Nếu như những nhà văn đi trước nhìn miền núi như một nơi hoang sơ và đầy bí hiểm thì Tô Hoài với vốn trải nghiệm thực tế của mình lại đi sâu vào khai thác đời sống tinh thần phong phú của người dân miền núi. Với “Vợ chồng A Phủ”, ông đã vẽ nên bức tranh về cô Mị - một người con gái dân tộc với những vẻ đẹp và khát khao sống mãnh liệt. Nhân vật Mị có những diễn biến tâm lí phức tạp trong cảnh đêm tình mùa xuân.
Nếu như trước đây, ta biết đến một Nam Cao với cách phân tích tâm lí nhân vật cực kì sắc sảo, thì Tô Hoài cũng là một nhà văn có ngòi bút miêu tả tâm lí đặc sắc không kém. Ông đã có thời gian dài cùng ăn, cùng sống và cùng trải nghiệm với người dân miền núi, ông thấu hiểu cuộc sống, tâm tính và vẻ đẹp tâm hồn của họ, cho nên những áng văn của ông không viết về cái kì bí, bí ẩn của miền núi như bao nhà văn đi trước.Với vốn trải nghiệm của mình, ông viết về người dân miền núi như viết về những bông hoa nở rộ giữa núi rừng, vẻ đẹp của họ đã thắp sáng cả một vùng đất nơi địa đầu tổ quốc. Nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” đã có những diễn biến nội tâm cực kì phức tạp trong đoạn cảnh đêm tình mùa xuân.
BÀI VIẾT SỐ 1 PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÂM LÝ, HÀNH ĐỘNG CỦA MỊ TRONG ĐÊM TÌNH MÙA XUÂN
Nếu như trước đây cuộc sống của người dân miền núi hiện ra trong văn thơ là một không gian hoang vu, hẻo lánh, ẩn chứa những bí ẩn ghê rợn thì đến với "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã làm hiện lên nguồn sống nguyên sơ, trong trẻo của thiên nhiên, chất thơ bay bổng từ cuộc sống con người. Mị là hiện thân cho những vẻ đẹp ấy, đặc biệt là vào đêm tình mùa xuân thì sức sống và sự hồi sinh của Mị đã xuất lộ đầy sống động, khiến áng văn đi vào lòng người đầy tự nhiên.
"Vợ chồng A Phủ" nằm trong tập "Truyện Tây Bắc", là kết quả của chuyến đi thực tế mà Tô Hoài cùng đồng đội đi giải phóng Tây Bắc. Tám tháng sống nghĩa tình với đồng bào, Tô Hoài hiểu được lối sống nghĩa tình và cả phẩm chất của người dân miền núi. Cho nên ông đã chấp bút và cho ra đời tập truyện đặc sắc, để ca ngợi thiên nhiên và con người Tây Bắc - những điều đã "để nhớ, để thương" trong Tô Hoài nhiều quá. Đặc biệt với phân đoạn trong đêm tình mùa xuân, nhà văn đã làm nổi bật sức sống và sự hồi sinh kì diệu trong con người của nhân vật Mị - một cô gái có số phận bất hạnh nhưng chưa bao giờ thôi khao khát sống.
Mị vốn là người con gái nghèo nhưng đẹp người đẹp nết. Chỉ bởi cha mẹ ăn bạc của người giàu mà Mị phải trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Làm dâu khổ quá, Mị tìm đến cái chết nhưng vì thương cha mà Mị không đành, lại trở về với cuộc sống của kiếp trâu ngựa, chấp nhận tê liệt mọi cảm giác, mất đi tinh thần và sức sống tuổi trẻ. Có lẽ Mị sẽ như vậy đến chết nếu như không có đêm tình mùa xuân. Tuy mang tiếng là dâu con trong nhà nhưng Mị chẳng khác gì con ở người làm, họ còn có thời gian nghỉ ngơi,còn đàn bà con gái ở nhà này suốt ngày làm việc quần quật không có lúc nào ngơi nghỉ: lúc tước đay, xe đay, lúc chẻ củi, đi nương bẻ bắp, thái cỏ ngựa,cõng nước... Cũng bởi lẽ đã khổ quá nhiều và cũng đã chứng kiến quá nhiều tội ác của bọn thống lí mà cô gái Mị trẻ trung ngày xưa đã mất dần đi những cảm giác, tê liệt tinh thần phản kháng và thờ ơ với tất cả vanh vật xung quanh "Ở lâu trong cái khổ, Mị khổ quen rồi". Thế rồi sự đổi thay của Mị cũng đã đến trong đêm tình mùa xuân.
Những tác nhân của thiên nhiên vạn vật đã tác động và phần nào nhen nhóm lên sự sống tâm hồn. Mùa xuân vốn là mùa chồi non lộc biếc bung nở, mùa của trai gái mở hội lòng, có lẽ bởi vậy mà nhà văn đã mượn khoảnh khắc thanh xuân của trời đất để gợi thanh xuân của đời người? Không gian xung quanh cũng thay đổi rõ rệt: màu vàng của bí đỏ, màu vàng ửng của cỏ gianh, với âm thanh của tiếng sáo gọi bạn tình lúc thì lấp ló ngoài đầu núi, lúc văng vẳng đầu làng, lúc thiết tha bổi hổi bồi hồi, lúc lửng lơ bay... Tất cả như gợi ra một không khí vừa yên bình, vừa tươi vui, ấm áp từ bên ngoài cùng với cái ấm nồng từ bên trong tỏa ra trong hơi say của bát rượu ngô. Hóa ra cuộc sống miền núi tưởng chừng bí ẩn và hoang vu ấy lại tồn tại những thứ ánh sáng nguyên sơ và trong trẻo, ấm áp và đầy sức sống. Tất cả như làm thành một bức phông nền để nhân vật chính hiện ra.
