, vừa đánh cá, làm muối, đóng thuyền, ngoài ra còn phát triển các nghề thủ công: rèn, làm giấy, gốm, đan lát, dệt vải..., còn có các làng nghề làm bột, làm bún. Bên cạnh làm nông, việc chăn nuôi chủ yếu nuôi trâu bò để lấy sức kéo và gia súc, gia cầm để làm cỗ cúng tế, số lượng ít ỏi và có xu hướng tự cung tự cấp. Về phát triển thương ngiệp, bên cạnh những chợ làng, chợ nhỏ phục vụ quá trình tự sản tự tiêu của nông dân đã hình thành một số chợ lớn buôn bán tấp nập như: Thế Lại, Lại Thị, Địa Linh, Tây Thành, Đan Lương, Phò Trạch, Lại Ân... Phong tục tập quán của ngưới Hóa Châu ít nhiều đã có tinh thần cởi mở trong tình cảm, lối sống phóng khoáng và nhu cầu giải phóng tình yêu lứa đôi, phần nào là phong thái sống của người dân trên vùng đất thị tứ. Về giáo dục, tại đất Hóa Châu đã xuất hiện tầng lớp Nho sĩ, nhiều Nho sĩ đỗ đạt được bổ làm quan ở các phủ, huyện trong cả nước tiêu biểu như Nguyễn Hữu Nhuế (làng Dương Nỗ) đỗ Giải nguyên khoa Tân Tỵ, làm Tri phủ Thuận Thành; Cao Bách Tuế (làng Đông Dã), Tri phủ Hà Nam; Nguyễn Đức Huệ (làng Hoài Tài), Tri phủ Thăng Hoa... Nhân dân Hóa Châu lúc bình thường thì sống cần cù, chất phác, thuận hòa, vui với cuộc sống nông nghiệp bình dị, nhưng lúc có biến cố thì anh dũng, kiên cường, không sợ hãi uy vũ, quyết hy sinh vì nghĩa lớn. Đó là những nhân tố vô cùng thuận lợi để Nguyễn Hoàng khi trấn thủ xứ Thuận Hóa phát triển dân sinh, củng cố thế lực, đưa vùng đất này tiến lên một giai đoạn phát triển mới.


Chiều sâu của văn hóa Huế còn được biểu hiện qua phong cách Huế. Phong cách ấy bắt nguồn từ nghệ thuật sống của nhiều thế hệ những con người xứ Huế, được hình thành bồi đắp từ truyền thống văn hóa Huế. Huế hấp dẫn và chiếm được tình cảm của nhiều người, trong nước cũng như quốc tế, chủ yếu là nhờ Huế còn bảo lưu được một di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) bề thế và có cội nguồn từ truyền thống văn hóa dân tộc, đã được tích tụ, bồi đắp và phát triển từ một vùng đất vốn là kinh đô, có sự kết hợp hài hòa giữa cái chung của cả nước và cái riêng của một vùng đất, giữa dân tộc và bản địa, giữa truyền thống và hiện đại. Trải qua thời gian và sự vận động không ngừng của cuộc sống, các yếu tố ấy luôn luôn được chắt lọc, bổ sung và lắng lại thành những tinh hoa làm nên bản sắc văn hóa Huế, đó chính là phần cốt lõi nhất của truyền thống văn hóa Huế cần phải được trân trọng, gìn giữ và phát huy. Kinh thành (vòng thành ngoài) của Huế được xây dựng dưới thời vua Gia Long và Minh Mạng, bắt đầu vào mùa hè năm 1805 và kết thúc vào năm 1832. Việc quy hoạch Kinh thành diễn ra trong 2 năm 1803-1804, chủ yếu là do chính vua Gia Long và đại thần Nguyễn Văn Yến đi khảo sát thực địa, hoạch định mô thức kiến trúc và mặt bằng xây dựng. So với Đô thành Phú Xuân vào cuối thời các chúa Nguyễn và được tiếp tục sử dụng dưới thời Tây Sơn (1786-1801), mặt bằng của Kinh thành được mở rộng hơn rất nhiều. Khi qui hoạch mặt bằng trên bản thiết kế, địa bàn của Kinh thành nằm chồng lên hai đoạn khá dài của 2 chi lưu bên tả ngạn sông Hương. Đó là sông Kim Long và sông Bạch Yến, đồng thời bao gồm địa phận của 8 làng vốn được thành lập trước đó mấy thế kỷ. Đó là các làng Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Thái, An Vân, An Hoà, An Mỹ, An Bảo và Thế Lại. Dựa vào các nguyên tắc địa lý phong thủy của phương Đông và thuyết Âm Dương, Ngũ Hành của Dịch học, các nhà kiến trúc thời ấy đã bố trí kinh thành quay mặt về phía Nam, chọn núi Ngự Bình làm tiền án (bình phong) và cồn Hến, cồn Dã Viên trên sông để làm thế “Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ” chầu vào trước mặt Kinh thành. Trong đợt thi công đầu tiên vào mùa hè năm 1805, triều Nguyễn đã huy động khoảng 30.000 dân và lính ở các tỉnh miền Trung về Huế để ngăn sông, đào hào và đắp một cái thành sơ khởi bằng đất. Công việc tiếp diễn trong nhiều năm. Đến năm 1818 thì số lính và dân công lên đến 80.000 người. Họ bắt đầu xây gạch ốp vào mặt tiền (phía Nam) và mặt hữu (phía Tây) của Kinh thành. Còn mặt tả (phía Đông) và mặt hậu (phía Bắc) thì được xây gạch ốp năm 1822. Sau đó vua Minh Mạng tiếp tục cho xây thêm tường bắn ở đỉnh mặt ngoài của vòng thành vào các năm 1831, 1832. Kinh thành Huế có dạng mặt bằng gần như là một hình vuông, chỉ riêng mặt trước hơi khum ra như hình cánh cung, vì mặt thành này phải chạy theo chiều uốn nhẹ của đoạn sông Hương chảy qua trước mặt nó. Chu vi của vòng thành xây bó bằng gạch là 10.571 m. Bề dày trung bình của thân thành là 21,50 m, bao gồm bề dày của phần mô thành đắp bằng đất ở giữa là 18,50 m và lớp gạch xây bó ở mặt ngoài là 2m và lớp gạch xây bó ở mặt trong là 1m. Trên thành (thường được gọi là trên thượng thành) không phải là một mặt phẳng, mà được đắp giật cấp, tạo thành 3 dải đất thấp dần kể từ ngoài vào phía Thành Nội. Mặt thành ngoài cao 6,60 m, mặt thành trong chỉ cao 2,10 m. Diện tích của địa bàn Thành Nội là 520 ha (tức là 5,20 km[SUP]2[/SUP]). Chung quanh Kinh thành có 10 cửa được xây dựng vào năm 1809. Nhưng những vọng lâu hai tầng bên trên các cửa thành thì đến những năm 1824, 1829 và 1831 mới được thực hiện. Ngoài 10 cửa chính, Kinh thành còn có một cửa phụ, không xây vọng lâu bên trên, dùng để thông thương với Trấn Bình đài; và 2 thuỷ quan ở 2 đầu của Ngự hà để cho dòng nước của sông này lưu thông với hệ thống hào, Hộ Thành hà và sông Hương. Các cửa thành đã được triều đình đặt tên riêng tuỳ theo phương hướng từ trung tâm Thành Nội nhìn ra, ví dụ: Chánh Đông môn, Đông Nam môn, Chánh Nam môn, Tây Nam môn, Chánh Bắc môn, Đông Bắc môn... Nhưng, dân chúng địa phương thì lại dùng những địa danh khác, giản dị và nôm na hơn, để gọi tên cho dễ nhớ: cửa Đông Ba, cửa Thượng Tứ, cửa Nhà Đồ, cửa Hữu, cửa Hậu, cửa Kẻ Trài... Trên mặt thành đều có xây các pháo đài, giác bảo, pháo nhãn, tường bắn, vọng lâu... để canh gác, phòng thủ. Ở chính giữa mặt Kinh thành phía trước có Kỳ đài cao lớn, uy nghi. Bên ngoài vòng thành được xây dựng rất chắc chắn ấy, còn có 2 tuyến đường thuỷ là hào, Hộ Thành hà; và một tuyến chiến luỹ được thiết lập ở dải đất nằm giữa 2 tuyến đường thuỷ ấy. Cả 3 tuyến này đều chạy dọc theo 4 mặt của Kinh thành để hỗ trợ cho nó. Có nhiều chiếc cầu bắc qua 2 tuyến đường thuỷ, nhất là trước mặt các cửa thành, để giữ chức năng giao thông về đường bộ trên địa bàn Kinh thành, và giữa địa bàn này với vùng phụ cận; chẳng hạn như cầu Thanh Long, cầu Bạch Hổ, cầu Gia Hội, cầu Đông Ba... Kinh thành Huế được xây dựng trên cơ sở kết hợp các nguyên tắc kiến trúc của phương Đông với kỹ thuật bố phòng quân sự theo kiểu thành lũy của Vauban (Pháp) và vận dung một cách khéo léo, thích ứng vào điều kiện địa hình tại chỗ nên nó đã trở thành một tác phẩm kiến trúc nghệ thuật quân sự độc đáo, một kỳ quan văn hóa của dân tộc. Mặc dù đã chịu đựng sự tàn phá của thời gian gần 2 thế kỷ và nhất là bom đạn trong chiến tranh, Kinh thành Huế vẫn tồn tại hầu như đầy đủ diện mạo của nó. Mang giá trị cao về nhiều phương diện, toà thành cổ này đã được Nhà nước công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hoá Quốc gia vào ngày 12-5-1998 và được UNESCO xem là một trong những công trình kiến trúc nghệ thuật quan trọng nhất thuộc Quần thể Di tích Huế, Di sản Thế giới.

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Chùa Thiên Mụ

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Cung An định

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Cung Diên Thọ

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Cung Trường Sanh

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Cung Khánh Ninh

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Cửu vị thần công

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Duyệt Thị Đường

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Cửu Đỉnh

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Đàn Nam Giao

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Đàn Xã Tắc

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Điện Cần Chánh

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Điện Hòn Chén

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Điện Thái Hoà

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Điện Voi Ré

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Đình Thương Bạc

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Hiển Lâm Các

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Hồ Tịnh Tâm

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Hổ Quyền

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Hoàng thành và Tử Cấm thành

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Hưng Miếu

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Kỳ đài

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Lăng Đồng Khánh

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Lăng Hiếu Đông

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Lăng Gia Long

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Lăng Khải Định

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Lăng Minh Mạng

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Lăng Thiệu Trị

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Lăng Tự Đức

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Lầu Tàng Thư

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Những ngôi nhà tạ trong kiến trúc cung đình Nguyễn

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Nghinh Lương Đình

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Ngọ Môn

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Phu Văn Lâu

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Thái Miếu

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Trấn Bình Đài

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Thế Miếu

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Trấn Hải Thành

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Triệu Miếu

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Trường Quốc Tử giám

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Viện Cơ Mật - Tam Tòa

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Văn Miếu Huế

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image011.gif
Võ Thánh

cuu dinh
nhgệ thuật đuc dong Chín chiếc đỉnh đồng (Cửu đỉnh) đặt trước sân Thế Miếu, trong Hoàng thành Huế từ lâu đã trở thành đối tượng quan trọng của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tạp chí “những người bạn của Huế xưa” (Bulletin des Amis du Vieux Hué) trong số ra năm 1914 đã dành nhiều trang quan trọng để bàn về bộ Cửu đỉnh. L.Sogny với bài Cửu dỉnh ở Hoàng thành Huế đã tập trung tìm hiểu về các hình trang trí (Sogny 1914:15-31). P.Chover nghiên cứu về kỹ thuật đúc đồng (Chover 1914: 39-64). Còn L.Cardière thì khảo về sự ra đời và ý nghĩa xã hội của bộ di vậy này (Cardière 1914:39-64). Với thời điểm đầu thế kỷ này, những nội dung nghiên cứu trên là thực sự bổ ích. Nó đã tô đậm trong trí nhớ nhiều người những hiểu biết tưởng như “không thay đổi” về Cửu đỉnh. Từ đó về sau, mọi vấn đề về Cửu đỉnh được xem như đã tổng kết. Nhưng thật ra, những luận điểm ấy chỉ là những giả thiết. Suốt từ năm 1914 đến năm 1945, việc trực tiếp nghiên cứu bộ Cửu đỉnh còn rất khó khăn. Do vị trí ở sân Thế Miếu, chốn thâm nghiêm thờ các vua nhà Nguyễn, triều đình Huế trên danh nghĩa vẫn đang là một “Nhà nước trung ương”, chỉ rất ít học giả Pháp mới có thể tiếp cận được với hiện vật. Sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt sau ngày đất nước thống nhất, Cửu đỉnh mới thật sự là di vật nghệ thuật – lịch sử để mọi người than và nghiên cứu. Trong điều kiện thuận lợi ấy, Cửu đỉnh lại được tiếp tục nghiên cứu. Năm 1974, trên tạp chí của Hội nghiên cứu Đông Dương, tập XLIX số 3, R.P.Bernuouin đã công bố một luận văn nhan đề Những hình trạm nổi trên Cửu đỉnh Huế. Tác giả đã nêu sơ qua lịch sử và ý nghĩa của Cửu đỉnh, sau đó hệ thống hóa có minh chứng bằng hình ảnh tất cả các hình được chạm trên bộ Cửu đỉnh. Từ đó, nhiều người cho rằng Cửu đỉnh đã được nghiên cứu đầy đủ rồi, chủ cần dẫn theo R.P.Bernuouin.
C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image012.jpg

