Phân tích khổ thơ 1,2 và 2 khổ thơ cuối “Sóng” - Xuân Quỳnh để thấy sự vận động của cảm xúc trữ tình
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đầy cam go, văn học trở thành vũ khí làm tròn sứ mệnh của mình với thời đại nó sinh ra để cổ vũ tinh thần lạc quan, lòng yêu nước của nhân dân. Khi đó, tiếng thơ “ Sóng” của Xuân Quỳnh vang lên điệu tâm hồn tình yêu đôi lứa nồng nàn trở thành bông hoa lạ trong giai đoạn văn học lúc bấy giờ.
Tình cảm lứa đôi là tiếng nói nhân bản của con người, nhà thơ lách ngòi bút, thâm nhập vào thế giới nội tâm phong phú của người con gái khi yêu để gửi gắm khát vọng tuổi trẻ- sống trọn trong tình yêu. Nhà thơ phát hiện những thuộc tính của trái tim yêu mang từ sự tự thức sâu sa trong thẳm sâu tâm hồn đến nét âu lo, niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh tình yêu chân chính.. Khi làm bài phân tích 3 khổ thơ trên, ta cần phân tích từng đoạn từ hình thức: câu từ, nhịp điệu, giọng điệu… đến nội dung qua đó cảm nhận sự thay đổi của ý thơ cũng như sự vận động của cảm xúc trữ tình để thấy được nét đẹp của tâm hồn cô gái khi yêu và bắt gặp chính bản thể thi sĩ Xuân Quỳnh với niềm khát yêu và sự sâu lắng suy tư. Trước khi đặt bút, các bạn có thể tham khảo các bài viết sau để phát triển ý, các bạn nhé. Chúc các bạn học tập thật tốt!
BÀI VIẾT SỐ 1 PHÂN TÍCH KHỔ THƠ 1 VÀ 2 KHỔ THƠ CUỐI CỦA BÀI THƠ “ SÓNG” ( XUÂN QUỲNH) ĐỂ THẤY SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CẢM XÚC TRỮ TÌNH
“ Thơ là người thư kí trung thành của trái tim”, nghệ sĩ gửi gắm tiếng lòng mãnh liệt vào tác phẩm văn học. Bởi vậy, ta có dịp gặp gỡ trái tim thi sĩ Xuân Quỳnh với niềm khát yêu được thể hiện trong bài thơ “ Sóng”. Khổ thơ một và hai khổ thơ cuối giúp ta cảm nhận rõ nét tâm hồn người con gái trong tình yêu, đồng thời thấy sự vận động của cảm xúc trữ tình.
Thơ ca bắt rễ từ cuộc đời, sau một chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền, nguồn cảm hứng trào dâng trong lòng nhà thơ khi bắt gặp hình ảnh con sóng giữa đại dương. Bài thơ được trích trong tập “ Hoa dọc chiến hào” (1967). Khi cả nước hòa trong âm vang của cuộc kháng chiến trường kỳ, các cây bút dù viết về đề tài gì cũng mở đường cho tình yêu tổ quốc- cái ta. Thì tiếng thơ Xuân Quỳnh thuần túy nói về tình cảm lứa đôi, nên “ Sóng” trở thành bông hoa lạ giữa làng văn học lúc bấy giờ.
Nhà thơ thành công khi sử dụng thể thơ năm chữ kết hợp với biện pháp ẩn dụ không hoàn toàn giữa nhân vật trữ tình “em” và hình tượng sóng, khi song hành lúc nhập làm một, tạo nên nhịp điệu hài hòa giữa tiếng sóng và tiếng lòng. Con sóng đại dương đồng hành cùng nhân vật “em” trên hành trình tự thức về tâm hồn mình khi yêu:
Sóng trong quy luật tự nhiên từ sông đổ ra bể:
Con sóng nhỏ mang trong mình khát vọng lớn lao, muốn vượt thoát khỏi “ sông”- không gian hạn hẹp để tiến ra biển- không gian dài rộng, khoáng đạt. Khám phá hành trình của sóng, nhà thơ phát hiện ra hành trình của con người đến với tình yêu. Động từ “ tìm ra tận” gợi tâm thế chủ động, bản lĩnh của cô gái sẵn sàng dấn thân tìm kiếm bến bờ hạnh phúc đích thực và được sống trọn vẹn là mình.