Cùng với sự thay đổi của đất trời, Mị dần hồi sinh sức sống, một sự phục sinh đầy kì diệu từ một người vốn đã lặng thinh trước cái ác và cái xấu quá lâu. Các giác quan dường như đã thức tỉnh: mắt Mị không còn mông lung mờ mờ mà đã biết đón nhận những màu sắc, tai không còn chỉ nghe thấy tiếng ngựa đập vách mỏi mòn mà đã biết nghiêng mình lắng nghe những âm thanh vui tươi của cuộc sống. Thân xác Mị không còn héo hon mà bắt đầu rạo rực trong men say của bát rượu ngô. Tác giả đã khéo léo trong việc đặc tả những chi tiết nhỏ, làm nổi bật dụng ý nghệ thuật của mình: dường như sự phục sinh đang nhen nhóm qua từng giác quan rất nhỏ, tất cả đã bắt đầu quay về, không hề lặng thinh và héo mòn như xưa nữa. Tiếng sáo vang lên như kéo Mị trở lại những năm tháng quá khứ: "Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi", bài hát đã ngủ rất lâu trong cõi mông lung của tiềm thức. Quá khứ trở về cũng chính là lúc sức sống men theo đó mà trở lại. Mị muốn thấy chúng, muốn nhớ lại chúng nên "uống ực từng bát" rượu ngô - một hành động rất lạ đối với những người đàn bà, càng không phải là một phong tục của người dân miền núi. Phải chăng, "rượu" là hiện thân của những đắng cay hiện tại để Mị nuốt cho sâu, vùi cho chặt ở trong lòng thì quá khứ mới có đường trở lại? Mị say, lịm mặt ngồi đấy nhưng tâm hồn Mị đã sống về ngày trước, thời tuổi trẻ Mị thổi sáo, thổi lá giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Mị nhớ những ngày hội xuân cùng chơi ném pao với khúc hát văng vẳng:
Chính nhờ những tác nhân đời sống mà tâm hồn Mị chan chứa niềm vui với cảm giác phơi phới, hân hoan. Mị bỗng chợt hồi sinh cả về nhận thức, nhận thức về tuổi trẻ, về khát vọng, về quyền sống và tự do: "Mị còn trẻ lắm. Mị còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi. Huống hồ Mị với A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau..." Đến đây thì tâm hồn người con gái đã thực sự hồi tỉnh. Mị nhận thức được tuổi trẻ của mình, muốn được sống như một người tự do, được đi chơi như bao người khác, muốn thoát khỏi cái phòng tăm tối chỉ có một ô cửa sổ nhỏ lúc nào cũng trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Khát vọng tự do thôi thúc khiến Mị bắt tay vào sửa soạn đi chơi. Mị không muốn ở yên trong bóng tối nữa :"xắn ống mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng", sau đó là một loạt các hành động liên tiếp với những câu văn dài ngắn dồn dập, sự lặp lại của chủ từ kèm với một loạt các động từ đã thổi một luồng sinh khí mới vào đoạn văn. Đó phải chăng chính là hành động hối hả của một con chim khao khát muốn tháo cũi sổ lồng, muốn được bay đi đến khung trời tự do, muốn rời xa những năm dài tháng rộng làm kiếp thê nô cho nhà thống lí? Nhưng A Sử - kẻ đại diện cho tầng lớp thống trị ác độc đã kìm hãm sự tự do của Mị. Hắn trói đứng Mị vào cái cột, không cho Mị đi chơi, Mị càng vùng bước đi thì sợi dây càng thít chặt và dày xé vào thân xác Mị. Nhưng A Sử đâu có hiểu rằng sợi dây của số phận nghiệt ngã chỉ có thể trói được đôi chân nhưng không thể trói được đôi cánh tâm hồn Mị. Mị chợt nhớ về người đàn bà đồng phận, Mị sợ quá, cựa mình xem còn sống hay đã chết. Thật bất ngờ là người đàn bà ấy đã từng muốn mình chết quách đi cho thoát khỏi cuộc đời: "Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay..." nhưng đến khi bị dồn vào cùng đường mạt lộ thì khát khao sống lại vươn lên mãnh liệt. Chi tiết đó đã khép lại trường đoạn đêm tình mùa xuân và hứa hẹn một sự phục sinh có lẽ còn mạnh mẽ hơn mình ở trường đoạn tiếp theo.
Với cảnh đêm tình mùa xuân, tác giả đã dẫn dắt nhân vật Mị đi từ hồi sinh những giác quan bên ngoài cho đến khi phục sinh hoàn toàn về cảm xúc, nhận thức và khát vọng. Qua đây, ta thấy được vốn sống phong phú về cuộc sống và con người vùng cao của nhà văn, khả năng miêu tả thiên nhiên và phong tục rất tự nhiên và sinh động. Có người từng cho rằng "Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật là thước đo tài năng người nghệ sĩ." Tô Hoài tỏ ra rất vững vàng trong việc đặc tả tâm lí nhân vật vừa chân thực, vừa sống động, vừa mang đậm nét tư duy của đồng bào miền núi khiến áng văn trở nên đặc sắc, đồng thời diễn biến tâm lí của nhân vật được nhìn nhận qua cả một quá trình. Chính điều đó đã khiến những trang viết của Tô Hoài khác biệt so với phần còn lại, ông xứng đáng trở thành một trong những cây bút tài hoa nhất trong văn học hiện đại Việt Nam.
Rõ ràng, "Vợ chồng A Phủ" là một thiên truyện đặc sắc, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc, khơi gợi trong con người ý thức phản kháng và tinh thần chiến đấu giành giật lại quyền sống, quyền tự do, quyền làm người. Đặt trong bối cảnh thời bấy giờ, không khó hiểu khi thiên truyện có sức lan tỏa rộng rãi, trở thành áng văn của thời đại, áng văn của ngàn đời.
-Minh Anh-vfo.vn
BÀI VIẾT SỐ 2 PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÂM LÝ, HÀNH ĐỘNG CỦA MỊ TRONG ĐÊM TÌNH MÙA XUÂN
Ai đó đã từng nói rằng: “Nghệ thuật miêu tả tâm lý con người là thước đo tài năng người nghệ sĩ”. Thật vậy, người ta càng phục tài năng sáng tạo nghệ thuật của Tô Hoài hơn khi được tiếp cận với những diễn biến tâm lý, hành động nhân vật mà nhà văn dày công xây dựng. Trong đó, ta không thể không nhắc đến nhân vật Mị với diễn biến tâm lý sâu sắc. Diễn biến tâm lý, hành động nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân đã góp phần khẳng định tài năng, tâm huyết văn chương của nhà văn Tô Hoài.