Cửu Đỉnh - biểu tượng cho sự giàu đẹp, thống nhất của đất nước
Chúng tôi đã có dịp quan sát Cửu đỉnh và mỗi lần lại thấy một khoảng trống hay một câu đáp không thỏa đáng của tài liệu cũ. Có những chi tiết tưởng chừng rất đơn giản, chỉ là những số đo cụ thể, nhưng khi hệ thống hóa lại, gởi những nhận xét thú vị. Cũng có những vấn đề chỉ nhìn khái quát và bề ngoài thì dễ chấp nhận những lý giải cũ. Nhưng nếu nghiên cứu tỉ mỉ, cả trong lẫn ngoài từng chiếc đỉnh, thì lại gởi ra một hướng tìm tòi khác về kỹ nghệ. Và theo hướng đó có một cách lý giải thỏa đáng hơn. Để rõ lai lịch của Cửu đỉnh, chúng ta phải trở lại với Minh Mạng – ông vua có ước vọng củng cố và phát triển nghiệp đế của nhà Nguyễn, xây dựng một chính quyền trung ương tập quyền mạnh. Một trong những việc làm theo ý đồ này, thể chế hóa bộ mạt Hoàng thành, trong đó có việc đúc bộ Cửu đỉnh. Khi nghĩ ra việc đúc Cửu đỉnh, Minh Mạng đã nói với Nội các: “Đỉnh là để tỏ ra ngôi vị đã đúng, danh mệnh đã trụ lại, thực là đồ quý trọng ở nhà tôn miếu. Xưa các minh vương đời Tam đại (Hạ, Thương, Chu – Trung Quốc – T.G) lấy kim loại do các quan mục bá chín châu dâng cống đúc chín cái đỉnh để làm vật báu truyền lại đời sau. Quy chế điển lễ ấy thật to lớn lắm! Trẫm kính nối nghiệp trước, vâng theo đường lối rõ ràng, nay muốn phỏng theo đời xưa: đúc 9 cái đỉnh để ở nhà Thế Miếu. Đó là để tỏ ý mong rằng muôn năm bền vững, đời truyền đời sau. Chuẩn cho quan phân việc đúng kiểu mẫu mới định mà đúc” (Đại Nam thực lục, Chính biên 1966: 171-172). Trên tinh thần đó, bộ Công đã gấp rút chuẩn bị mọi mặt liên quan đến việc đúc Cửu đỉnh. Tháng 10 năm Ất Mùi Minh Mạng XVI (tháng 12 – 1835) thì khởi công đúc. Công việc đúc và sau đó gia công thật hoàn chỉnh mất 15 tháng, đến tháng Giêng năm Đinh Mậu Minh Mạng XVIII (3-1837) thì hoàn thành. Trong buổi làm lễ cáo trời đất và tổ tiên để đỉnh ở sân Thế Miếu, Minh Mạng còn nói rõ thêm: “Trẫm xem xét đời xưa, đúc đỉnh theo hình cácvật, nhưng đồ cổ ít còn, nhà biên chép truyền nói không đúng, chép ra đều là vạc nấu ăn, còn như đỉnh to cao và nặng, không những gần đây không có, dẫu ba đời (Hạ, Thương, Chu) cũng ít nghe thấy. Nay bắt chước người xưa mà lấy ý thêm bớt, đúc thành chín đỉnh to, sừng sững đứng cao, to lớn nặng vững, không viết nẻ chút nào, đáng làm của báu, con con cháu cháu, giữa mãi đến không bao giờ hết. Vậy thông dụ cho 31 trực tỉnh và thành Trần tây đều biết” (Đại Nam thực lục, chính biên 1968: 30-31). Ngay khi có ý đồ đúc, Cửu đỉnh đã được coi như đồ quý ở nhà Tôn Miếu và sẽ được đặt ở vị trí trang trọng trong sân Thế Miếu. Để đặt từng chiếc đỉnh vào đúng vị trí, trước hết phải xác định tên gọi cho nó. Với ý đồ đúc Cửu đỉnh là để khẳng định nghiệp đế vương muôn năm bền vững, “Cửu đỉnh” với con số 9 kết thúc một vòng lịch đại đầy đủ, tương ứng với “cửu tộc”: được khởi đầu từ CAO tức thế hệ mở đầy, coi như chóp đỉnh và kết thúc ở HUYỀN là thế hệ sau cùng tức chỉ nơi sâu thẳm, khép kín 1 chu kỳ để đi vào cõi vĩnh hằng. Từ CAO đến HUYỀN trong hệ thống thế thứ lịch đại, mỗi thế hệ tượng trưng cho một đức tính tốt; NHÂN là hiền lành, điều thiện; CHƯƠNG là giá trị chuẩn mẫu; ANH là vinh diệu nổi tiếng; NGHỊ là sự cứng rắn, cương quyết; THUẦN là sự hoàn thiện và thanh khiết; TUYÊN là sự truyền cảm tốt đẹp và DỤ là nguồn gốc sự thịnh vượng. Chính vì thế, con số 9 ở đây là số nhiều, đầy đủ nhất đến mức hoàn tất, để rồi sang con số 10 sẽ trở lại từ đầu theo một chu kỳ mới. Là một lịch đại đầy đủ. Minh Mạng muốn dành tên đỉnh làm tên thụy tức miếu hiệu được đặt ra sau khi chết của các vua nhà Nguyễn. Và như thế, CAO ĐỈNH phải tương ứng với Gia Long là Thế tổ Cao hoàng đế. Minh Mạng tự chọn tên thụy cho mình là Thánh tổ Nhân hoàng đế. Ông còn đặt sẵn tên thụy cho các thế hệ tiếp theo là Hiến tổ Chương hoàng đế, Dực tông Anh hoàng đế, Giảng tông Nghị hoàng đế, Cảnh tông Thuần hoàng đế v.v…Vì thế, mà từ vị trí đặt Cửu đỉnh ở sân chầu được lấy làm chuẩn quy chiếu cho các bàn thờ từng vị vua tương ứng đặt ở trong nhà Thế Miếu, nguyên tắc là lấy tổ ở giữa làm chuẩn, tỏa sang hai bên với thứ tự trái trước phải sau. Có thể thấy rõ điều đó qua sơ đồ sau:
Vị trí 8 6 4 2 1 3 5 7 9
Tên đỉnh Dụ
Đỉnh
Thuần Đỉnh Anh Đỉnh Nhân Đỉnh Cao Đỉnh Chương Đỉnh Nghị Đỉnh Tuyên Đỉnh Huyền Đỉnh
Vua tương ứng Hàm Nghi Đồng Khánh Tự Đức Minh Mạng Gia Long Thiệu Trị Kiến Phúc Khải Định Duy Tân
Thật ra, trong Thế Miếu xưa chỉ có 7 nhang án thờ 7 vị vua được chính quyền bảo hộ Pháp cho phép, ứng với 7 đỉnh từ Cao đỉnh đến Tuyên đỉnh, còn 3 nhang án mới thời 3 vị vua có tư tưởng yêu nước chống Pháp mới được đưa vào năm 1959. Các ông vua này đều không có tên thụy, do đó Hàm Nghi ứng với Dụ đỉnh, Duy Tân ứng với Huyền đỉnh, còn Thành Thái tới con số 10 thì không còn đỉnh để tương ứng nữa. Đúng số đầy đủ thì, thế phả nhà Nguyễn có tất cả 13 vua. Ngoài 10 nhang án (cũ và mới) thờ 10 vua kể trên, còn có Dục Đức làm vua 3 ngày, Hiệp Hòa làm vua 4 tháng và Bảo Đại bị phế truất năm 1945 cũng không có tên thụy. Như thế rõ ràng con số “Cửu đỉnh” không tương ứng được hết các vua nhà Nguyễn, và tên các đỉnh trong cả bộ “Cửu đỉnh” cũng không hoàn toàn đúng thứ tự thực các vua nhà Nguyễn. Do vậy, càng không thể nghĩ rằng Minh Mạng đức “Cửu đỉnh” là muốn ghi công danh các vua thuộc dòng họ mình và từng ông vua có công trạng với lịch sử dân tộc Việt Nam, như quan điểm của một số học giả đánh giá. II. Nghệ thuật và kỹ thuật chế tạo Khác hẳn với những chiếc vạc của các chúa Nguyễn còn để lại, và cũng khác với “đỉnh” do sử gia ghi mà Minh Mạng đã nói đó chỉ là “vạc nấu ăn” rồi sai thợ “ theo đúng mẫu mới định mà đúc”, để tạo ra những báu vật “sừng sững” đứng cao, to lớn nặng vững, không vết nẻ chút nào “thật đặc sắc vả về hình dáng và kỹ thuật. 1. Hình dáng, kích thước và nghệ thuật trang trí Cả 9 chiếc đỉnh đều có dáng chung giống nhau: bầu tròn, cổ thắt, miệng loe, trên miệng có hai quai, dưới bầu có 3 chân. Ở phần cổ đỉnh, bên phải ghi năm đúc đều là Minh Mạng thập lục niêm Ất Mùi” (1835), bên trái ghi trọng lượng từng đỉnh có khác nhau xê xích từ 3201 cân ta đến 4307 cân ta. Có thể lập một bảng thống kê những số đi và trọng lượng cụ thể của 9 đỉnh.
Tên đỉnh Cao Nhân Chương Anh Nghị Thuần Tuyên Dụ Huyền
Cao toàn bộ 2,5 2,31 2,27 2,25 2,31 2,325 2,45 2,337 2,31
Cao đến miệng 2,02 1,84 1,86 1,83 1,90 1,90 1,91 1,91 1,90
Chân cao 1,05 0,87 0,95 0,94 0,89 0,85 0,93 0,96 0,95
Quai cao 0,48 0,42 0,41 0,42 0,41 0,425 0,54 0,427 0,41
Chu vi thân bàu 5,07 5,04 5,035 5,055 5,08 5,047 5,06 5,10 5,05
Chu vi cổ 3.01 3.19 3,51 3,54 3,53 3,52 3,52 3,61 3,57
Chu vi miệng 4,275 4,285 4,245 4,28 4,28 4,26 4,28 4,325 4,43
Đường kính miệng 1,38 1,365 1,35 1,37 1,37 1,365 1,37 1,38 1,41
Quai rộng 0,48 0,56 0,50 0,51 0,54 0,51 0,61 0,44
Trọng lượng/ cân tạ 4307 4160 3472 4261 4206 3229 3421 3341 3201
1kg =1,6 cân 2601,4 2512,6 2097 2595,7 2595,7 1950,3 2066,3 2017,9 1935
Qua những số đo trên, từng chiếc đỉnh so với từng khẩu súng trong bộ “cửu vị thần công” (nặng trung bình 17.500 cân = 10.913 kg), thì không phải là quá to nặng, nhưng kỹ thuật đúc phức tạp hơn. Khi đúc đỉnh, trong tâm thức của người thợ cũng như ý đồ của triều đại là muốn đúc 9 chiếc đỉnh cao và nặng như nhau (hay phân đôi thứ nhất ít nhất đỉnh trước phải nhỉnh hơn đỉnh sau một chút). Nhưng thực tế mỗi đỉnh do những nhóm thợ khác nhau thực hiện bằng phương pháp thủ công, nên không thống nhất được kích thước và càng không chủ động được về trọng lượng. Vì thế độ dung sai khá lớn. Tuy nhiên, những khác biệt trên phải tinh ý mới có thể nhận ra được. Nhìn chung các đỉnh vẫn tạo ra sự thống nhất trong tổng thể, thống nhất mà không đồng nhất, tất cả bề thế, cao to, vững vàng mà không nặng nề. Trong cái hình khối thống nhất, hài hòa ấy, từng phần ở mỗi đỉnh lại có sự đổi mới, như nét chấm phá của sự sáng tạo và trí tuệ. Cũng là quai đỉnh hình chữ U úp, nhưng góc đáy của nó ở các đỉnh Cao, Nhân, Dụ và Huyền thì vuông góc, còn ở các đỉnh khác lại uốn cong. Mặt quai thì tùy đỉnh mà bện thừng, cong vỏ măng, cong lòng máng, phẳng bẹt hay có gờ, triện hoặc để trơn. Cổ số đông đỉnh có hình lòng máng, nhưng ở đỉnh Cao, Dụ lại để thẳng. Vành miệng các đỉnh Thuần, Dụ và Huyền đều cong nữa vỏ măng, còn ở các đỉnh khác thì thẳng đứng với gờ vuông. Vai nhiều đỉnh có gờ đơn hoặc gờ kép, nhưng một số đỉnh để trơn. Đáy bầu đỉnh phần lớn cong một phần của khối cầu, nhưng ở một số đỉnh khác lại bằng và hơi lõm lên. Chân chỉ ở Dụ đỉnh là được tạo đáy thẳng hơi chếch, còn ở các đỉnh khác đều công dạng chan quỳ. Tiên thân của đỉnh lại trang trí một kiểu riêng, biểu hiện sự giàu đẹp mọi miền của Tổ quốc; núi sông, cây cỏ, động vật, xe thuyền và các quan niệm về vũ trụ và thiên nhiên v.v… Bên cạnh vẻ đẹp sáng tạo dáng, nối bậc lên trong nghệ thuật trang trí ở mỗi đỉnh là các mảng hình chạm trên bàu của đỉnh , mặt bàu chia thành ba tầng, mỗi tầng có sáu hình xen kẽ với 6 mảng trống, trong đó tầng trên và tầng dưới bố trí lệch đi một khoảng so với tầng giữa, tạo ra sự sống “động” của đỉnh. Như vậy, mỗi đỉnh có 18 mảng hình, trong đó mảng hình chính ở mặt trước thuộc tầng giữa được khắc tên đỉnh với lối chữ chân phương, từng nét mạch lạc, khối chữ vuông vức, bố cục chặt chẽ, ở đây được xem như một bức tranh chữ. Có thể lập một bảng so sánh đề tài các hình đúc nổi trên 9 chiếc đỉnh (Xem bảng). Từ đó, chúng ta tìm thấy một trật tự trang trí được tuân thủ chặt chẽ trên cả mặt đỉnh cũng hư từng tầng, quán xuyến suốt cả bộ Cửu đỉnh. Nhìn chung tầng giữa được tập trung những hình quan trọng nhất: lấy tên đỉnh làm nội dung trang trí chính, đối lại phía sau là các mô hình thể hiện vũ trụ như các tinh cầu hay các biểu tượng thiên nhiên mạnh mẽ và thần bí, hai bên trên đỉnh là hình các núi cao hùng vĩ, trập trùng và đối lại bên kia là biển cả mênh mông hay cửa sông rộng mở, rồi tiếp theo cả hai bên là những con sông lớn của cả nước. Tất cả các hình ở tầng giữa này điều có tên riêng, cụ thể xem như tập hình đồ phong cảnh đất nước với những cảnh đẹp nối tiếng. Tầng trên và tầng dưới không có hình ở hai phía trước và sau, mà dàn sang hai bên mà vẫn mang tính đăng đối. Ở tầng trên, thứ tự từ trước ra sau đăng đối ở hai bên là những cây to quý (riêng ở đỉnh Cao thay bằng hình rồng, ở đỉnh Anh là con ve và ở đỉnh Tuyên là tổ yến) đối vứoi những cây ăn quả lưu niên, quý. Tiếp theo là những hình con chim đẹp, quý hiếm (riêng ở Nghị đỉnh thay bằng hình con sâu dừa) đối xứng với cây lương thực và câu hương vị. Cuối cùng là những cây cảnh đẹp đăng đối với những cây lấy củ và cây đậu. Nhìn chung ở tầng trên này là những hình chim, hoa và cây quý ở trên mặt đất. Tầng dưới cùng là đăng đối hai nửa từ trước ra sau là cặp đôi gồm những cây lớn và cây gia vị với moojt số cá biển và cây thiêng (riêng ở đỉnh Nghị thay bằng cặp chim uyên ương), tiếp đến là những con vật máu lạnh nhỏ và đối lại là những phương tiện đi lại (riêng ở đỉnh Anh thay bằng lá cờ), sau cùng là các thú vật lớn đối với các kiểu vũ khí chiến trận.
Tầng Đỉnh CAO Đỉnh NHÂN Đỉnh CHƯƠNG Đỉnh ANH Đỉnh NGHỊ Đỉnh THUẦN Đỉnh TUYÊN Đỉnh DỤ Đỉnh HUYỀN
Trên Con rồng Cây ngô đồng Cây hoa nhài Con ve Cây hoa mai Cây đao Tổ yến Cây thông Cây hoa lan
Chim trĩ Chim công Con gà trống Con hạc Con sâu dưa Chim vành khuyên Con yểng Chim vẹt Chim hói đầu
Hoa tử vi Hoa sen Rau kiệu Hoa hồng Hoa hải đường Hoa quỳ Hoa sen Hoa bụt Hoa gạo
Cây hành Quả nam trân Cây đậu xanh Củ nghệ Cây đậu ván Cây đậu vàng Cây củ lạc Cây đậu trắng Củ xâm ta
Cây lúa Cây lúa nếp Quả đậu Cây cau Cây quế Cây hương nhu Cây trắc bá Cây trầu không Củ tỏi
Cây mít Cây kỳ nam Cây xoài Cây tô hợp Cây huỳnh đàn Cây sa nhân Cây long nhãn Cây lê Cây vải
Giữa CAO đỉnh NHÂN đỉnh CHƯƠNG đỉnh ANH đỉnh NGHỊ đỉnh THUẦN đỉnh TUYÊN đỉnh DỤ đỉnh HUYỀN đỉnh
Núi Thiên Tôn Núi Ngự Bình Núi Thương Núi Hồng Lãnh Ải Quảng Bình Núi Tản Viên Núi Đại Lãnh Cửa khẩu Đà Nẵng Núi Hoành Sơn
Sông Bến Nghé Sông Hương Sông Gianh Sông Lỗ Sông Bạch Đằng Sông Thạch Hãn Sông Lam Sông Vệ Sông Thao
Mặt trời Mặt trăng Ngũ tinh tú Sao Bắc đẩu Sao Nam đẩu Gió Đám mây Sấm Cơn mưa
Kênh Vĩnh Tế Sông Phổ La Sông La Nông Sông Mã Sông Vàm Cỏ Sông Vĩnh Định Sông Hồng Sông Vĩnh Điện Sông Hậu, sông Tiền
Biển Đông Biển Nam Biển Tây Ngân hà Cửa Thuận An Cửa Cần Giờ Núi Duệ Cửa ải Hải Vân Cầu Vồng
Dưới Cây gỗ lim Cây ra hẹ Cầy bồ hòn Cây thị Cây cải bẹ Gỗ sao Cây gừng Cây tía tô Cây sơn ta
Con ba ba Con đồi mồi Con rùa Con trăn Cá trầu Con trai nghêu Con vích Cá mú Cà cuống
Con hổ Con báo Con tê giác Con ngựa Con voi Con trầu rừng Con lợn Con dê Con sơn mã
Đại pháo Đại bác Khẩu súng Đạn bướm Cái giáo dài Cái gươm Cái nỏ Cái phang, xiên Sung phun lửa
Thuyền Thuyền lầu Thuyền đồng Lá cờ Thuyền đi biển Thuyền đua Thuyền nhỏ Ghe ô Chiếc xe
Gỗ trầm Cá voi Cá sấu Cây dâu Chim uyên ương Con cá rô Con sam Con hến, sò Con rắn
Từ những cụ thể trên, Cửu đỉnh còn hàm chứa quyền lực của vương triều bao trùm lên toàn bộ lãnh thổ và thiên nhiên của đất nước (kể cả vùng trời và biển), cùng vơi sức mạnh bảo vệ chủ quyền sở hữu ấy. Có thể xem những hình này như một bộ “Địa dư chí” được ghi bằng ngôn ngữ tạo hình của nước ta ở thế kỷ 19, không đầy đủ nhưng điển hình, đúng như yêu cầu của nhà vua Minh Mạng khi chỉ đạo bộ Công; “Nay đúc đỉnh, khắc hình tượng sông núi và mọi vật cũng không cần phải khắc đủ cả, duy phải khắc rõ tên, hiệu và xứ sở để nhận biết”(Đại Nam thực lục, 1966). Nghệ sĩ khi thể hiện nhữg hình trên Cửu đỉnh đã thoát ra ngoài cái nhìn cố định, không lệ thuộc vào trạng thái tự nhiên của vật thể, cũng như tỷ lệ kích thước của chúng, mà họ đã sáng tạo bằng sự sắp xếp lại cho vừa một mảng diện tích tương đương nhau trên bàu của đỉnh. Vì thế có những vật thể thu nhỏ nhiều, nhưng lại có những vật thể thu lại không đáng kể; có hình rất khái quát, nhưng lại có hình khá chi tiết, hình nào cũng được nhìn rất động với những chi tiết đặc thù, nên dù không đọc tên khắc kèm cũng có thể nhận biết. Với kỹ thuật khắc nổi vừa phải, các hình trên Cửu đỉnh tuy để trang trí mặt ngoài bàu, nhưng không lặp lại quy luật trang trí dải, mà mỗi hình như là một tác phẩm điêu khắc độc lập, giàu tính nhân gian, được khắc lên thân đỉnh, tạo ra một nhịp điệu uyển chuyển. Sự đa dạng, tính thống nhất, cái tinh tế và sự hài hòa đã thể hiện tư duy của nghệ nhân đúc đồng thời bấy giờ: một tư duy sáng tạo và năng động. 2. Kỹ thuật chế tạo Những đánh giá của Minh Mạng khi khánh thành bộ Cửu đỉnh: cả thảy đều “to lớn sừng sững, đứng cao, không vết nức nẻ chút nào”, đã chứng tỏ trình độ đúc đồng thời đó đã phát triển đến đỉnh cao hoàn mỹ. Từ năm 1914, các học giả Pháp đã nghiên cứu khá kỹ về kỹ thuật đúc. Riêng ý kiến cho rằng 162 hình được đúc rời trước rồi hàn gắn vào bầu đỉnh còn cần được thảo luận. Chúng ta đã biết, đúc đồng là một nghề thủ công nặng nhọc với nhiều công đoạn kỹ thuật, mỗi khâu đều phải làm bằng đôi bàn tay và bí quyết của người thợ. Ví như kinh nghiệm pha chế chất phụ gia hay việc làm khuôn v.v… Nhưng nhìn chung, nghề đúc đồng cổ truyền vẫn được bảo lưu và thực hiện qua các công đoạn lỹ thuật như làm khuôn, nấu đồng và đúc. Chúng ta biết, đúc đồng là một nghề thủ công nặng nhọc với nhiều công đoạn kỹ thuật, mỗi khâu đều phải làm bằng đôi tay và bí quyết của người thợ. Ví như kinh nghiệm pha chế chất phụ gia hay việc làm khuôn v.v… Nhưng nhìn chung, nghề đúc đồng cổ truyền vẫn được bảo lưu và thực hiện qua các công đoạn kỹ thuật như làm khuôn, nấu đồng và đúc. Qua tài liệu điền dã dân tộc học, quan sát cách đúc, hỏi han thợ đúc Dương Xuân cũng như một số nơi khác, chúng tôi có thể phác họa đôi nét về ký thuật đúc Cửu đỉnh Huế như sau: Nguyên liệu đúc Cửu đỉnh do triều đình cung cấp, gồm hai nguyên liệu chính là đồng và kẽm, có thể thêm chì, thiếc… lấy từ trong kho hoặc các phế khí hay những vật phẩm bằng đồng không cần dùng nữa. Người thợ đúc phải căn cứ vào nguồn nguyên liệu đó để pha chế theo tỷ lệ thích hợp. Chẳng hạn đúc các thanh dầm ở cửa Ngọ Môn đã được chính sử ghi lại như sau: “ Cửa giữa và cửa giáp hai bên, trên cửa có dầm ngang thẳng đều làm bằng đồng, 58 dầm ngang bằng đồng đỏ và kẽm trắng, pha chế 3 phần đồng, 7 phần kẽm, 12 cái dầm thẳng pha chế 4 phần đồng 6 phần kẽm, đều 3 tấc bề mặt, 2 tấc bề dày (Đại Nam thực lục, 1965). Trong trường hợp trên, kẽm chiếm một tỷ lệ cao gấp hơn hai lần đồng . Còn theo sự phân tích hợp kim đồng trong nhiều đồ đồng trong nhiều đồ đồng của phường đúc Dương Xuân – Huế hiện nay thì, thành phần kẽm chỉ chiếm 1/20 đến 1/10 so với đồng, ngoài ra còn một số kim loại khác như chì, thiếc …tham gia cũng không kém thành phần kẽm. Tỷ lệ đồng/ kẽm qua hai nguồn tư liệu trên khác nhau quá xa, tuy chưa có điều kiện phân tích hợp kim đồng ở Cửu đỉnh, nhưng để đảm bảo độ bền vững , khối to mà không hề nứt rạn, hình chạm khắc sắc sảo và chuẩn xác… chứng tỏ những người thợ đúc Cửu đỉnh đã làm chủ các nguyên liệu đồng và kỹ thuật pha chế đồng với tỷ lệ các hợp kim rất xác đáng. Ngoài nguyên liệu đồng, còn chất đốt và kỹ thuật làm khuôn. Nhiên liệu gồm có rơm, rạ, củi. Kỹ thuật làm khuôn đóng một vai trò quan trọng trong kỹ nghệ đúc đồ đồng. Và nó càng quan trọng và phức tạp hơn trong việc đúc các đồ mỹ nghệ phẩm như Cửu đỉnh với lối thể hiện hoàn mỹ hình dáng và ác hình trang trí nổi như đã đươc trình bày ở trên. Khuôn đúc được làm bằng đất sét dẻo và giấy gió ở phần mặt khuôn giáp hiện vật, và đất sét trộn trấu luyện kỹ ở xưởng khuôn. Cửu đỉnh có khối hình lớn, phức tạp, cần độ bền vững tuyệt đối nên phải đúc liền khối. Do dáng hình của mẫu vật và sự phức tạp của các hình trang trí, nên đỉnh cần phải ghép nhiều mảnh khuôn, khu đúc xong phá bỏ để lấy hiện vật. Hiện tượng kỹ thuật này chúng ta có thể thấy được vụ thể và rất rõ qua bộ sưu tập ảnh của người Pháp về kỹ thuật đúc tượng đồng ở làng Ngũ Xã (Hà Nội) (1952) và ở chùa Sét xã Thịnh Liệt (Thanh Trì) (1954) Vấn đề quan trọng là tạo đỉnh mẫu. Chúng ta có thể đi từ đỉnh thật để lần rõ về đỉnh mẫu. Trong 9 chiếc đỉnh, tổng hợp chi tiết ở đỉnh này với đỉnh khác, có thể thấy hình khắc gắn hữu cơ với bàu đỉnh như kiểu chạm gỗ hay đá, cậy bỏ nền để tạo ra hình, mặt trong lòng đỉnh cũng không có dấu vết hàn ghép gì. Nhưng quan sát kỹ, quả là có một ít mẳng hình có độ cong nổi trồi hơn độ cong của bài đỉnh, thậm chí có thể vạch rõ đường viền mảng hình, và cá biệt có chi tiết ở hình (như đường thẳng) bị rời ra để lại rãnh chứng tỏ một sự lắp ghép không chắc về sau. Từ vài khác biệt trên, những nhà nghiên cứu trước đây (mà nhiều người vẫn nói theo) đều cho rằng đỉnh được đúc trơn, các hình thức riêng sau đó hàn gắn vào bàu đỉnh. Thật ra kết luận trên có nhiều kẽ hở: trong lòng đỉnh không có vết hàn chắp như thường thấy kỹ thuật chắp gắn ở làng Đông Mai (Đại Đồng – Hải Hưng) vẫn làm. Muốn hàn gắn trước trước hết họ khoan 1 lỗ hình tròn, lấy miệng đồng vừa khít lỗ khoan, dùng búa và đe tán đều bằng độ dày của vậy đúc, sau đó dũa cho thẳng. Lấy tóc đốt hơ chỗ vá, khói tóc xóa nhòa chỗ vết hàn, làm cho vật nhác trông như được đúc liền. (Tăng Bá Hoành (chủ biên), 1987: 57-77). Mặt khác, với kỹ thuật hàn thủ công không thể nung nóng cả chiếc đỉnh to lớn như vậy và mảng hình lên tới nhiệt độ cao cần thiết để chúng gắn chặt vào với nhau đến mức như đục chạm được… Gặp gỡ và trao đổi với một số nghệ nhân và những người am hiểu về nghệ thuật đúc đồng, chúng tôi nghĩ rằng, người xưa đắp đỉnh khá hoàn chỉnh ở tạo dáng, đồng thời, đắp quai và các mảng hình chạm riêng. Từ chiếc đỉnh mẫu chưa quai và chưa có hình chạm, người ta ốp đất giấy ròi đất trấu ra ngoài để tạo bìa, tức là khuôn ngoài. Có bìa rồi, người ta lấy mảng hình chạm ra ấn vào bìa bàu không thay đổi (nhưng đôi khi ấn quá tay, lam bìa bàu lõm sâu hơn, tạo ra độ cong khác). Ấn hết hết 18 mảng hình trang trí rồi thì bìa mới được coi là hoàn chỉnh. Khi đó lắp bìa để tạo thao, tức là khuôn. Bìa và thao được phơi khô và nung chín vừa độ để đảm bảo khi đổ đồng, khuôn không bị co biến dạng. Theo tư liệu điều tra ở một làng đúc đồng truyền thống như ở Đông Mai hiện nay thì, để làm cho khuôn có độ nhẵn, khi đúc trơn, nước đồng nhanh chóng chảy kín khuôn, người ta dùng que tẩm dầu châm lửa đốt hơ khắp mặt khuôn phía trong để tạo ra một lớp muội. Phương pháp này được gọi là “ xông khuôn” (Tăng Bá Hoành – chủ biên – 1987). Trước khi đổ đồng, người ta đào hố, định vụ bìa và thao ở vị trí úp ngược trong hố, đổ cát ra ngoài khuôn để cố định khuôn. Tất nhiên trong khi thao tác họ phải sửa nhiều lần tạo ra khoảng cách đều nhau giữa cốt và khuôn, đó chính là độ dày của vật cần đúc. Đỉnh được chôn trong hố chỉ để hở các đầu chân đỉnh làm đậu rót cho nước đồng chảy vào, và đậu gió cho hơi trong lòng khuôn thoát ra. Trước khi rót đồng, khuôn phải được nung lên ở nhiệt độ cần thiết để cho đồng không bị bám dính và lưu thoát kín khuôn ít bị lỗi. Bên cạnh hố đặt khuôn là các lò nấu đồng. Hợp kim đồng đã được pha chế theo đúng tỷ lệ cần thiết, được bỏ cùng với than vào hệ thống cơi ống đã được nung đỏ. Nhờ các luồng gió được thổi liên tục từ lò bễ qua ống máng làm than cháy đổ và do đó hợp kim đồng chả ra rơi xuống nồi cơi, tiếp tục đổ hợp kim đồng đã hơ nóng vào cho đến khi lượng đồng trong các lò đủ đúc một đỉnh, thì thợ đúc dùng que dắt hơ nóng quấy đều nước đồng ở mỗi nồi cơi cho cặn bã nổi lên dể dùng muỗm múc bỏ đi. Nồi cơi được đậy lại bằng vung đất trấu rấm ướt, khiêng đến hố khuôn đúc, đổ đồng vào các đậu rót. Do đồng chả khắp khuôn là đông ngay, nên khi đúc phải đổ liên tục, hết nồi nước cơi đồng này sang nồi nước cơi đồng khác cho đến khi đầy mỗi đỉnh. Trước đây, trên tạp chí Những người bạn của Huế xưa năm 1914, người ta đã tính toán rằng, trong việc nấu đồng có tới 20% cặn bã, mỗi lò chỉ có thể nấu được từ 30kg đến 40kg. Muốn đúc được chiếc đỉnh nặng chừng 2000kg phải dùng đến khoảng 60 lò. Quả là một công trường thủ công lớn. Khi khuôn đỉnh được rót đầy hợp kim đồng rồi phải giữ yên cho đến khi nguội mới được lấy lên khỏi hó, và tháo khuôn ra để lấy đỉnh. Cũng như thế, phần quai được đúc riêng rồi hàn gắn vào miệng đỉnh lúc đó đỉnh mới coi là đúc xong. Tiếp theo là các thao tác kỹ thuật làm “khuôn nguội”, như cắt bỏ cửa đậu, mài dũa các gờ ghép khuôn, giọt lại những nét chạm các họa tiết trang trí và các mảng hình ở bàu đỉnh. Đồng thời thấy chi tiết nào trong mảng hình (cũng như trên thân đỉnh) bị thiếu hay bị hỏng thì làm thêm và ghéo ráp vào (mà nay còn dấu vết bọng rơi mất). Đây là công đoạn kỹ thuật không kém phần quan trọng, tạo cho sản phẩm đạt đến độ hoàn chỉnh, và có giá trị hơn về mặt nghệ thuật. 3. Phường đúc Dương Xuân Cửu đỉnh được coi là vật báu để ở chốn thâm nghiêm trước nhà Thế Miếu thờ các vua nhà Nguyễn, thể hiện quyền uy và sự vững mạnh của một triều đại thống nhất. Ngoài ra nó còn có chức năng là vật dùng để thờ cúng như các đỉnh thông thường khác, có nhiều chi tiết hoa văn trang trí phức tạp. Do vậy, khi đúc đỉnh đòi hỏi phải có một trình độ kỹ thuật cao với những công đoạn kỹ thuật hoàn hảo. Ngày nay chiêm ngưỡng Cửu đỉnh, chúng ta không khỏi ngạc nhiên trước những tiến bộ kỹ thuật đúc đồng thời đó. Càng khó hơn khi lần tìm những giải pháp thỏa đáng về kỹ thuật đúc Cửu đỉnh của người xưa. Một câu hỏi được đặt ra trong quá trình nghiên cứu là: ai đã đúc lên bộ di vật nổi tiếng đó? Ngược dòng thời gian, chúng ta đã hết, thành những trung tâm đúc và chế tạo đồ đồng nổi tiếng ở Kinh Bắc thời xưa. Đó là Đề Cầu (hay Đề Kiều), Đại Bái (Bưởi), Quảng Bố (Vó) và Đông Mai (Cầu Nôm). Từ Đề Cầu và Đông Mai, một số nghệ nhân được triều đình nàh Lê trưng tập ra kinh đô Thăng Long, lập ra phường đúc Ngũ Xã. Còn từ Đại Bái, một số thợ di cư vào Thanh Hóa lập làng đúc đồng mới vẫn mang tên gọi cũ của làng xưa. Cũng từ các trung tâm trên, dưới thời Lê nhiều thợ đúc lo kiếm sống và về sau do sự trưng tập của vua chúa nhà Nguyễn đã vào Huế lập ra phường đúc Dương Xuân. Miền đất Dương Xuân bên bờ nam sông Hương (nay ở phía tây nam thành phố Huế), với điều kiện tự nhiên thuận lợi đã hội nhập nhiều thợ đúc đồng giỏi có nguồn gốc từ các phường đúc đồng nổi tiếng từ ngoài Bắc vào. Theo một số nhà nghiên cứu thì, phường đúc Dương Xuân đã được thành lập vào khoảng giữa thế kỷ 17 (Phan Thuận An 1987:63; Huỳnh Thị Cận 1981:70-79). Các trung tâm đúc đồng nói trên đều thờ vị sư Dương Khổng Lộ (mà dân gian gọi là ông Khổng Lồ) làm tổ sư và thờ hai chú tiểu Phạm Quốc Tài – người trực tiếp truyền nghề ở Đề Kiều và Trần Lạc – người trực tiếp truyền nghề ở Đông Mai. Nhưng riêng ở phường đúc Dương Xuân, do không có nhà thờ tổ tiên, nên không có quy định ngày lễ tổ, mà từng gia đình người thợ tự chọn lấy một ngày tốt đầu năm làm lễ xin tổ phù hộ và một ngày cuối năm để làm lễ tạ tổ. Do cùng nghề và cùng quê gốc đúc đồng xứ Kinh Bắc, các phường đúc đều chung một kỹ thuật đúc đồng cổ truyền như làm khuôn nấu đồng và đúc đồ mà chúng tôi đã có dịp nêu trên. Cái khác biệt chỉ nằm ở các yếu tố như: đúc đồ đơn giản hay phức tạp, đồ to hay nhỏ, đồ thường hay đồ nghệ thuật, đồ chỉ cần dáng hay đồ cần cả âm thanh v.v… Tuy nhiên, cũng cần nói rằng do nguyên liệu là đồ đồng cũ, thuộc nhiều loại đồ khác nhau đúc lại, nên tỷ lệ các hợp kim loại khác (như kẽm, chì, thiếc…) trong đồ đồng khá phức tạp. Và mặt khác do kỹ thuật đúc thủ công, nên khó khống chế đến mức tuyệt đối tỷ lệ hợp kim trong mỗi loại đồ đồng, cũng như sự ổng định về trọng lượng trong mỗi loại hình hiện vật. Vì thế nó chỉ ở mức tương đối giữa các loại đồ đồng mà thôi. Các nghệ nhân phường đúc Dương Xuân, với bàn tay tài hoa đã làm ra nhiều tác phẩm mỹ thuật nổi tiếng, cung cấp cho thủ phủ Đàng Trong và kinh đô Huế. Một số vẫn còn được ghi tên tuổi trong sổ sách và trên di vật, nhưng phần nhiều đã trở thành những nghệ nhân thiên cổ vô danh. Chính sử triều Nguyễn không ghi cụ thể Cửu đỉnh do người thợ nào đúc, mà chỉ có ghi đôi dòng nói rằng: sau khi phê chuẩn việc đúc Cửu đỉnh, vua Minh Mạng đã “phái hai viên khoa đạo và hai viên quản vệ kiểm soát đôn đốc việc làm, đường quan bộ Công cũng đến xem xét” (Đại Nam thực lục, 1976). Theo tương truyền trong dân gian thì, các chuông và khánh đồng ở chùa Thiên Mụ, các vạc đồng ở Đại Nội có niên hạn thế kỷ XVII, và các bộ như “Cửu vị thần công”, “Cửu đỉnh”… trong Đại Nội đầu thế kỷ XIX đều do những người thợ ở phường đúc Dương Xuân – Huế làm. Điều “tương truyền” này hoàn toàn đáng tin vì Dương Xuân là một trung tâm đúc đồng duy nhất ở Huế và cả khu vực Đàng Trong lúc đó, đã từng nổi tiếng một thời (Hồ Vĩnh 1990). Như vậy có thể nghĩ rằng, những người thợ ở phường đúc Dương Xuân – Huế là chủ nhân đúc những sản phẩm nghệ thuật bằng đồng nổi tiếng đó, mà Cửu đỉnh là một trong những tác phẩm đặc sặc thể hiện rõ nét trình độ kỹ thuật, cũng như tài năng thể hiện của họ. Có thể khẳng định rằng, Cửu đỉnh Huế là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, có giá trị cao về mặt văn hóa và lịch sử của dân tộc Việt Nam,từ cách tạo dáng đến các hình chạm nổi trang trí vẽ đẹp bên ngoài vốn có của nó, mà còn chứa đựng những nội dung tư tưởng của một thời đại, tâm tư và ý niệm của con người về đất nước, về vũ trụ và thiên nhiên. Với óc thẩm mỹ tinh tế, sự sáng tạo cộng với trình độ kỹ thuật cao, các nghệ nhân đúc đồng đã biểu đạt thành công và xuất sắc nhãn quan qua tác phẩm của mình. Cái tài của người xưa là đúc 9 chiếc đỉnh vừa to cao sừng sững, nặng vững vẫn thanh thoát không vết nẻ chút nào, vừa thống nhất trong tổng thể lại rất đa dạng, phong phú trong mỗi chi tiết! Chính sự đa dạng trong cái hài hòa ấy đã tôn thêm giá trị nghệ thuật của tác phẩm và trình độ nghệ thuật của người xưa. [h=2]Các Điểm Tham Quan Du Lịch Của Vùng[/h] Huế – Di sản văn hoá Thế giới
Đặc điểm: Tại phiên họp lần thứ 17 của Uỷ ban Di sản thế giới (DSTG) từ ngày 6 đến 11/12/1993, UNESCO đã quyết định công nhận quần thể Di tích Huế là tài sản văn hoá chung của nhân loại
Ngày 2/8/1994, lễ trao văn bản công nhận đã được tổ chức trọng thể tại Hoàng cung Huế. Một sự kiện trọng đại trong lịch sử văn hoá Việt Nam, tài sản đầu tiên của Việt Nam được ghi tên vào danh mục Di sản thế giới, khẳng định giá trị mang tính toàn cầu của quần thể di tích Huế.
Trong biên bản phiên họp lần thứ 17, Uỷ ban Di sản Thế giới đã ghi về di sản Cố đô Huế như sau:
“Quần thể Di tích Huế là kinh đô của nước Việt Nam thống nhất được xây dựng vào đầu thế kỷ 19. Nó kết hợp triết lý Đông Phương và truyền thống Việt Nam. Được hoà quyện vào môi trường thiên nhiên, vẻ đẹp và sự phong phú đặc biệt của kiến trúc và trang trí ở các toà nhà là một phản ánh độc đáo của đế chế Việt Nam ngày xưa vào thời cực thịnh của nó”.
Quần thể Di tích Huế trở thành Di sản Văn hoá Thế giới đã góp phần tích cực và xứng đáng trong việc đem lại vận hội mới cho ngành du lịch Thừa Thiên Huế nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung. Sức hấp dẫn của một công trình dẫu được ca ngợi bằng bao ngôn từ đẹp đẽ cũng không thể thay thế cho một lần đến chiêm ngưỡng. Bạn hãy một lần đến Huế để được tận mắt chứng kiến thành quả lao động của con người trên từng chi tiết chạm khắc hay những công trình đồ sộ đứng đó với thời gian hàng trăm năm.
Đồi Vọng Cảnh
Vị trí: Đồi Vọng Cảnh thuộc Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế, cách trung tâm Tp. Huế khoảng 7km.
Đặc điểm: Đứng trên Đồi Vọng Cảnh có thể nhìn thấy được phong cảnh nên thơ của Tp. Huế, đặc biệt là khu lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn
Bãi biển Thuận An
Vị trí: Bãi biển Thuận An thuộc thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đặc điểm: Thuận An là nơi tắm biển thú vị cho du khách sau một ngày tham quan kinh thành, lăng tẩm, chùa chiền, phong cảnh ở Huế.
Bãi biển Thuận An nằm bên cạnh cửa biển Thuận An, nơi dòng sông Hương đổ ra phá Tam Giang rồi thông ra biển. Bãi biển cách Tp. Huế 15km và du khách có thể đi đến đó bằng ô tô.
Chuyến đi bằng ô tô vừa nhanh và thú vị với một bên là cảnh dòng sông còn bên kia là quang cảnh nhà cửa, am miếu, đền chùa và những cánh đồng lúa.
Thuận An là nơi thu hút rất đông người dân xứ Huế về hóng mát và tắm biển vào dịp hè. Thời kỳ tấp nập nhất ở đây thường kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9 lúc tiết trời nóng bức nhất.
Ngoài ra du khách có thể đến tham quan miếu Thái Dương ở gần đó với sự tích nữ thần Thái Dương được dân làng hết sức sùng bái, hoặc thăm miếu Âm Linh thờ thần cá voi, con vật linh thiêng của dân miền biển.
Bãi biển Lăng Cô
Vị trí: Bãi biển Lăng Cô dài khoảng 10km, thuộc thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế, nằm cạnh đường quốc lộ 1A, gần đèo Hải Vân.
Đặc điểm: Với bờ biển thoải, cát trắng, nước biển trong xanh, và nhiệt độ trung bình khoảng 25 độ vào mùa hè, Lăng Cô là nơi lý tưởng cho những ai đam mê tắm biển.
Ngoài việc tận hưởng những món ăn hải sản tuyệt vời, du khách có thể đến thăm thắng cảnh Chân Mây và làng chài Lăng Cô gần bãi biển.
Sông Hương
Vị trí: Dòng sông thơ mộng chảy qua Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Đặc điểm: Sông Hương đẹp từ nguồn, uốn lượn quanh co giữa núi rừng, đồi cây mang theo những mùi vị hương thơm của thảo mộc rừng nhiệt đới.
Sông Hương có hai ngọn nguồn. Nguồn tả trạch xuất phát từ dãy núi Trường Sơn chảy về hướng tây bắc qua 55 ngọn thác hùng vĩ, rồi từ từ chảy qua ngã ba Bằng Lãng; nguồn Hữu Trạch ngắn hơn sau khi vượt 14 ngọn thác hiểm trở và qua bến đò Tuần thì đến ngã ba Bằng Lãng hợp dòng với Tả Trạch thành sông Hương thơ mộng. Sông Hương dài 30km nếu chỉ kể từ Bằng Lãng đến cửa Thuận An, độ dốc của dòng nước so với mặt biển không chênh lệch nhiều nên nước sông chảy chậm.
Sắc nước sông Hương trở nên xanh hơn khi vượt qua chân núi Ngọc Trản – điện Hòn Chén, tạo nên một lòng vực sâu thẳm.
Sông Hương đẹp từ nguồn, uốn lượn quanh co giữa núi rừng, đồi cây mang theo những mùi vị hương thơm của thảo mộc rừng nhiệt đới. Dòng sông chầm chậm lướt qua các làng mạc xanh tươi, rợp bóng cây của Kim Long, Nguyệt Biều, Vĩ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, Chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh, quyện theo mùi thơm của các loài hoa xứ Huế. Dòng sông xanh trong vắt lung linh như ngọc bích dưới ánh mặt trời, những con thuyền Huế xuôi ngược, dọc ngang với điệu hò man mác, trầm tư, sâu lắng giữa đêm khuya. Đi chơi bằng thuyền để được ngắm cảnh Hương Giang thơ mộng, nghe những điệu hò, dân ca xứ Huế lúc trời đêm thanh vắng là thú vui muôn thuở của bao lớp du khách…
Quang cảnh đôi bờ sông, nào thành quách, phố xá, vườn cây, chùa tháp… bóng lồng mặt nước phản chiếu lung linh làm cho dòng sông đã yêu kiều càng nên thơ, nên nhạc. Nhiều người nghĩ rằng sở dĩ Huế có được cái êm đềm, dịu dàng, yên tĩnh phần lớn là nhờ sông Hương, dòng sông xanh đã đem lại cho thành phố cái chất thơ trầm lắng, cái trong sáng hài hoà toả ra từ vùng đất có chiều sâu văn hiến.
Núi Ngự Bình
Vị trí: Núi Ngự Bình thuộc Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế, cách kinh thành Huế khoảng 3km
Đặc điểm: Ngự Bình có dạng hình thang, đỉnh bằng phẳng, có thế bình phong che chở cho kinh thành Huế.
Sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn viết “Phía Đông bắc Hương Thuỷ, nổi vọt lên ở quãng đất bằng” như hình bức bình phong làm lớp án thứ nhất trước kinh thành Huế, tục gọi là núi Bằng, đời Gia Long đặt cho tên hiện nay (Ngự Bình), đỉnh núi bằng phẳng, khắp nơi trồng thông”
Núi Ngự Bình cao 105m, dáng cân đối, uy nghi. Hai bên Bằng Sơn có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Vương triều Nguyễn được thành lập, quyết định xây dựng kinh thành Huế, thấy Bằng Sơn như một bức bình phong án ngữ trước mặt, Gia Long chấp nhận đồ án của các thầy địa lý: chọn núi này làm tiền án của hệ thống phòng thành đồ sộ, kiên cố và đổi tên cho ngọn núi này là Ngự Bình.
Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình là quà tặng vô giá thứ hai của tạo hoá, quyện vào nhau tạo nên vẻ sơn thuỷ hữu tình của Huế. Từ lâu, ngọn núi xinh đẹp này cùng với sông Hương trong xanh đã trở thành biểu tượng của thiên nhiên Huế. Người ta quen gọi Huế là xứ sở của sông Hương núi Ngự, miền Hương Ngự cũng vì vậy.
Từ bao thế hệ, lớp lớp tao nhân mặc khách từng coi đây là chốn thưởng ngoạn thiên nhiên kỳ thú. Vào những ngày đẹp trời, đứng trên đỉnh Ngự Bình, có thể thu vào tầm mắt toàn cảnh thành phố với cung điện nguy nga, mái chùa cổ kính và dòng sông Hương xanh biếc uốn lượn quanh co. Ngay trước tầm mắt là các khu đồi, là rừng thông bát ngát tiếp đến một vùng đồng bằng rộng lớn của các huyện: Hương Thuỷ, Phú Vang, Hương Trà cỏ cây xanh rờn… xa hơn là dãy Trường Sơn trùng điệp một màu tím thẫm ẩn hiện sau những tầng mây bạc. Nhìn về phía đông, dải cát trắng mờ phía xa cửa Thuận An với màu xanh thăm thẳm của biển Đông…
Cách núi Ngự Bình vài cây số là đồi Vọng Cảnh, một danh thắng khác của Huế, đứng soi bóng duyên dáng bên dòng sông Hương, nhìn qua núi Ngọc Trản. Từ đồi Vọng Cảnh có thể nhìn thấy những khu vườn cây ăn quả mướt xanh của cau, nhãn , cam, quýt, thanh trà,… chen lẫn bóng thông, những mái nhà ngói xám của đền chùa, lăng tẩm cổ kính, trầm mặc…. Sông Hương như một dải lụa mềm uốn quanh dưới chân đồi… Du khách có dịp đến đây vào buổi bình minh sương tan hay lúc hoàng hôn, mới hiểu hết và thấm thía vẻ đẹp nên thơ, nên họa của một ngọn đồi, một khúc sông, một góc trời xứ Huế.
Vườn Quốc Gia Bạch Mã
Vị trí: Vườn Quốc gia Bạch Mã thuộc địa phận 2 huyện, huyện Phú Lộc và huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên – Huế, cách Tp. Huế 60km về phía nam.
Đặc điểm: Vườn Quốc gia Bạch Mã có cảnh quan thiên nhiên đẹp và khí hậu rất trong lành.
Vườn Quốc gia Bạch Mã được thành lập ngày 15/7/1991 với tổng diện tích tự nhiên 22.031ha.
Khí hậu ở đây gần giống Đà Lạt, Sa Pa, Tam Đảo, nhưng do Bạch Mã ở gần biển, nên nhiệt độ mùa đông không bao giờ xuống dưới 4ºC và nhiệt độ cao nhất vào mùa hè ít khi vượt quá 26ºC. Khí hậu của Bạch Mã được các chuyên gia nước ngoài đánh giá là một trong những vùng khí hậu dễ chịu nhất của những nơi nghỉ trên vùng núi Đông Dương.
Đỉnh Bạch Mã cao 1.450m, cách bờ biển 10km đường chim bay, quanh năm mây phủ. Từ Tp. Huế đi về phía nam 40km theo quốc lộ 1A đến thị trấn Cầu Hai (huyện Phú Lộc), rẽ phải, đi tiếp 19km bạn sẽ đến khu Vườn Quốc gia Bạch Mã. Đường ô tô ngoằn ngoèo, vượt qua nhiều đoạn dốc cao sẽ đưa du khách lên tới tận đỉnh Bạch Mã. Từ đây, du khách có thể ngắm nhìn một khung trời lồng lộng, những dãy núi trùng điệp, đỉnh núi nhấp nhô bắt mắt tới tận đầm Cầu Hai, cửa Tư Hiền, vụng Chân Mây sát bờ biển Đông.
Vườn Quốc gia Bạch Mã còn giữ được hầu như nguyên vẹn những thảm thực vật phong phú và những cánh rừng nguyên sinh bát ngát. Trong tổng số 22.031ha diện tích tự nhiên, có tới 16.900ha rừng che phủ. Rừng có các loại gỗ quý như trò chỉ, kiền, giẻ hương, gõ, tùng…, nhiều cây đường kính 80 – 100cm. Hệ thực vật phong phú và đa dạng, có tới 1.406 loài. Bạch Mã còn có trên 300 loài cây thuốc nam: cây ba gạc chữa huyết áp cao, cây bình vôi chữa bệnh an thần, lá khôi đặc trị dạ dày, loài cây 7 lá 1 hoa chữa bệnh rắn cắn và chấn thương…
Hệ động vật ở Bạch Mã có tới 931 loài bao gồm: 83 loài thú, 333 loài chim, 31 loài bò sát, 21 loài ếch nhái, 39 loài cá, 218 loài bướm, 178 loài côn trùng cánh cứng ăn lá, 28 loài mối. Có những loại thú hiếm còn tồn tại như gấu, báo, hổ, sao la… Đặc biệt Bạch Mã là nơi cư trú của loài chim quý như trĩ sao (cả đuôi dài tới 2m, cao tới 4.050cm) và gà lôi lam mào trắng.
Vườn Quốc gia Bạch Mã có cảnh quan thiên nhiên đẹp và khí hậu rất trong lành. Đây là tài nguyên du lịch sinh thái quí nhất của khu vực Bạch Mã. Đến với Vườn Quốc gia Bạch Mã, du khách sẽ có dịp khám phá nhiều đường mòn thiên nhiên kỳ ảo như: đường mòn Trĩ Sao, đường mòn thác Đỗ Quyên, đường mòn thác Ngũ Hồ, đường mòn Hải Vọng Đài. Du khách cũng có thể thấy những tòa nhà đổ nát được xây dựng bằng đá Granit với kiến trúc Pháp cổ nằm rải rác trên đỉnh núi và các triền núi xung quanh. Đó là dấu tích của khu biệt thự và khách sạn do kỹ sư người Pháp M. Girard phụ trách xây dựng năm 1932 với ý định biến nơi đây thành khu nghỉ mát trong cảnh quan thiên nhiên hoang sơ và xinh đẹp. Tại đây đã phục hồi được hai biệt thự cổ thời Pháp ở khu trung tâm đỉnh Bạch Mã để làm trạm nghiên cứu bảo vệ và là nơi đón tiếp, lưu trú của khách. Hệ thống dịch vụ, vận chuyển tại vườn có thể đáp ứng nhu cầu ăn nghỉ và tham quan của du khách.
Bán đảo Sơn Trà
Vị trí: Bán đảo Sơn Trà thuộc địa phận quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố 13km.
Đặc điểm: Bán đảo Sơn Trà có các bãi biển đẹp gần như còn nguyên sơ, nước trong xanh, cát trắng mịn, sạch và rừng nguyên sinh với hệ động thực vật phong phú.
Ven biển của bán đảo Sơn Trà có nhiều bãi cát đẹp, trong đó có một số bãi tắm nổi tiếng như bãi Bắc (phía bắc bán đảo), bãi Nam và bãi Bụt (phía nam bán đảo). Sau lưng các bãi tắm này là rừng nguyên sinh với hệ động thực vật rất phong phú, nhiều loài vật, cây cối thuộc loại quý hiếm như loài vượn má đỏ, vích đã được đưa vào danh sách đỏ. Dưới các bãi biển này là các rặng san hô lớn và tuyệt đẹp, rất thuận lợi cho việc phát triển các loại hình du lịch lặn. Hiện nay, thành phố đang đầu tư tại đây khu du lịch Bãi Bụt với những ngôi nhà nghỉ trên sườn núi, ven biển; các loại hình du lịch lặn, và trong tương lai sẽ xây dựng một trung tâm hải dương học đồng thời phát triển thành một khu du lịch lớn với đầy đủ các loại hình dịch vụ phục vụ du khách.
Du khách đến đây sẽ có dịp tận hưởng không khí trong lành, cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, câu cá, câu mực,săn tôm hùm, tìm hiểu đời sống cư dân địa phương…Đến Đà Nẵng là cơ hội để khám phá bán đảo Sơn Trà với bao điều mới lạ.
Bãi biển Nam Ô
Vị trí: Bãi tắm Nam Ô thuộc địa phận phường Hòa Hiệp, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố 17km về phía tây bắc.
Đặc điểm: Bãi tắm Nam Ô có độ dốc vừa phải, ven theo chân núi, phong cảnh sơn thủy rất hữu tình.
Theo người địa phương, tên gọi Nam Ô có nghĩa là ở phía Nam của châu Ô xưa. Bãi tắm Nam Ô có từ những năm đầu thập kỷ 60, chủ yếu thỏa mãn nhu cầu của người dân địa phương. Bãi tắm có một số hàng quán xây dựng theo kiểu nhà sàn phục vụ du khách.
Từ bãi tắm Nam Ô, du khách có thể làm một chuyến du lịch nhỏ lên lưng chừng núi về bán đảo Sơn Trà và thành phố Đà Nẵng hoặc dùng thuyền ngược về hướng Tây theo dòng sông Cu Đê, thực hiện một tour du lịch sinh thái, thăm một làng dân tộc Kà-Tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang.
Cù lao Chàm
Vị trí: Cù Lao Chàm thuộc xã Tân Hiệp, cách thị xã Hội An gần 20km về phía biển Đông.
Đặc điểm: Quần đảo Cù Lao Chàm gồm 8 hòn đảo: hòn Lao (đảo lớn nhất, đông dân nhất), hòn Khô Mẹ, hòn Khô Con, hòn Tai, hòn Dài, hòn Lá, hòn Mồ và hòn Ông.
Các nhà khảo cổ cho rằng cách đây 3.000 năm, Cù Lao Chàm đã có cư dân sinh sống. 1.000 năm trước đã có sự giao lưu buôn bán với nước ngoài. Trên đảo còn có một số di tích cổ như chùa Hải Tạng được xây dựng năm 1758 thờ Phật, miếu thờ Thần Yến Sào (năm 1843), giếng nước cổ của người Chăm. Cù Lao Chàm còn có nhiều cảnh đẹp thơ mộng, những bãi tắm cát trắng hoang sơ với nước biển xanh: bãi Ông, bãi Bìm, bãi Chồng, bãi Bấc; cùng các địa danh gợi trí tò mò: suối tình, cầu Mơ, suối Ông; nơi du khách nghỉ ngơi thư giãn hay săn thú, câu cá, câu mực trên biển. Đến đây du khách cũng có dịp xem những tổ yến bám trên các vách đá chênh vênh. Cù Lao Chàm còn nổi tiếng với hải sản quí như mực, tôm hùm, vây cá, bào ngư, cá hồng, cá mú, trứng vích, yến sào… những vật lưu niệm hấp dẫn như ngọc trai, ốc xà cừ, đồi mồi, san hô… Chủ đề : Danh lam thắng cảnh ở Vũng Tàu
--------------------------------------------------​
Thành phố Vũng Tàu hiện nay là trung tâm du lịch lớn của Việt
Nam. Ở đây du khách có thể tắm biển, leo núi, bách bộ, tham quan các di
tích, danh lam thắng cảnh ở các nơi như: Linh Sơn Cổ Tự, Thích Ca Phật
Đài, Suối Tiên, Tổ đình Thiên Thai & thắng cảnh Dinh Cố, Rừng nguyên
sinh - suối nước nóng Bình Châu, nhà tưởng niệm anh hùng Võ Thị Sáu,
Bãi Sau, Bãi Trước,…