Con sóng đại dương còn bên người con gái thấu cảm những thuộc tính của trái tim yêu. Đó là nơi chất chứa nỗi âu lo và niềm tin mạnh mẽ:
Sóng cũng như “em” còn mang khát vọng hướng tới tình yêu vĩnh cửu:
“ Tan ra” là khao khát được hóa thân thành muôn vàn con sóng để tồn tại giữa cái vô hạn của không gian, cái vĩnh hằng của thời gian “ ngàn năm”, khát vọng muốn nối dài sự hữu hạn của kiếp người, vĩnh viễn hóa tình yêu cao đẹp. Khao khát gợi tâm hồn cao thượng, vị tha, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ hạnh phúc nguyên vẹn. Đoạn thơ khép lại bài thơ “ Sóng” mang nhịp điệu thổn thức của trái tim yêu tha thiết, mãnh liệt.
Con sóng được khám phá suốt một quá trình từ sông ra biển, từ cạn hẹp đến rộng lớn, từ bé nhỏ tới cao rộng. Nếu khổ một sóng tìm bản thân mình với những trạng thái, xúc cảm thì hai khổ cuối sóng đã tìm thấy lẽ sống tình yêu- sự dâng hiến, suy tư và khát vọng. Giọng điệu linh hoạt từ mạnh mẽ đến sâu lắng, suy tư và nồng nàn, sôi nổi. Hình tượng sóng em không còn sóng đôi mà hòa nhập trong đoạn thơ cuối. Ba khổ thơ giúp ta cảm nhận rõ nét sự vận động của nhân vật trữ tình, cũng như trái tim yêu đa cảm của nữ sĩ. “ Sóng” còn đọng lại trong lòng bạn đọc nhịp vỗ của tình yêu mang vừa màu sắc cổ điển vừa hiện đại.
- Thu Hường-vfo.vn
BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH KHỔ 1 VÀ HAI KHỔ CUỐI BÀI “SÓNG” ĐỂ THẤY SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CẢM XÚC TRỮ TÌNH
Tiến sĩ Chu Văn Sơn từng chia sẻ: “Một tâm hồn đang nhớ là một trái tim đang yêu”. Những trái tim đang yêu có bao giờ ngừng nhớ, và có bao giờ chịu đứng yên, như những cón sóng cứ lặn xuống rồi lại trào lên. Vì thế, dù trong một bài thơ nhưng con sóng tình cảm vẫn luôn có sự biến đổi. Có thể thấy qua sự vận động của cảm xúc trữ tình trong hai đoạn thơ bài “Sóng” – Xuân Quỳnh:
Không còn phân biệt được sóng tạo nên Xuân Quỳnh, hay Xuân Quỳnh đã tạo nên sóng. Chỉ biết rằng người con gái ấy sinh ra là để dành cho thơ. Thơ ca, với Xuân Quỳnh, gắn liền với sự sống, tình yêu; làm thơ là nữ sĩ được sống với chính mình, sống đủ đầy trọn vẹn là mình. Mỗi bài thơ đều là tiếng nói chân thành nhất của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền – Thái Bình cuối năm 1967, được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). “Sóng” với “em”, hai mà như một, một trong hai, song hành cùng nhau để thể hiện sâu sắc nhất cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Bằng cái nhìn thơ và tâm hồn nhạy cảm, Xuân Quỳnh đã phát hiện thấy ở hiện tượng sóng của tự nhiên không ít những đặc tính của người phụ nữ. Nghe tiếng sóng vỗ mà như nghe được tiếng lòng của người con gái đang yêu:
Người phụ nữ luôn hướng tìm tới tự do:
Nhưng cũng có lúc, đứng trước tình yêu, “em” cũng cảm thấy âu lo:
Với trái tim đa cảm và tâm hồn giàu trắc ẩn, nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian và lòng người, người phụ nữ thường có những lo âu về những điều bất trắc: “Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn”. Nỗi khắc khoải ấy hiện hiện hình khi nhận ra quy luật cuộc sống: “Cuộc đời tuy dài thế/ Năm tháng vẫn đi qua”, “Mây vẫn bay về xa”. Cuộc đời dài rộng vẫn có điểm kết vậy tình yêu kia có thể bất biến giữa thời gian? Cảm giác lo âu, sợ rằng không thể nắm giữ ấy không chỉ xuất hiện một lần trong thơ Xuân Quỳnh. Khi càng yêu thì càng lo, càng muốn nắm giữ lại càng sợ bị vuột mất. Nó trở thành một cảm thức, “mặc cảm” về sự chia lìa thường trực của nữ sĩ. Đó là lời tự vấn trong “Hoa cỏ may”:
Trong “Nói cùng anh”, nó trở thành sự thú nhận:
Nhưng cuối cùng, người phụ nữ ấy vẫn chọn yêu thương, tin tưởng và dâng hiến hết mình:
“Tan ra”- đó là khát vọng được hóa thân vào sóng để được tồn tại trong không gian rộng lớn của biển cả và cái vĩnh hằng của thời gian. Đó là khát vọng vĩnh vieenc hóa tình yêu, dùng tình yêu để nối dài cuộc đời ngắn ngủi của con người. Khát vọng ấy lại làm ta nhớ tới câu chuyện nàng tiên cá hóa thân làm bọt biển để người mình yêu được hạnh phúc trọn vẹn. Phải chăng đó là bản tính hi sinh và dâng hiến của người phụ nữ?
Mở đầu bài thơ là sự mãnh mẽ, chủ động tìm đến hạnh phúc, kết thúc lại bằng sự hi sinh, yêu thương vô bờ. Mở đầu bài thơ là khát vọng được làm rõ mình, kết thúc lại bằng khát vọng được hòa mình của người phụ nữ. Mở đầu bài thơ là ước vọng về hạnh phúc đến cuối bài thơ chính là hành động để tạo dựng và gìn giữ hạnh phúc ấy. Sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế vừa chủ động, mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành. Đó là một quá trình biến đổi hết sức tự nhiên và cũng đầy can đảm, cao đẹp trong phẩm chất, vẻ đẹp của người phụ nữ. Từ đó, cũng tạo nên sự khác biệt trong giọng điệu: từ những câu thơ ngắt nhịp nhanh, giọng thơ tự tin, dứt khoát đến những câu thơ nhẹ nhàng, du dương như tiếng đại dương rì rào sóng vỗ, không nghe rõ thanh âm nhưng vang vọng đến mãi về sau.
Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ. Nếu nói thơ là chuyện “rút ruột rút gan mình” mà viết, Xuân Quỳnh chính là người như thế. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điệu đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ.
Đọc những câu thơ của Xuân Quỳnh, ta cảm giác như “đứng trước một bến đò gió nổi, một khao khát sang sông, một thúc đẩy lên đường” để hướng tới vùng trời của chính mình, vùng trời của hạnh phúc.
-Bỉ Ngạn-vfo.vn
BÀI VIẾT SỐ 3 PHÂN TÍCH KHỔ THƠ 1 VÀ 2 KHỔ THƠ CUỐI CỦA BÀI THƠ “ SÓNG” ( XUÂN QUỲNH) ĐỂ THẤY SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CẢM XÚC TRỮ TÌNH
Tình yêu luôn là thứ tình cảm đẹp đẽ nhất, trong sáng nhất, lãng mạn nhất trong nhân sinh hữu hạn của mỗi con người. Sự đời vật đổi sao dời, đổi thay là điều không thể tránh, chỉ có những tình cảm rung động ấy là sẽ theo ta suốt cuộc đời, lưu lại nơi trái tim ta những vì sao lấp lánh. Có lẽ cũng bởi thế mà tình yêu luôn khơi gợi trong lòng thi nhân những cảm xúc mãnh liệt, để từ đó làm nên những vần thơ sống mãi với thời gian. Ta chắc hẳn đã từng bắt gặp một Hàn Mặc Tử với tình yêu đầy thổn thức, xót xa trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, một Nguyễn Bính với tình yêu giản dị, “Chân quê”. Và đến với Xuân Quỳnh, ta như lạc vào thế giới tâm hồn của người phụ nữ tràn đầy cảm xúc trong những khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Một trong những thi phẩm đặc sắc của chị chính là bài thơ “sóng”.