Tô Hoài đã xây dựng diễn biến tâm lý, hành động nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân hết sức tài tình, thuyết phục để qua đó thể hiện khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật. Trước hết, nhà văn viết về tác nhân dẫn đến những diễn biến tâm lý, hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là một đêm của mùa xuân tràn đầy xúc cảm. Mùa xuân xưa nay luôn gợi cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn sáng tạo nghệ thuật. Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du cũng từng nhắc đến hình ảnh mùa xuân, đó là mùa xuân nên thơ đượm sắc trong ngày Kiều gặp gỡ Kim Trọng:
Thời gian, không gian xuân nhà văn xây dựng đã tạo một bức phông nền thiên nhiên sinh động,trên tấm nền ấy, chân dung nhân vật Mị càng được khắc họa rõ nét hơn. Sức sống xuân dường như đã phục sinh mọi giác quan trong Mị. Đôi mắt xưa chỉ nhìn thấy những thứ “mờ mờ trăng trắng” thì giờ đã đón nhìn những sắc màu rực rỡ, tươi thắm, ấm áp của cuộc đời. “Tiếng chân ngựa đạp vách mỏi mòn” giờ đã tạm mờ đi, mà thay vào đó Mị nghiêng tai đón nhận những âm thanh gọi mời của cuộc sống những ngày chớm xuân sang. Thân xác héo mòn xưa kia nhờ men say bát rượu ngô mà ấm nồng, rạo rực hẳn lên. Mị bỗng nhớ lại ký ức xưa cũ, thời chưa làm con dâu nhà thống lí, thời còn chưa phải chịu đọa đày, khổ cực như bây giờ. Mị nhớ ngày Tết buổi trước mình cũng uống rượu, kí ức ấy thôi thúc Mị “lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát”. Rượu như đắng cay tủi nhục cuộc đời mình, Mị uống ực từng bát như để chôn sâu cái cùng khổ ở thực tại. “Rồi say, Mị lịm mặt đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị lại sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng…”. Cơ hồ men say rượu ngô đã giúp Mị có cơ hội quên hiện tại mà sống trọn vẹn với quá khứ, một quá khứ được sống thực là mình, sống bình dị mà vui tươi, hạnh phúc.
Tâm hồn Mị nhờ vậy mà “phơi phới” và tràn ngập niềm vui sướng. Mị bỗng thấy mình “trẻ, vẫn còn trẻ và Mị muốn đi chơi”. Vì niềm khát khao đó, Mị vào buồng sửa soạn đi chơi như một cách tìm đến ánh sáng, tìm đến hạnh phúc riêng mình mà đã lâu rồi bản thân bỏ mặc. A Sử thấy vậy, hắn không cho Mị đi chơi, hắn “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà…”. Dù bị trói chặt, Mị vẫn cố vùng bước đi. Sợi dây đay – sợi dây số phận nghiệt ngã có lẽ chỉ trói chặt được chân tay, thân xác Mị mà chẳng thể trói được tâm hồn khao khát tự do đang mạnh mẽ bứt lên ở người phụ nữ này. Trong bóng tối, Mị choàng tỉnh và nhớ về người đàn bà đồng phận và thấy sợ. Mị sợ, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Hình ảnh ấy đã làm sáng lên khát vọng sống mãnh liệt ở Mị, chứng tỏ rằng khi con người bị đẩy đến đường cùng bế tắc, buộc phải đối diện với cái chết, với những lựa chọn khó khăn thì họ càng ham sống, càng mạnh mẽ hơn và khát khao sự giải thoát.
Đoạn văn khắc họa hình tượng Mị trong đêm tình mùa xuân là một đoạn truyện đặc sắc, thể hiện được tài năng nghệ thuật và cái nhìn sắc bén, tinh tế của nhà văn Tô Hoài. Để tạo dựng một cái nền thiên nhiên sống động cho nhân vật hiện lên sắc nét, nhà văn đã phác họa ra một bức tranh thiên nhiên cảnh Hồng Ngài đón Tết đậm sắc màu, âm thanh. Bức tranh ấy đã thể hiện sự hiểu biết sâu rộng về phong tục vùng cao, sở trường miêu tả thiên nhiên và phong tục cùng ngôn ngữ phong phú, đậm đà màu sắc dân tộc của nhà văn. Bên cạnh đó, sự trải nghiệm, tỉ mĩ quan sát cũng góp phần giúp tác giả có sự phân tích diễn biến tâm lý, hành động nhân vật thuyết phục, hấp dẫn. Nếu như bức tranh thiên nhiên phong tục độc đáo đã đóng góp làm phong phú hơn những trang văn viết về đề tài miền núi, thì bức họa tâm lý, hành động sinh động đã góp phần làm đa dạng hơn những tác phẩm viết về số phận, cuộc đời những con người lao động có khát khao sống, khát vọng tự do mãnh liệt.
Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm lý, hành động nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân đã khắc họa số phận cũng như nét đẹp tâm hồn người lao động vùng cao còn chịu nhiều bất công, áp bức của chúa đất chúa mường. Qua hình ảnh nhân vật Mị, người đọc càng bị thuyết phục bởi lối viết văn linh hoạt, ngòi bút phân tích tâm lý nhân vật tinh tế và càng thêm yêu quý con người, tài năng ở nhà văn Tô Hoài.
-Nem-vfo.vn
BÀI VĂN MẪU SỐ 3 PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÂM LÍ, HÀNH ĐỘNG CỦA MỊ TRONG ĐÊM TÌNH MÙA XUÂN TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ
Nói đến Tô Hoài là nói đến một đời văn “lực lưỡng”, một cây bút dẻo dai và cần mãn chuyên viết về những chuyện “của người thường, của đời thường” nhưng lại có sức ảnh hưởng và tạo ấn tượng sâu sắc với độc giả. Một trong những nhân vật khẳng định tài năng tác giả chính là Mị trong “Vợ chồng A Phủ”. Hình ảnh nhân vật trong đêm tình mùa xuân đã thể hiện được những vẻ đẹp tác phẩm.
Sau Cách mạng, Tô Hoài được ghi nhận là một trong những cây bút khai phá một mảnh đất mới cho văn học cách mạng, đó là mảng văn học viết về miền núi Tây Bắc - một vùng đất xa xôi, hoang vu nơi địa đầu Tổ quốc. Tập "Truyện Tây Bắc" là vụ mùa thu hoạch từ chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô Hoài năm 1952. Trong số ba truyện ngắn được giải Nhất Giải thưởng của Hội Văn Nghệ Việt Nam 1954 - 1955, "Vợ chồng A Phủ" có lẽ là truyện ngắn đọng lại ấn tượng sâu sắc nhất. Tác phẩm đẹp không chỉ bởi một lối kể rất duyên, giàu chất thơ mà còn bởi một cái nhìn đầy mới mẻ về cuộc sống và con người miền núi.