Rừng nguyên sinh - suối nước nóng Bình Châu

Rừng Bình Châu - Phước Bửu là khu rừng nguyên sinh ven biển duy nhất còn
lại tương đối nguyên vẹn của Việt Nam. Rừng trải dài ven biển khoảng
15km, thuộc địa phận huyện Xuyên Mộc, với diện tích 11.293ha.

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image013.jpg


Địa hình rừng Bình Châu - Phước Bửu tương đối bằng phẳng. Ở phía Tây có
một vài ngọn núi cao từ 100 đến 150m và những quả đồi thoai thoải xen
lẫn với những bàu nước ngọt tự nhiên. Các bàu, hồ nước ngọt hoang sơ ven
biển, như hồ Cốc, hồ Tràm, hồ Linh, bàu Bàng, bàu Nhám ngày nay được
xây dựng thành những điểm tham quan du lịch, tắm biển nổi tiếng của
huyện Xuyên Mộc.

Thảm thực vật của rừng nguyên sinh Bình Châu - Phước Bửu rất phong
phú, gồm 113 họ, 408 chi, 661 loài, trong đó có nhiều loài rất quý hiếm.
Động vật cũng rất đa dạng, có 70 họ, 29 bộ, 178 loài, trong đó 96 loài
chim, 33 loài bò sát…

Nằm lộ thiên giữa khu rừng nguyên sinh Bình Châu là suối nước nóng.

Suối nước nóng Bình Châu do người Pháp phát hiện năm 1905, gọi là
suối khoáng nóng Cù Mi (tên làng của đồng bào dân tộc Châuro). Năm 1928,
trên tạp chí "Nghiên cứu Đông Dương" (BSEI) bác sĩ người Pháp Albert
Sallet đã giới thiệu về Mạch Cù Mi. Đó là thời điểm suối nước nóng Bình
Châu được nhiều người biết tới.

Vùng có mạch nước nóng thoát lên mặt đất rộng chừng 1km2, tạo thành
những cái hồ nước sôi lớn nhỏ, luôn luôn có bọt tăm như nồi nước chuẩn
bị sôi. Điểm nóng nhất nhiệt độ lên tới 830C. Tuy nhiệt độ cao như vậy,
nhưng xung quanh các hồ nước cây cỏ vẫn sinh trưởng, xanh tươi.

Đến với suối nước nóng Bình Châu, du khách không chỉ được thưởng
ngoạn sự kỳ thú của thiên nhiên mà còn được tắm nước khoáng chữa bệnh
cùng những dịch vụ chu đáo của Công ty.

Từ ngày 9-8-1986, rừng Bình Châu - Phước Bửu được Chính phủ đưa vào danh mục rừng cấm quốc gia.


Tượng chúa Jesus

Tượng Chúa Ki tô tọa lạc cực Nam núi Nhỏ, trên độ cao 170m so với mực
nước biển. Từ xa du khách đã có thể thấy bức tượng trắng xóa trên nền
trời xanh. Tượng Chúa Ki tô do Giáo hội Thiên Chúa giáo xây dựng năm
1974. Sau một thời gian tạm ngừng, năm 1993, những công trình phụ như
bậc tam cấp, các được nét được hoàn thiện. Tượng Chúa Ki tô quay mặt về
hướng Nam, nhìn ra biển, nét mặt bao dung, nhân từ. Tượng cao 32m, sải
tay dài 18,4m, hai bàn tay tượng dài 2,2m, ngón giữa dài 1m, xung quanh
đầu tượng có 9 tia hào quang làm bằng kim loại vừa trang trí, vừa thu
lôi.

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image014.jpg


Bên trong tượng có có cầu thang xoắn ốc, gồm 133 bậc. Ánh sáng chiếu vào
lòng tượng qua hệ thống cửa sổ chữ "Thọ" mang phong cách Á Đông. Hai
tay áo như hai ban công an toàn để du khách có thể đón gió và ngắm nhìn
toàn cảnh Vũng Tàu từ độ cao hơn 200m.

Bên trong tượng có có cầu thang xoắn ốc, gồm 133 bậc. Ánh sáng chiếu
vào lòng tượng qua hệ thống cửa sổ chữ "Thọ" mang phong cách Á Đông. Hai
tay áo như hai ban công an toàn để du khách có thể đón gió và ngắm nhìn
toàn cảnh Vũng Tàu từ độ cao hơn 200m.

Tượng Chúa Ki tô được xây dựng trên bệ bê tông có 4 góc hình cánh
cung, cao 10m, dài 12m. Phía trước bệ trang trí bức phù điêu phỏng theo
tác phẩm "Bữa tiệc li biệt" của danh họa Léonard de Vinci, phía sau là
bức tranh phỏng theo tác phẩm "Đức Chúa trao chìa khóa cho Phêrô". Mặc
dù làm bằng bê tông, bên ngoài tô đá rửa, nhưng những đường nét nghệ
thuật, cách thể hiện hết sức mềm mại và sinh động. Sự kết hợp hài hòa
giữa cảnh quan thiên nhiên và nghệ thuật cổ điển tôn giáo với bản sắc
văn hóa dân tộc đã tạo cho Tượng Chúa Ki tô núi Nhỏ Vũng Tàu thực sự là
một tác phẩm nghệ thuật tôn giáo tầm cở của khu vực. Giới kiến trúc
trong nước cho rằng đây là bức Tượng Chúa Ki tô cao nhất thế giới, hơn
cả bức Tượng Chúa Ki tô ở Rio de Janeiro (Brazin) vốn do hai Giáo hội
của hai quốc gia Brazin và Argentina hợp tác xây dựng (cao 26m, sải tay
dài 10m), trên một ngọn núi có ảnh quan tựa núi Nhỏ Vũng Tàu.

Sự đánh giá trên đây của giới chuyên môn đưa lại hiểu biết như thế nào
cho mọi người khi mà hiện nay trên các phương tiện thông tin đại chúng
và tài liệu vẫn nói tới Tượng Chúa Ki tô ở Rio de Janeiroỉơ Brazin mới
là bức tượng Đức Chúa trời cao nhất thế giới?


Thắng cảnh Bàu Sen

Khu nghỉ mát Bàu Sen nằm cách thị xã Bà Rịa 30km về phía Bắc nằm trong một trong những khu rừng lịch sử phía Nam

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image015.gif


Rừng Bàu Sen mọc trên vùng sình lầy quanh năm ngập nước, với diện tích
120ha (dài 3000m rộng 400m) độ sâu trung bình 3,5m, được cung cấp nước
bởi con suối Tầm Bó bắt nguồn từ Cẩm Mỹ rừng Bàu Sen có hệ sinh thái hết
sức đa dạng với nhiều loài động thực vật quý hiếm như: bời lời, dầu
nước, sao mây, các cây họ tre; các loài thủy đặc sản: cá, cua, ốc,
lươn...

Ngoài giá trị du lịch sinh thái, nơi đây còn được coi là di tích lịch sử với khu căn cứ Bàu Sen nổi tiếng.


Di Tích Núi Dinh

C:%5CDOCUME%7E1%5CTrHai%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image016.gif


Đặc điểm: Núi Dinh nằm trên địa bàn huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. . Vị trí: Núi Dinh nằm trên địa bàn huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Đặc điểm: Đây là một quần thể núi non và cây xanh ngút ngàn với những am, chùa, cốc, miếu độc đáo nằm ven các con suối.

Núi Dinh có độ cao khoảng 500m với tổng diện tích toàn khu vực gần 60km² được xem là ngọn núi cao và độc đáo nhất của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Từ trên đỉnh núi Dinh, dòng Suối Tiên tuyệt đẹp uốn lượn, lúc là
những thác nước nhỏ róc rách, lúc phình to thành hồ nước phẳng lặng,
trong xanh. Đi ngược dòng, cảnh vật càng lên cao càng đẹp như muốn lôi
cuốn bước chân du khách lên cao, lên cao mãi. Bờ suối có khi là thảm
cỏ mượt mà xanh, có khi là cây cổ thụ tỏa bóng xum xuê với bộ rễ chằng
chịt, có khi là vạt hoa rừng trinh nguyên soi mình bên suối, có khi
là những tảng đá hình thù kỳ lạ như tảng đá hình đầu rắn, mẹ bồng con,
hổ phục... đứng giữa mênh mông núi đồi, người ta bỗng nhiên thấy mình
nhỏ bé, bỗng nhiên có cảm giác choáng ngợp, ngất ngây đến diệu kỳ.

Ẩn hiện theo sườn núi là những ngôi chùa, trong đó phải kể đến nhiều
ngôi chùa có giá trị về tôn giáo và nghệ thuật như chùa Hang, chùa đại
Tùng Lâm, chùa Tây Phương... Ngồi dưới bóng mát ven suối, nghe tiếng
nước chảy róc rách, tiếng chim rừng líu lo, tiếng kinh, tiếng chuông mõ
văng vẳng vọng lại, tâm hồn du khách sẽ lâng lâng một cảm giác thư
thái, bình an đến lạ kỳ



TỈNH BÌNH THUẬN
Cách thành phố Hồ Chí Minh 188 km, phía Bắc và Đông Bắc giáp Ninh Thuận, Tây Bắc giáp Lâm Đồng, Tây Nam giáp Đồng Nai, Đông và Đông Nam giáp biển, Tây Nam giáp Bà Rịa-Vũng Tàu.
- Diện tích tự nhiên: 7.854 km mét vuông.
- Dân số: 1.090.000 người. Nhiều dân tộc, đa số là dân tộc Kinh chiếm 80%, số còn lại là dân tộc, Chăm, Hoa, K'Ho...
- Đơn vị hành chính: Thành phố Phan Thiết và 8 huyện: Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân, Đức Linh, Tánh Linh và huyện đảo Phú Quý.
-Địa hình: Thuộc phần cuối dãy núi Trường Sơn cao hơn 1.000m đâm ra biển, độ dốc cao. Có sông La Ngà và 6 con sông nhỏ. Đất canh tác chiếm 1/7 tổng diện tích. Ven biển nhiều đồi cát và ngập mặn.
- Khí hậu: Thuộc khu vực khô hạn nhất cả nước, lượng mưa ít, trung bình 1.000 đến 1.600 mm/năm (bằng 1/2 lượng mưa trung bình ở Nam Bộ). Nhiệt độ trung bình 27 độ C. Độ ẩm trung bình 80%.
- Công trình lớn quốc gia: Cụm thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi công suất 476 Mw/h.

Cây Thanh Long
Cây thanh long có tên tiếng Anh là Ritahaya hay còn gọi là Dragon Fruit thuộc họ xương rồng ở Việt Nam từ lâu, nhưng mới được đưa lên thành hàng hóa trong vài năm gần đây, Việt Nam hiện nay là nước duy nhất ở Đông Nam Á có trồng Thanh Long tương đối tập trung trên quy mô thương mại với diện tích ước tính khoảng 2.000 ha trong đó Bình Thuận chiếm 1.000 ha. Cây Thanh Long là cây có nguồn gốc nhiệt đới, chịu hạn giỏi nên được trồng ở những vùng nóng. Đặc biệt cây Thanh Long có hiện tượng rụng nụ, khi số lượng nụ trên cành nhiều sau khi xuất hiện từ 5->7 ngày thì nụ không phát triển vàng rồi rụng. Tỷ lệ rụng từ 10->20%, đặc biệt nhất ở cây này có vòng chín 3 lần. Từ xanh sang đỏ, từ đỏ sang xanh, từ xanh sang đỏ sậm đến lần chín thứ 3 là lần chín cuối cùng và là lần ngon nhất của trái Thanh Long nhưng làm vậy cây sẽ mất sức nên nhà vườn chỉ để chín lần 2 là bán ra thị trường. Hiện nay trái thanh long còn được xuất khẩu sang các thị trường các nước như: Đài Loan, Singapore, HongKong, Nhật Bản…. Và các nước Châu Au.
Quả của nó 3 dạng, tất cả đều có vỏ giống như da và có một chút lá. Chúng có tên gọi khoa học như sau:
Hylocereus undatus thuộc chi Hylocereus, ruột trắng với vỏ hồng hay đỏ.
Hylocereus polyrhizus thuộc chi Hylocereus, ruột đỏ với vỏ hồng hay đỏ.
Selenicereus megalanthus thụôc chi Selenicereus, ruột trắng với vỏ vàng.
Các hạt giống như hạt vừng đen nằm lẫn lộn trong ruột. Lớp cùi thịt trong ruột thường được ăn dưới dạng quả tươi, có mùi vị thơm dịu, ngọt vừa phải và ít cung cấp calo. Quả có thể chế biến thành nước quả hay rượu vang, hoa có thể ăn hay ngâm vào nước giống như chè. Mặc dù các hạt bé tí xíu của chúng được ăn với thịt của ruột quả nhưng chúng không bị tiêu hoá.
Loại này được trồng phổ biến ở các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ nhưng thương hiệu nổi tiếng nhất là ở Bình Thuận. Loại thanh long này sinh trưởng và phát triển tốt ở những nơi có cường độ ánh sáng cao và toàn phần. Được trồng trên nhiều loại đất khác nhau như: đất xám bạc màu, đất phèn…nhưng muốn có năng suất cao đất phải có tầng canh tác tối thiểu từ 30 – 50 cm.
Thanh long cần bám vào cây trụ, do đó phải chuẩn bị cây trụ trước khi đặt hom giống. Có thể dùng trụ bằng gỗ hay xi măng cốt thép. Tuy nhiên nếu dùng trụ ximăng cần chú ý vào mùa nắng trụ hấp thụ nhiệt rất mạnh, dễ làm đứt các rễ khí sinh của thanh long, nên dùng rơm rạ, lá chuối hay bao tải bao một lớp mỏng xung quanh trụ để giảm bớt hấp thụ nhiệt và tưới lên trụ vào sáng sớm hay chiều tối. Trồng trụ trước khi đặt hom một tháng, chiều cao trụ khoảng 1,7 – 2,2 m, phần chôn sâu từ 0,5 – 0,7 m, đường kính trụ 15 – 20 cm ( trụ ximăng mỗi canh khoảng 12 – 15 cm ). Trồng trụ thẳng, trên đầu trụ đóng thêm giá đỡ hình chữ (+) hoặc đóng nẹp hai bên mép trụ giúp thanh long có chỗ bám trên đầu trụ, cành thanh long sẽ rũ xuống.

Thành phố Phan Thiết

Cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 200 km, được thành lập 20/10/1998. Thành phố Phan Thiết nằm ở hai bên sông Cà Ty. Ngày 25/8/1999 Phan Thiết được nâng cấp từ thị xã lên thành phố.
Bên hữu ngạn là khu di tích trường Dục thanh và phân viện bảo tàng Hồ Chí Minh với tượng đài Bác nhìn ra dòng sông. Phan Thiết gắn liền với những địa danh như Lầu Ông Hoàng, Tháp Pô Shanư, những rặng dừa xanh ngút, những đồi cát vàng óng…
Với vùng biển trải dài, Phan Thiết gắn liền với ngành kinh tế biển góp phần làm giàu cho đất nước. Vịnh Phan Thiết tương đối kín gió lại nằm trên dòng hải lưu nóng lạnh tạo nên nguồn hải sản phong phú. Ngày nay đến với Phan Thiết chúng ta sẽ thấy được những khu nghỉ mát rất đẹp, những điểm tham quan ngày càng mới mẻ… đã góp phần cho Phan Thiết trở thành điểm thu hút khách du lịch.
Nghề muối
Hiện nay sản lượng muối của Việt Nam khoảng 680.000 tấn /năm, trong đó có khoảng 350.000 tấn muối ăn và 275.000 tấn muối công nghiệp, đáp ứng được nhu cầu muối ăn, nhưng vẫn phải nhập số lượng lớn muối công nghiệp. Năm 1996 nước ta phải nhập khẩu hơn 5.000 tấn muối công nghiệp và năm 1997 nhập khẩu đến 70.000 tấn: nguyên nhân thiếu hụt muối công nghiệp là do công nghệ sản xuất thấp kém nên chất lượng muối ăn và muối công nghiệp đều thấp so với tiêu chuẩn quốc tế.
Đầu tư vào nghề muối tuy vất vả và cực nhọc, nhưng tiêu thụ muối còn khó khăn hơn. Thiếu vốn, thiếu nơi tích trữ và phương tiện vận chuyển, mạng lưới thu mua muối của quốc doanh kém hiệu quả, khiến tư thương ép giá, dìm giá muối.
Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch phát triển ngành muối đến năm 2010, dự kiến sản xuất 6 triệu tấn muối vào năm 2009.
Nước mắm Phan Thiết
Nước mắm Phan Thiết từ lâu được xem là thứ nước chấm ngon. Đi dọc trên đường chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy những chiếc lu đựng nước mắm, thời gian càng lâu nước mắm càng ngon. Xưa kia nước mắm Phan Thiết được vận chuyển theo ghe bầu vào cung ứng cho thị trường Nam Bộ và đồng bào phía Nam.
Nghề cá Phan Thiết
Vùng biển Phan Thiết trải dài từ 10 độ 45 đến vĩ Bắc, vùng nội thuỷ kéo dài từ bờ biển ra đường cơ sở thẳng trên dưới 100km, chưa kể ranh giới lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của nước Việt Nam nằm trước vịnh Phan Thiết, còn kéo dài thêm gấp 3 lần vùng nộ thuỷ nói trên. Do đó, người ta xác định rằng chẳng những từ trước mà từ nay mãi về sau Phan Thiết luôn gắn liền với ngành kinh tế biển góp phần làm giàu cho đất nước. Vịnh Phan Thiết nông, tương đối kín gió, hằng năm cây lá mục và lượng phù sa do hai con sông Mương Mán và sông Quao đổ ra cửa biển Phan Thiết, Phú Hài cung cấp đều đặn lượng cát lẫn bùn, nhờ đó nước biển thêm chất màu thích hợp cho phù sinh vật sinh sôi phát triển làm mồi cho các loại moi ruốc… các loại tôm, cua, ốc, cá tầng đáy cũng như các loại cá nổi, cá tầng giữa luôn có nguồn thức ăn để ổn định môi trường sinh trưởng.
Vịnh Phan Thiết lại nằm trên dòng hải lưu nóng lạnh mà thiên nhiên đã ưu đãi cho bờ biển Việt Nam. Mùa đông dòng hải lưu đưa luồng nước từ đông bắc xuống tây nam vào mùa hè ngược lại. Chính dòng hải lưu mùa hè đã quyến rũ những đàn cá từ Vịnh Thái Lan đến biển Việt Nam tìm mồi. Trong quá trình di trú lần theo hướng đông bắc đến vịnh Phan Thiết gặp mồi nhiều biển êm, đàn cá tụ họp sinh sản.
Với nguồn hải sản phong phú, đi đôi với thời tiết thuận lợi ngư dân có thể bám biển quanh năm với các loại nghề thích hợp. Nếu Bình Thuận là ngư trường lớn của cả nước, thì Phan Thiết là trung tâm nghề cá của tỉnh. Sản lượng khai thác sản lượng hàng năm gần đây của riêng tàu thuyền Phan Thiết trên 30.000tấn chiếm trên 30% của tỉnh.
Phan thiết còn là trung tâm tôm giống của phía Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Hiện có 61 trại tôm giống. Tôm giống của Phan thiết trong những năm qua đã cung cấp cho 250ha nuôi tôm thương phẩm trong cả tỉnh và còn xuất bán cho khách hàng nhiều tỉnh Nam Bộ như: Tiền Giang, Bến Tre, Kiên giang, Cà Mau…năng suất tôm thương phẩm đạt loại cao so với cả nước, bình quân 1tấn/ha/vụ, mỗi năm 2-3vụ.
Nghề cá Phan Thiết đã và đang là thế mạnh của kinh tế địa phương, nay lại được chủ trương công nghiệp hoá – hiện đại hoá của đảng hỗ trợ, cùng với ý thức bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, sự hiểu biết đầu tư khoa học kỹ thuật ngày một nâng cao, nhất định sẽ nhanh chóng trở thành một trung tâm nghề cá của khu vực với cảng cá cồn chà hiện đại đang xây dựng, có sức đậu cho hàng trăm tàu công suất 1000CV, thu hút các đội tàu cả nước ta và nước ngoài đến đây làm ăn để cùng phát triển.
Trường Dục Thanh
Trường Dục Thanh nằm tại thị xã Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận. Đây là một ngôi trường không những chỉ nổi tiếng ở vùng Bình Thuận mà còn ở khắp cả nước với tính lịch sử mang tầm quan trọng của nó – là nơi đã dừng chân lâu nhất và là nơi gắn bó nhiều kỷ niệm với vị cha già kính yêu –Lãnh Tụ Hồ Chí Minh.
Vào những năm 1862 trở đi, sau khi 3 tỉnh Nam Kỳ bị đánh chiếm, một số nhà yêu nước đã bỏ ra lập nghiệp tại vùng Trung Bộ này, trong số đó có nhà thơ Nguyễn Thông. Trên đường đi tìm nơi thành lập căn cứ kháng Pháp, tình cờ ông đã dừng chân tại Phan Thiết làm việc sau đó ông lâm bệnh và mất tại đây vào năm 1884 (16/6 năm Đinh Hợi) với ý nguyện chưa thành. Vào năm 1908, nối chí ông là hai học trò của ông đã lập ra một ngôi trường lấy tên trường là Dục Thanh dưới sự bảo trợ của Hội Liên Thành. Trường nằm ẩn mình với những tán xoài cổ thụ với kiến trúc khá đơn sơ có diện tích 120m2 nối liền thảo bạc nhà thờ cụ Nguyễn Thông. Mái lợp ngói âm dương không có tường xây chỉ có những song gỗ xếp chéo hình thoi. Sân trường rộng rãi có bể non bộ, có bức bình phong, cổng trường nhìn ra con sông Cà Ty. Trước sân trường có một cây cổ thụ to, gần nó có một hồ sen nhỏ. Trường được nhân dân ủng hộ góp quỹ hiến ruộng cho trường. Lúc bấy giờ trường được xem là ngôi trường tiến bộ khắp nơi vang danh. Trường dạy chữ quốc ngữ là chính, được nhiều nhà nho yêu nước quan tâm. Và trường càng được nổi tiếng hơn là vào năm 1911 người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành trên đường đi tìm con đường cứu nước đã dừng chân nơi đây. Lúc này người tròn 20 tuổi vì một phần là con của cụ phó bảng nên Người được nhiều thầy giáo quý trọng. Người được nhận vào dạy học, mặc dù điều này nằm ngoài dự định của Người. Nhưng trên chặng đường dài dừng chân dạy học ở đây Người đã biết kết hợp với việc dạy chữ và việc học làm người thông qua các hình thức như dạy thể dục, đưa học sinh đi tham quan thắng cảnh. Để từ đó đưa thanh thiếu niên thâm nhập cuộc sống của nhân dân hiểu được địa thế cũng như hoàn cảnh đất nước. Lúc bấy giờ trường có khoảng 4 lớp với 100 học sinh đa số nam đông hơn nữ. Trường có xây một ngôi nhà nhỏ còn gọi là nhà Ngư để các thầy cùng học sinh có thể nghỉ ngơi ăn uống. Nếu như ghé tham quan trường Dục Thanh thì không thể bỏ Ngọa Du Sào bởi nó cũng gắn bó với trường Dục Thanh rất mật thiết.
Ngọa Du Sào là nới ở làm việc của Bác. Mà trước đây vào năm 1878, cụ Nguyễn Thông đã cáo quan về đây và lập ra nhà học Ngọa Du Sào. Ngọa Du Sào không rộng lớn lắm chỉ khoảng 6,5m, rộng 4m và cao hơn 2m. Bên trong trên bàn làm việc của Bác có một chiếc hộp trên trong hộp có đựng một chiếc khay khảm xà cừ và ba chén nhỏ đó là bộ chén trà “Lục ẩm” mà Bác thường dùng với các thầy hay gặp gỡ bình văn thơ và bàn chuyện quốc sự cùng các chiến sĩ yêu nước, Ở đây còn có một góc gác xếp – trước đây là kho sách của cụ Nguyễn Thông và còn có một cái yên thư trên gác là loại giá sách của các cụ nhà Nho ngày trước và một chiếc đi-văng bằng gỗ. Bác đã dành nhiều thời gian ở đây để đọc sách. Ngoài ra ở phía sau Ngọa Du Sào có một cây khế do cụ Nguyễn Thông trồng mà từ khi đến đây bác ngày ngày vẫn chăm sóc cho cây tươi tốt, luôn đơm hoa kết quả và hiện nay đã được 130 tuổi.
Kế đến du khách sẽ nhìn thấy một giếng nước mà Bác thường dùng để sinh hoạt và tưới hoa. Có thể nói rằng chỉ trong vòng một thời gian ngắn 9 tháng ở đây nhưng bác đã dành hết tình thương yêu, đoàn kết gắn bó, đùm bọc những học trò của mình như những người thân thương. Bác như một vì sao sáng soi đường dìu dắt dân tộc Việt Nam đến với niềm hạnh phúc vinh quang.
Có thể nói đây là nơi mà Bác dùng để liên hệ giao dịch với các thương quán Liên Thành, với các chuyến tàu biển. Bác thường chú ý nghe ngóng để tìm cơ hội đi ra nước ngoài tìm chân lý dẫn giải phóng dân tộc mình thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Và ở đây bác cũng tìm thấy một niềm vui là được đón tến Trung Thu và tết Nguyên Đán cùng gia đình cụ Nguyễn Thông.
Hiện nay ngôi nhà đó được tu bổ và trở thành nơi trừng bày đồ lưu niệm Bác. Và trong những ngày đầu năm 1990 trường lại hân hạnh đón tiếp đoàn làm phim “Nguyễn Tất Thành- Hồ Chí Minh” để chào mừng 100 năm sinh nhật Bác.
Khi rời thành phố Phan Thiết, du khách luôn nhớ đến trường Dục Thanh mà nhớ tới trường Dục Thanh là du khách đã nhớ tới Bác Hồ. Có thể nói rằng ở bất kì đâu du khách cũng bắt gặp hình ảnh của Bác từ chiếc cầu bắt qua sông Cà Ty, từ động Thiền Đức phía sau bến đò hình ảnh của Bác- người thầy giáo luôn hết lòng vì đàn em thân yêu, một người dân tộc anh hùng của nhân dân Việt Nam.
Mặc dù dạy học ở đây một thời gian ngắn nhưng bác đã để lại những ấn tượng đẹp cho nhân dân Phan Thiết nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Bác luôn là niềm tự hào, hãnh diện của con cháu nước Việt Nam.
Bảo Tàng Hồ Chí Minh
Bên cạnh khu di tích, nhà trưng bày về cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ cũng được xây dựng và khánh thành năm 1986 Phân viện bảo tàng Hồ Chí Minh: được khởi công xây dựng năm 1983, nâng cấp năm 1986 và mở cửa đón khách vào ngày 01/06/1998.
Bảo tàng gồm có:
Tầng trệt: phòng trưng bày hình ảnh, tư liệu nói về tiểu sử và sự nghiệp của Chủ Tịch Hồ Chí Minh từ khi ra đời đến năm 1930. Phòng trưng bày những di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh tỉnh Bình Thuận. Chân dung những nhân vật đã xây dựng ngôi trường Dục Thanh.
Tầng lầu: Đề cập hoạt động của Bác Hồ sau khi từ nước ngoài trở về Việt Nam cho đến lúc mất.
Dinh Vạn Thủy Tú
(Bộ cốt ông Nam Hải- bộ xương cá voi lớn nhất Việt Nam và cả Đông Nam Á)
ĐC: góc đường Phan Chu Trinh – Ngư Ông
ĐT: 062820362 DĐ: 0918490612