Đại thi hào Nga Puskin từng nói : “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Thơ Xuân Quỳnh chính là tiếng lòng của một người phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn tha thiết trong khát vọng tình yêu và khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ “Sóng” là bông hoa được Xuân Quỳnh “hái” dọc chiến hào vào năm 1967. Đây cũng là bài thơ tình duy nhất được in trong tập thơ. Mượn hình ảnh sóng trong khổ thơ đầu và hai khổ thơ cuối, nữ sĩ đã diễn tả những cảm xúc đối lập trong tình yêu, từ đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và quan niệm tình yêu của mình
Mở đầu đoạn thơ là những trạng thái cảm xúc đầy mâu thuẫn, đối lập trong tình yêu:
Những cặp tính từ đối lập “dữ dội - dịu êm”, “ồn ào - lặng lẽ” đã khắc họa một quy luật bất biến: dù cho tình yêu của người phụ nữ có ồn ào, dữ dội đến đâu thì cuối cùng vẫn sẽ đổ về phía dịu êm, lặng lẽ. Đôi mắt nữ sĩ đã chạm tới phần thẳm sâu trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu để rồi tìm ra quy luật muôn đời bất biến. Điệp từ “và” xuất hiện hai lần ở giữa câu thơ đã gợi ra mối quan hệ gắn kết lẫn nhau, song hành cùng nhau của hai trạng thái tình yêu. Bản tính của sóng cũng chính là tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu, đầy mãnh liệt nhưng cũng rất dịu dàng e lệ.
Hình ảnh những con sóng từ lâu vốn đã trở nên quen thuộc trong thơ ca. Ca dao khi xưa từng viết : Chiều chiều bước xuống ghe buôn Sóng bao nhiêu gợn dạ em buồn bấy nhiêu
Thế nhưng, khác với những con sóng trong ca dao xưa thường gợi về nỗi nhớ nhung sầu muộn, sóng trong thơ Xuân Quỳnh lại tràn đầy sức sống, chủ động tìm kiếm cội nguồn của mình, cội nguồn của tình yêu: Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể
Mượn quy luật muôn đời của thiên nhiên, nhà thơ đã thể hiện khát vọng lớn lao, khát vọng được khám phá, được hiểu biết khi những con sóng bình yên, lặng lẽ không thể dung nạp được cái khát khao, mãnh liệt nữa rồi. Đó cũng chính là sự chủ động đầy bản lĩnh của người con gái trong thời đại mới. Quan niệm đó thật mới mẻ, táo bạo, không giống như người phụ nữ trong thời kỳ trung đại :
Hình tượng sóng còn gợi về những dự cảm mong manh trước tình yêu, hạnh phúc.
Kết cấu câu “tuy- vẫn” đã diễn tả quy luật tất yếu của tự nhiên. Cuộc đời là vô cùng, vô tận nhưng sự sống con người lại chỉ là hữu hạn, nhỏ bé. Ý thức được điều đó, chính Xuân Quỳnh cũng thoáng chút lo âu trước sự trôi chảy của cuộc đời. Khổ thơ cũng ngầm ẩn chứa sự đối lập giữa cuộc đời mỏng manh tựa sương khói với không gian, thời gian rộng lớn, vô tận. Ẩn sâu trong những trăn trở, lo âu ấy lại là niềm tin vào tình yêu, khát khao được sống trọn vẹn, được cháy hết mình với tình yêu của mình.