Mị, người con gái đang tuổi thanh xuân, vì “cha mẹ ăn của bạc nhà giàu từ kiếp trước” nên kiếp này phải làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Sa chân vào chốn nhà quan, bị đọa đày về thể xác lẫn tinh thần, Mị tìm đến cái chết. Nhưng vì thương cha, Mị không đành lòng mà tiếp tục về làm thân trâu kiếp ngựa. Mị cứ sống như thế, nếu không có đêm tình mùa xuân…
Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào một không gian, thời gian thật "nhạy cảm" đối với lòng người: mùa xuân trên vùng núi cao. Cũng giống như mùa xuân trên mọi miền Tổ quốc, xuân về là khi đất trời khoác một tấm áo tươi mới, nõn nà, khi cây cối đâm chồi nảy lộc, khi lòng người cũng rạo rực với muôn vàn sợi tơ giăng mắc không gian, "Ái tình ghé môi gọi lời trong gió" ("Lệnh" - Xuân Diệu). Thiên nhiên rực rỡ, tươi tắn cùng với những hoạt động sinh hoạt, phong tục đậm màu sắc miền cao, náo nức là một nhân tố để khởi lên ngọn lửa trong lòng Mị. Nhưng để làm nên sự “nổi loạn” của một trái tim đã “hóa đá” còn cần đến những tác nhân khác. Đó là men rượu và tiếng sáo gọi bạn yêu, gọi bạn tình vào những đêm tình mùa xuân. “Ngày tết Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng”. Người con dâu gạt nợ tê dại vì đau khổ kia, vào cái đêm tình mùa xuân tha thiết ấy đã tìm đến men rượu để giải thoát sầu muộn. Cái cách Mị “uống ực từng bát” cũng rất lạ, uống mà như dốc cả men say, cả những cay đắng, khổ đau vào lòng. Men rượu say, hơi rượu nồng nàn giúp Mị quên hết đi những tháng ngày đắng cay hiện tại, quên đi cảnh người thì nhảy đồng, người thì hát ngay trước mặt, đồng thời đưa Mị về cõi nhớ: Mị nhớ đến những ngày tươi đẹp xa xưa, mùa xuân, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo: “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Men rượu cũng dẫn Mị đến những hành động “nổi loạn” và liều lĩnh, Liều lĩnh với những quy tắc nhà Thống lí và với chính mình. Ngọn lửa sống tưởng như đã lụi tắt, giờ đây nhờ men cay của rượu, lại âm ỉ chảy.
Nhưng tác nhân đặc biệt nhất để khời dậy lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc của Mị, đó là tiếng sáo gọi bạn yêu, gọi bạn tình. Tiếng sáo là biểu tượng đẹp đẽ nhất của mùa xuân và tuổi trẻ của tình yêu và hạnh phúc. Tiếng sáo trong cái đêm tình ấy cứ lôi cuốn, giục giã, gọi mời:
Đưa vào tác phẩm những câu ca dao ngọt ngào tình tứ của vùng Tây Bắc, Tô Hoài đã tạo nên những trang văn xuôi giàu chất thơ, đậm đà chất trữ tình. Tiếng sáo làm rung động đến từng nhịp cảm xúc, từng nhịp điệu tâm hồn Mị. Lúc đầu, tiếng sáo “lấp ló (…) rủ bạn đi chơi” ngoài đầu núi, Mị “thiết tha bồi hồi (…) nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Gần hơn, “tiếng sáo gọi bạn đầu làng”, Mị lại nhớ đến những đêm xuân trước, Mị “uốn lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Từ tiếng sáo “lửng lơ bay ngoài đường”, tiếng sáo đã nhập hẳn vào tâm hồn Mị, “rập rờn” trong đầu Mị. Tiếng sáo chính là tác nhân quan trọng làm thức dậy khát vọng tình yêu và hạnh phúc mà dấu hiệu đầu tiên là sống lại với những kỉ niệm ngày trước.
Nhưng ngòi bút đầy bản lĩnh của Tô Hoài không dễ dàng và đơn giản đẩy tâm lí nhân vật theo một đường thẳng. Nhà văn để nhân vật của mình “ứng xử” theo logic vận động nội tại của chính nhân vật. Vậy nên, khi rượu đã tan, “người đi chơi đã vãn”, “Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà”. Tuy trong lòng đã phơi phới trở lại” nhưng “Mị không bước chân ra đường chơi mà Mị từ từ đi vào buồng”. Đó là bước chân của một thói quen, một định hướng vô thức bởi Mị biết “chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết”. Dường như trong nhân vật có sự giằng co giữa lòng ham sống và cảm thức thân phận. Sức sống đã được đánh thức, trỗi dậy nhưng lại bị ngăn bởi thân phận. Đi vào buồng, Mị ngồi nhìn lên “cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”. Trong người phụ nữ ấy dội lên nỗi đau thân phận và cảm giác xót xa, tê tái. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Lúc này, ý thức về sự sống. lòng khát khao hạnh phúc đã thức dậy, không cho phép con người sống một cách tẻ nhạt và vô nghĩa nữa. Mị thấy “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Bi kịch của Mị nảy sinh từ trạng thái bất hòa, mâu thuẫn giữa khát vọng đẹp đẽ và thực tại đen tối còn bản thân mình nhận thức sâu sắc được suy nghĩ bất lực của mình trước hoàn cảnh.
Sức sống của Mị trỗi dậy bởi tiếng sáo gọi mời thiết tha mà ám ảnh kia. Đến lúc này, Mị như không còn biết đến bước chân của A Sử, không nghe thấy A Sử hỏi. Mị hành động như người trong mơ: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” rồi “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Đó là hành động với con người thật của mình, với sự thôi thúc mãnh liệt: “Mị muốn đi chơi, Mị sắp đi chơi”. Ánh sáng của ngọn nến Mị thắp lên xua tan cái tăm tối, lạnh lẽo của căn buồng hay cũng chính là ánh sáng của khát vọng được yêu, được sống? Người đọc bất ngờ trước những hành động nhanh, liên tiếp như trong vô thức của Mị rồi lại nhận ra lí do rất tự nhiên, tất yếu của nó: lòng ham sống được thức tỉnh đã chiếm lấy tâm hồn Mị. Không còn cô Mị lầm lũi, cam chịu trong thân phận dâu gạt nợ nữa mà là một cô Mị ý thức được sự sống và hành động vì hạnh phúc của mình.
Ngòi bút Tô Hoài dường như “xuất thần”, nhập hẳn vào thế giới tâm hồn tinh vi, sâu kín của nhân vạt, làm sống dậy những trạng thái tâm lí phức tạp, huyền diệu nhất. Bị A Sử trói đứng ở cột nhà, Mị dường như vẫn không biết. Trong “hơi rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Chỉ đến khi Mị “Vùng bước đi”, chân tay đau thít lại, nghe tiếng chuông ngựa đạp vào vách thì thực tại mới hiện hữu, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Nhưng hơi rượu vẫn lan tỏa nồng nàn, tiếng sáo vẫn thiết tha, Mị sống trong trạng thái “lúc tỉnh lúc mê”, trong sự giằng co giữa khát vọng sống và thân phận trâu ngựa. Lòng khát sống trong con người đã bị dập tắt phũ phàng nhưng vẫn để lại những dư âm trong tâm hồn.
Có thể nói, ở đoạn tuyệt bút này, cảm hứng nhân đạo của Tô Hoài thể hiện đẹp hơn bao giờ hết, và ở đây, “ngòi bút biện chứng tâm hồn” của nhà văn cũng bộc lộ được sức mạnh của nó. Đúng là “cái tài nhờ cái tâm mà cháy lên, cái tâm nhờ cái tài mà tỏa sáng” (R. Gamzatop).