Cuối thế kỷ XVII những ngư dân lao động của các tỉnh miền Trung lần lượt đổ bộ về khai phá vùng đất mới còn lắm hoang vu Phan Thiết – Bình thuận. Họ mong tránh cảnh loạn lạc, khốn cùng ở quê cũ, tìm được một chốn an cư lạc nghiệp lâu dài. Sử sách và dân gian thường gọi là “Ngũ Quảng lưu dân” ( Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Thuận, Quảng Nam, Quảng Nghĩa). Theo truyền thống ở miền quê cũ họ lập ra ven biển các Vạn nghề đánh cá (Vạn Chài) theo từng nhóm dân cư tập trung trước khi có chính quyền làng xã. Một trong những Vạn Chài ấy có tên là Thuỷ Tú bởi nằm bên cửa biển Phan Thiết trù phú, đẹp giàu (Thuỷ là nước, Tú là màu mỡ nhiều sản vật, Thuỷ Tú nói lên vùng biển giàu đẹp).
Cùng với việc lập Vạn ổn định dân cư ăn ở, Vạn nào cũng xây Dinh để thờ thần Nam Hải. Từ xưa theo tín ngưỡng của cư dân cá Voi được tôn làm ông Nam Hải hay Nam Hải đại tướng quận, về sau vua Gia Long sắc phong là Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần. Bởi khi trời giông bão sóng to gió lớn, ông đã tựa vào thuyền, che chắn cho thuyền không bị sóng gió nhấn chìm. Khi ông luỵ (chết) Làng Vạn làm tang lễ, thờ tự ở Dinh. Như câu hát bả trạo truyền từ đời này sang đời khác:
Xưa biển Thánh, Ngài quảng sai tiết độ
Nay siêu Thần, Ngài về chốn miếu môn
Hoặc: Khôn phò nghĩa khí ai bì
Sống chơi biển Thánh, chết quy non Thần
Về khoa học, ông tên là cá voi lưng xám, không có răng. Hằng ngày ông phải lọc nước biển để lấy thức ăn, mỗi ngày khoảng 1-1,5 tấn cá, những loài cá thơm như: cơm, mòi, nục, sinh vật nổi như: tôm, cua. Mỗi lần ông chỉ sinh một con, con mới sinh có chiều dài bằng 1/3 con mẹ, nặng 2-3 tấn, tuổi thọ trung bình 80 năm.
Dinh Vạn Thuỷ Tú toạ lạc trên đường Ngư Ông, thuộc phường Đức Thắng thành phố Phan Thiết. Con đường ngày nay và biển cả trước đây mang tên ngư ông thể hiện ý nghĩa lịch sử gắn bó giữa ông Nam Hải với ngư nghiệp địa phương. Niềm tôn kính của ngư ông cũng như niềm tin vào sự phò trợ của ông Nam Hải, lịch sử hình thành Vạn Thuỷ Tú gắn liền với lịch sử hình thành thành phố Phan Thiết và tỉnh Bình Thuận của lớp ngư dân đầu tiên vào khai phá xây dựng nên vùng biển” trên bến, dưới thuyền” với nghề đánh bắt thuỷ sản và chế biến nước mắm truyền thống nổi tiếng xưa nay.
Dinh Vạn Thuỷ Tú là một trong những dinh Vạn lớn và cổ xưa nhất của nghề biển ở Bình thuận. Dinh được thiết lập từ năm Nhâm Ngọ 1762 với chính điện, nhà Tiền Vãng và phía trước là Võ Ca. Trung tâm chính điện khám thờ thần Nam Hải. Bên tả là khám thờ ông thuỷ (ông tổ nghề biển), bên hữu thờ bà thuỷ. Phía sau chính điện là nhà Tiền Vãng thờ các bậc tiền hiền hậu hiền – những người có công khai phá dựng làng, lập Vạn. Phía trước là nhà Võ Ca là nơi để hát bội và diễn chèo Bả Trạo trong những kỳ tết lễ. Trong năm Vạn có 05 kỳ cúng: Lệ Tế Xuân (20-2 Âl), Lệ hạ nghệ (xuống nghề, cầu ngư đầu mùa 20-4 Âl) Lệ cầ ngư (cấu ngư chính mùa 20-6 Âl), Lệ tế Thu (còn gọi là lệ cúng của các chèo dọc 20-7 Âl) và Lệ mãn mùa (25-8 Âl). Ở mỗi kỳ lệ cúng, bà con tổ chức lễ với nghi thức cúng Tế trang trọng và Hội với hát bội, diễn chèo Bả Trạo, giao lưu trao đổi công việc làm ăn; ngoài ra còn tổ chức đua ghe giữa các Vạn, như câu ca xưa còn truyền lại:
Dưới sông lắp đặt ghe đua
Trên bờ sửa soạn Miếu Chùa Trạo ca
(hát chèo Bả Trạo)
Việc thờ tự cúng tế, lễ hội ở Vạn hướng con người về cội nguồn, với tổ nghề và thắt chặt tình ái hữu tương tế.
Về giá trị kiến trúc, Dinh Vạn Thuỷ Tú sử dụng lối kiến trúc “tứ trụ”, toàn bộ các vì kèo, rường cột, các gian đều xuất phát từ các đỉnh của tứ trụ; các chi tiết được lắp ghép trau chuốt, chạm khắc tỉ mỉ. Đến nay so với hàng chục Vạn thờ Hải thần dọc theo biển Bình Thuận thì Dinh Vạn Thuỷ Tú có kiến trúc còn giữ nguyên trạng.
Trong Dinh Vạn Thuỷ Tú còn lưu giữ 24 sắc phong của các đời vua triều nguyễn, lưu giữ nhiều di sản văn hoá Hán – Nôm liên quan đến nghề biển, thể hiện trong nội dung thờ phụng ở các khám thờ, tượng thờ, hoành phi, liện đối, trên văn chuông của Đại Hồng Chung…
Với những giá trị lịch sử văn hoá, Dinh Vạn Thuỷ Tú đã được bộ văn hoá thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia 1996.
Đến tham quan Dinh Vạn Thuỷ Tú, qua cổng tham quan về phía tả là Ngọc Lân Thánh Địa, về phía hữu là nhà trưng bày hài cốt ông Nam Hải, trước khi vào viếng dinh chính.
Theo phong tục tập quán khi phát hiện Ông luỵ làng Vạn phải tổ chức đưa ông lên bờ và tiến hành nghi thức tang lễ long trọng. Người đầu tiên phát hiện ông luỵ được hưởng nghi thức tang chế như con trưởng của ông. Mặc đồ trắng, bịt khăn trắng và để tang ông trong 3 năm, không được hớt tóc cạo râu phải an chay nằm đất. Làng Vạn làm lễ thỉnh linh hồn ông nhập Vạn, chọn ngày giờ tốt để mai táng. Trước Dinh Vạn Thuỷ Tú có một khu đất rộng để mai táng ông, gọi là Ngọc Lân Thánh Địa.
Sau ba năm mai táng thỉnh cốt ông nhập thờ trong Dinh Vạn. Khi hốt cốt thì dùng nước lã rửa sạch, sau đó dùng rượu mạnh rửa, phơi thật khô, sau khi phơi xong thì mang về thờ ở Dinh Vạn. Qua 200 năm Dinh Vạn Thuỷ Tú đã có 3 tẩm với trên 100 bộ cốt ông được lưu thờ trong đó có hàng chục bộ cốt lớn, đặt biệt có một bộ rất lớn.
Truyền thuyết dân gian kể lại rằng: sau khi xây xong Dinh Vạn Thuỷ Tú có một ông rất lớn trôi dạt vào bờ phía trước Din h lúc này biển chỉ cách dinh không đầy 50 m). Ngư dân trong bổn Vạn và huy động các Vạn khác cùng nhau đưa ông vào táng trong khuôn viên của Dinh Vạn Thuỷ Tú. Vì ông lớn quá (dài 22 m, nặng 65 tấn) nên mãi 2 ngày sau mới đưa vào an táng được.
Năm 2003 theo nguyện vọng của bà con ngư dân và nhu cầu của khách tham quan, cũng như phục vụ cho công tác nghiên cứu văn hoá – khoa học, UBND thành phố Phan Thiết đã đầu tư xây dựng nhà trưng bày và phục chế lắp ráp bộ cốt ông lớn nhằm giữ gìn và bảo quản tốt hơn, tạo điều kiện cho bà con ngư dân đến viếng và khách đến tham quan, các nhà khoa học đến nghiên cứu.
Được sự trợ giúp của phòng bảo tồn Viện Hải Dương Học Nha Trang công trình đã được khánh thành vào đúng dịp lễ hội cầu ngư đầu mùa ngày 20 tháng 4 năm Quý Mùi 2003. Qua lưu thờ bảo quản của nhân dân, bộ cốt ông hầu như nguyên vẹn và được xác định là bộ cốt ông lớn nhất Việt Nam và cả vùng Đông Nam Á. (tại Thái Lan dài 16m, Viện Hải Dương Học Nha Trang là 15m, Kiên Giang 7m).
Sông Cà Ty

Mỗi con sông như mỗi con người đều có ngọn nguồn cội rễ. Rừng là nơi phát tích, phát nguyên, là nơi quyết định của những con sông. Có nước mới có khe, có khe mới có suối nhiều con suối hợp lại thành sông và mọi con sông đều đổ về biển. Cấu trúc hình thể tộc của con sông ngược lại với cấu trúc hình thể tộc của cây cỏ, của con người. Ngọn nguồn, cội rễ của cây cỏ và con người nằm trong lòng đất, còn nguồn gốc cội rễ của con sông nằm tận trên cao.
Như con người mỗi con sông đều có riêng những nét đặc thù về dáng dấp, phong cách, tánh nết… bên cạnh những nét chung khi đục khi trong, bên bồi bên khuyết, khi hiền lành khi thơ mộng, khi phẫn nộ điên cuồng. Con người gọi nó là Con vì nó đã được nhân cách hóa, phải chăng về hình thể, nó lượn quanh uốn khúc như một con sinh vật và nó cũng tồn tại theo quy luật sanh, lão, bệnh, tử như con người.
Như con người mỗi con sông đều có họ tên, cũng có bí danh, cũng thường thay đổi tên họ, chỉ điều khác nhau là con người tự đặt tên cho mình và đặt tên cho những con sông.
Sông Phan Thiết xuất hiện từ năm 1697 – năm Đinh Sửu, thứ 6 đời Hiển Tông, Hiếu Minh Hoàng đế Nguyễn Phúc Chu (1691-1725).
Lúc bấy giờ do xếp đặt lại việc cai trị một vùng đất mới, triều Nguyễn đặt phủ Bình Thuận (cơ quan hành chánh), trực tiếp quản lý 4 đạo (tương ứng cấp tỉnh): Phan Rang, Phố Hài, Phan Thiết, Ma Ly. Mỗi đạo đều có quan văn, quan võ. Trên bản đồ nó được ghi là sông Cà Ty. Trên con sông có bến Cà Ty là nơi qua lại, nơi lấy nước, nơi tắm giặt của bà con Phú Hội và Phú Mỹ. Lên miệt trên, nó được ghi là sông Mường Mán. Đến thượng nguồn nó là con Sông Cái – con sông mẹ, vì nó là nơi hội tụ, hợp lưu các con Sông Mán, Sông Rao Ết, Sông Linh… và các con Suối Vàng, Suối Lin, Suối Thi, Suối Ngư, Suối Y-A-U, Suối Lô Tô, Suối Cẩm Hang…, nằm trong địa phận các thôn 1, 2, 3 của xã Hàm Cần, thuộc vùng đồng bào dân tộc Rai và một số ít đồng bào Cà Ho mà xưa kia gọi là xã Đăng Gia thuộc Tổng Cà Dòn.
Không ít người dân bản địa phân vân về cái tên của con sông quê hương: Mương Mán hay Mường Mán? Phan Thiết hay Mang Thít? Mà Mang Thít và Cà Ty có phải là tiếng nói của người Chàm không? Ông Thiên Sanh Cảnh, nhà nguyên cứu dân tộc học người Chàm (ở Hữu Đức, Ninh Phước, Ninh Thuận). Ông cho biết xưa kia, ngoài này gọi trong đó là MULA THÍCH, tức Ruộng Thích. Ông còn cho biết thêm, theo tiếng Chàm, PRONG là lớn, Nhe là nhỏ, Mũi Né có thể là Mũi Nhỏ.
Trên tạp san văn hóa tháng 4, 5/1969 xuất bản tại Sài Gòn, tác giả bài viết tách con sông ra làm đôi: Sông Cái (sông Phan Thiết) dài 76 km, sông Cà Ty dài 5km. Ai cũng hiểu sông Mương Mán, sông Cà Ty, sông Phan Thiết cũng chỉ la một con sông. Con sông đi qua địa phương nào, đem lại hạnh phúc ấm no cho bà con, nên bà con lấy tên quê hương mình đặt tên cho nó để nói lên sự gắn bó tình cảm giữa con người với dòng sông.
Đọc Đại Nam Nhất Thống Chí, phần tỉnh Bình Thuận có đoạn ghi rất rõ: “Sông Phan Thiết ở phía tây huyện Tuy Lý (tên Tuy Lý có từ năm 1854, Tự Đức năm thứ 7, đông giáp Hòa Đa, tây giáp Biên Hòa), nguồn ra từ Động Man (tức nơi ở của đồng bào dân tộc miền núi), chảy về phía đông qua xã Phú Hội, tục gọi là sông Bao Lân, chảy về phái nam 9 dặm đến thôn Phú Tài, có một nhánh từ bến Bình Tân đến cầu Minh Lâm chừng 6 dặm mà hợp vào (tức cầu 40, cầu Ông Rao, cầu Ông Nhiều, nhánh này từ Bưng Cò Ke, Bưng Kỳ Hào, Bưng Bà Tùng, Suối Sung… chảy ra). Lại chảy về phía nam chừng 3 dặm đến thôn Đức Thắng, rồi 2 dặm đổ ra cửa Phan Thiết (mỗi dặm là: 444,44m)”.
Con sông Bao Lân đã đi vào quên lãng. Bây giờ, có lẽ ta thống nhất gọi tên con sông quê hương là Sông Cà Ty như trên bản đồ và dù sao nó cũng cần có một tên riêng. Sông Cà Ty không dài, không rộng, nhưng hiền lành, chân chất, ấm áp nghĩa tình, đã đem dòng sữa của mình nuôi sống cả một vùng châu thổ, từ thượng nguồn xuống đến hạ lưu. Những vườn cây sai trái, những cánh đồng nặng hạt, những cô gái trắng da dài tóc… đều hưởng ân huệ của con sông quê hương.
Càng về với biển, sông càng mở rộng, thủy triều lên xuống, tàu thuyền tấp nập đông vui. Hạnh phúc làm sao khi ta được sống ở một quê hương có con sông uốn khúc lượn qua với ba cây cầu đầy vẻ thơ mộng, với bóng thầy giáo Nguyễn Tất Thành hiện lên trên khúc sông lúc ngã về chiều, với dáng Lầu nước – biểu tượng cho phố biển rực rỡ ánh đèn màu lúc về đêm.
Con sông không biết tự mình trang điểm. Trên gương mặt dịu hiền đôi khi vẫn hiện lên những nét cau có vì những nỗi bất bình ôm ấp trong lòng sông.
Đảo Phú Quý

Quần đảo gồm 8 đảo lớn, nhỏ ở ngoài khơi cách thành phố Phan Thiết 120 km về phía đông, diện tích tự nhiên của quần đảo là 32km2. Đẹp, giu sang, ph quí nghĩa l vừa cĩ quyền lực vừa giu cĩ v đẹp.
Đảo lớn nhất trong quần đảo có cùng tên là Phú Quý, dài 6,5km, rộng 3,5km. Trên đảo có 3 ngọn núi: núi Cấm (108ha), cao cát (85m) và Ông Đụn (41,9m). Đây là một ngư trường lớn có nhiều hải sản hiếm như: đồi mồi, hải sâm, cá bóng sao. Đời sống nhân dân khá cao nhờ có nghề chế biến hải sản, câu cá mập và bán vay cá. Hiện nay, đảo là một căn cứ tiền tiêu bảo vệ đất liền, một căn cứ hậu cần tiếp viện cho quần đảo trường sa.
Cảnh quan Phan Thiết
Cảnh quan Phan Thiết thơ mộng, hiền hoà và hấp dẫn. Giữa thành phố, 3 chiếc cầu nằm vắt ngang sông. Bên tả ngạn có chiếc Tháp nước được xây dựng xong khoảng năm 1934, 1935, cấu trúc đẹp, cao trên 30m, đường nét hài hoà, gần gũi với tháp chùa đình dân tộc, nhìn xuống dòng sông hiền hoà thơ mộng. Bên hữu ngạn có khu di tích trường Dục Thanh và phân viện bảo tàng Hồ Chí Minh, với tượng Bác nhìn ra dòng sông cửa biển như ngày nào Bác đứng lặng bên sông này suy nghĩ chuyện nước non. Về phía đông bắc, từ tượng đài Chiến Thắng, đại lộ Nguyễn Tất Thành thẳng tấp ra Đồi Dương, hai bên đường các công sở được xây dựng bề thế, khang trang. Cạnh đó sân golf Phan Thiết trải dài với bãi cỏ đồi cây, hàng dừa một màu xanh đẹp mắt, được biết sân golf này được xếp loại tầm cỡ lớn ở Đông Nam Á.
Nhưng đáng thưởng ngoạn nhất là phong cảnh dọc theo bờ biển Mũi Kê Gà giáp Hàm Thuận Nam đến Hòn Rơm – Mũi Né, bãi cát viền lấy rừng. Giữa hai màu xanh nước biển và lá cây xen kẽ những động cát trắng phau, vách đồi đỏ rực thay đổi độ đậm, nhạt theo ánh nắng từng giờ. Khi nước triều lên, sóng vỗ rì rầm vờn trên ghềnh đá mấp mô những rặng dừa như trườn ra bãi biển.
Nói đến cảnh quan Phan thiết là mọi người nhớ đến đỉnh đồi Lầu Ông Hoàng lộng gió, đến rặng dừa xanh xứ Rạng và những đồi cát nổi tiếng của Mũi Né. Lầu Ông Hoàng là một ngôi biệt thự được xây dựng từ năm 1910, do một công tước người Pháp tên De Montpensier đến Phan Thiết để săn bắn voi, trước bức tranh tuyệt tác thiên nhiên giành cho vùng biển Phan Thiết gọi là “Lầu Ông Hoàng”. Biệt thự ấy đã đổ nát trong chiến tranh vừa qua, nhưng ngày nay cũng còn được nhắc tới là một nơi từng thu hút đông đảo du khách xa gần.
Không phải khi người Pháp đến đây mới phát hiện đây là một vùng phong cảnh hữu tình, một nơi nghỉ dưỡng lý tưởng mà trước đó, nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông cũng đã thả hồn mình lâng lâng theo mây trời, nước biển. Chúng ta hãy đọc một đoạn bài ký ”Ký ở Ngọc Sơn” khắc trên bia mộ, nơi an nghỉ của nhà thơ: “Năm Đinh Sửu 1877, tôi làm Bố Chánh Bình Thuận, thường xuống các Huyện, nhân đi qua thôn Ngọc Lâm, phía đông phủ Hàm Thuận lên cao nhìn quanh, thấy sông núi có tình tôi lấy làm thích, đứng nhìn lâu không chán. Sau lúc tôi trăm tuổi, không biết hồn phách có nhớ đến núi này nữa không? Điều ấy không thể biết được. Nhưng mà hoa rừng, trăng bể, buồm ngư phủ cùng những cuộn khói mây thay đổi, hình giao thần chập chờn thì sau này vẫn có thể cống hiến một cách thích mắt cho những nhà thơ đến đây viếng cảnh”.
Ngẫm lại lời nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông thì chúng ta đủ rõ cảnh trí từ núi Cố Ngọc Sơn đến các ngọn Lầu Ông Hoàng đẹp xinh đến thế. Lầu Ông Hoàng đã đổ nát theo chiến tranh (ngày nay trong phát triển du lịch đã có nhiều ngôi lầu, biệt thự thay thế) nhưng điều may mắn cho Phan Thiết, cho vùng đất sơn thuỷ hữu tình này là trên đỉnh đồi cao vẫn còn bảo tồn được hai ngôi tháp Chăm được xây dựng thế kỷ VIII, đã được xếp hạng di tích quốc gia, là tài sản văn hoá quý báu của nhân dân Bình Thuận và cả nước. Cạnh đó là ngôi chùa tên gọi Bửu Sơn Tự, theo tích kể lại rằng lúc Nguyễn Ánh lánh nạn Tây Sơn có ghé ẩn thân ở đó, cho nên chùa sau này được Gia Long ban hiệu là “Ngự Tứ Bửu Sơn Tự”. Du khách đến Phan Thiết không thể không lên đồi nhìn về hướng nam với cửa biển Phú Hài, bãi biển Đồi Dương, Thương Chánh, với trung tâm thành phố nhà cửa hiện ẩn dưới những rặng dừa xanh, quốc lộ vắt qua và dòng sông Quao uốn lượn giữa cánh đồng muối trắng. Còn nhìn về hướng Bắc với ngọn núi Tà Zôn nhú lên giữa ruộng đồng xanh tươi. Xa tít giữa rặng dừa ông của cuối dãy Trường Sơn, gợi lên biết bao điều mến yêu quê hương, đất nước.
Xuống đồi, du khách tiếp tục cuộc hành trình về Mũi Né – Hòn Rơm. Con đường mới mở rộng tráng nhựa phẳng lì ẩn mình dưới những ngọn dừa xanh đưa chúng đến một vùng du lịch sinh thái biển với bãi tắm sạch sẽ, trong lành, đồi cát trắng phau, nơi những nhà nhiếp ảnh cho ra đời những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng trong nước và cả trên thế giới.
Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch việt nam thời kỳ 1995 – 2010 được thủ tướng chính phủ phê duyệt tại quyết định số 307/TTG ngày 24/5/1995 đã xác định tỉnh Bình Thuận nằm ở vị trí giao thoa gắn liền với hoạt động du lịch của 3 trong 7 trung tâm quan trọng của cả nước ở vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Trong đó cụm du lịch Phan Thiết – Mũi Né giữ vị trí là cụm trung tâm, có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển du lịch chung của vùng và của địa phương.
Khu Lăng Mộ Nguyễn Thông

Toạ lạc trên đồi Ngọc Lâm, ở sát chân núi Ngọc Sơn, đây là ngọn núi đẹp nhất trong số 5 ngọn núi trong khu vực. Cảnh vật nơi đây vừa yên tĩnh nhưng cũng hết sức sôi động nên thơ, rất lí tưởng cho mọi tâm hồn thi sĩ và khách lãng du. Một bức tranh thiên nhiên kỳ thú bởi nó hội tụ đầy đủ các yếu tố của tự nhiên từ trời mây, đất nước, núi rừng và biển cả.
Từ khi còn làm Bố Chánh Bình Thuận vào năm 1877, Nguyễn Thông thường công du đến núi Ngọc Sơn và ông rất say mê cảnh non nước, trời biển, trăng sao…ở chốn này. Vì thế ông quyết định chọn nơi đây làm chốn yên nghỉ ngàn thu của mình sau khi từ giã cõi đời. Đọc lại một đoạn ký khắc ở bia mộ Nguyễn Thông do chính ông thốt lên chúng ta mới thấu hiểu hết vẻ đẹp tiềm ẩn của cảnh vật nơi đây: “Sau khi ta trăm tuổi rồi, hồn phách còn nhớ đến núi này chăng? Hoặc cũng về chốn không còn gì chăng? Điều đó không thể biết được. Còn như hoa rừng, trăng biển, buồm ngư phủ, chòi tiều phu, vẻ lạ của khói mây thay đổi, hình thù của thuồng luồng chập chờn, sau này cảnh ấy có thể giúp vào cuộc thưởng thức của tạo nhân du khách vậy”. Đã hơn một thế kỷ trôi qua, cảnh đẹp nơi đây vẫn còn nguyên giá trị và những điều ước ao, trăn trở của Nguyễn Thông đã trở thành hiện thực vì hàng năm có đến hàng vạn lượt khách lãng du đến đây viếng mộ ông, ngoạn cảnh và thưởng thức cảnh khói mây, hoa rừng, trăng biển…
Khu lăng mộ Nguyễn Thông là một thắng tích quan trọng trong tuyến du lịch dọc bờ biển Đông Bắc thị xã Phan Thiết từ trung tâm thị xã dọc bờ biển đến Mũi Né dài 22km, du khách sẽ say mê và liên tục ngỡ ngàng trước những tiên cảnh sống động của tạo hoá sinh ra được bàn tay và trí tuệ con người vun vén hoàn hảo thêm. Trước mắt và hai bên đường là cảnh sông suối, biển cả và núi đồi như quyện chặt vào nhau tạo nên một bức tranh sơn thuỷ thạch ấm áp hương quê vùng duyên hải. Qua một đoạn hành trình khoảng 6km là đến đồi Ngọc Lâm, Lầu Ông Hoàng hiện ra sừng sững khiến ta bồi hồi liên tưởng lại đường lên dốc đá trong câu chuyện tình của thi nhân Hàn Mặc Tử với nàng Mộng Cầm xinh đẹp thuở trước. Qua khỏi dốc đá Lầu Ông Hoàng là một quần thể di tích lịch sử – văn hoá và danh lam thắng cảnh nổi tiếng liên hoàn nối tiếp từ cổ đến kim. Cổ nhất là nhóm đền tháp Chăm Poshanư của vương quốc Champa một thời vang bóng, đến Bửu Sơn Tự – ngôi chùa cổ gắn với sự tích Nguyễn Ánh từng đến đây trú ẩn bị quân Tây Sơn vây hãm. Tiếp đến là Lầu Ông Hoàng, nhà hàng Ngọc Lâm, tháp nước do người Pháp xây dựng hồi đầu thế kỷ XX, rồi hệ thống lôcốt, đồn bót của Mỹ – Ngụy là chứng tích lịch sử hùng hồn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Qua khỏi khu vực Lầu Ông Hoàng 1km là đến thắng cảnh núi Cố – nơi có khu lăng mộ Nguyễn Thông. Tiếp tục cuộc hành trình dọc bờ biển là một khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp với những dãy đồi núi nhấp nhô gợn sóng trải dài nối tiếp đến những địa danh quen thuộc như: bãi đá Ông Địa, Suối Tiên và những rừng dừa xanh ngát hai bên đường như che bóng đưa du khách đến bãi biển Mũi Né. Biết bao địa danh du lịch nổi tiếng, hấp dẫn mà ai đã từng đến đây dù chỉ một lần hẳn khi xa rồi sẽ không tránh khỏi sự luyến tiếc, nhớ nhung.
Đến viếng mộ Nguyễn Thông, chúng ta có dịp hồi tưởng về một danh nhân nổi tiếng đã từng có nhiều đóng góp lớn lao cho xã hội nửa cuối thế kỷ XIX. Đã hơn 100 năm Nguyễn Thông yên nghỉ ở chốn này, nhưng chắc chắn ông không hề đơn độc vì mỗi năm có đến hàng vạn lượt du khách về đây thăm viếng và kính cẩn nghiêng mình với một tình cảm nhớ thương và kính trọng. Đó là biểu hiện của sự đền ơn đáp nghĩa, một đạo lý cao đẹp của người Việt Nam.
Cụ Nguyễn Thông.