Xuôi theo mạch nguồn cảm xúc ấy, ta bỗng thấy khát khao được hòa nhập, dâng hiến của người phụ nữ:
Hai chữ “làm sao” như cứa sâu vào lòng người nỗi niềm trăn trở của thi sĩ. Xuân Quỳnh khao khát được hòa mình thành trăm nghìn con sóng trên biển xanh rộng lớn. Đó là khát khao được yêu và dâng hiến hết mình cho tình yêu, cũng là khát vọng thẳm sâu như đại dương của người phụ nữ. “Biển lớn tình yêu” trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ là tình yêu rộng lớn, bao dung mà còn là tình yêu giữa con người với con người, tình yêu với ngọn núi dòng sông, với Tổ quốc tươi đẹp. Chị muốn “tan ra” không phải để biến mất mà để hòa nhập, góp một phần sức nhỏ nhoi, hữu han của mình cho cuộc đời. Nếu như ở khổ thơ đầu tiên, sóng là hình tượng để em gửi gắm những suy tư thì giờ đây, sóng và em đã trở thành một, chan chứa tình yêu với cuộc đời.
Ba khổ thơ trên là tiêu biểu cho bài thơ “Sóng”, góp phần đưa bài thơ trở thành một trong những thi phẩm tiêu biểu của Xuân Quỳnh nói riêng và thi đàn Việt Nam nói chung. Bằng hình tượng sóng đầy độc đáo, bài thơ đã thể hiện một quan niệm tình yêu đầy độc đáo, mới mẻ. Qua đó làm bật lên phong cách nghệ thuật rất riêng của nhà thơ.
Thời gian không ngừng thay đổi, những thành quách lâu đài rồi cũng sẽ lụi tàn. Thế nhưng “Sóng” cùng với Xuân Quỳnh vẫn sẽ luôn sống mãi trong lòng bạn đọc yêu thơ hôm nay và mai sau.
_TN_vfo.vn
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đầy cam go, văn học trở thành vũ khí làm tròn sứ mệnh của mình với thời đại nó sinh ra để cổ vũ tinh thần lạc quan, lòng yêu nước của nhân dân. Khi đó, tiếng thơ “ Sóng” của Xuân Quỳnh vang lên điệu tâm hồn tình yêu đôi lứa nồng nàn trở thành bông hoa lạ trong giai đoạn văn học lúc bấy giờ.
Tình cảm lứa đôi là tiếng nói nhân bản của con người, nhà thơ lách ngòi bút, thâm nhập vào thế giới nội tâm phong phú của người con gái khi yêu để gửi gắm khát vọng tuổi trẻ- sống trọn trong tình yêu. Nhà thơ phát hiện những thuộc tính của trái tim yêu mang từ sự tự thức sâu sa trong thẳm sâu tâm hồn đến nét âu lo, niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh tình yêu chân chính.. Khi làm bài phân tích 3 khổ thơ trên, ta cần phân tích từng đoạn từ hình thức: câu từ, nhịp điệu, giọng điệu… đến nội dung qua đó cảm nhận sự thay đổi của ý thơ cũng như sự vận động của cảm xúc trữ tình để thấy được nét đẹp của tâm hồn cô gái khi yêu và bắt gặp chính bản thể thi sĩ Xuân Quỳnh với niềm khát yêu và sự sâu lắng suy tư. Trước khi đặt bút, các bạn có thể tham khảo các bài viết sau để phát triển ý, các bạn nhé. Chúc các bạn học tập thật tốt!

BÀI VIẾT SỐ 1 PHÂN TÍCH KHỔ THƠ 1 VÀ 2 KHỔ THƠ CUỐI CỦA BÀI THƠ “ SÓNG” ( XUÂN QUỲNH) ĐỂ THẤY SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CẢM XÚC TRỮ TÌNH
“ Thơ là người thư kí trung thành của trái tim”, nghệ sĩ gửi gắm tiếng lòng mãnh liệt vào tác phẩm văn học. Bởi vậy, ta có dịp gặp gỡ trái tim thi sĩ Xuân Quỳnh với niềm khát yêu được thể hiện trong bài thơ “ Sóng”. Khổ thơ một và hai khổ thơ cuối giúp ta cảm nhận rõ nét tâm hồn người con gái trong tình yêu, đồng thời thấy sự vận động của cảm xúc trữ tình.