-Hương Đoànn-vfo.vn
Nếu như trước đây, ta biết đến một Nam Cao với cách phân tích tâm lí nhân vật cực kì sắc sảo, thì Tô Hoài cũng là một nhà văn có ngòi bút miêu tả tâm lí đặc sắc không kém. Ông đã có thời gian dài cùng ăn, cùng sống và cùng trải nghiệm với người dân miền núi, ông thấu hiểu cuộc sống, tâm tính và vẻ đẹp tâm hồn của họ, cho nên những áng văn của ông không viết về cái kì bí, bí ẩn của miền núi như bao nhà văn đi trước.Với vốn trải nghiệm của mình, ông viết về người dân miền núi như viết về những bông hoa nở rộ giữa núi rừng, vẻ đẹp của họ đã thắp sáng cả một vùng đất nơi địa đầu tổ quốc. Nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” đã có những diễn biến nội tâm cực kì phức tạp trong đoạn cảnh đêm tình mùa xuân.
BÀI VIẾT SỐ 1 PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÂM LÝ, HÀNH ĐỘNG CỦA MỊ TRONG ĐÊM TÌNH MÙA XUÂN
Nếu như trước đây cuộc sống của người dân miền núi hiện ra trong văn thơ là một không gian hoang vu, hẻo lánh, ẩn chứa những bí ẩn ghê rợn thì đến với "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã làm hiện lên nguồn sống nguyên sơ, trong trẻo của thiên nhiên, chất thơ bay bổng từ cuộc sống con người. Mị là hiện thân cho những vẻ đẹp ấy, đặc biệt là vào đêm tình mùa xuân thì sức sống và sự hồi sinh của Mị đã xuất lộ đầy sống động, khiến áng văn đi vào lòng người đầy tự nhiên.
"Vợ chồng A Phủ" nằm trong tập "Truyện Tây Bắc", là kết quả của chuyến đi thực tế mà Tô Hoài cùng đồng đội đi giải phóng Tây Bắc. Tám tháng sống nghĩa tình với đồng bào, Tô Hoài hiểu được lối sống nghĩa tình và cả phẩm chất của người dân miền núi. Cho nên ông đã chấp bút và cho ra đời tập truyện đặc sắc, để ca ngợi thiên nhiên và con người Tây Bắc - những điều đã "để nhớ, để thương" trong Tô Hoài nhiều quá. Đặc biệt với phân đoạn trong đêm tình mùa xuân, nhà văn đã làm nổi bật sức sống và sự hồi sinh kì diệu trong con người của nhân vật Mị - một cô gái có số phận bất hạnh nhưng chưa bao giờ thôi khao khát sống.
Mị vốn là người con gái nghèo nhưng đẹp người đẹp nết. Chỉ bởi cha mẹ ăn bạc của người giàu mà Mị phải trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Làm dâu khổ quá, Mị tìm đến cái chết nhưng vì thương cha mà Mị không đành, lại trở về với cuộc sống của kiếp trâu ngựa, chấp nhận tê liệt mọi cảm giác, mất đi tinh thần và sức sống tuổi trẻ. Có lẽ Mị sẽ như vậy đến chết nếu như không có đêm tình mùa xuân. Tuy mang tiếng là dâu con trong nhà nhưng Mị chẳng khác gì con ở người làm, họ còn có thời gian nghỉ ngơi,còn đàn bà con gái ở nhà này suốt ngày làm việc quần quật không có lúc nào ngơi nghỉ: lúc tước đay, xe đay, lúc chẻ củi, đi nương bẻ bắp, thái cỏ ngựa,cõng nước... Cũng bởi lẽ đã khổ quá nhiều và cũng đã chứng kiến quá nhiều tội ác của bọn thống lí mà cô gái Mị trẻ trung ngày xưa đã mất dần đi những cảm giác, tê liệt tinh thần phản kháng và thờ ơ với tất cả vanh vật xung quanh "Ở lâu trong cái khổ, Mị khổ quen rồi". Thế rồi sự đổi thay của Mị cũng đã đến trong đêm tình mùa xuân.
Những tác nhân của thiên nhiên vạn vật đã tác động và phần nào nhen nhóm lên sự sống tâm hồn. Mùa xuân vốn là mùa chồi non lộc biếc bung nở, mùa của trai gái mở hội lòng, có lẽ bởi vậy mà nhà văn đã mượn khoảnh khắc thanh xuân của trời đất để gợi thanh xuân của đời người? Không gian xung quanh cũng thay đổi rõ rệt: màu vàng của bí đỏ, màu vàng ửng của cỏ gianh, với âm thanh của tiếng sáo gọi bạn tình lúc thì lấp ló ngoài đầu núi, lúc văng vẳng đầu làng, lúc thiết tha bổi hổi bồi hồi, lúc lửng lơ bay... Tất cả như gợi ra một không khí vừa yên bình, vừa tươi vui, ấm áp từ bên ngoài cùng với cái ấm nồng từ bên trong tỏa ra trong hơi say của bát rượu ngô. Hóa ra cuộc sống miền núi tưởng chừng bí ẩn và hoang vu ấy lại tồn tại những thứ ánh sáng nguyên sơ và trong trẻo, ấm áp và đầy sức sống. Tất cả như làm thành một bức phông nền để nhân vật chính hiện ra.
Cùng với sự thay đổi của đất trời, Mị dần hồi sinh sức sống, một sự phục sinh đầy kì diệu từ một người vốn đã lặng thinh trước cái ác và cái xấu quá lâu. Các giác quan dường như đã thức tỉnh: mắt Mị không còn mông lung mờ mờ mà đã biết đón nhận những màu sắc, tai không còn chỉ nghe thấy tiếng ngựa đập vách mỏi mòn mà đã biết nghiêng mình lắng nghe những âm thanh vui tươi của cuộc sống. Thân xác Mị không còn héo hon mà bắt đầu rạo rực trong men say của bát rượu ngô. Tác giả đã khéo léo trong việc đặc tả những chi tiết nhỏ, làm nổi bật dụng ý nghệ thuật của mình: dường như sự phục sinh đang nhen nhóm qua từng giác quan rất nhỏ, tất cả đã bắt đầu quay về, không hề lặng thinh và héo mòn như xưa nữa. Tiếng sáo vang lên như kéo Mị trở lại những năm tháng quá khứ: "Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi", bài hát đã ngủ rất lâu trong cõi mông lung của tiềm thức. Quá khứ trở về cũng chính là lúc sức sống men theo đó mà trở lại. Mị muốn thấy chúng, muốn nhớ lại chúng nên "uống ực từng bát" rượu ngô - một hành động rất lạ đối với những người đàn bà, càng không phải là một phong tục của người dân miền núi. Phải chăng, "rượu" là hiện thân của những đắng cay hiện tại để Mị nuốt cho sâu, vùi cho chặt ở trong lòng thì quá khứ mới có đường trở lại? Mị say, lịm mặt ngồi đấy nhưng tâm hồn Mị đã sống về ngày trước, thời tuổi trẻ Mị thổi sáo, thổi lá giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Mị nhớ những ngày hội xuân cùng chơi ném pao với khúc hát văng vẳng:
- "Anh ném pao, em không bắt
- Em không yêu, quả pao rơi rồi..."