Danh sĩ đại thần Tự Hi Phần, hiệu Kỳ Xuyên, biệt hiệu Độn Am. Thuở nhỏ có tên là Thiệu, con ông Nguyễn Hành và bà Trịnh Thị Mầu.
Quê ông ở tỉnh Gia Định nay thuộc tỉnh Long An.
Năm 1849, ông đỗ cử nhân đồng khoa với Phan Văn Trị. Năm 1851, đi thi lại trượt. Vì nhà nghèo ông phải nhậm chức huấn đạo tại An Giang.
Năm 1856, nội cát đề cử ông thăng hàn lâm viện tu soạn về kinh làm việc ở nội các. Tại đây ông tham gia biên soạn bộ khâm định nhân sự Kiên Giang (1857).
Năm 1859, giặc Pháp chiếm Gia Định, ông về Nam tòng quân đánh giặc dưới sự chỉ huy của thống đốc quân vụ Tôn Thất Hiệp.
Năm 1861, ông lui về Tân An liên lạc với Phan Văn Đạt, Trịnh Quan Nghi tham gia chống Pháp ở địa phương. Năm 1862, sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền đông nam bộ, ông ra ở Bình Thuận, rồi nhậm chức đốc học Vĩnh Long. Thời gian này ông tích cực lo việc giúp nhân dân đồng bằng sông Cửu Long trong việc giáo dục. Năm 1866, khi xây xong Văn Miếu, ông viết bài kí tại Vân Xương Các. Năm sau, ông cùng Phan Thanh Giản cải táng Xứ sỉ Võ Trường Toản về Ba Tri vì cho rằng đất Hoà Hưng đã là đất của Pháp.
Sau đó, ông ra Ty địa ở Bình Thuận lần thứ hai rồi lãnh chức Án sát Khánh Hoà. Năm sau 1868, lại được điều về kinh giữ chức biện lý bộ hình. Đến cuối năm được cử làm bố chính tỉnh Quãng Ngãi.
Năm 1871, ông bị triều đình kết tội xử án sơ suất, lại thêm bị Lê Doãn vu cáo nên bị cách chức, bắt giam và xử trượng. Nhờ thượng thư bộ công là Nguyễn Bính và bạn bè, nhất là nhân dân Quảng Ngãi hết sức minh oan, ông mới được giảm tội và lưu dụng làm việc ở sở kiểm biên lầu Tàng Thư Huế.
Năm 1873, ông cáo quan về nghỉ ở tại núi Cố tỉnh Bình Thuận lập thị xã, mở trường học
Năm 1876, ông được thăng làm Hàn Lâm Viện trứ tác, lãnh chức tư nghiệp Quốc Tử Giám. Tại đây ông cùng Bùi Ước, Hoàng Dụng Tân kiểm lại bộ Khâm định việt sử thông giám cương mục. Năm sau được thực thụ chức tư nghiệp, rồi đổi làm trị giảng học sĩ ở Viện Hàn Lâm. Sung chức doanh điền xứ ở Bình Thuận. Cuối năm này, lãnh chức bố chính tỉnh Bình Thuận.
Bấy giờ ông bệnh nhiều, bệnh thường tái phát, nhiều lúc thổ huyết, nhưng ông vẫn tận tụy phục vụ dân nước. Năm 1878, ông xin nghỉ dài hạn ở trại nuôi cố. Tuy đã nghỉ việc công, nhưng trong thời gian này ông vẫn cùng với các quan địa phương giải quyết một số vấn đề tranh chấp giữa người kinh và người thượng ở Bình Thuận, đồng thời sắp đặt cho đồng bào trong Nam ra Ty địa ở Phan Thiết, lập Đồng Châu xã. Tại đây, ông lập một nhà học có tên Ngoạ Du Sào.
Năm 1881, ông được triều đình sung chức Điền nông phó sứ, kiêm lãnh chức đốc học Bình Thuận. Đến năm 1884 ông mất hưởng dương 57 tuổi.
Các tác phẩm của ông: khám định nhân sự kim giám, dưỡng chính lục, việc sử thông giám cương mục khảo lược, kì xuyên công đặc, độn am thi tập, độn am văn tập….
Lầu Ông Hoàng

Lầu Ông Hoàng bao gồm một quần thể sông, núi, biển chùa tháp tạo thành khu danh lam thắng cảnh nổi lên với ngọn núi Cố tương đối cao và bốn ngọn đồi thấp nhô sát biển cùng những làng chài xưa cách Phan Thiết 7km.
Năm 1911 một ông hoàng người Pháp là công tước De Montpensier từ Pháp sang du lịch săn bắn ở những ngọn đồi lân cận thấy phong cảnh sơn thuỷ đẹp ở đây đã khiến ông nảy ra ý định mua đất và xây dựng biệt thự cũng để có nơi nghỉ ngơi cho các kỳ du lịch và săn bắn sau này. Nguyện vọng của ông đã được các nhà cầm quyền Pháp ở Bình Thuận (công sứ garnier) đồng ý bán quả đồi Bài Nài.
Ngày 21/2/1911 biệt thự được khởi công xây dựng và gần một năm sau đó được hoàn chỉnh, với diện tích 536 m2 chia thành 13 phòng. Khu biệt thự xây dựng cách nhóm đền tháp Chăm Pôshanư gần 100m về phía Nam. Trong quá trình vận chuyển vật liệu lên xây biệt thự, người Pháp đã làm hỏng tường thành phía trước cửa chính của Tháp. Đây là biệt thự đẹp đầy đủ tiện nghi ban đêm có máy phát điện, dưới biệt thự có nhiều hầm ngầm chứa nước mưa đủ cho những người trong biệt thự dùng trong 1 năm. Được coi là hiện đại nhất Bình Thuận lúc bấy giờ. Từ đó trở đi nhân dân Phan Thiết quen gọi khu vực này là đồi “lầu Ông Hoàng” để chỉ ngọn đồi có khu biệt thự to đẹp do công tước De Montpensier xây dựng.
Tháng 7/1917 công tước De Montpensier bán lại cho chủ khách sạn người Pháp Prasetts. Sau khi có lầu Ông Hoàng một người Pháp có tên là Bell đã xây dựng hotel Ngọc Cẩm ở quả đồi bên cạnh để phục vụ người Pháp. Vài chục năm sau thi sĩ Hàn Mạc Tử đã đến địa danh này và đã để lại nhiều kỷ niệm khiến địa danh lầu Ông Hoàng càng có ý nghĩa. Trong kháng chiến chống Pháp đã bị thiêu huỷ ngày nay chỉ còn lại nền móng, hầm ngầm chứa nước và những ký ức trong người dân Phan Thiết.
Cũng tại lầu Ông Hoàng, quân Pháp đã xây dựng một hệ thống đồn bốt với nhiều lô cốt bêtông cốt thép chắc chắn để khống chế khu vực thị xã Phan Thiết. 14/6/1947 nơi đây đã diễn ra một trận đánh tuyệt vời của tiểu đội Hoàng Hoa Thám do đồng chí Nguyễn Minh Châu chỉ huy diệt nhiều địch, thu nhiều súng đạn các loại, trong đó có một khẩu đại liên vitke, một súng trung liên Bren và nhiều chiến lợi phẩm khác từ đó nhân dân quen gọi là chiến thắng lầu Ông Hoàng. Hiện nay lầu Ông Hoàng là một quần thể du lịch hấp dẫn bao gồm. Nhóm tháp chàm cổ bên cạnh tháp có chùa Bửu Sơn cổ kính, dưới chân đồi là bờ biển, cửa sông Phú Hài, núi Cố có một nhà thơ Nguyễn Thông… tất cả hợp thành một quần thể di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh ở Phan Thiết.
Tháp chàm Pôshanư

Cách trung tâm tp.Phan Thiết khoảng 5km về hướng Đông Bắc trên đường xuống khu du lịch Mũi Né bạn có thể dễ dàng nhìn thấy cụm Tháp đứng sừng sững trầm mặc trên đỉnh đồi, cạnh lầu Ông Hoàng. Đó là Tháp Pôshanư.
Đây là cụm tháp qua bao biến đổi của thời gian và thăng trầm của lịch sử vẫn còn tồn tại khá nguyên vẹn vẻ nguyên sơ của nó so với một số cụm tháp khác ở Bình Thuận, như nhóm Tháp Pôdam (Phú Lạc – Tuy Phong); nhóm tháp Bà Châu Rế (Hàm Phú – Hàm Thuận Bắc) …Hiện nay, đang có nhiều ý kiến khác nhau về thời gian xây dựng tháp, có ý kiến cho rằng tháp được xây dựng giữa thế kỷ VIII đến giữa thế kỷ IX, có ý kiến thì cho rằng vào khoảng thế kỷ XV, ý kiến khác lại cho rằng vào khoảng thế kỷ XVI đến XVIII.
Đây là tuyệt tác của dân tộc Chăm để lại cho nhân loại. Nhóm tháp này gồm 3 tháp và nhiều tháp bị đổ khác nay chỉ còn lại phế tích và nền móng. Ba ngôi tháp hiện còn phân bổ trên 2 tầng đất, quay mặt về hướng đông. Cả ba ngôi tháp đều là tháp vuông nhiều tầng, có niên đại thế kỷ 8, ở phong cách Mỹ Sơn E1 (phong cách kiến trúc Chăm cổ). Có một số yếu tố kiến trúc như cột trụ tròn ở các cửa giả, mi cửa...tương tự như ở các đền tháp Khmer. Nhóm tháp Chàm Pô-Sha-Nư toạ lạc trên một ngọn đồi có tên "Lầu Ông Hoàng", cách thành phố Phan Thiết 6km về phía đông bắc.
Hàng năm vào tháng giêng âm lịch, các lễ hội Rija Nưga, Poh Mbăng Yang được tổ chức dưới chân tháp. Nhân dân làm lễ cầu mưa, cầu xin những điều tốt lành. Bên cạnh khu tháp Pô-Sha-Nư là các di tích "Lầu Ông Hoàng", chùa Bửu Sơn, núi Cố nơi có mộ nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông. Tiếp tục cuộc hành trình dọc bãi biển đến đá Ông Địa, biển Mũi Né... du khách sẽ bị lôi cuốn vào bức tranh giàu hương vị biển mặn mà, độc đáo.
Nhưng dù được xây dựng vào thời gian nào thì tháp cũng là bằng chứng về sự tài hoa trí tuệ và bàn tay khéo léo của ông cha thuở trước trong nghệ thuật kiến trúc. Cũng như nhiều cụm tháp khác rải rác trên dải đất miền Trung, tháp Pôshanư được xây dựng từ gạch đỏ với một loại chất được kết dính đặc biệt mà nhiều giả thiết hiện nay cho rằng đó là nhựa thực vật. Tháp hình vuông, ba tầng, càng lên phía trên càng nhỏ lại, gồm mặt chính và ba mặt phụ, cửa tháp hình vòm cuốn với nhiều kiểu hoa văn tinh tế và phong phú thuộc phong cách nghệ thuật cùng với nhóm tháp Hoà Lai. Cụm tháp gồm 3 cái, 1 tháp lớn và 2 tháp nhỏ đều quay về hướng Đông, mà theo quan niệm của người Chăm là hướng của các thần linh. Phía trong, chính giữa tháp người ta đặt bệ thờ Linga – Yoni bằng đá trơn, biểu tượng của cơ quan sinh dục nam - nữ, vật linh thiêng nhất trong các đền thờ của những người theo đạo Hinđu.
Tháp thờ bà Pôshanư con gái của vua Po Parachanh trị vì vương quốc cổ Champa khoảng vào thế kỷ XIV. Pôshanư là một công chúa có công lớn trong việc tổ chức hướng dẫn nhân dân vùng Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc ngày nay sản xuất nông nghiệp, khai phá đất rừng làm rẫy, trồng lúa nước, trồng bông dệt vải, xây dựng các công trình thuỷ lợi. Bà cũng là người đã định ra nhiều quy tắc trong quan hệ giao tiếp, đối xử tiến bộ trong gia đình và xã hội của triều đình trong thời kỳ đó. Vì thế, ngày nay, đồng bào mỗi khi đến tháp đều cầu xin bà cho sản xuất được mùa, đời sống ấm no, gia đình yên ổn, hạnh phúc.
Trong truyền thuyết dân tộc Chăm, lịch sử ra đời của Tháp gắn liền với chuyện tình đầy hạnh phúc nhưng cũng rất thương đau của công chúa Pôshanư và lãnh chúa Po Sahaniempar.
Chuyện kể rằng: Vượt qua bao cấm đoán hà khắc của luật tục tôn giáo Chăm thời bấy giờ. Công chúa Pôshanư đã đem lòng yêu thương và quyết định kết tóc se duyên với lãnh chúa Po Sahaniempar một người theo đạo Hồi giáo ở vùng Ma Lâm. Trong những ngày sống hạnh phúc và đã cùng nhau xuống vùng Phú Hài (Phan Thiết) vận động nhân dân xây tháp trên đồi Bianneh (Mũi Né).
Thái tử Podam, em ruột của Pôshanư từ lâu đã không muốn chị mình lấy một người chồng ngoại đạo. Nhân một chuyến hành hương về Ấn Độ của Po Sahaniempar theo luật Hồi giáo, Podam đã bày mưu chia rẻ hai người. Chàng Po Sahaniempar sau thời gian hành hương trở về không thấy vợ ra đón theo lời hẹn ước, cho rằng bà đã phản bội nên từ bỏ ra đi về phía nam, mang theo trong lòng một mối hận. Khi Pôshanư tìm đến để nói lời thanh minh, thì ông đã trao gởi trái tim tình yêu cho nàng Chargo người dân tộc Raglây ở vùng Núi Ông – Tánh Linh.
Những năm tháng cuối đời bà Pôshanư đã sống một mình thanh thản tại Bianneh.
Người Chăm đời sau tạc tượng Bà và thờ Bà trong tháp. Ngày xưa, hàng năm cứ đến mùa Katê, đồng bào lại tụ về bên tháp thắp hương tưởng niệm và vui chơi, múa hát bên Bà, đón mừng năm mới.
Sau năm 1975 đến nay, tháp bà Pôshanư được nhiều lần trùng tu bảo tồn với sự đóng góp công sức và trí tuệ của các chuyên gia trong và ngoài nước và đã được Nhà nước công nhận di tích lịch sử văn hoá.
Hiện nay hàng ngày tháp vẫn mở cửa đón du khách thập phương đến chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính còn nhiều bí ẩn chưa được khám phá mà những nghệ nhân và những người thợ xây dựng Chămpa đã mang theo vào cõi vĩnh hằng. Họ cũng đến để tưởng nhớ đến bậc tiền bối đã có công vận động xây dựng tháp, đóng góp vào kho tàng văn hoá Việt Nam một tác phẩm kiến trúc như một bông hoa đẹp: Bà Pôshanư.
Thành phố Phan Thiết đang biến đổi từng ngày, những toà nhà cao tầng, những công trình kiến trúc hiện đại đã đang và sẽ mọc lên. Những cũng như bao công trình kiến trúc lịch sử khác, tháp bà Pôshanư sẽ vẫn mãi mãi tồn tại, được nâng niu, tôn trọng như tình đoàn kết của các dân tộc anh em qua bao thế hệ đã đóng góp công sức góp phần làm nên một thành phố đầy hương sắc văn hoá của hôm nay và của cả mai sau.
Núi Tà Cú

Núi Tà Cú là tên gọi của người Chăm. Núi thuộc huyện Hàm Tân có độ cao khoảng 480 m so với mặt nước biển. Trên lưng núi có chùa Linh Sơn Trường Thọ. Chùa có từ thời vua Tự Đức. Tên chùa do nhà vua ban tặng khi vị thiền sư tại chùa chữa khỏi bệnh cho Từ Dũ- mẹ vua. Chùa có tượng Phật Thích Ca nhập niết bàn dài 49 m, được dựng năm 1962.
KIẾN TRÚC:
Mặt chùa nhìn thẳng ra cửa Bể Hàm Tân,%hai bên với hai dòng suối uốn quanh suốt năm, nước lúc nào cũng đầy ắp. Khi leo được đến chùa, được dội một gáo nước suối mát lạnh, bạn sẽ cảm thấy rất sảng khoái. Sau lưng chùa là một rừng cây cổ thụ chen với những tảng đá to. Ngôi chùa tuy xây đã lâu đến nay chẳng những không bị rêu phong đổ nát mà còn được trùng tu và kiến tạo thêm nhiều vẻ đẹp tân kỳ vĩ đại như: cảnh Song Lâm Thị Tịch; cảnh Tịnh Độ Nhân Gian với những pho tượng khổng lồ xưa nay nước ta chưa từng có. Cứ mỗi độ xuân về hay vào ngày kỵ tổ khai sơn (5/10 ÂL) là hàng trăm tăng ni, hàng ngàn phật tử khắp nơi về chiêm lễ.
Trụ trì Thiện Thắng là người có công%nhất trong việc trùng tu Tổ Đình lần thứ nhất. Ông dùng đá chẻ xây tường Chánh Điện, nhà Đông, nhà Tây, lợp toàn ngói, khai thông con đường từ chùa xuống giáp cây số 28 quốc lộ 1 (Phan Thiết – Sài Gòn), sắm thêm Pháp khí trong chùa cho thêm phần trang nghiêm.
Cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Nam đã làm%cho chùa bị tàn phá. Khi hiệp định Genève được ký kết. Trụ trì Vĩnh Thọ triệu tập tín đồ với mục đích trùng hưng chùa:
%
• Sưu tầm văn khế của chùa bị thất lạc từ lâu.
• Gạch bản đồ điền thổ của chùa.
• Xây lại ngôi Tháp Tổ.
• Xây dựng và tu bổ ngôi Tổ Đình.
Năm 1958, ông phát nguyện kiến%tạo một cảnh Tịnh Độ Nhân Gian để làm chỗ quy hướng cho chúng sinh.
Về chánh đạo: gồm một pho tượng Đức Di Đà cao 7 mét, Quan Âm và Thế Chí cao 6m50 (luôn cả tòa sen).
Về y báo :sẽ tiếp tục làm như trong kinh Di Đà:
Bảy lớp§lang cang
Bảy lớp lưới báu§
Bảy hàng cây báu§
Có ao thất bảo và bảy§loài chim nói pháp…
§
Năm 1962, ông phát nguyện tạo một pho tượng đức%Thích Ca Niết Bàn dài 49m và cảnh Sông Lâm Thị Tịch có chu vi 832m sẽ tượng trưng đủ hình tứ thánh lục phàm và bảy chúng Phật tử.
Các vị trụ trì của%chùa từ trước tới nay:
%
Tâm Tố – hiệu Viên Minh.§
Nguyên Tiền –§hiệu Minh Tước.
Đỗ Quảng Thành – hiệu Thiện Thắng.§
Đào Bạch Cẩn – hiệu§Vĩnh Thọ.
Núi Tà Cú – chùa Linh Sơn Trường Thọ ngày nay trở thành mộtæchốn đạo tràng trang nghiêm hướng dẫn bởi một lòng thương chân thật bao la, không phân biệt màu sắc, tôn giáo, không nhận đây là của riêng mình mà là của chúng sinh ở thời Mạt pháp.
NGƯỜI SÁNG LẬP CHÙA
Nguyên quán của ông tại thôn Cần Lương, xã An Dân, quạn Tuy An, tỉnh Phú Yên. Sinh ra trong gia đình quí tộc, cha là Trần Thái Công, mẹ là Nguyễn Thị Từ, sinh giờ Tý, ngày 8 –2 năm Nhâm Thìn.
Thời thơ ấu, ông không ăn đồ cá thịt, ông chỉ ăn chay, luôn mạnh khỏe không đau ốm. Lên 10 tuổi ông theo thầy học tập, do được chỉ dạy tận tường công với sự thông minh sẵn có, ông đã sớm tinh tường thi lễ. Năm 17 tuổi, cha mẹ ông lần lượt qua đời, ông đau sau đó thì xuất gia. Ông rời quê đi tìm thầy học đạo. Suốt 3 ngày liền trên thuyền nan, đến ngày thứ tư thuyền cập vào bến Phan Thành (Phan Thành ngày nay), ông đến chùa Phước Hưng, cầu Trí Chất Đại Sư – trụ trì thụ giáo. Ông có pháp danh là Thông Ân. Sau khi thầy mất, ông rời chùa đến xứ Bàu Trâm dựng ngôi Thảo Am, ngày đêm kiêm tu thiền định. Qua 3 năm tụ tập, tại đây Ngài đã cứu dân làng thoát khỏi nhiều bệnh tật nên dân vô vùng mến phục. Họ dựng lên một ngôi chùa hiệu là Kim Quang Tự. ông ở lại đây 30 năm hành đạo. Sau đó được hòa thượng Bửu Tạng truyền trao Đại giới (250 giới) và phú pháp cho Ngài hiệu Hữu Đức. Không bao lâu Ngài đến xứ Bàu Siêu rồi lên tận đỉnh núi Tà Cú
Vườn quốc gia Phước Bình (Bình Thuận)
Vườn quốc gia Phước Bình thuộc xã Phước Bình, huyện Bác Ái, tỉnh Bình Thuận. Thành lập theo Quyết định số 822/QĐ-TTg ngày 8 tháng 6 năm 2006 do phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định chuyển Khu bảo tồn thiên nhiên Phước Bình thành Vườn quốc gia Phước Bình trong hệ thống các khu rừng đặc dụng của Việt Nam. Vị tríTọa độ: Từ 11°58′32″ tới 12°10′00″ vĩ bắc và 108°41′00″ tới 108°49′05″ kinh đông.Vườn có tổng diện tích 19.814 ha, góp phần bảo tồn sinh cảnh rừng tự nhiên của hệ sinh thái rừng vùng núi cao, đồng thời cùng với Vườn quốc gia BiDoup - Núi Bà ở Lâm Đồng để tạo thành một vùng bảo tồn thiên nhiên rộng lớn, góp phần cho việc bảo tồn đa dạng sinh học ở vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Bảo tồn sinh cảnh rừng tự nhiên tiêu biểu, độc đáo của hệ sinh thái rừng vùng núi cao với các kiểu rừng: rừng kín thường xanh, rừng mưa ẩm nhiệt đới; rừng hỗn hợp cây lá rộng và cây lá kim á nhiệt đới; rừng lá kim; rừng thưa cây họ dầu tiêu biểu cho kiểu rừng khô hạn của tỉnh Ninh Thuận.Ngoài ra, vườn còn có nhiệm vụ góp phần nâng cao năng lực phòng hộ đầu nguồn nước cho hệ thống sông Cái của tỉnh Ninh Thuận nhằm phục vụ các hoạt động sản xuất và đời sống, phát triển kinh tế - xã hội của vùng Nam Trung Bộ.Vườn có 3 phân khu chức năng:phân khu bảo vệ nghiêm ngặt Khu phục hồi sinh thái Phân khu hành chính - dịch vụ Động thực vậtVườn quốc gia Phước Bình có 513 loài thực vật và 170 loài động vật quý hiếm.
Mũi Né
là tên một vi.wikipedia.org/wiki/M%C5%A9i_bi%E1%BB%83n - mũi biển, một trung tâm du lịch nổi tiếng ở vi.wikipedia.org/wiki/Phan_Thi%E1%BA%BFt - Phan Thiết[SUP][3][/SUP]. Ngày nay, Mũi Né là một vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C6%B0%E1%BB%9Dng - phường của thành phố Phan Thiết và đang hình thành đề án nâng cấp thành thị xã của tỉnh Bình Thuận.
Từ một dải bờ biển hoang vu với các đồi cát đỏ như vi.wikipedia.org/wiki/Sa_m%E1%BA%A1c - sa mạc nằm rất xa đường giao thông, chỉ có lác đác vài xóm chài nghèo, Mũi Né đã mọc lên hàng trăm khu vi.wikipedia.org/wiki/Resort - resort.
Cách trung tâm thành phố Phan Thiết 22 km về hướng Đông Bắc, Mũi Né được nối liền với thành phố biển này bởi con đường Nguyễn Đình Chiểu - được coi là tuyến trọng yếu cho ngành du lịch của Bình Thuận.
Khi đến Mũi Né, du khách sẽ có thể được tham quan làng chài Mũi Né, có cơ hội chứng kiến được hoạt động của một làng chài xứ biển thuần chất Việt Nam.
Nguồn gốc tên gọi

  • Tên gọi Mũi Né xuất phát từ việc ngư dân, mỗi khi đi biển gặp bão, thường đến đây nương náu. "Mũi" là cái mũi đất đưa ra biển; "Né" có nghĩa là để né tránh. Nơi đây có sự hài hòa giữa màu vàng của cát, màu óng của nắng và màu xanh thẳm của biển tạo cảm giác ấm áp và trong lành, thu hút rất nhiều du khách.
  • Tên gọi xuất phát từ công chúa Út của vua Chăm là công chúa Chuột - tương truyền vùng đất này của người Chăm , xưa kia lau sậy mọc um tùm . Công chúa Chăm năm 16 tuổi mắc bệnh nan y , về sau xây dựng miếu Am để tu tại vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2n_R%C6%A1m - Hòn Rơm . Từ đó lấy biệt danh là bà Nà Né - lâu dần người dân đọc trại chữ Nà Né thành Mũi Né . Né là tên của công chúa Út - Mũi là mũi đất đưa ra biển .
Đường ra Mũi Né
Từ nội thành Phan Thiết ra Mũi Né khoảng 20 km, có nhiều di tích, danh lam thắng cảnh, nơi tham quan nằm rải rác trên đường. Việc tập trung như thế này khiến cho đường ra Mũi Né thêm phần hấp dẫn. Thứ tự từ hướng vi.wikipedia.org/wiki/TPHCM - TPHCM đi vào như sau:

  • Nhà ở Mộng Cầm - một trong những người tình của Hàn Mạc Tử nằm tại số nhà 300 đường Trần Hưng Đạo.

  • vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng_C%C3%A0_Ty - Sông Cà Ty với Tháp nước Phan Thiết.
  • Vạn Thủy Tú.
  • Trường Dục Thanh.
  • Chợ Phan Thiết.
  • Tháp Chăm Phố Hài - vi.wikipedia.org/wiki/P%C3%B4shan%C6%B0 - Tháp Pôshanư.
  • .vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2n_R%C6%A1m - Hòn Rơm
  • Lầu Ông Hoàng.
  • Núi Cố với mộ Nguyễn Thông.
  • Bãi đá Ông Địa.
  • Rặng Dừa Hàm Tiến (Rạng).
  • Khu vi.wikipedia.org/wiki/Resort - resort cao cấp.
  • Suối Tiên.
  • Đồi Cát Mũi Né
Một thắng cảnh đẹp của Bình Thuận
Nằm trên hệ thống núi đá thuộc xã Vĩnh Hảo, huyện Tuy Phong, cách thị trấn Liên Hương khoảng 12 km về hướng bắc, chùa Pháp Võ (thường gọi chùa Đá Mẹp) là danh lam thắng cảnh của huyện Tuy Phong.
Đây còn được xem là nơi linh thiêng của các tín đồ Phật giáo và họ thường xuyên đến cúng lễ, cầu nguyện vào các ngày lễ, rằm và mồng một. Ngày Tết và các ngày rằm lớn, rất đông khách hành hương đến từ Phan Thiết, Phan Rang và cả TP.HCM... Điều thuận lợi xe vào tận chân núi, chỉ cần đi bộ leo núi đá khoảng 10 phút tới hang Tổ. Tuy vậy nhưng chưa có sử sách hoặc báo chí viết về chùa này, có lẽ vì nơi đây vẫn còn là vùng sâu, vùng xa, ít ai biết đến.
Vào đến Khu du lịch Tắm khoáng - tắm bùn của Công ty cổ phần Nước khoáng Vĩnh Hảo, nhìn xa xa về hướng tây trên đường vào chùa, chúng ta thấy rõ hệ thống núi đá trùng điệp như trong tranh vẽ và phim Tây Du Ký vậy. Cảnh vật nơi đây thật là “sơn thủy hữu tình”. Hai bên đường vào chùa là khu rừng thưa, cây nhỏ, nhưng có các loài hoa rừng tuyệt đẹp.
Chùa Pháp Võ không lớn, nhưng cảnh vật xung quanh thật thơ mộng và hùng vĩ, các tảng đá lớn, nhỏ chồng lên nhau tạo thành các hang đá tuyệt mỹ. Hang đá lớn nhất dùng để thờ Phật Tổ Như Lai, kế bên hang Tổ có phòng khách và phòng ngủ rộng thênh thang, tha hồ mắc võng. Bên chánh điện thờ Phật Thích Ca, Phật Bà Quan Âm và Tam Tạng, có miếu thờ Quan Công và các hang đá nhỏ hơn thờ các vị thần khác nhau. Trước và bên hông chùa có tượng Phật Bà Quan Âm đứng lớn. Đi bộ qua hang đá hẹp, leo lên độ cao trên 100m có tượng Phật Bà Quan Âm đứng sừng sững giữa lưng chừng núi, trên một tảng đá lớn, cao gần 10 m.
Đứng trên chánh điện và hang Tổ nhìn ra biển Cà Ná, đảo Cù Lao Câu một màu xanh biếc thật tuyệt vời. Nếu chúng ta có dịp nghỉ lại qua đêm thú vị hơn nữa. Màn đêm buông xuống giữa khu rừng già có ánh điện lung linh của máy nổ như một hòn ngọc lạc giữa chốn sơn lâm. Ngồi bên hang Tổ nhìn ra biển, vị sư già trụ trì chùa sẽ cho chúng ta thưởng thức món trà xanh tuyệt hảo, ai có bệnh thì sẽ được bốc thuốc nam biếu không lấy tiền. 21 giờ tất cả cùng ngồi thiền với vị sư già để chiêm ngưỡng và hòa quyện tâm hồn vào núi rừng thiêng âm u, tĩnh mịch…
Vị sư này cho biết: có truyền thuyết rằng, ngày xưa có lúc bị hạn hán nặng, người dân đã tụ họp về đây rất đông để làm lễ cầu mưa. Đang lúc làm lễ thì bất ngờ mây đen kéo đến rợp trời, một cơn mưa như trút nước làm nức lòng dân, vì vậy xa xưa chùa này có tên là Pháp Vũ, sau đổi thành Pháp Võ.
Nơi đây thời chiến tranh thật ác liệt, các chiến sĩ cách mạng đóng quân thường trực ở đây để bảo vệ đường vào căn cứ chiến khu Phan Dũng. Đêm đêm, các pháo binh của giặc bắn hàng loạt đạn đại bác vào hang Tổ này, nhưng điều kỳ lạ là chẳng bao giờ trúng đích cả. Vì vậy có thể nói nơi đây là vùng căn cứ địa vững chắc cho các chiến sĩ cách mạng hoạt động.
Thuyết minh tỉnh Bình Thuận
TỈNH BÌNH THUẬN

Bình Thuận - những cái nhất cả nước
1. Vùng đồi cát Mũi Né đẹp nhất và hoạt động du lịch dã ngoại sôi động nhất.
2. Bãi đá Cổ Thạch ở Tuy Phong nhiều hình hài màu sắc nhất.
3. Ngọn đèn biển Khê Gà 100 m hơn trăm tuổi bằng đá cao nhất.
4. Tượng Phật nằm lớn nhất dài 49 m nằm giữa rừng nguyên sinh trong khuôn viên chùa Linh Sơn Trường Thọ trên núi Tà kú thuộc Hàm Thuận Nam.
5.Tháp nước đẹp nhất cao 32m, 70 tuổi ở trung tâm Phan Thiết (do Hoàng thân Xuvanuvông thiết kế).
6. Đền thờ cá voi Vạn Thủy Tú lớn nhất, lưu giữ hơn 100 bộ xương cá voi ở Phan Thiết.
7. Vùng trồng thanh long nhiều và ngon nhất, sò điệp nhiều và có giá trị nhất.
8. Có nhiều cuộc thi dân gian độc đáo nhất như đua thuyền trên sông Cà Ty, leo núi Tà kú, chạy việt dã qua đồi cát.
Truyền thuyết về Thầy Thím
Dinh Thầy Thiếm thuộc làng Tam Tân cũ, xã Tân Hải, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận. Nằm giữa vùng rừng hẻo lánh, trên một bãi cát trắng cách biển 2km. Dinh thầy Thiếm được xây dựng 1879 vào đời Tự Đức và được tôn tạo nhiều lần 1915 – 1924 –1988. Hàng năm ngày 15/9 âm lịch là ngày lễ lớn Dinh Thầy Thiếm. Dinh Thầy Thiếm được công nhận Di tích lịch sử văn hóa vào năm 1994.
Tương truyền thầy tên là Tánh, người làng Qua La, phủ Điện Bàn tỉnh Quảng Nam. Thầy sinh năm 1803 – năm thứ 2 Gia Long – nhà nghèo lận đận trong thi cử nên tầm sư học đạo. Thầy có pháp thuật cao cường. Vào một năm quê hương Thầy nắng hạn đồng khô cỏ cháy, Thầy đã đăng đàn cầu mưa, trời mưa đã làm xóm làng hồi sinh. Theo truyền thuyết làng của Thầy rất nghèo, dân làng ước mơ có một ngôi đình làng. Vào một đêm mưa to gió lớn, sáng ra mọi người thấy cái đình Bát Nhị đã thay thế vị trí ngôi làng Qua La. Quan làng hay tin bắt Thầy giải lên công đường. Thầy bị xử án tử, trước khi bị án tử Thầy xin một tấm vải điều, Thầy niệm chú vẽ hình con rồng trên vải, Thầy bảo Thiếm cùng ngồi trên tấm vải cùng Thầy. Thầy chấm thêm một đôi mắt vào rồng thì tự nhiên rồng bay lên chở Thầy Thiếm về phương Nam trước sự kinh hoàng của dân làng. Khi đến Tam Tần, Thiếm trọ nhà ông Hộ Hai. Thầy dùng bùa phép, Thiếm hái thuốc chữa bệnh cho dân làng. Thầy Thiếm qua đời lúc 77 tuổi. Theo truyền thuyết dinh Thầy quay về hướng Đông nhưng qua một đêm thì quay về hướng Nam, người làng cho là ý Thầy.
Tháp nước Phan Thiết
Đài nước được xây dựng từ cuối năm 1928 đến năm 1934 mới hoàn thành. Thiết kế tháp nước do Hoàng thân của Vương Quốc Lào, nguyên chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Lào Suphanouvong là kỹ sư trưởng khu công chánh Nha Trang. Tháp nước có chiều cao từ nền sân lên đến đỉnh là 32m. Tháp nước có 2 phần: phần trên là bầu dài (bồn nước) hình bát giác, phần dưới là thân đài. Tuy tháp nước được xây dựng đã 70 năm, với sự tàn phá của khí hậu miền biển Phan Thiết và qua các trận bão lũ lịch sử nhưng tháp nước đến nay chất lượng vẫn còn tốt.
Nhà máy nước suối Vĩnh Hảo
Thuộc xã Vĩnh Hảo huyện Tuy Phong, cách QL 1A 1 km. Trước 1975, nước suối Vĩnh Hảo là một trong những sản phẩm nổi tiếng trên thị trường Đông Nam Á. Dòng suối Vĩnh Hảo được xem là linh thiêng đối với người Chăm xưa.
Năm 1301, thái thượng hoàng Trần Nhân Tông cùng đoàn Chiêm Quốc du ngoạn, ông đã từng hứa gả con gái là Huyền Trân Công Chúa cho vua Chế Mân. Tháng 6/1306, Chế Mân dâng 2 Châu Ô và Lý để làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân. Trong thời gian sống ở Chiêm Quốc, Huyền Trân và Chế Mân thường đi thưởng ngoạn ở dòng suối này. Do thấy phong cảnh hữu tình và dòng suối đẹp nên Huyền Trân đặt tên là Vĩnh Hảo để nói lên sự giao hảo bền chặt giữa hai nước Việt-Chăm.
Năm 1928 được người Pháp khai thác gọi là Vichy giống như loại nước khoáng nổi tiếng bấy giờ của Pháp. Nước suối Vĩnh Hảo được chính thức nghiên cứu năm 1945. Nước suối Vĩnh Hảo thực sự lớn mạnh khi trở thành một công ty cổ phần tài chính Sài Gòn hợp tác với công ty nước giải khát Tribeco với vốn ban đầu là 10 tỉ đồng.
Bãi biển Cà Ná
Bãi biển Cà Ná nằm sát bờ biển. Cà Ná có vị trí thuận lợi cho việc tham quan, chúng ta có thể dừng chân tại Cà Ná thưởng thức cảnh đẹp và nghỉ ngơi để tiếp tục cho cuộc du ngoạn. Cà Ná có không khí trong lành và cả những hoạt động rất phong phú.
Hành trình trên quốc lộ 1A, khi đến đoạn giáp ranh Bình Thuận- Ninh Thuận, biển Cà Nà hiện ra bát ngát, bao la được mệnh danh là “nàng công chúa ngủ quên”. Biển xanh, cát trắng, ghềnh đá, núi non... cộng với các tuyến đường giao thông uốn lượn qua các eo biển, tạo cho Cà Ná một cảnh quan đầy ngoạn mục với khí hậu nắng ấm quanh năm. Cà Ná có đủ loại hình du lịch leo núi, khám phá những danh lam, di tích còn giữ nguyên nét hoang sơ, du lịch biển, hải đảo... Nước biển Cà Ná xanh thẳm, có độ mặn cao hơn các vùng khác từ 3-40, chỉ cần từ bờ lội ra khơi chừng 20 mét, với độ sâu chỉ khoảng 1-1,5 mét, du khách có thể thỏa sức ngắm các rạn san hô rất đẹp ẩn sau tầng nước. Bãi tắm trải dài xa hút, cát trắng tinh anh, sạch sẽ. Những ghềnh đá hoa cương điểm xuyến thêm nét đẹp đặc trưng của Cà Ná. Chính những ghềnh đá này tạo nên nhiều hang động kỳ bí như: hang Ông Phật, ghềnh Ông Nồng, giếng Đục...
Đến đây, du khách sẽ được đắm mình trong dòng nước xanh mát, chiêm ngưỡng những mỏm đá đủ loại hình thù nằm sát mép bờ, chụp ảnh lưu niệm hoặc tổ chức leo núi, thưởng thức các món ăn đặc sản, thăm các danh thắng, các công trình văn hóa đặc sắc, các làng nghề truyền thống của dân tộc Chăm thuộc huyện Ninh Phước, đi thuyền ra đảo Cù Lao Câu, tắm nước khoáng Vĩnh Hảo…
Trong tiếng Chăm có nghĩa là tiên sa. Đây là nơi mà gia đình các vua Chăm Pa thường đến nghỉ ngơi và săn bắt. Hiện nay Cà Ná là một bãi biển đẹp, cát trắng, biển trong xanh. Cà Ná thuộc Bình Thuận và cũng là ranh giới giữa Bình Thuận và Ninh Thuận. Phóng tầm mắt về hướng biển khoảng 6 km chúng ta thấy một hòn đảo nổi lên giữa biển như một chiếc hàng không mẫu hạm: đó chính là Cù Lao Câu một trong những nơi hiện nay có môi trường sinh thái biển tốt nhất Việt Nam hiện nay. Năm 1998 đã được Unessco tài trợ 2 triệu USD để bảo vệ rặng san hô ngầm từ Cù Lao Câu đến Hòn Mun (Khánh Hòa).
Bảo Tàng Hồ Chí Minh
Bên cạnh khu di tích, nhà trưng bày về cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ cũng được xây dựng và khánh thành năm 1986 Phân viện bảo tàng Hồ Chí Minh: được khởi công xây dựng năm 1983, nâng cấp năm 1986 và mở cửa đón khách vào ngày 01/06/1998.
Bảo tàng gồm có:
Tầng trệt: phòng trưng bày hình ảnh, tư liệu nói về tiểu sử và sự nghiệp của Chủ Tịch Hồ Chí Minh từ khi ra đời đến năm 1930. Phòng trưng bày những di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh tỉnh Bình Thuận. Chân dung những nhân vật đã xây dựng ngôi trường Dục Thanh.
Tầng lầu: Đề cập hoạt động của Bác Hồ sau khi từ nước ngoài trở về Việt Nam cho đến lúc mất.
Biển Mũi Né
Xét về đường bờ biển giống như số 3 ngược, tạo thành bãi trước và bãi sau, khu vục Hòn Rơm là bãi sau. Hai bãi này tạo ra hai vịnh. Mỗi khi tàu bè ra biển sóng gió thất thường họ thường tìm nơi để tránh gió. Những nơi này là nơi cập bến lý tưởng nên người ta gọi là bãi tránh né tàu, gọi tắt thành Mũi Né. Thứ hai đây là nơi vào lúc cuối đời Bà Nà sống để tránh bon chen của cuộc đời và nơi này được gọi là Né (Nà). Nơi đây tập trung rất nhiều tàu bè, mùa gió Đông bắc neo ở bãi sau, gió Tây Nam neo ở bãi trước.
Biển Mũi Né không lạnh bởi hai dòng hải lưu nóng lạnh. Thời điểm tắm biển thích hợp nhất là vào khoảng tháng 11 vì nếu đi vào tháng 7-8 thì đúng vào mùa sứa đẻ nước biển tanh, nhiều bọt và có màu đen.
Trước đây người dân Phan Thiết không khá lên nổi nhưng kể từ ngày 24/10/1995 khi hiện tượng nhật thực toàn phần xảy ra (tại Mũi Né và thác Đamry ở Lâm Đồng) thì có rất nhiều người (nhà báo, nhà khoa học, khách du lịch) đến Mũi né vì nơi đây nhật thực toàn phần xảy ra 100%. Những người đến đây phát hiện ra rằng bãi biển Mũi Né giống như một nàng công chúa ngủ trong rừng.
Đồi cát bay
Hoàn toàn do thiên nhiên tạo ra với những hốc cát mênh mông kỳ diệu. Những năm gần đây, trượt cát ở Mũi Né là một thú vui thật sự hấp dẫn mọi người, nhất là với trẻ em và thanh niên. Bạn sẽ được hưởng niềm thú vị bất ngờ cùng những giây phút bay bổng kỳ diệu khi trượt từ đỉnh đồi cát xuống. Wow! Thật tuyệt vời! Khi khách leo lên tới đỉnh đồi cát, đội quân cho thuê ván trượt đã có mặt, mỗi người cầm vài miếng nhựa dẻo và nhanh chóng tiếp thị bằng cách chạy lên những đồi, dốc cao nhất biểu diễn mọi thế ngồi, nằm, bò chúi đầu… không khác gì cảnh trượt tuyết ở châu âu vào mùa đông!
Thời gian tham quan cát thích hợp nhất là vào lúc sáng sớm hoặc chiều (5-6giờ) bởi vì cát giữ nhiệt rất lâu nên nếu leo đồi cát vào buổi trưa thì rất dễ bỏng chân.
Bãi đá Ông Địa
Hoàn toàn do thiên nhiên tạo ra nên ở đây có hòn đá nhô ra có hình dáng giống như ông Địa. Trước đây người ta chỉ để thờ sau này mới sơn phết và xây miếu thờ cho ông Địa. Ngày xưa những thương nhân, mặc khách đến đây làm thơ:
Lãng tử rong chơi ngoài biển đá
Giữa ngày xuân quên cả lối về
Biển và em bao giờ cũng thế
Cứ ồn ào xao động mãi lòng anh.
Rừng dừa Hàm Tiến
Dọc theo đường Thủ Khoa Huân ta sẽ bắt gặp rừng dừa xanh mát chạy dọc ôm lấy bãi biển Mũi Né thật đẹp. Những cây dừa ở đây không đứng thẳng như ở đồng bằng mà nghiêng nghiêng dáng như tô điểm cho Mũi Né thêm quyến rũ lòng người. Cũng như những cây dừa nơi khác, dừa Hàm Tiến cũng mang lại nhiều lợi ích cho nhân dân nơi đây. Ngoài trái dừa với dòng nước mát ngọt thì những bộ phận trên cây dừa đều được sử dụng một cách triệt để. Lá dừa ngoài việc dùng để làm bánh, làm chất đốt, làm hàng rào, còn dùng để dụ cá, làm chổi quét sân. Gáo dừa được sơn phết làm hàng lưu niệm hay chỉ đơn giản là chơi đồ hàng.
Làng gốm Bắc Bình: Hay còn gọi là làng gốm Tam Hiệp thuộc huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Người ta để đất sét đã nhào ướt lên một mặt bàn cố định và đi xung quanh nắn bằng tay. Sau khi dùng tay nắn thành đồ vật, người ta dùng một miếng vải nhúng nước và đi xung quanh nắn miệng vành, nắn kiểu. Sau đó dùng một thanh tre mỏng uốn lại để cạo lớp ngoài tạo hình hoa văn. Cuối cùng người ta đem phơi nắng và đem vào lò nung khoảng 2 tiếng. Làng gốm Bắc Bình cách trung tâm Phan Rí không xa.
Cây Điều
Cây Điều có tên khoa học là: Anacardium occidentale L. Thuộc họ thực vật: Anacardiaceae. Bộ: Rutales. Ở nhiều tỉnh miền Trung, miền Bắc nước ta cây điều còn được gọi là cây đào lộn hột. Sở dĩ có cái tên hơi kỳ quặc như vậy vì nhìn vẻ ngoài trái điều trông giống trái đào và (miền Bắc gọi là quả roi, Nam Bộ gọi là trái mận) có hột nằm phía ngoài. Nhưng thực ra cái mà ta thường gọi là trái chỉ là phần cuống của trái phình to ra còn trái thực lại chính là hạt điều.
Khoảng vài thế kỷ trước đây cây điều vốn dĩ chỉ là một loài cây mọc tự nhiên hoang dại ở miền Đông Bắc Braxin thuộc Nam Mỹ. Cùng nằm trong chi thực vật Anacardium với điều còn có 20 loài cây khác nữa; song chỉ độc nhât có cây điều là cây được sử dụng trong trồng trọt với ý nghĩa là một loài cây ăn trái. Đa số các loài cây trong chi thực vật này, có tới 17 loài gồm cả điều, đều có chung quê hương là Braxin; 3 loài khác thấy mọc ở vùng sông Amazôn thuộc Trung Mỹ. Riêng loài Anacardium encardium là loài độc nhất trong chi thực vật này không phân bố ở Trung và Nam Mỹ mà lại tìm thấy ở bán đảo Malaixia của Châu Á.
Từ lâu người dân địa phương miền Đông Bắc Braxin đã biết thu lượm trái và hạt điều để ăn và nó đã trở thành một khẩu phần quan trọng trong bữa ăn của họ. Tuy nhiên, nguồn thực phẩm này chỉ được thu hoạch bằng cách hái lượm hạt và trái điều từ những cây mọc hoang dã, vì cho tới thời kỳ này điều vẫn chưa phải là một loài cây trồng trọt cung cấp lương thực. Vào thế kỷ thứ 16 khi Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha xâm lược chiế Nam Mỹ các thủy thủ của họ đã mang hạt điều ra khỏi quê hương lãnh thổ của nó đem đến trồng thử tại một số nước thuộc địa ở Trung Mỹ, Đông Phi và Ấn Độ. Vì vậy, có thể thời điểm này là mốc thời gian chuyển cây điều từ trạng thái hoang dã sang dạng cây trồng trọt. Tại các nước Đông Phi, chủ là Môdămbic, Tandania và một phần Kênia người Bồ Đào Nha đã tìm thấy ở những nơi đó các điều kiện sinh thái rất thích hợp cho cây điều phát triển. Còn ở Châu Á, cũng vào thời điểm giữa những năm của thế kỷ 16, người Tây Ban Nha đã đưa những hạt giống điều đầu tiên vào trồng ở vùng bờ biển Malaba của Ấn Độ. Từ vùng trồng khởi đầu này ở Châu Á cây điều đã được di giống lan rộng tới Inđônêxia và các nước Đông Nam Á khác cả do bàn tay con người cũng như do chim, thú tha mang đi.
Suốt mấy trăm năm sau kể từ thời điểm khởi đầu đó cho mãi tới đầu thế kỷ thứ 20 cây điều tuy đã được trồng nhiều ở Đông Phi, Ấn Độ và các nước châu Á khác nhưng mục đích chủ yếu vẫn là nhằm để che phủ đất, chống xói mòn, còn việc sử dụng trái và hạt làm đồ ăn, thức uống chỉ là mục tiêu kết hợp. Đầu thế kỷ 20 những lô hàng nhân hạt điều đầu tiên được đóng gói, bảo quản trong thùng thiếc gắn kín nhập khẩu vào Hoa Kỳ, được thị trường nước này ưa chuộng và bán với giá cao thì các sản phẩm chế biến từ nhân hạt điều mới bắt đầu trở thành hàng hóa buôn bán trên thị trường thế giới. Nhờ đó cây điều đã thực sự trở thành một cây thực phẩm có giá trị và được đầu tư nghiên cứu nhầm cải thiện kỷ thuật gây trồng, cải thiện giống để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Hiện nay đã có hơn 50 nước thuộc vùng nhiệt đới trên thế giới có gây trồng điều với diện tích lớn hoặc nhỏ, phân bố trong giới hạn địa lý từ chí tuyến Bắc xuống đến chí tuyến Nam (khoảng 400) và thường tập trung ở các vùng đất ven biển.
Trong khoảng 15 năm trở lại đây sản lượng bình quân hạt điều trên thế giới ước chừng 400 – 500.000 tấn / năm. Từ giữa những năm 70 trở về trước thì vùng trồng điều đó diện tích lớn nhất và sản lượng hạt điều thô xuất khẩu lớn nhất trên thế giới là thuộc các nước Đông Phi như Môdămbic, Tandania, Kênia, Nigiêria chiếm tới 60% thị phần. Sau đó là tới Ấn Độ ở Châu Á và Braxin ở Châu Mỹ La Tinh. Song, bước vào thập niên 80 do những biến động lớn về điều kiện tự nhiên cũng như xã hội, do vốn đầu tư hạn hẹp nên tình hình sản xuất điều ở các nước Đông Phi bị sút giảm nghiêm trọng. Sản lượng hạt điều của họ hiện nay so với những năm đạt cao nhất vào giữa thập kỷ 70 thì chỉ còn khoảng 15%. Trong khi đó ở Châu Mỹ La Tinh, Braxin nhờ thị trường Bắc Mỹ tiêu thụ mạnh sản phẩm điều của họ nên đang ra sức mở rộng diện tích cũng như đầu tư thâm canh nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Dự kiến cuối thế kỷ này họ sẽ tăng diện tích trồng điều hiện nay đang khoảng 150.000 ha lên xấp xỉ 400.000 ha để đạt sản lượng ước khoảng trên 300.000 tấn / năm. Ở Châu Á, Ấn Độ cũng đang trên đà mở rộng diện tích trồng điều để bù đắp sự sút giảm lượng hạt thô nhập khẩu từ các nước Đông Phi cho các cơ sở chế biến đã ở thế ổn định của họ. Đến cuối thế kỷ này diện tích trồng điều của Ấn Độ có thể đạt tới trên 500.000 ha và sẽ đạt sản lượng hạt thô ước khoảng 300.000 tấn / năm. Việt Nam cũng là một nuớc sản xuất điều phát triển mạnh, hiện đã vượt qua Inđônêxia vươn lên vị trí thứ ba trong số các nước vừa có diện tích trồng điều lớn, vừa có sản lượng cao. Nếu được nhà nước quan tâm thích đáng, đề ra các chính sách kinh tế – kỹ thuật hợp lý nhằm ổn định và mở rộng vùng nguyên liệu củng cố và nâng cao năng lực của các cơ sở chế biến trong nước đồng thời giải quyết tốt khâu xuất khẩu thì ngành hàng điều còn vươn lên mạnh hơn nữa góp phần đáng kể trong hiệu quả của chương trình xóa đói giảm nghèo và cải thiện môi trường.
Nguồn tiêu thụ sản phầm nhân hạt điều chủ yếu là các nước phát triển, giàu có. Riêng thị trường nước Mỹ hàng năm tiêu thụ khoảng 44.000 – 45.000 tấn nhân hạt điều, chiếm tới trên dưới 65% tổng lượng nhập khẩu toàn thế giới. Số còn lại là các nước Tây Âu khác và Úc, Nhật Bản.
Tuy thị trường nước Mỹ tiêu thụ sản phẩm nhân hạt điều lớn như vậy song họ đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm rất nghiêm khắc và chặt chẽ. Có thể nói sản phẩm nhân hạt điều của nước nào được thị trường Mỹ chấp nhật và ưa chuộng sẽ tạo cơ hội cho nước đó phát triển mạnh ngành hàng này và thu được một nguồn lợi kinh tế đáng kể. Mấy năm vừa qua, kể từ khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, sản phẩm nhân hạt điều của nước ta đã có mặt ở thị trường nước này với lượng nhập khẩu ngày càng gia tăng đáng kể. Hiện nay thị trường Mỹ, Canada, Nhật, Úc, Anh, Italia và một số nước Đông Nam Á hàng năm tiêu thụ hơn 60% tổng sản phẩm nhân hạt điều của nước ta. Số còn lại được thị trường Trung Quốc, Đài Loan và HồngKông tiêu thụ. Nhờ vậy chúng ta không còn buộc phải bán hạt điều thô giá rẻ cho Ấn Độ để họ chế biến nhân tái xuất và từ đó chúng ta cũng tăng thêm nguồn thu kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Đồng thời tạo ra công ăn việc làm ổn định cho hơn 50.000 người lao động trong nước, góp phần đáng kể cho việc cải thiện đời sống các hộ nông dân nghèo trồng điều.
Chưa tìm thấy tài liệu nào nói đích xác cây điều được di giống đến nước ta từ bao giờ. Có giả thiết cho rằng các giáo sĩ Âu châu khi tiới Việt Nam truyền giáo đã mang theo hạt điều vào nước ta; điều đó có nghĩa là cây điều đã có mặt ở nước ta từ mấy trăm năm nay vào thời kỳ các nước Tây Âu bành trướng thuộc địa ở châu Á và châu Phi. Nhưng cũng có tài liệu lại cho rằng một số chủ đồn điền người Pháp mang hạt điều từ Ấn Độ sang trồng thử tại nước ta chỉ mới hơn một trăm năm nay. Có thể tin được rằng vào thời kỳ đầu đó cây điều đã được trồng thử ở nhiều vùng cả nước ta, miền Bắc cũng như miền Trung và miền Nam. Song do năng lực thích nghi về sinh thái khí hậu nên giống điều chỉ thấy tồn tại ở Nam bộ và cực Nam Trung bộ dưới dạng cây vườn phân tán ở các đồn điền cũ của người Pháp và xung quanh nhà dân.
Suốt trong một thời gian dài do không có thị trường tiêu thụ và do sản lượng không đáng kể nên cây điều chẳng được mấy ai chú ý tối. Đến khi lực lượng quân sự Mỹ ồ ạt xâm chiếm miền Nam vào những năm 60 và đầu thập kỷ 70 vừa qua, một số doanh nhân Hoa Kiều ở Chợ Lớn đã tìm thấy nguồn lợi trong việc chế biến nhân hạt điều cho các tiệm ăn phục vụ binh sĩ Mỹ mới bắt đầu tổ chức thu mua hạt điều của các hộ nông dân và đầu tư chút ít cho việc trồng điều qui mô nhỏ. Tính tới đầu những năm 80 cây điều từ dạng phân tán lẻ tẻ đã được trồng thành vườn nhỏ với tổng diện tích ở Đông Nam bộ và duyên hải Nam Trung bộ lên tới xấp xỉ 1.000 ha, đạt sản lượng khoảng 200 – 300 tấn / năm.
Vào năm 1977 – 1978, do tìm hiểu được thị trường tiêu thụ nên Sở Ngoại thương TpHCM đã xuất được những lô hàng hạt điều thô đầu tiên ra nước ngoài bán với giá cao và tìm thấy ở ngành hàng nông sản này một thế mạnh trên thị trường quốc tế nên đã mạnh dạn đầu tư xây dựng một nông trường trồng điều 300ha ở huyện Bến Cát tỉnh Bình Dương. Từ đó đã dấy lên một phong trào trồng điều mạnh mẽ ở nhiều địa phương. Đến nay tổng diện tích trồng điều ở nước ta, tính từ phía Nam đèo Hải Vân trở vào mà tập trung chủ yếu là các tỉnh Nam Trung bộ và Đông Nam bộ đã lên tới xấp xỉ 250.000 ha gồm đủ loại cũ có mới có, già có non có, vườn có năng suất cao cũng như vườn thoái hóa. Sản lượng hạt điều thô thu mua được trong hai năm 1996 – 1997, bình quân mỗi năm là 130.000 tấn; dự kiến năm 2.000 có thể đạt 200.000 tấn.
Vào những năm 80 phần lớn sản lượng hạt điều của nước ta đều được xuất bán ra thị trường nước ngoài. Bước qua thập kỷ 90 và đặc biệt là từ 1995 trở lại đây ta đã có hơn 50 cơ sở kinh doanh, chế biến hạt điều với tổng công suất thiết kế để chế biến đạt tới 150.000 tấn nguyên liệu hạt thô / năm. Nhờ đó đã thu hút hầu như toàn bộ sản lượng hạt điều thô cho chế biến trong nước, tỷ lệ xuất nguyên liệu thô hầu như không đáng kể. Chỉ cần duy trì mức phát triển như hiện nay thì tới năm 2000 một số vườn điều mới trồng sẽ bắt đầu cho sản lượng đưa tổng giá trị xuất khẩu mặt hàng này lên tới gần 200 triệu đô la Mỹ, tương đương với nửa triệu tấn gạo ngon xuất khẩu.
Như vậy, có thể nói rằng trong một thời gian hết sức ngắn, chưa đầy 20 năm, cây điều ở nước ta từ chỗ chưa được mấy người quan tâm đến nay đã trở thành một loại cây được gây trồng mạnh mẽ, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao động cả trong khâu gây trồng cũng như chế biến sản phẩm và cho giá trị kim ngạch xuất khẩu đáng kể. Đồng thời, cũng cần chú ý rằng hiện thời mặt hàng điều của nước ta đã chiếm vị trí cao cả về tổng lượng sản phẩm cũng như phẩm cũng như phẩm chất mặt hàng trên thương trường Quốc tế. Song, cũng trong thời gian ngắn đó đã có biết bao vấn đề khó khăn, trở ngại cả về phương diện khoa học kỹ thuật trong gây trồng và chế biến cũng như về các chính sách kinh tế về mối quan hệ giữa người sản xuất nguyên liệu với cơ sở chế biến, giữa các đơn vị xuất khẩu với bạn hàng nước ngoài đã từng lúc, từng nơi kìm hãm sự phát triển của mặt hàng này; thậm chí đã có địa phương người nông dân chặt bỏ vườn điều của mình vì sản phẩm thu hoạch được bị ép bán giá rẻ không đủ bù chi phí sản xuất. Để cây điều phát triển ổn định, mặt hàng xuất khẩu tăng, sản phẩm có phẩm chất cao thì đã tới lúc nhà nước có sự quan tâm thích đáng cả về phương diện khoa học – kỹ thuật, chính sách kinh tế, điều chỉnh các mối quan hệ trong nội – ngoại thương, cùng với lúa và cao su xem cây điều như một cây nông – công nghiệp chiến lược của nước ta.
Chùa Hang (Cổ Thạch Tự)
Đầu thế kỷ 19 một vị sư tên Hải Bình từ Phú Yên vào lập Chùa ở đây. Cổ Thạch tự được xây dựng năm 1835 – 1836. Đầu tiên chỉ là một thảo am nhỏ vách ván, lợp lá. Đến thời Vua Thiệu Trị (1841 –1847) cho xây dựng lại và được giữ gìn cho đến nay.
Chùa được xây dựng trên khu đồi núi thấp, nằm ở độ cao 64m so với mặt nước biển, lợi dụng những hang đá để xây dựng chùa. Chùa có diện tích 1.299 m2. Đầu năm 1997 chùa xây dựng thêm nhiều tượng Phật Bà Quan Âm rải rác ven biển tạo phong cảnh đẹp khi đứng nhìn từ chùa Hang.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, chùa Cổ Thạch là nơi dừng chân của các chiến sĩ cách mạng. Trong chùa có tháp thờ những anh hùng liệt sĩ. Ngày 24/12/1993, chùa Hang được bộ văn hóa công nhận là di tích lịch sử Quốc gia.
Suối Vĩnh Hảo:Suối Vĩnh Hảo thuộc xã Vĩnh Hảo, huyện Tuy Phong, cách quốc lộ 1A 1 km. Nước suốiVĩnh Hảo trước năm 1975 là một sản phẩm nước khoáng nổi tiếng trên thị trường Đông Nam Á. Dòng suối Vĩnh Hảo được xem là linh thiêng đối với người Chămpa xưa. Năm 1306, vua Trần Anh Tông gả em gái mình là Trần Huyền Trân cho vua Chămpa là Chế Mân. Chế Mân thường đưa nàng đến đây ngắm cảnh và Huyền Trân đã đặt tên cho dòng suối là Vĩnh Hảo, ý muốn mối giao hảo giữa Đại Việt và Chămpa được bền vững muôn đời. Suối Vĩnh Hảo có nhiệt độ 360C, có các chất khoáng: Natri, Kali, Magie rất có ích cho cơ thể. Năm 1923 người Pháp đem nước thử tại viện Pasteur. Năm 1930 người Pháp chính thức khai thác. Năm 1992 công ty Tribico đầu tư khai thác với công suất 5 triệu lít/năm.
Hấp dẫn đảo Kê Gà
Ngọn hải đăng trăm tuổi trên đảo Kê Gà sừng sững giữa biển khơi đang là điểm đến hấp dẫn đối với du khách khi đến với Bình Thuận. Đứng trên ban-công ở đỉnh hải đăng, phong cảnh một vùng biển mở ra trước mắt du khách đẹp đến sững sờ, hiếm có...
Từ thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) đi xe máy hoặc xe buýt dọc theo bờ biển phía Nam khoảng 25 km là đến địa điểm có ngọn hải đăng trăm tuổi này. Hải đăng Kê Gà (có người gọi Khe Gà) nằm trên hòn đảo nhỏ, cách bờ biển khoảng 500 mét. Lúc nước thủy triều xuống, người ta có thể đi bộ ra đảo.
Vùng biển này thường xuyên có tàu thuyền đi ngang, nhất là tàu buôn nước ngoài. Cũng bởi là vùng biển có vị trí hiểm trở, nhiều bãi đá ngầm, người Pháp đã cho xây dựng ngọn hải đăng tại đây để dẫn đường tàu thuyền đánh cá, cảnh báo nguy hiểm đối với tàu buôn. Kỹ sư người Pháp Chnavat là người thiết kế công trình này và được khởi công xây dựng vào tháng 02/1897, đến cuối năm 1898 hải đăng mới hoàn thành và đưa vào hoạt động vào năm 1900-đến nay đã 108 năm.