Chính nhờ những tác nhân đời sống mà tâm hồn Mị chan chứa niềm vui với cảm giác phơi phới, hân hoan. Mị bỗng chợt hồi sinh cả về nhận thức, nhận thức về tuổi trẻ, về khát vọng, về quyền sống và tự do: "Mị còn trẻ lắm. Mị còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi. Huống hồ Mị với A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau..." Đến đây thì tâm hồn người con gái đã thực sự hồi tỉnh. Mị nhận thức được tuổi trẻ của mình, muốn được sống như một người tự do, được đi chơi như bao người khác, muốn thoát khỏi cái phòng tăm tối chỉ có một ô cửa sổ nhỏ lúc nào cũng trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Khát vọng tự do thôi thúc khiến Mị bắt tay vào sửa soạn đi chơi. Mị không muốn ở yên trong bóng tối nữa :"xắn ống mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng", sau đó là một loạt các hành động liên tiếp với những câu văn dài ngắn dồn dập, sự lặp lại của chủ từ kèm với một loạt các động từ đã thổi một luồng sinh khí mới vào đoạn văn. Đó phải chăng chính là hành động hối hả của một con chim khao khát muốn tháo cũi sổ lồng, muốn được bay đi đến khung trời tự do, muốn rời xa những năm dài tháng rộng làm kiếp thê nô cho nhà thống lí? Nhưng A Sử - kẻ đại diện cho tầng lớp thống trị ác độc đã kìm hãm sự tự do của Mị. Hắn trói đứng Mị vào cái cột, không cho Mị đi chơi, Mị càng vùng bước đi thì sợi dây càng thít chặt và dày xé vào thân xác Mị. Nhưng A Sử đâu có hiểu rằng sợi dây của số phận nghiệt ngã chỉ có thể trói được đôi chân nhưng không thể trói được đôi cánh tâm hồn Mị. Mị chợt nhớ về người đàn bà đồng phận, Mị sợ quá, cựa mình xem còn sống hay đã chết. Thật bất ngờ là người đàn bà ấy đã từng muốn mình chết quách đi cho thoát khỏi cuộc đời: "Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay..." nhưng đến khi bị dồn vào cùng đường mạt lộ thì khát khao sống lại vươn lên mãnh liệt. Chi tiết đó đã khép lại trường đoạn đêm tình mùa xuân và hứa hẹn một sự phục sinh có lẽ còn mạnh mẽ hơn mình ở trường đoạn tiếp theo.
Với cảnh đêm tình mùa xuân, tác giả đã dẫn dắt nhân vật Mị đi từ hồi sinh những giác quan bên ngoài cho đến khi phục sinh hoàn toàn về cảm xúc, nhận thức và khát vọng. Qua đây, ta thấy được vốn sống phong phú về cuộc sống và con người vùng cao của nhà văn, khả năng miêu tả thiên nhiên và phong tục rất tự nhiên và sinh động. Có người từng cho rằng "Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật là thước đo tài năng người nghệ sĩ." Tô Hoài tỏ ra rất vững vàng trong việc đặc tả tâm lí nhân vật vừa chân thực, vừa sống động, vừa mang đậm nét tư duy của đồng bào miền núi khiến áng văn trở nên đặc sắc, đồng thời diễn biến tâm lí của nhân vật được nhìn nhận qua cả một quá trình. Chính điều đó đã khiến những trang viết của Tô Hoài khác biệt so với phần còn lại, ông xứng đáng trở thành một trong những cây bút tài hoa nhất trong văn học hiện đại Việt Nam.
Rõ ràng, "Vợ chồng A Phủ" là một thiên truyện đặc sắc, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc, khơi gợi trong con người ý thức phản kháng và tinh thần chiến đấu giành giật lại quyền sống, quyền tự do, quyền làm người. Đặt trong bối cảnh thời bấy giờ, không khó hiểu khi thiên truyện có sức lan tỏa rộng rãi, trở thành áng văn của thời đại, áng văn của ngàn đời.
-Minh Anh-vfo.vn
BÀI VIẾT SỐ 2 PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÂM LÝ, HÀNH ĐỘNG CỦA MỊ TRONG ĐÊM TÌNH MÙA XUÂN
Ai đó đã từng nói rằng: “Nghệ thuật miêu tả tâm lý con người là thước đo tài năng người nghệ sĩ”. Thật vậy, người ta càng phục tài năng sáng tạo nghệ thuật của Tô Hoài hơn khi được tiếp cận với những diễn biến tâm lý, hành động nhân vật mà nhà văn dày công xây dựng. Trong đó, ta không thể không nhắc đến nhân vật Mị với diễn biến tâm lý sâu sắc. Diễn biến tâm lý, hành động nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân đã góp phần khẳng định tài năng, tâm huyết văn chương của nhà văn Tô Hoài.
Tô Hoài đã xây dựng diễn biến tâm lý, hành động nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân hết sức tài tình, thuyết phục để qua đó thể hiện khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật. Trước hết, nhà văn viết về tác nhân dẫn đến những diễn biến tâm lý, hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là một đêm của mùa xuân tràn đầy xúc cảm. Mùa xuân xưa nay luôn gợi cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn sáng tạo nghệ thuật. Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du cũng từng nhắc đến hình ảnh mùa xuân, đó là mùa xuân nên thơ đượm sắc trong ngày Kiều gặp gỡ Kim Trọng:
- “Tuyết in sắc ngựa câu giòn
- Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời”
- “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
- Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”
Thời gian, không gian xuân nhà văn xây dựng đã tạo một bức phông nền thiên nhiên sinh động,trên tấm nền ấy, chân dung nhân vật Mị càng được khắc họa rõ nét hơn. Sức sống xuân dường như đã phục sinh mọi giác quan trong Mị. Đôi mắt xưa chỉ nhìn thấy những thứ “mờ mờ trăng trắng” thì giờ đã đón nhìn những sắc màu rực rỡ, tươi thắm, ấm áp của cuộc đời. “Tiếng chân ngựa đạp vách mỏi mòn” giờ đã tạm mờ đi, mà thay vào đó Mị nghiêng tai đón nhận những âm thanh gọi mời của cuộc sống những ngày chớm xuân sang. Thân xác héo mòn xưa kia nhờ men say bát rượu ngô mà ấm nồng, rạo rực hẳn lên. Mị bỗng nhớ lại ký ức xưa cũ, thời chưa làm con dâu nhà thống lí, thời còn chưa phải chịu đọa đày, khổ cực như bây giờ. Mị nhớ ngày Tết buổi trước mình cũng uống rượu, kí ức ấy thôi thúc Mị “lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát”. Rượu như đắng cay tủi nhục cuộc đời mình, Mị uống ực từng bát như để chôn sâu cái cùng khổ ở thực tại. “Rồi say, Mị lịm mặt đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị lại sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng…”. Cơ hồ men say rượu ngô đã giúp Mị có cơ hội quên hiện tại mà sống trọn vẹn với quá khứ, một quá khứ được sống thực là mình, sống bình dị mà vui tươi, hạnh phúc.