Tháp hải đăng hình bát giác được xây trên đỉnh cao nhất của đảo. Tại tháp đèn có những ô cửa kính dày bao bọc 2 bóng đèn có công suất 2.000w, xoay được 360 độ. Vào lúc trời trong, nhìn từ xa 10km du khách đã có thể thấy ngọn hải đăng sừng sững giữa trời cao. Ban đêm, ánh đèn chiếu sáng đến 22 hải lý.
Lối dẫn vào hải đăng là những bậc thang bằng bê tông, hai bên trồng hàng hoa sứ cổ. Người dân ở đây cho rằng, những cây sứ được trồng ngay sau khi ngọn hải đăng được dựng lên nên gốc cây nào cũng to lớn. Vào bên trong hải đăng, du khách phải bước lên 184 bậc thang xoắn trôn ốc để lên đỉnh. Tại đây, một ban-công rộng rãi mở ra để du khách đứng ngắm biển xanh bao la. Những khu nghỉ dưỡng, bãi đá, bờ biển... trải dài hàng chục cây số đều thu gọn vào tầm mắt. Những mệt mỏi sau khi đi bộ lên các bậc thang cao 54 mét sẽ được xua tan bởi cảnh đẹp của thiên nhiên và làn gió biển mát rượi khiến du khách cảm thấy phấn chấn. Thời điểm lý tưởng nhất trong ngày để lên đỉnh Kê Gà là lúc hoàng hôn. Những người mê biển thường ở lại đảo qua đêm để câu cá, ngắm ánh trăng vằng vặc vào ban đêm bên ngọn lửa hồng và ngắm cảnh bình minh hùng vĩ hiện dần trên mặt biển...
Dù đã có từ rất lâu nhưng hải đăng Kê Gà chưa được nhiều người biết đến. Phần lớn du khách đến Phan Thiết đi thẳng ra Mũi Né nhưng từ khi Mũi Né bị “bao vây” bởi hệ thống các khu nghỉ dưỡng, nhà hàng, khách sạn thì những người yêu thiên nhiên miền biển có ý thích đi tìm những điểm dừng chân mới. Cuộc đổ bộ của du khách và các nhà đầu tư vào phía Nam Phan Thiết bắt đầu từ đó. Nhiều khu nghỉ dưỡng đã mọc lên nhưng đều có phong cách kiến trúc tôn trọng thiên nhiên, tạo nên sự hài hòa giữa người và biển.
Việc đưa người ra ngọn hải đăng tham quan hiện nay chưa nằm trong tua, tuyến của hãng lữ hành lớn nào mà chủ yếu do người dân địa phương làm theo kiểu tự phát. Lên xuống tàu để ra hải đăng và trở lại đất liền không được thuận tiện, nhất là với người lớn tuổi. Hai đầu bến vẫn chưa có cầu tàu. Du khách phải xắn quần lội nước để leo lên tàu... Nhưng chắc chắn trong thời gian không xa nữa, Kê Gà sẽ có tên trong danh sách các tour du lịch và đây sẽ là điểm đến hấp dẫn với mỗi du khách khi đến Bình Thuận.
Nước khoáng Vĩnh Hảo với truyền thuyết Huyền Trân Công Chúa
Có lẽ ít ai biết rằng, cái tên Vĩnh Hảo đầy ấn tượng ấy lại do chính Huyền Trân Công Chúa đặt cho dòng suối nóng Eamu đầy thơ mộng từ đầu thế kỷ 14, nhân chuyến “ngao du sơn thủy” cùng chồng là vua Chiêm Chế Mân bên dòng suối (chính dòng suối Eamu huyền thoại ngày xưa, nay là dòng nước khoáng Vĩnh Hảo). Và khi nhắc đến Huyền Trân Công Chúa đã gợi cho chúng ta những hình ảnh đẹp của một vị công chúa “sắc nước hương trời” nhưng cũng rất “hồng nhan bạc mệnh” này… Huyền thoại một truyền thuyết bắt đầu từ đây…
Nếu ai đã từng đặt chân đến Vĩnh hảo, tỉnh Bình Thuận có lẽ sẽ không bao giờ quên phong cảnh thiên nhiên đặc sắc với núi non hùng vĩ, trùng điệp, nhiều hang động, chùa tháp… hòa quyện cùng với biển cả mênh mông. Vĩnh Hảo, nơi “giao hòa” giữa dãy Trường Sơn với biển Đông, đã tạo nên một hình tượng thật độc đáo “sơn thủy hữu tình” như một bức tranh đầy quyến rũ và huyền thoại…
Có lẽ ít ai biết rằng, cái tên Vĩnh Hảo đầy ấn tượng ấy lại do chính Huyền Trân Công Chúa đặt cho dòng suối nóng Eamu đầy thơ mộng từ đầu thế kỷ 14, nhân chuyến “ngao du sơn thủy” cùng chồng là vua Chiêm Chế Mân bên dòng suối (chính dòng suối Eamu huyền thoại ngày xưa, nay là dòng nước khoáng Vĩnh Hảo). Và khi nhắc đến Huyền Trân Công Chúa đã gợi cho chúng ta những hình ảnh đẹp của một vị công chúa “sắc nước hương trời” nhưng cũng rất “hồng nhan bạc mệnh” này… Huyền thoại một truyền thuyết bắt đầu từ đây…
Tuân lệnh vua cha, Công Chúa Huyền Trân đã thực hiện một sứ mệnh cao cả cho tổ quốc, chấp nhận “rẽ thúy chia duyên”, từ giã người yêu lý tưởng trong nước mắt, đó là võ tướng Trần Khắc Chung, để lên đường sánh duyên cùng vua Chiêm Chế Mân. Dù được tôn vinh là Hoàng hậu, rất được vua Chiêm sủng ái, nhưng lòng dạ Huyền Trân Công Chúa luôn bồn chồn hướng về tổ quốc, nơi có quê hương đất tổ và đặc biệt là người yêu cũng đang ngày đêm ngóng trông.
Hiểu được nỗi lòng của Công chúa nên Nhà vua đã truyền lệnh cho xây dựng một cung cấm với hồ tắm bên dòng suối Eamu huyền thoại. Nhờ tắm và uống dòng suối Eamu huyền thoại đã làm cho công chúa vơi đi nỗi nhớ quê nhà và càng lúc càng trở nên xinh đẹp.
Năm 1928, người Pháp sau khi nghiên cứu, đã phát hiện ra chất lượng tuyệt vời của nước khoáng Vĩnh Hảo, ngang tầm với nước khoáng Vichy của Pháp. Và từ đó, họ đã bắt tay vào khai thác thương mại, Vichy Vĩnh Hảo Việt Nam ra đời từ đó.
Trải qua những giai đoạn lịch sử thăng trầm, nước khoáng Vĩnh Hảo luôn tự khẳng định mình để đi lên và thương hiệu Vĩnh Hảo đã không những đứng vững trên thị trường trong nước mà còn vươn ra cả thị trường thế giới. Nước khoáng Vĩnh Hảo luôn tự hào là nước khoáng duy nhất Việt Nam đã xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Mỹ, Canada, Úc, Đài Loan, Hồng Kông do chất lượng tuyệt hảo và đạt tiêu chuẩn vệ sinh quốc tế.
Từ một nhà máy lạc hậu do người Pháp để lại, Công ty đã mạnh dạn đưa vào đầu tư một dây chuyền sản xuất hiện đại của Mỹ. Vĩnh Hảo là nước khoáng đầu tiên đạt các tiêu chuẩn ISO 9002-2000 và đang phấn đấu đạt các tiêu chuẩn của HAACP-2005, sản lượng luôn phấn đấu đạt và vượt công suất thiết kế.
Nước khoáng Vĩnh Hảo là nước khoáng duy nhất của Việt Nam có gas tự nhiên, hàm lượng Bicarbonat (HCO3) cao. Ngoài ra, còn có một số nguyên tố vi lượng có ích khác, có tác dụng bồi bổ cơ thể rất tốt, giúp tiêu hóa và lợi tiểu, làm đẹp làn da và hỗ trợ trị bệnh đau dạ dày. Theo kết quả nghiên cứu, nước khoáng Vĩnh Hảo có chất lượng ổn định từ năm 1928 đến nay. Để đáp ứng nhu cầu của thị trường, hiện nay, Vĩnh Hảo có 20 sản phẩm các loại, đáp ứng tốt nhất các thị hiếu của người tiêu dùng.
Dinh Thầy Thím - huyền thoại giữa đời thường
Nếp nhà ấy bình dị như một mái nhà quê luôn trông ngóng người ở xa trở về. Dinh Thầy - Thím (xã Tân Tiến, thị xã La Gi, Bình Thuận) vẫn như một mái ấm của cả dân làng Tam Tân từ hàng trăm năm qua, và rồi để những ai trở về đây như tìm về một chốn bình yên cho tâm hồn... Đặt chân đến cổng tam quan dinh trời đã về chiều của một ngày hè giữa tháng 7, những tia nắng le lói cuối ngày tỏa sáng rạng rỡ mái rồng cổng dinh trước khi sụp tắt. Thế mà từng đoàn du khách vẫn nối nhau lũ lượt qua cổng dinh, mang lễ vật về thăm nếp nhà xưa. So với một ngày hè của 15 năm trước, khi lần đầu cùng người bạn địa phương ngồi xe máy tìm đường đến thăm dinh, giờ đây khu vực quần thể dinh đã khang trang hơn rất nhiều.
Trong ký ức của tôi vẫn còn lưu giữ hình ảnh con đường đất bụi mù dẫn vào cổng dinh, hai bên là hàng dài những người buôn bán đồ cúng và hàng quà vặt khi về thăm dinh năm ấy. Con đường đỏ bụi ngày xưa giờ đã thay bằng đường đổ nhựa đen bóng. Không còn những hàng quà rong ngồi hai bên lối vào tam quan, song vẫn còn nạn chèo kéo du khách mua vé số và giả dạng ăn xin lê lết ngoài cổng dinh, làm mất đi phần nào nét đẹp thâm trầm của vùng đất huyền thoại trong mắt du khách.
Bỏ qua hết mọi tục lụy cõi trần bước vào tam quan, băng qua khoảng sân gạch tàu đỏ lóa nắng chiều, đoàn du khách gồm cả người già, trẻ con, người trung niên, thanh niên, thiếu nữ trang nghiêm bước vào sau bức án phong, kính cẩn nghiêng mình trước những lư hương nghi ngút khói hương lòng thành tưởng nhớ người xưa.
Phía trước miếu thờ thành hoàng nằm chếch mé trái chánh điện, vài cụ già đang ngồi nhắc chuyện xóm làng xưa. Dưới gốc cây bồ đề cổ thụ râm mát cả một khoảng sân sau miếu thờ thành hoàng, vài du khách trung niên đang say sưa nghiền ngẫm tích truyện kể về huyền thoại thầy - thím giữa đời thường viết trên tấm bảng treo trang trọng trên thân cổ thụ.
Người dân truyền tai nhau truyền thuyết, rằng ngày xưa, ở Quảng Nam có một đạo sĩ giàu lòng nhân ái, võ thuật hơn người, thường có những nghĩa cử cao đẹp rất được dân làng mến mộ. Vì bị nhà vua xử oan ức, đạo sĩ cùng vợ phiêu dạt vào phương Nam lánh nạn. Làng Tam Tân trù phú trở thành nơi dừng chân của nhà đạo sĩ có tài và chuyên cứu giúp dân lành.
Cũng vì giúp dân làng dời ngôi đình khang trang thờ thần hoàng ở làng kế bên về mà thầy bị vua xử phạt "tam ban triều điển" (chém chết, uống thuốc độc hoặc treo cổ), phải rời làng quê cũ lưu lạc vào làng Tam Tân, thuộc xã Tân Tiến, thị xã La Gi, Bình Thuận ngày nay. Dân gian còn lưu truyền rằng, thầy - thím rời làng quê cũ bằng dải lụa vua ban để khép tội chết mà khi đến tay thầy bỗng hóa thành rồng. Thầy - thím cưỡi lên dải lụa - rồng ấy mà bay vào phương Nam.
Những ngày đến lập nghiệp ở làng Tam Tân, thầy ở trọ nhà ông Hộ Hai làm nghề đốn củi, đóng ghe, bốc thuốc chữa bệnh cứu người. Điều lạ lùng là lúc nào thầy cũng mang theo bên mình quả bầu khô. Một lần thầy vội vã vào rừng không mang theo quả bầu, chủ nhà bèn lén lấy mở ra xem, bỗng lửa phụt ra thiêu rụi cả căn nhà.
Từ đó thầy - thím dời hẳn vào rừng sâu, dùng phép thuật để chữa bệnh, đóng ghe thuyền cho ngư dân, trấn áp bọn gian thương và nhà giàu cứu giúp dân nghèo. Quanh khu rừng cả ngày vang lên tiếng đục đẽo gỗ như có cả một đội quân cùng đóng ghe thuyền, nhưng chưa bao giờ dân làng thấy một người giúp việc nào của thầy.Có một mạch nước nhỏ dài hơn 3 km chảy từ cánh rừng thầy đóng ghe ra đến biển mà dân làng truyền tụng do thầy tạo ra bằng cây gậy phù phép của đạo sĩ để đưa ghe ra biển. Lạch nước ấy ngày nay vẫn còn, dân gian gọi là "đường lướt ván". Còn nhiều câu chuyện về lòng nhân ái của thầy như trừng phạt bọn buôn gạo lợi dụng năm mất mùa bóp chẹt dân nghèo, cứu giúp dân chài trong cơn sóng to, gió dữ... Thầy còn cảm hóa cả thú rừng vốn là nỗi lo sợ của những người khai phá thiên nhiên hoang dã thời ấy.
Một ngày mùa thu, được tin thầy - thím qua đời, dân làng vội vã tìm đến thì đã thấy hai ngôi mộ bằng cát trắng tinh do thú dữ vun đắp thành ở khu rừng Bàu Thông. Hàng năm cứ đến mùng 5 tháng giêng âm lịch, người ta thường thấy có đôi bạch hổ - hắc hổ thường về nằm phủ phục canh gác mộ. Khi đôi hổ qua đời, dân làng cũng an táng ngay sau mộ thầy - thím để tưởng nhớ hai con vật tận trung với người.
Nhớ công đức thầy - thím, những người đã có công khai phá vùng đất mới, người dân địa phương lập đền thờ ở khu rừng Bàu Cái gần nơi hai người tạ thế. Ngày 15-9 âm lịch hàng năm là ngày lễ Tế Thu thầy - thím. Đến đời Thành Thái năm thứ 18, nhà vua đã xem lại án xử trước đây và ban sắc phong cho thầy - thím là "Chí đức tiên sinh, chí đức nương nương tôn thần".
Huyền thoại về thầy - thím còn lưu truyền mãi giữa dân gian ý nghĩa và giá trị của lẽ phải, đạo lý, sự công bằng và chuẩn mực xã hội, lưu lại cho mọi thế hệ nét đẹp nhân cách, tuần phong mỹ tục của nếp làng xưa. Ngày nay khi đến tham quan quần thể thắng tích này, người ta vẫn còn tìm gặp được nhiều di tích gắn với những truyền thuyết về vợ chồng đạo sĩ như gốc cây thầy ngồi đẽo thuyền, đường lướt ván, bốn ngôi mộ bằng cát trắng phau của thầy - thím và đôi bạch hổ - hắc hổ nằm không xa dinh, tượng đôi hổ ngồi chầu...
Dinh Thầy - Thím ban đầu được làm bằng tranh lá đơn sơ vào đầu thế kỷ thứ 19, về sau dân làng mới xây dựng lại khang trang hơn. Những dòng Hán văn cổ chạm khắc trên xà cò chính điện cho thấy dinh được xây dựng vào ngày 25-12-1879 (nhằm năm Tự Đức thứ 32). Từ ngày ấy đến nay, dinh đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần.
Các công trình kiến trúc với nghệ thuật điêu khắc chạm trổ các đường nét trang trí nội - ngoại thất thể hiện rõ nét kiểu cách kiến trúc cung đình. Đôi tượng đá bạch hổ - hắc hổ, các phù điêu tứ linh, bát tiên... được bố trí hài hòa mang lại cảm giác trang nghiêm và gần gũi. Giá trị văn hóa, lịch sử của Dinh Thầy - Thím đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào ngày 27-9-1997.
Vào hai ngày lễ lớn hàng năm ở Dinh Thầy - Thím (lễ tảo mộ mùng 5 tháng giêng âm lịch và lễ Tế Thu vào ngày 14 và 15 tháng 9 âm lịch, nhiều sinh hoạt văn hóa sôi nổi thu hút khách thập phương đổ về: chèo bả trạo, diễn xướng tích thầy, biểu diễn võ thuật, lân múa thi tài, phóng sinh thả chim về rừng, rước xe hoa trang trí theo những truyền thuyết về cuộc đời thầy - thím quanh đường làng Tam Tân, nơi xưa kia hai người sinh sống, lao động và cứu giúp dân làng...
Những ngày lễ tế hàng năm ở ngôi dinh cổ kính ấy đã thực sự trở thành ngày hội văn hóa lớn của La Gi, thu hút vài trăm ngàn khách du lịch bốn phương dự hội trong dịp lễ.Tiếng thơm đồn xa, du khách khắp nơi đổ về Dinh Thầy Thím ngày càng đông và hầu khắp các tháng trong năm. Không chỉ cuốn hút bởi giá trị văn hóa - lịch sử, đây còn là điểm đến hấp dẫn bởi khu di tích nằm gối đầu vào núi rừng xanh thẳm, duỗi dài về phía biển xanh cát trắng xa xa.
Bãi biển Tam Tân cách dinh chỉ vài cây số gọi mời khách đường xa đến vẫy vùng giữa làn nước trong xanh và tận hưởng không khí trong lành của làng quê ven biển an lành.
Công chúa Bàn Tranh và đền thờ trên đảo
Chuyện xưa kể lại rằng: “Lâu lắm rồi khi trên đảo chưa có người ở. Một hôm cuối năm, hàng chục chiếc hạm thuyền lớn treo những chiếc cờ nhiều màu và nhiều chiếc thuyền nhỏ dẫn giải một người con gái xinh đẹp cùng đoàn tùy tùng hơn 100 người cả nam lẫn nữ ngược sóng ra khơi và cập vào đảo.
Trên các hạm thuyền còn có lều, bạt, dụng cụ lao động, một số hạt giống và lương thực đủ cho đoàn người ở lại trên đảo ăn trong một năm. Khi chiều xuống, giờ chia tay cũng đã đến, người con gái hướng về phía đất liền khóc lóc vái lạy, đoàn tùy tùng cũng làm theo chủ của mình. Phút chốc đoàn hạm thuyền lui nhanh như khi nó đến và mất hút về phía đất liền. Việc này rất bí mật, mãi hàng trăm năm sau người ta mới biết…”.
Đoàn người ở lại trên đảo hoang vu, bốn bề là biển, không một bóng người. Họ phân công nhau cắm lều trại, canh gác và khai hoang làm rẫy. Điều đáng quan tâm hàng đầu lúc này là làm đất gieo hạt giống, bởi lương thực được mang đi theo chỉ đủ ăn trong vòng chưa đầy một năm.
Hàng chục năm bám đảo chăm chú làm ăn, dần dần trên đảo đã có các loại cây bắp, khoai lang, củ mì, lúa cạn và những thứ hoa màu khác. Những làng mạc hình thành dần với hàng chục ngôi nhà trong mỗi làng, dù rất nhỏ.
Về sau người ta mới biết đoàn hạm thuyền năm xưa dẫn giải người con gái ra đảo cùng đoàn người tùy tùng, chính là hạm thuyền của Hoàng tộc Chăm. Còn người con gái trẻ đẹp xưa kia chính là công chúa Bàn Tranh, con gái út của nhà vua Chăm, vì không vâng lời vua cha nên bị đày ra đảo.
Hàng trăm năm sau, ở trên đảo đã hình thành nhiều làng mạc rộng lớn nối liền từ bờ Đông sang bờ Tây của đảo. Đó là những làng Chăm xưa do công chúa Bàn Tranh và đoàn tùy tùng lập nên.
Dù cho nhà vua, cha của nàng đã băng hà từ lâu, nhưng theo lệnh của triều đình, công chúa Bàn Tranh bị đày vĩnh viễn không cho về đất liền dù chỉ là một lần cuối đời để tiễn đưa cha.
Về sau khi nàng chết, người Chăm trên đảo đã xây đền thờ để thờ nàng tại đây. Trong ngôi đền có cả mộ của công chúa Bàn Tranh.
Vào khoảng cuối thế kỷ XV thì người Chăm lần lượt rời khỏi đảo. Họ để lại trên đảo ruộng vườn của mình cùng những công trình thủy lợi xây bằng đá, những giếng cổ để lấy nước ngọt cùng ngôi đền thờ công chúa Bàn Tranh. Ngày nay trên đảo người ta còn thấy nhiều giếng cổ được làm một cách công phu và đầy kinh nghiệm. Không ít giếng vẫn cho đầy nước ngọt phục vụ cho đời sống người dân trên đảo, và cũng không ít giếng đã bị lấp dần.
Riêng đền thờ công chúa Bàn Tranh, cùng những giấy tờ liên quan đến tâm linh và việc thờ phụng, trước khi rời đảo, người Chăm bàn giao cẩn thận cho những người Việt thuộc thế hệ đến đảo đầu tiên để tiện cho việc chăm sóc.
Đền thờ được người Việt tiếp thu và phụng thờ theo truyền thống của người Việt. Người Việt ở đảo xưa cũng như nay gọi đền thờ là Miếu và tôn vinh nàng công chúa Bàn Tranh là Bà chúa đảo hoặc Bà chúa Xứ. Ngày ngay ai đến đảo Phú Quý, trên đường đi từ xã Ngũ Phụng đến xã Long Hải sẽ nhìn thấy ngôi đền thờ hiu quạnh bên đường. Được nghe những câu chuyện về công chúa Bàn Tranh đều bùi ngùi cho thân phận của nàng. Những thửa ruộng trồng hoa màu của người dân bao quanh đền thờ được gọi là ruộng vua. Gần đó có một số giếng Chăm cổ, phía dưới phần tiếp nước lát gỗ và phần trên xây đá, đó là những đặc trưng trong kỹ thuật xây giếng của người Chăm xưa.
Đền thờ đã bị sụp đổ nhiều lần, mỗi lần sụp đổ là một lần nhân dân trong các làng trên đảo đóng góp công sức và vật liệu để sửa sang lại. Tuy nhiên sau nhiều lần tu sửa chắp vá và không đồng bộ, trong tình trạng “tam sao thất bản” ngôi đền không còn như xưa nữa. Nguyện vọng của nhân dân là muốn Nhà nước có chủ trương quan tâm khôi phục lại ngôi đền xưa để trả ơn cho người có công khai phá đảo đầu tiên đã được các thế hệ cư dân ở đây tôn vinh là Chúa đảo.
Trên đảo hiện nay có chính thức 34 di tích lịch sử-văn hóa nhưng trong đó chỉ có đền thờ công chúa Bàn Tranh là đền thờ chung cho các làng xưa trên đảo, nay thuộc 3 xã: Tam Thanh, Ngũ Phụng, Long Hải. Những di tích còn lại được thờ riêng cho từng làng, từng xã.
Những công lao to lớn của công chúa Bàn Tranh về tạo lập làng mạc, bảo vệ vùng hải đảo phía Nam của đất nước đã được các vua triều Nguyễn ghi nhận và ban tặng sắc phong, giao cho các làng thờ phụng. Trong đền thờ hiện nay còn một số di vật linh thiêng như bài vị, bệ thờ, liên đối, hoành phi ca ngợi công chúa Bàn Tranh. Một đôi liên cổ ở khám thờ khắc bằng chữ Hán, tài liệu lưu ở Bảo tàng Bình Thuận với nội dung:
“Hiển hách miếu thần ngàn năm còn đó
Linh thiêng cung thánh vạn thuở chẳng dời”
Câu đối khắc bằng chữ Hán gắn ở cột đền thờ với nội dung”
“Linh thần hiển hách phù trong đảo
Giúp nước thay trời cứu vạn dân”
Để tưởng nhớ công ơn bà Chúa đảo, nhân dân trên đảo cử một cụ già trông giữ đền và thường xuyên nhang khói.
Hàng năm cứ đến ngày mùng ba tháng giêng (âm lịch) nhân dân trên đảo Phú Quý lại tổ chức lễ hội rước sắc bà Chúa đảo từ nơi lưu giữ về đền thờ và làm lễ tại đó. Sau lễ nghi tại đền thờ, sắc phong lại được chuyển giao cho một làng khác cất giữ, đến ngày mùng ba tháng giêng (AL) năm sau lại tổ chức lễ hội rước sắc bà Chúa đảo. Đây là một phong tục lạ ở Bình Thuận và nhiều nơi khác. Mục đích chính là để các làng phải có trách nhiệm với bà Chúa đảo cũng như việc cất giữ sắc phong của vua ban như một phong tục tốt đẹp với hậu thế.
Đây là một điểm thuộc loại hình du lịch khám phá lịch sử lý thú trên đảo. Hiện nay Bảo tàng tỉnh đang nghiên cứu khôi phục lại ngôi đền xưa theo yêu cầu của chính quyền địa phương và nhân dân trên đảo. Góp phần hướng cho du lịch phát triển ra phía đảo và kết nối hệ thống di tích trên đất liền với hệ thống di tích trên đảo thành một tuyến trong hành trình khám phá những điều mới lạ của du khách
La Gi địa danh cũ của thị xã mới
Với người dân bản xứ, sinh sống ở đây lâu năm mới đọc rõ từ La Gi (la-di) nhưng lại rất nhiều người mới đến phát âm theo chữ vần thì cứ đọc là La-ghi và không thôi thắc mắc cái nghĩa đen của địa danh La Gi là gì? Là cách phát âm của dân tộc miền núi hay Chăm? Chưa có ai trả lời một cách đầy đủ!
Dựa vào bản "Nghĩ thĩnh thượng du đồn khẩn sự nghi sớ" (sớ xin lập đồn điền khai khẩn vùng thượng du) của Nguyễn Thông khi nhận chức Doanh điền sứ tỉnh Bình Thuận năm 1877 đã ghi địa danh này là La Di, kể cả sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán nhà Nguyễn (1802 - 1845) và soạn xong năm 1882 cũng nhắc đến địa danh sông La Di, cửa tấn La Di thuộc huyện
Tuy Lý, tỉnh Bình Thuận. Rõ ràng từ La Di cũng không thể là từ Hán Việt hóa, nếu liên hệ scác địa danh trong tỉnh như La Gàn, La Dạ, La Giang, La Ngà… và ở tỉnh Ninh Thuận cũng có con sông La Gi tức sông Pha ( Krông Pha) thì nghĩ đến những địa danh này có nguồn gốc của dân tộc miền núi hoặc Chăm, có lẽ đúng hơn. Nhưng vì sao từ Di lại trở thành Gi, ở Phù Cát (Bình Định) có một làng biển cũng có tên Đề Gi, xưa thuộc huyện Phù Li… Có người giải thích do cách viết của người Pháp nhưng được đưa vào các văn bản hành chính rồi trở thành quen thuộc. Thật đúng vậy, đọc lại các báo cáo dưới thời Pháp thuộc như Rapports Politiques de la province de Phanthiet (1921 - 1934) đều ghi là La Gi. Trước năm 1975, có một cuốn sách với tựa "Nguồn gốc Mã Lai" - trang 574, của nhà văn Bình Nguyên Lộc đề cập đến địa danh La Gi và đã suy luận "Có lẽ là Sagi đánh nhau với Sanla, tức lại còn đánh nhau với Chân Lạp" và ông viết: "từ câu Camay Lagi lì - cáy từ riêng của Chăm (có nghĩa đàn bà mà còn là đàn ông) - Lagi có nghĩa "lại còn" mà vùng đất này xưa là đất của Phù Nam, rồi của Chăm, cả hai dân tộc đều nói tiếng Mã Lai đợt nhì" và càng phân vân không biết địa danh này là của ai?. Với sự quan tâm tìm tòi của mỗi người thì cần thông cảm cách lý giải của Bình Nguyên Lộc ở góc nhìn của một nhà văn hơn là một nhà nghiên cứu. Còn có ý tưởng lãng mạn hơn, lấy chuyện tình ly tan của sự tích Hòn Bà bằng cách đọc trại ra (gia đình ly tan) thành La Gi !...
Rất nhiều địa danh không thể nào xác định được nguồn gốc dân tộc, ý nghĩa thực vì không theo một nguyên tắc nào cả mà đây là trường hợp thuộc qui luật biến đổi qua nhiều hình thức ngữ âm từ một tên gọi địa phương rồi được chuyển hóa thành địa danh hành chính. Do đó rất dễ nhầm lẫn nếu chỉ căn cứ vào hình thức ngữ âm và chính tả hiện tại để diễn giải, suy luận. Trong khi đó địa danh La Gi không nằm trong nguyên tắc phân loại thông thường, cũng không theo tiêu chí tự nhiên…
Tuy nhiên với địa danh La Gi thấm đậm quá trình lập làng mở cõi, còn có bề dày truyền thống lịch sử của một vùng đất qua các thời kỳ thì không có gì phải bận tâm về ý nghĩa. Nhưng hiện nay trong cách viết vẫn còn bất cập, cần được thống nhất trên văn bản hành chính một cách nghiêm túc, tránh tùy tiện khi sử dụng địa danh mà không nắm vững các đặc điểm về nguồn gốc lịch sử ra đời. Trên cơ sở chưa có gì để rõ hơn về nguồn gốc thì hãy coi đây là địa danh có nguồn từ âm ngữ biến đổi vốn vay mượn của một dân tộc. Do đó La Gi phải được viết rời không gạch nối và viết hoa cả hai từ theo qui cách viết địa danh.
Thuyết minh về núi Tà Dôn ( Bình Thuận)
1) Vị trí:
Ngọn núi nằm trên địa phận huyện Hàm Thuận Bắc thuộc tỉnh Bình Thuận, có độ cao tuyệt đối 386 mét (so với mực nước biển trung bình tại Hà Tiên). Cách Phan Thiết khoảng 17km về hướng Hà Nội.
2) Về tên gọi :
Tên là Tà Dôn, nhưng cũng có người đọc là Đôn (hay Đon), có lẽ vì sợ sai lạc chăng mà sau 1975 người ta đổi là Tà Zôn.
Nghĩa của tên này chưa rõ, nhưng có thể khẳng định đây là một địa danh được hình thành qua quá trình tiếp xúc giữa các dân tộc trên vùng đất này và được Việt hóa. Nếu theo "thói quen", tạm thời giải nghĩa là "ông thần Don".
Theo nhiều người kể thì đất Bình Thuận có bốn ngọn núi thiêng và nhà nghiên cứu hải ngoại Nguyễn Đức Hiệp có kể ra là "Tà Cú, Tà Ban, Tà Lễ và Tà Đôn"; nhưng cũng có người nói là Bình Thuận có "ngũ tà". Có sự khác nhau về tên của các "ông Tà" trong "tứ tà" hay "ngũ tà" của Bình Thuận, có thể kể ra các tên được nhắc đến :
- Tà Cú (Tà Kú, Tà Kou) : tên ngọn núi nổi tiếng nhất tại huyện Hàm Thuận Nam.
- Tà Zôn (Tà Don, Tà Dôn) : tên ngọn núi nổi tiếng nhất tại huyện Hàm Thuận Bắc.
- Tà Pao (hay Tà Bao ?) : Năm 1999 có tin Đức Mẹ hiện thân tại vùng núi Phương Lâm thuộc huyện Tân Phú tỉnh Đồng Nai; theo giải thích của chính quyền thì sau đợt lũ lớn vào tháng 7/1999 đã tạo ra một rãnh đá cao vài trăm mét trong khe núi, khi ánh nắng chiếu vào, cùng với hơi nước bốc lên đã tạo nên hiện tượng cầu vồng quang học, nhìn xa người ta tưởng tượng là Đức Mẹ (vùng này có rất đông các giáo xứ và giáo dân Thiên Chúa). Sau hiện tượng này, các vị Linh mục xác nhận trong khu rừng Tà Pao thuộc xã Đồng Kho huyện Tánh Linh tỉnh Bình Thuận giáp ranh, có tượng Đức Mẹ cao khoảng 4 mét, được dựng lên từ năm 1959 rồi do chiến sự nên bỏ hoang. Thế là người ta đổ xô đến Tà Pao để mong nhìn thấy hiện thân của Mẹ và để cầu xin. Ngày nay nơi đây trở thành trung tâm hành hương Đức Mẹ Tà Pao khá nổi tiếng của Thiên Chúa giáo. Tượng được đặt trên một ngọn núi nhỏ, nhiều người gọi đó là núi Tà Pao.