Tâm hồn Mị nhờ vậy mà “phơi phới” và tràn ngập niềm vui sướng. Mị bỗng thấy mình “trẻ, vẫn còn trẻ và Mị muốn đi chơi”. Vì niềm khát khao đó, Mị vào buồng sửa soạn đi chơi như một cách tìm đến ánh sáng, tìm đến hạnh phúc riêng mình mà đã lâu rồi bản thân bỏ mặc. A Sử thấy vậy, hắn không cho Mị đi chơi, hắn “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà…”. Dù bị trói chặt, Mị vẫn cố vùng bước đi. Sợi dây đay – sợi dây số phận nghiệt ngã có lẽ chỉ trói chặt được chân tay, thân xác Mị mà chẳng thể trói được tâm hồn khao khát tự do đang mạnh mẽ bứt lên ở người phụ nữ này. Trong bóng tối, Mị choàng tỉnh và nhớ về người đàn bà đồng phận và thấy sợ. Mị sợ, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Hình ảnh ấy đã làm sáng lên khát vọng sống mãnh liệt ở Mị, chứng tỏ rằng khi con người bị đẩy đến đường cùng bế tắc, buộc phải đối diện với cái chết, với những lựa chọn khó khăn thì họ càng ham sống, càng mạnh mẽ hơn và khát khao sự giải thoát.
Đoạn văn khắc họa hình tượng Mị trong đêm tình mùa xuân là một đoạn truyện đặc sắc, thể hiện được tài năng nghệ thuật và cái nhìn sắc bén, tinh tế của nhà văn Tô Hoài. Để tạo dựng một cái nền thiên nhiên sống động cho nhân vật hiện lên sắc nét, nhà văn đã phác họa ra một bức tranh thiên nhiên cảnh Hồng Ngài đón Tết đậm sắc màu, âm thanh. Bức tranh ấy đã thể hiện sự hiểu biết sâu rộng về phong tục vùng cao, sở trường miêu tả thiên nhiên và phong tục cùng ngôn ngữ phong phú, đậm đà màu sắc dân tộc của nhà văn. Bên cạnh đó, sự trải nghiệm, tỉ mĩ quan sát cũng góp phần giúp tác giả có sự phân tích diễn biến tâm lý, hành động nhân vật thuyết phục, hấp dẫn. Nếu như bức tranh thiên nhiên phong tục độc đáo đã đóng góp làm phong phú hơn những trang văn viết về đề tài miền núi, thì bức họa tâm lý, hành động sinh động đã góp phần làm đa dạng hơn những tác phẩm viết về số phận, cuộc đời những con người lao động có khát khao sống, khát vọng tự do mãnh liệt.
Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm lý, hành động nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân đã khắc họa số phận cũng như nét đẹp tâm hồn người lao động vùng cao còn chịu nhiều bất công, áp bức của chúa đất chúa mường. Qua hình ảnh nhân vật Mị, người đọc càng bị thuyết phục bởi lối viết văn linh hoạt, ngòi bút phân tích tâm lý nhân vật tinh tế và càng thêm yêu quý con người, tài năng ở nhà văn Tô Hoài.
-Nem-vfo.vn
BÀI VĂN MẪU SỐ 3 PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÂM LÍ, HÀNH ĐỘNG CỦA MỊ TRONG ĐÊM TÌNH MÙA XUÂN TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ
Nói đến Tô Hoài là nói đến một đời văn “lực lưỡng”, một cây bút dẻo dai và cần mãn chuyên viết về những chuyện “của người thường, của đời thường” nhưng lại có sức ảnh hưởng và tạo ấn tượng sâu sắc với độc giả. Một trong những nhân vật khẳng định tài năng tác giả chính là Mị trong “Vợ chồng A Phủ”. Hình ảnh nhân vật trong đêm tình mùa xuân đã thể hiện được những vẻ đẹp tác phẩm.
Sau Cách mạng, Tô Hoài được ghi nhận là một trong những cây bút khai phá một mảnh đất mới cho văn học cách mạng, đó là mảng văn học viết về miền núi Tây Bắc - một vùng đất xa xôi, hoang vu nơi địa đầu Tổ quốc. Tập "Truyện Tây Bắc" là vụ mùa thu hoạch từ chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô Hoài năm 1952. Trong số ba truyện ngắn được giải Nhất Giải thưởng của Hội Văn Nghệ Việt Nam 1954 - 1955, "Vợ chồng A Phủ" có lẽ là truyện ngắn đọng lại ấn tượng sâu sắc nhất. Tác phẩm đẹp không chỉ bởi một lối kể rất duyên, giàu chất thơ mà còn bởi một cái nhìn đầy mới mẻ về cuộc sống và con người miền núi.
Mị, người con gái đang tuổi thanh xuân, vì “cha mẹ ăn của bạc nhà giàu từ kiếp trước” nên kiếp này phải làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Sa chân vào chốn nhà quan, bị đọa đày về thể xác lẫn tinh thần, Mị tìm đến cái chết. Nhưng vì thương cha, Mị không đành lòng mà tiếp tục về làm thân trâu kiếp ngựa. Mị cứ sống như thế, nếu không có đêm tình mùa xuân…
Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào một không gian, thời gian thật "nhạy cảm" đối với lòng người: mùa xuân trên vùng núi cao. Cũng giống như mùa xuân trên mọi miền Tổ quốc, xuân về là khi đất trời khoác một tấm áo tươi mới, nõn nà, khi cây cối đâm chồi nảy lộc, khi lòng người cũng rạo rực với muôn vàn sợi tơ giăng mắc không gian, "Ái tình ghé môi gọi lời trong gió" ("Lệnh" - Xuân Diệu). Thiên nhiên rực rỡ, tươi tắn cùng với những hoạt động sinh hoạt, phong tục đậm màu sắc miền cao, náo nức là một nhân tố để khởi lên ngọn lửa trong lòng Mị. Nhưng để làm nên sự “nổi loạn” của một trái tim đã “hóa đá” còn cần đến những tác nhân khác. Đó là men rượu và tiếng sáo gọi bạn yêu, gọi bạn tình vào những đêm tình mùa xuân. “Ngày tết Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng”. Người con dâu gạt nợ tê dại vì đau khổ kia, vào cái đêm tình mùa xuân tha thiết ấy đã tìm đến men rượu để giải thoát sầu muộn. Cái cách Mị “uống ực từng bát” cũng rất lạ, uống mà như dốc cả men say, cả những cay đắng, khổ đau vào lòng. Men rượu say, hơi rượu nồng nàn giúp Mị quên hết đi những tháng ngày đắng cay hiện tại, quên đi cảnh người thì nhảy đồng, người thì hát ngay trước mặt, đồng thời đưa Mị về cõi nhớ: Mị nhớ đến những ngày tươi đẹp xa xưa, mùa xuân, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo: “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Men rượu cũng dẫn Mị đến những hành động “nổi loạn” và liều lĩnh, Liều lĩnh với những quy tắc nhà Thống lí và với chính mình. Ngọn lửa sống tưởng như đã lụi tắt, giờ đây nhờ men cay của rượu, lại âm ỉ chảy.
Nhưng tác nhân đặc biệt nhất để khời dậy lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc của Mị, đó là tiếng sáo gọi bạn yêu, gọi bạn tình. Tiếng sáo là biểu tượng đẹp đẽ nhất của mùa xuân và tuổi trẻ của tình yêu và hạnh phúc. Tiếng sáo trong cái đêm tình ấy cứ lôi cuốn, giục giã, gọi mời:
- “Mày có con trai, con gái rồi
- Mày đi làm nương
- Ta không có con trai con gái
- Ta đi tìm người yêu”
- "Anh ném pao, em không bắt
- Em không yêu, quả pao rơi rồi"
Đưa vào tác phẩm những câu ca dao ngọt ngào tình tứ của vùng Tây Bắc, Tô Hoài đã tạo nên những trang văn xuôi giàu chất thơ, đậm đà chất trữ tình. Tiếng sáo làm rung động đến từng nhịp cảm xúc, từng nhịp điệu tâm hồn Mị. Lúc đầu, tiếng sáo “lấp ló (…) rủ bạn đi chơi” ngoài đầu núi, Mị “thiết tha bồi hồi (…) nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Gần hơn, “tiếng sáo gọi bạn đầu làng”, Mị lại nhớ đến những đêm xuân trước, Mị “uốn lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Từ tiếng sáo “lửng lơ bay ngoài đường”, tiếng sáo đã nhập hẳn vào tâm hồn Mị, “rập rờn” trong đầu Mị. Tiếng sáo chính là tác nhân quan trọng làm thức dậy khát vọng tình yêu và hạnh phúc mà dấu hiệu đầu tiên là sống lại với những kỉ niệm ngày trước.
Nhưng ngòi bút đầy bản lĩnh của Tô Hoài không dễ dàng và đơn giản đẩy tâm lí nhân vật theo một đường thẳng. Nhà văn để nhân vật của mình “ứng xử” theo logic vận động nội tại của chính nhân vật. Vậy nên, khi rượu đã tan, “người đi chơi đã vãn”, “Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà”. Tuy trong lòng đã phơi phới trở lại” nhưng “Mị không bước chân ra đường chơi mà Mị từ từ đi vào buồng”. Đó là bước chân của một thói quen, một định hướng vô thức bởi Mị biết “chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết”. Dường như trong nhân vật có sự giằng co giữa lòng ham sống và cảm thức thân phận. Sức sống đã được đánh thức, trỗi dậy nhưng lại bị ngăn bởi thân phận. Đi vào buồng, Mị ngồi nhìn lên “cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”. Trong người phụ nữ ấy dội lên nỗi đau thân phận và cảm giác xót xa, tê tái. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Lúc này, ý thức về sự sống. lòng khát khao hạnh phúc đã thức dậy, không cho phép con người sống một cách tẻ nhạt và vô nghĩa nữa. Mị thấy “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Bi kịch của Mị nảy sinh từ trạng thái bất hòa, mâu thuẫn giữa khát vọng đẹp đẽ và thực tại đen tối còn bản thân mình nhận thức sâu sắc được suy nghĩ bất lực của mình trước hoàn cảnh.
Sức sống của Mị trỗi dậy bởi tiếng sáo gọi mời thiết tha mà ám ảnh kia. Đến lúc này, Mị như không còn biết đến bước chân của A Sử, không nghe thấy A Sử hỏi. Mị hành động như người trong mơ: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” rồi “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Đó là hành động với con người thật của mình, với sự thôi thúc mãnh liệt: “Mị muốn đi chơi, Mị sắp đi chơi”. Ánh sáng của ngọn nến Mị thắp lên xua tan cái tăm tối, lạnh lẽo của căn buồng hay cũng chính là ánh sáng của khát vọng được yêu, được sống? Người đọc bất ngờ trước những hành động nhanh, liên tiếp như trong vô thức của Mị rồi lại nhận ra lí do rất tự nhiên, tất yếu của nó: lòng ham sống được thức tỉnh đã chiếm lấy tâm hồn Mị. Không còn cô Mị lầm lũi, cam chịu trong thân phận dâu gạt nợ nữa mà là một cô Mị ý thức được sự sống và hành động vì hạnh phúc của mình.
Ngòi bút Tô Hoài dường như “xuất thần”, nhập hẳn vào thế giới tâm hồn tinh vi, sâu kín của nhân vạt, làm sống dậy những trạng thái tâm lí phức tạp, huyền diệu nhất. Bị A Sử trói đứng ở cột nhà, Mị dường như vẫn không biết. Trong “hơi rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Chỉ đến khi Mị “Vùng bước đi”, chân tay đau thít lại, nghe tiếng chuông ngựa đạp vào vách thì thực tại mới hiện hữu, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Nhưng hơi rượu vẫn lan tỏa nồng nàn, tiếng sáo vẫn thiết tha, Mị sống trong trạng thái “lúc tỉnh lúc mê”, trong sự giằng co giữa khát vọng sống và thân phận trâu ngựa. Lòng khát sống trong con người đã bị dập tắt phũ phàng nhưng vẫn để lại những dư âm trong tâm hồn.
Có thể nói, ở đoạn tuyệt bút này, cảm hứng nhân đạo của Tô Hoài thể hiện đẹp hơn bao giờ hết, và ở đây, “ngòi bút biện chứng tâm hồn” của nhà văn cũng bộc lộ được sức mạnh của nó. Đúng là “cái tài nhờ cái tâm mà cháy lên, cái tâm nhờ cái tài mà tỏa sáng” (R. Gamzatop).
-Hương Đoànn-vfo.vn
- Chủ đề
- hành động nhân vật mị tâm lí vợ chồng a phủ