Thực tế, Tà Pao là tên của cả vùng. Vùng này có trạm thủy văn Tà Pao trên sông La Ngà. Có dự án công trình thủy lợi Tà Pao lấy nước từ sông La Ngà và từ nguồn nước xả của nhà máy thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi để phục vụ nước tưới cho khoảng 25.000ha đất canh tác thuộc huyện Tánh Linh cùng huyện Đức Linh tỉnh Bình Thuận và huyện Tân Phú cùng Xuân Lộc thuộc tỉnh Đồng Nai (tổng số vốn đầu tư ước tính hơn 2.500 tỉ đồng, dự kiến khởi công năm 2008). Nhưng không tìm thấy ngọn núi vô danh nào "đủ lớn" để xứng tầm là một "ông Tà" cả ngoài một núi khá lớn bên tả ngạn sông La Ngà, phía đông trung tâm Tánh Linh có tên là núi Ông với đỉnh cao nhất là Dang S'Ruin cao 1302 mét. Còn ngọn núi có tượng Đức Mẹ chỉ là một ngọn đồi trong số nhiều ngọn đồi khác ở vùng trung du này.
Ngoài ra có một thông tin nhỏ nhắc về chuyện kho báu của vua Chế Bồng Nga chôn trong núi Tà Pao. Ái chà, cả vùng này có vô số ngọn đồi (núi nhỏ) không biết là ngọn nào đây ?
- Tà Pứa : tên một thôn của xã Đức Phú, huyện Tánh Linh; thôn có nhiều đồng bào dân tộc K'Ho sinh sống. Nơi có người nông dân đầu tiên đã mang nghề trồng dó tạo trầm về cho Tánh Linh và tỉnh Bình Thuận. Địa bàn thôn có tuyến Tỉnh lộ ĐT713 nối Đức Linh với Quốc lộ 20 (Lâm Đồng), có đèo Tà Pứa và cạnh đèo là một hệ thống nhiều thác nước đẹp như thác Đầu Trâu, thác Trượt; trong đó hùng vĩ nhất là thác Mưa Bay với độ cao 40 mét. Nhưng không tìm thấy tài liệu tin cậy nào nhắc về núi Tà Pứa !
- Tà Đôn : chưa tìm thấy tài liệu đáng tin cậy nói về ngọn núi hay địa danh này. Có lẽ là do chữ Tà Don đọc ra chăng ?
- Tà Ban : chưa tìm thấy tài liệu đáng tin cậy nói về ngọn núi hay địa danh này.
- Tà Mon : tên một thôn được hình thành sau năm 1975 thuộc xã Tân Lập, huyện Hàm Thuận Nam. Có cổng xe lửa tên Tà Môn; có cầu Tà Mon trên quốc lộ 1A (km1746+299); có hồ thủy lợi Tà Mon giúp nước tưới cho nông dân trong vùng trồng thanh long; có rừng Tà Mon thuộc rừng phòng hộ Sông Móng - Ka Pét nhưng đã bị lâm tặc tàn phá cộng thêm cư dân quanh vùng khai hoang làm "trang trại". Nhưng không thấy có ngọn núi nào mang tên này. Quanh Tà Mon, hướng Nam có đỉnh Núi Nhọn cao 569 mét, hướng Bắc có đỉnh núi Giang Co cao 342 mét và xa hơn nữa (băng qua đường sắt, về hướng Tây Bắc) có đỉnh núi Nhan cao 386 mét.
- Tà Lể : không rõ, có thể có thôn tại huyện Tánh Linh mang tên này nhưng không tìm thấy ngọn núi Tà Lể.
Do chưa tìm thấy nguồn tư liệu đáng tin cậy nào nói về “ngũ tà” hay “tứ tà”, ta chỉ nên nói có “hai ông tà” nổi bật nhất, gắn liền với thành phố Phan Thiết mà thôi : “Quê em ở giữa hai tà, …”
3) Cảnh quan :
Ngày nay thấy rõ đây là một núi toàn đá với cỏ khô, cằn cỗi nhô lên giữa những cánh đồng lúa của huyện Hàm Thuận Bắc. Tuy nhiên, cách đây khoảng 30 năm người ta vẫn còn thấy những vạt rừng xanh mát. Nạn khai thác gỗ, phá rừng làm rẫy, đốt rừng lấy than và khí hậu khô cằn đã nhanh chóng làm “khô” đi quả núi này. Ngày nay, núi Tà Zôn có khoảng 6 công trường khai thác đá xây dựng, nhiều nhất là đá gra-nít có chất lượng tốt.
Năm 1997, tỉnh Bình Thuận đã xây dựng một tháp tín hiệu cao 93 mét ngay trên đỉnh núi có chức năng truyền hình và bưu điện, tháp còn có nhiệm vụ truyền tải thông tin từ đất liền ra hải đảo Phú Quý.
4) Lịch sử :
Trước năm 1975, Tà Dôn là một vị trí chiến lược quan trọng của quân đội Hoa Kỳ và VNCH. Trên đỉnh núi được bố trí pháo binh, đài vô tuyến và sân bay trực thăng dã chiến, nhằm yểm trợ cho các lực lượng quân sự trong vùng và khống chế chiến khu Lê Hồng Phong. Chiến khu Lê Hồng Phong là nơi bị nhiều bom đạn thảm khốc nhất trong chiến tranh và trở thành khu oanh tác tự do từ năm 1966 – 1975.
“...Tướng giỏi cầm quân trăm trận thắng
Còn ngại hành quân động Thái An
Cát lún bãi mìn rừng lưới nhện
Mùa khô thiếu nước lính hoang mang…”
Chính tại chiến khu này vào năm 1949, nhạc sĩ Minh Quốc đã sáng tác bài hát nổi tiếng “Tình Đồng Chí” từ lời thơ của Chính Hữu.
5) Khảo cổ :
Vùng chung quanh núi Tà Dôn đã có dấu tích con người sinh sống thuộc thời kỳ Văn hóa Đá Mới, nổi bật là di chỉ khảo cổ học Động Bà Què được phát hiện từ năm 1945.
6) Khí tượng :
Vào những ngày tháng Bảy âm lịch, khi thời tiết trở nên thuận lợi. Buổi sáng gió nồm từ núi Tà Cú, buổi chiều gió sớm ngoài khơi lồng lộng thổi vào bờ, thì thế nào cũng có một “cơn dông nạn” (dông từ núi Tà Zôn thổi ra biển) và ắt là ngày mai ruốc đầy biển.
Tháng bảy ruốc nhảy lên bờ
Sao em lại nỡ hững hờ cùng anh.
7) Thơ ca :
“… Đôi khi ta lên núi Tà Dôn uống rượu
Trời đất bao la ta chỉ một mình
Nhưng ta quên sao được cuộc đời dưới đó
Quên những con người bôi bẩn kiếp nhân sinh …”
8) Truyền thuyết :
Tờ báo địa phương là Bình Thuận ngày nay có kể “Tà Zôn là tên một chàng trai và Sa Ra là tên cô gái. Sự tích Tà Zôn – Sa Ra là chuyện tình thủy chung nhưng đầy nước mắt, ngăn cách bởi hai dòng đạo Bà ni và Bà la môn. Tà Zôn – Sa Ra là chuyện tình Romeo và Juliet của người Chăm hay chuyện tình Langbian của người K’ho”. Tuy nhiên chưa tìm ra được nội dung về câu chuyện tình này.
9) Chủ đề nổi bật :
Sự kiện nhật thật toàn phần ngày 24 tháng 10 năm 1995, núi Tà Zôn và Mũi Né là hai nơi thuận tiện nhất để quan sát.
10) Chuyện kể thêm :
Kể về người nông dân sống ở chân núi Tà Zôn, với trình độ lớp 8, đã chế biến máy lặt hạt bắp (công suất 5 tấn/giờ so với thủ công là 5kg/giờ) và nhiều máy móc nông nghiệp khác.
11) Các chủ đề mở rộng :
Các chủ đề này cũng được dùng thuyết minh cho đoạn đường Phan Thiết – Mũi Né – Hòn Rơm – Lương Sơn, QL1A : chiến khu Lê Hồng Phong, đời sống vùng khô hạn (kiểu “tắm lửa” và kiểu “tắm khỉ”), cát, con dông, dừa, nước mắm, mắm ruốt, Bàu Trắng (Bàu Sen), Hòa Thắng (lịch sử, nhân văn, ẩm thực), nghề trồng dưa lấy hạt, nhà máy điện hạt nhân …
Mũi Né
Nằm cách Thành phố Phan Thiết 22 km về hướng Đông Bắc. Mũi Né là tên của một làng chài và cũng là một điểm du lịch quen thuộc của Bình Thuận. Dọc theo quốc lộ 706 từ thành phố Phan Thiết đến Mũi Né là một dãy đồi cát thoai thoải và bãi cát ven biển rộng, thoáng mát với những rặng dừa tuyệt đẹp. Bãi biển nông, thoải, nước sạnh và trong, nắng ấm quanh năm, không có bão là nơi tắm biển, nghỉ ngơi lý tưởng dành cho du khách.
Mũi Né có nhiều bãi biển hoang sơ, nguyên thủy, chưa có sự khai thác của con người, cảnh quan hùng vĩ, môi trường thiên nhiên trong lành như bãi Ông Địa, Bãi Trước và Bãi Sau. Đến Mũi Né, các bạn có thể tắm biển, nghỉ dưỡng, chơi thể thao, du thuyền trên biển, dã ngoạn kết hợp săn bắt, câu cá, chơi golf... Tại Mũi Né, còn có Đồi Cát, nơi mà bao năm qua trở thành đề tài sáng tác của nhiều nghệ sĩ nhiếp ảnh. Ngoài các bãi biển, cồn cát, khu vực này còn có nhiều cảnh đẹp như Suối Tiên, Lầu Ông Hoàng, Tháp Chăm Pôshanư. Dọc bãi các ven biển là các làng du lịch, khách sạn, biệt thự và nhiều công trình thể thao giải trí.
Hầu hết các du khách đến Mũi Né đều bị lôi cuốn bởi mùi thơm của đặc sản rất riêng của Phan Thiết đó là mùi hương của nước mắm trong quá trình chế biến. Đây là qui trình chế biến rất công phu qua nhiều giai đoại khép kín từ việc đánh bắt cá, được rửa sạch cá và muối cá trong những thùng lều cao lớn.Toàn bộ qui trình chế biến nước mắm qua việc muối cá trong thùng lều với thời hạn từ 8 tháng đến một năm trước khi thành phẩm khi xuất hiện nước trong màu hơi đỏ chảy ra từ thùng lều, người ta gọi đó là nước mắm nhỉ, nước mắm nhỉ rất ngon và thơm. Sau đó người ta làm loãng đi rồi đóng chai.
Nước mắm chế biến từ Phan Thiết xuất hiện trên khắp miền đất nước. Ngày nay, sản xuất hàng năm của nước mắm Phan Thiết từ 16 triệu lít đến 17 triệu lít. Muối được dùng để làm nước mắm cũng là một trong những sản phẩm của Bình Thuận.
Mặc dầu ngư trường là ngành công nghiệp lớn tại Phan Thiết, xong nó vẫn là một nghề kinh tế gia đình của nhiều ngư dân ở vùng biển Mũi Né. Khi những người đàn ông ra biển đánh cá ngoài khơi thì ở nhà những người phụ nữ lại quán xuyến việc nhà, bán buôn, đan lưới, là trụ cột cho gia đình.
Hầu hết địa hình của Mũi Né bao gồm đồi núi và cát nên ngành nông nghiệp rất ít phát triển chỉ một vài vụ mùa của một số cây trồng chịu sống được trên đất khô.
Chỉ đi theo hướng Đông của Phan Thiết độ một vào kilômét là các bạn sẽ gặp một dãi bãi tắm chạy dọc theo bờ biển và có rất nhiều cảnh đẹp thuộc trong số những bãi biển đẹp nhất Việt Nam đó chính là Đồi Cát - Mũi Né.
Một hàng hàng dừa thẳng tấp dọc hai bên đường như nghiên mình chào đón những du khách đến đây, và còn có những đồi cát rộng mênh mông với màu vàng, trắng hay đỏ tạo nên khung cảnh rất hùng vĩ và đẹp mắt mà tạo hóa đã ban cho mảnh đất Mũi Né.
Vào khoảng giữa tháng 7 đến tháng 10 là mùa cá, đây cũng là giai đoạn đỉnh điểm của những ngư dân vùng biển Phan Thiết ra biển khơi đánh bắt cá.Vào đêm tối, ánh sáng phát ra từ những chuyếc thuyền của nhưng ngư dân đang đánh bắt xa bờ hiện lên phía chân trời ngoài biển khơi một màu lấp lánh trông rất đẹp và quyến rũ. Từ đất liền nhìn những ánh đèn đó tập trung với nhau trông giống như một thành phố nỗi đang lênh đênh trên biển.
Hòn Bà
Hòn Bà là một hòn đảo nhô cao lên giữa biển, cách bờ biển Lagi, huyện Hàm Tân gần 2 km hướng về phía Đông. Cách Phan Thiết khoảng 70 km về phía Đông Nam. Hòn bà là ngọn núi trẻ, trên núi có nhiều cây cổ thụ lớn. Nữa đầu thế kỷ XVII người Chăm đã dựng lên một ngôi đền thờ nữ Thần Thiên Ya Ana - vị thần thiêng liêng của Vương Quốc Chămpa cổ. Cũng từ đây hòn đảo có tên gọi là Hòn Bà.
Ngôi đền thờ có kết cấu kiến trúc và trang trí nghệ thuật giống như ngôi miếu của người Việt cùng thời. Trong ngôi đền thờ, tượng nữ Thần Thiên Y Ana bằng đá, được các nghệ nhân Chăm tạc từ một khối đá nguyên tại chỗ. Việc thờ tượng Bà ở trên đỉnh Hòn Bà thể hiện sự tôn vinh của người Chăm với Nữ Thần. Mặt khác ở những thế kỷ trước đây, nghề biển là nghề chính thu hút đông đảo ngư dân Chăm ven bờ mà dấu vết của những làng ngư cổ vẫn còn. Do vậy, việc thờ tượng nữ Thần ở đây là sự cầu mong cho nữ thần phù hộ, cứu nạn cho họ trên biển. Hàng năm người Chăm ở các nơi thường đến đây làm lễ cầu mưa và các nghi lễ tôn giáo khác.
Hòn Bà người ta biết đến và ngưỡng mộ không phải chỉ bằng chính ngôi đền cổ mà bởi ở đây là hòn đảo cheo leo giữa biển hấp dẫn mọi người bằng chính cảnh đẹp của nó cộng với sự hùng vĩ mênh mông của biển cả và đồi dương bên trong bờ càng làm cho phong cảnh ở đây đẹp thêm
Hấp dẫn ẩm thực biển phan Thiết
Thành phố du lịch Phan Thiết ngoài nổi tiếng với “Biển xanh, cát trắng, nắng vàng”, còn hấp dẫn du khách trong và ngoài nước bởi nét văn hoá ẩm thực biển phong phú.
Không chỉ là hương vị đậm đà đặc trưng mà chính những loài hải đặc sản kỳ lạ của xứ biển đã tạo nên những món ăn độc đáo.
Đối với quốc gia có bờ biển trãi dài và một nguồn lợi hải sản đa dạng như Việt Nam, mực là loài hải sản vừa quen thuộc, vừa bổ dưỡng và rất dễ chế biển món ăn. Thế nhưng, với món ăn rất… bình thường “Mực một nắng”, ngon và nổi tiếng nhất chỉ gắn liền với địa danh Phan Thiết.Cho đến nay, cả những đầu bếp nổi tiếng lẫn giới sành ăn vẫn không lý giải tại sao cũng là con mực lá quen thuộc đem phơi…nắng cho ráo rồi nướng trên than hồng nhưng chỉ rất ngon và đậm đà vị ngọt khi thưởng thức tại xứ biển Phan Thiết?! Nhất là, thay vì chấm với tương ớt, mực một nắng nếu đem chấm với loại nước mắm…nhỉ Phan Thiết cùng ít ớt xắt và vài giọt chanh mới thực sự cảm nhận đầy đủ hương và vị mà biển dâng tặng!
Được đánh giá là vùng biển quanh năm ấm áp, nhiều loại thức ăn hấp dẫn và phù hợp sự phát triển của các loài hải đặc sản, nên ngoài con mực lá dày thịt và thơm ngọt, Phan Thiết còn nổi tiếng với con cá bò…hòm. Mặc dù được ngư dân đặt cho biệt danh là “Thiết giáp biển” do hình dạng…vuông vức và rằn ri dễ sợ, nhưng thịt cá bò hòm lại rất hấp dẫn và bổ dưỡng. Do thịt có vị ngọt, béo, màu trắng…nên khi ăn kèm cùng những vị cay nồng của các loài rau thơm, mùi đặc trưng của thứ mắm nêm Phan Thiết, và nhất là vị bùi của bánh tráng Phú Long đã tạo nên món ăn “Cá bò hòm hấp cuốn bánh tráng” bổ dưõng và hấp dẫn vị giác!
Cũng món cá hấp kết hợp với nhiều hương vị của các loại rau thơm, cách chế biến nước chấm độc đáo từ các loại nước mắm khác nhau, món “Cá mú hấp” Phan Thiết luôn được xem là món ăn cao cấp và bổ dưỡng. Không chỉ có giá trị dinh dưỡng cao do đặc tính của loài cá mú nổi tiếng, mà “Cá mú hấp” còn là món ăn rất hài hoà giữa hương và vị từ cách chọn lựa…khoa học các thứ nguyên liệu ăn kèm. Bên cạnh các loại hải sản ngon và dễ chế biến, có thể nói ẩm thực biển Phan Thiết còn nổi tiếng nhờ bí quyết pha chế nước mắm ăn kèm. Mỗi món sẽ có một loại nước chấm phù hợp khác nhau, trong đó có thứ nước chấm rất lạ dành cho món “Cá lồi xối mỡ”. Chính thứ mắm nêm sền sệt, bên cạnh những gia vị quen thuộc như ớt, chanh…them một xíu vị chua ngọt của trái thơm đã tạo nên món ăn rất hấp dẫn chế biến từ loài cá lồi (hay cá ghim) rất bình thường!
Nói đến ẩm thực Phan Thiết, ngoài hải đặc sản, du khách không thể không nhắc đến các món ăn chế biến từ con Giông! Rất thích sinh sống tại những đồi cát quanh năm nắng nóng, gió mạnh, nhưng loài bò sát kỳ lạ này lại cho một thứ thịt vừa thơm ngon, vừa bổ dưỡng.
Hơn nữa thịt Giông rất dễ chế biến, từ các món đơn giản như nướng, nấu cháo cho đến cầu kỳ như làm gỏi, xào lăn, bằm xào xả ớt. Tuy nhiên, ngon, hấp dẫn và cũng rất…ấn tượng nhất lại là món “Giông nướng” . Với vẻ ngoài rất dữ dằn nhưng thịt giông nướng đậm đà vị ngọt béo, miếng thịt mềm và kích thích khẩu vị khi chấm với muối ớt, món “Giông nướng” cũng là một nét lạ tạo nên nét hấp dẫn của ẩm thực biển Phan Thiết!
ĐẶC SẢN
Món cá nục nướng lá mướp Món cá nục nướng lá mướp chỉ ở Bình Thuận mới ngon. Cá nục nướng lá mướp ăn kèm bánh tráng, rau sống thì chẳng gì bằng.
Cá nục ở vùng duyên hải nước ta không hiếm, nơi nào cũng có. Thường là tháng bảy âm lịch hằng năm trở lên, cá nục mới thịt nhiều, nhất là cá nục sồ. Ngoài các món ăn phổ biến như kho, nấu canh chua, hấp cuốn bánh tráng... thì món cá nục nướng lá mướp chỉ ở Bình Thuận mới có. Ngư dân cho biết mùa mưa cá nục sồ to con, béo thịt, thơm ngon. Cũng có nhiều người khác biết quy trình cách nướng cá nục bằng lá mướp, nhưng khi kết thành món lại không ngon bằng dân bản địa.
Cá nục tươi sống rửa sạch, cắt bỏ đầu, lọc lấy thịt rút xương. Ướp với một ít đường, muối, bột ngọt, tỏi, ớt giã nhỏ, cho thật thấm. Chuẩn bị sẵn lá mướp (lá mướp nào cũng được) nhưng được lá mướp hương thì tốt hơn. Chọn lá mướp lành lặn không bị sâu đục lỗ chỗ, rửa sạch để ráo nước và lau khô. Trải chồng liền ba lớp lá, rồi đặt thịt cá đã ướp lên gói lại. Cột chặt bằng dây lạt hoặc dây chuối xé nhỏ. Sau đó xếp lên vỉ đem đặt trên bếp than. Lò nướng đừng để nơi gió lùa nhiều quá, đủ để lửa hừng là được. Không nên nướng bằng than đá, sẽ hỏng cá. Có người đã nướng cá bằng cồn hoặc hiện đại hơn nướng trên bếp gas, nướng trong lò vi sóng nhưng không ngon bằng thứ than củi dân dã. Khi nướng nên để lửa riu riu và trở cá đều tay, cá mới chín đẹp. Nếu sơ ý một tí, cá cháy ngay. Hễ nhìn thấy lá mướp vàng là cá đã chín một bên. Lúc đó hãy trở bên kia, nướng cho cá chín hết.
Đem xuống gỡ lá mướp ra, ăn cùng với cơm nóng hoặc bánh tráng nướng kèm rau sống, còn gì bằng! Nếu gặp "tay nhậu", thì đây là món lai rai tuyệt chiêu, còn rủi mà gặp dân phá mồi, nhiều lúc nướng không kịp!
Khách du lịch đến Bình Thuận đều quen món đặc sản này, khi đã được thưởng thức, thì không thể nào quên được.
Cá mòi dầu Người dân ở miền Nam đã từng thưởng thức vị thơm, ngon, béo của những món ăn chế biến từ con cá mòi, loại cá sống nhiều vùng biển Bình Thuận. Cá mòi có hai chủng loại: trũng đất, trũng cờ, trũng là mít gọi chung cá mòi "trũng" - Cá "ranh" (cá con lớn lên) "xanh bầu" giữa cá ranh và cá lớn có nhiều dầu gọi là cá dầu (Nematolosa Nasus).
Cá mòi dầu ở Bình Thuận được chế biến thành những món ăn vô cùng độc đáo qua món canh nấu với dưa hồng (dưa hấu trái nhỏ), bầu, mướp. Muối sương (lạt) đem nướng ăn với cơm nguội. Rán (không cần mỡ) còn lấy ra được dầu cá để chan cơm ăn. Hấp ăn với bánh tráng nhúng nước cuốn rau sống chấm mắm nêm hay nước mắm giã. Cá mòi đem hầm măng khô là món ăn thuần túy ở mọi nhà trong những ngày lễ Tết.
Người ta còn thi vị hoá cá mòi qua món mắm. Cá đem muối, khi chín lấy ra ăn sống hay chưng (cách thủy). Thông thường cá được muối trong thời gian 60 ngày thì vớt ra lấy nước muối để rửa cá, đánh vẩy xong đem thính (bắp rang trộn muối giã nhuyển) xấp trong lu nhỏ mỗi lớp cá là một lớp lá cây vông (lá gói nem). Mắm mòi ăn với bánh hỏi, cuốn bánh tráng rau sống, khế chua, cà tím...
Do có nhiều chất béo nên ngòai việc chế biến thành những món ăn tính độc đáo, người ta còn lấy ra được trong c'a mòi một lượng dầu đáng kể qua cách muối, kho hoặc hấp. Dầu cá mòi có công dụng để ngâm thịt cá, làm mỡ ăn và thắp đèn thay nến. Trong xuất khẩu, người ta lấy dầu cá mòi làm nhiên liệu thuộc da, pha sơn, chế biến xà phòng.
Nước mắm cá mòi ngon thơm và béo hơn cả các loại cá khác như cá tạp, cá nục dùng trong sản xuất nước mắm. Thường người ta để hơi ươn rồi mới ướp muối, xác cá mòi muối và hấp sau khi lấy hết dầu đem bán ở vùng cao và các tỉnh đồng bằng Nam Bộ đều có giá trị kinh tế cao.
Dông 7 món
Dông là loài động vật bò sát, sống ở những vùng đất cát, nhất là ven biển. Khi gặp nguy, nó chạy rất nhanh, nên người ta gọi là con dông.
Con dông xuất hiện quanh năm, rộ nhất vào mùa mưa (khoảng từ tháng 3 đến tháng 5 âm lịch). Dông cái (còn gọi là dông mắm) khiêm tốn với bộ da độc một mầu, còn dông đực (dông thềm) có bộ da nhiều mầu sặc sỡ. Bắt dông có nhiều cách: đào, bẫy, chặn ngách, giăng lưới, dò, thổi... Chỉ riêng cách đánh bẫy cũng phong phú: nào là bẫy ống, bẫy đạp, bẫy cạm, bẫy vòng...
Dông được chia làm nhiều loại: nhỏ nhất có que chò, rồi đến nhông que và lớn nữa là dông thềm. Còn loại dông lão thì tương đối hiếm, nếu bắt được có con nặng gần một kg. Cho dù loại nào, con dông bắt vào tháng chạp cũng được thịt ngon, béo thơm, đúng là "tháng mười dông rạp (ngủ), tháng chạp dông lên".
Gỏi dông là một món được nhiều người ưa thích. Thịt dông trộn với rau sống, nước mắm me là thành món "đặc sản" vùng biển. Nhưng chỉ cần chế biến thêm chút nữa, nó trở thành một món ẩm thực sang trọng. Dông để nguyên con, chế nước sôi vào khoảng vài phút, rồi cạo nhẹ cho bong sạch lớp da đất, làm sạch ruột. Làm xong, rửa sạch lớp đất đen ở bụng, sau đó vắt ráo nước, rồi đem luộc chín xé lấy thịt và loại bỏ phần xương.
Thịt dông luộc xé nhỏ, đem ướp gia vị: muối, đường, bột ngọt, tỏi (giã nhỏ) cho ngấm, rồi trộn với hành tây, cà rốt, hành khô và rau răm..., thái mấy lát ớt thành những miếng mỏng xéo trang trí lên cho đẹp mắt.
Gỏi dông ăn kèm với bánh tráng nướng rất ngon miệng. Tùy khẩu vị từng người mà có thể thêm vào nước tương cho đậm đà. Miếng bánh tráng vàng rụm, nhai giòn tan quyện cùng chất thịt ngọt mát và vị thơm đặc trưng của loài dông, tạo nên hương vị đậm đà. Nếu có dịp thưởng thức món gỏi dông, bạn sẽ cảm thấy nó không thua kém gì các loại thịt gà.
Trên miền duyên hải cả nước, Bình Thuận là nơi có điều kiện môi trường thuận lợi cho con dông sinh sản và phát triển. Vì vậy, ngoài các món dông nướng, dông luộc, dông xào lăn, dông làm chả, dông nấu canh dưa hồng... quen thuộc, thì gỏi dông chính là một món ăn đặc sản cao cấp của vùng biển Bình Thuận.
Đặc sản của đồi cát là dông. Dông sống trong hang, sáng tinh mơ ra đồi cát tìm ăn chồi non và uống sương đêm, vì thế mà thịt thơm, săn và ngọt, được xem là một vị thuốc bổ. Thịt dông trắng như thịt gà, mà lại ngọt, bùi và mềm hơn. Xương rất mềm, gần như là sụn. Còn da thì dòn sừn sựt. Tuy nhiên khi chế biến người ta thường lột vứt bỏ vì trông không bắt mắt.
Người Bình Thuận chế biến 7 món thịt dông: Dông nướng, dông rô ti, dông hấp, chả dông, gỏi dông, cháo dông và dông nấu dưa hồng. Món nào cũng ngon. Tuy nhiên, quý bà quý cô có phần ngần ngại khi nhìn những con dông nướng, rô ti hay hấp còn nguyên cả đầu, bốn chân và cái đuôi dài dài. Nhưng đến món gỏi hay chả, khi dông được bằm nhuyễn thì dầu có nhát gan cũng chẳng mấy ai từ chối.
Thật vậy, như với món gỏi dông để nguyên xương được bằm nhỏ, xào chín và trộn với cóc hoặc xoài xắt chỉ, rau thơm, đậu phụng rang dòn, nước mắm pha và đặc biệt phải có lá xào dông, một thứ lá trông giống lá chùm ruột non, sống trên vách đá vùng khô hạn, mùi thơm thoảng vị chát. Gỏi dông ăn với bánh tráng nướng, thứ bánh tráng dày, nhiều mè, nướng vàng rụm, xúc mãi không chán.
Nhưng theo dân sành điệu thì thức ngon nhất trong con dông là mật và trứng. Mật dông có vị béo nhân nhẫn và để lại cái hậu thật ngọt. Trứng dông rất béo, rất bùi mà không ngậy, được xem là một loại sơn hào hải vị.Hầu hết các nhà hàng, quán đặc sản ở Phan Thiết đều có món dông, giá bình dân thì 15.000đ, giá cao cấp 30.000đ một dĩa. Cũng nên biết rằng một số quán nhậu ở Sài Gòn cũng có những món này, nhưng khi mang về đây dông ốm đi, không thể sánh với dông tại chỗ.
Bánh rế
Bánh có có mầu nâu đỏ, hơi giống mầu cánh gián, hình dáng giống thứ đồ mà người ta dùng để đặt xoong, nồi nhưng nhỏ nhắn hơn rất nhiều, với vô số những sợi rất mảnh xoắn xuýt, đan bện vào nhau. Bánh rế xuất xứ từ vùng Phan Thiết, Phan Rang.
Để làm bánh rế việc đầu tiên là lột củ mì (sắn), gọt vỏ củ khoai lang. Rồi sò (bào) thành sợi. Do quá mỏng và dài nên những sợi củ ấy quấn lấy nhau. Cái độc đáo của bánh nằm ở chỗ đó.
Khuôn để đổ bánh tựa như là cái vá (môi) múc canh. Dầu phải đổ cả chảo cho ngập bánh và phải để cho sôi mới bỏ sợi củ lang, củ mì vào khuôn. Bỏ thật nhanh tay và cũng phải rất nhanh tay để ép từng búi sợi xuống khuôn và dàn cho thật mỏng. Rưới đường đã sên sẵn, ngay khi vừa vớt ra.
Những chiếc bánh được xếp chồng lên nhau, khi đã nguội, y hệt như đồ chơi con nít. Nhìn, rất thích mà ăn lại càng thích hơn. Bánh cho ta một hương vị rất là đặc biệt. Đó là sự hòa lẫn, quyện chặt của một hỗn hợp những hương vị: cái bùi bùi của tinh bột, cái beo béo của dầu, cái ngon ngọt của đường mật và không thể thiếu độ giòn tan
Thành phố Phan Thiết
Thành phố Phan Thiết là tỉnh lỵ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của tỉnh Bình Thuận. Phan Thiết nằm trên quốc lộ 1A (chiều dài quốc lộ 1A đi qua là 7 km), cách Thành phố Hồ Chí Minh 198 km về hướng Đông. Phan Thiết là đô thị của miền Trung, thuộc miền Nam Trung Bộ. Diện tích tự nhiên là 206,45 km², bờ biển trải dài 57,40 km.
Vị trí địa lý
Thành phố Phan Thiết hình cánh cung trải dài từ: 10°42'10" đến 11° vĩ độ bắc.
* Phía đông giáp biển Đông.
* Phía tây giáp huyện Hàm Thuận Nam - tỉnh Bình Thuận.
* Phía nam giáp biển Đông và huyện Hàm Thuận Nam - tỉnh Bình Thuận.
* Phía bắc giáp huyện Hàm Thuận Bắc và huyện Bắc Bình - tỉnh Bình Thuận.
Giữa trung tâm thành phố có con sông Cà Ty chảy ngang chia Phan Thiết thành 2 ngạn:
* Phía nam sông: khu thương mại.
* Phía bắc sông: gồm các cơ quan hành chính và quân sự.
Địa hình
Phan Thiết có địa hình tương đối bằng phẳng, có cồn cát, bãi cát ven biển, đồi cát thấp, đồng bằng hẹp ven sông. Có 3 dạng chính:
* Vùng đồng bằng ven sông Cà Ty.
* Vùng cồn cát, bãi cát ven biển. Có địa hình tương đối cao.
* Vùng đất mặn: ở Thanh Hải, Phú Thủy, Phú Trinh và Phong Nẫm .
Nguồn gốc địa danh
Khi chưa có người Việt định cư, tên vùng đất này có nguồn gốc từ tiếng Chăm gọi là "Hamu Lithít" - "Hamu" là xóm ruộng bằng, "Lithít" là ở gần biển. Khi bắt đầu có người Việt định cư, vẫn chưa ai có ý định đặt ngay cho vùng đất này một tên gọi mới bằng tiếng Việt. Vậy mà không biết tự bao giờ, âm cuối "Lithit" lại được gắn liền với âm "Phan" tách từ phiên âm của tên hai vùng Phan Rang, Phan Rí mà thành ra Phan Tiết (tên gọi ngày xưa) và sau này người ta gọi chuẩn với cái tên là Phan Thiết .


NHA TRANG

MỘT SỐ CHỦ ĐỀ


Trâu cao
Miếng trầu là đâù câu truyên
Truyện trầu cao
Đạo cao đài
Phật giáo cuộc đời phật thích ca
Nói về biển
Vì sao biển mặn
Công dung của muối
Cây cao su
Lễ nghênh ông
Lê bà chúa sứ
Lễ núi bà đen
Lễ ok bon ok
Lễ hội cholchonam thomay
Lễ don ta
Lễ hội keta
Tìm hiểu về dân tộc chăm
Tìm hiểu về các vị thần
Siva, vich nu…
Tập tục của chăm ( vì đa phần điểm tham quan điều gắn liền dân tộc chăm)
Trái cây tương ứng voi vung mien ,tinh
Tên gọi trái sầu riêng
Cây dừa
Cây lúa






 
Top