Thơ ca bắt rễ từ cuộc đời, sau một chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền, nguồn cảm hứng trào dâng trong lòng nhà thơ khi bắt gặp hình ảnh con sóng giữa đại dương. Bài thơ được trích trong tập “ Hoa dọc chiến hào” (1967). Khi cả nước hòa trong âm vang của cuộc kháng chiến trường kỳ, các cây bút dù viết về đề tài gì cũng mở đường cho tình yêu tổ quốc- cái ta. Thì tiếng thơ Xuân Quỳnh thuần túy nói về tình cảm lứa đôi, nên “ Sóng” trở thành bông hoa lạ giữa làng văn học lúc bấy giờ.
Nhà thơ thành công khi sử dụng thể thơ năm chữ kết hợp với biện pháp ẩn dụ không hoàn toàn giữa nhân vật trữ tình “em” và hình tượng sóng, khi song hành lúc nhập làm một, tạo nên nhịp điệu hài hòa giữa tiếng sóng và tiếng lòng. Con sóng đại dương đồng hành cùng nhân vật “em” trên hành trình tự thức về tâm hồn mình khi yêu:
- “ Dữ dội và dịu êm
- Ồn ào và lặng lẽ”
Sóng trong quy luật tự nhiên từ sông đổ ra bể:
- “ Sông không hiểu nổi mình
- Sóng tìm ra tận bể”
Con sóng nhỏ mang trong mình khát vọng lớn lao, muốn vượt thoát khỏi “ sông”- không gian hạn hẹp để tiến ra biển- không gian dài rộng, khoáng đạt. Khám phá hành trình của sóng, nhà thơ phát hiện ra hành trình của con người đến với tình yêu. Động từ “ tìm ra tận” gợi tâm thế chủ động, bản lĩnh của cô gái sẵn sàng dấn thân tìm kiếm bến bờ hạnh phúc đích thực và được sống trọn vẹn là mình.
Con sóng đại dương còn bên người con gái thấu cảm những thuộc tính của trái tim yêu. Đó là nơi chất chứa nỗi âu lo và niềm tin mạnh mẽ:
- “Cuộc đời tuy dài thế
- Năm tháng vẫn đi qua
- Như biển kia dẫu rộng
- Mây vẫn bay về xa”
- “ Lời yêu mỏng mảnh như màu khói,
- Ai biết lòng anh có đổi thay?”
- ( “ Tự hát”)
Sóng cũng như “em” còn mang khát vọng hướng tới tình yêu vĩnh cửu:
- “Làm sao được tan ra
- Thành trăm con sóng nhỏ
- Giữa biển lớn tình yêu
- Để ngàn năm còn vỗ”
“ Tan ra” là khao khát được hóa thân thành muôn vàn con sóng để tồn tại giữa cái vô hạn của không gian, cái vĩnh hằng của thời gian “ ngàn năm”, khát vọng muốn nối dài sự hữu hạn của kiếp người, vĩnh viễn hóa tình yêu cao đẹp. Khao khát gợi tâm hồn cao thượng, vị tha, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ hạnh phúc nguyên vẹn. Đoạn thơ khép lại bài thơ “ Sóng” mang nhịp điệu thổn thức của trái tim yêu tha thiết, mãnh liệt.
Con sóng được khám phá suốt một quá trình từ sông ra biển, từ cạn hẹp đến rộng lớn, từ bé nhỏ tới cao rộng. Nếu khổ một sóng tìm bản thân mình với những trạng thái, xúc cảm thì hai khổ cuối sóng đã tìm thấy lẽ sống tình yêu- sự dâng hiến, suy tư và khát vọng. Giọng điệu linh hoạt từ mạnh mẽ đến sâu lắng, suy tư và nồng nàn, sôi nổi. Hình tượng sóng em không còn sóng đôi mà hòa nhập trong đoạn thơ cuối. Ba khổ thơ giúp ta cảm nhận rõ nét sự vận động của nhân vật trữ tình, cũng như trái tim yêu đa cảm của nữ sĩ. “ Sóng” còn đọng lại trong lòng bạn đọc nhịp vỗ của tình yêu mang vừa màu sắc cổ điển vừa hiện đại.
- Thu Hường-vfo.vn

BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH KHỔ 1 VÀ HAI KHỔ CUỐI BÀI “SÓNG” ĐỂ THẤY SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CẢM XÚC TRỮ TÌNH
Tiến sĩ Chu Văn Sơn từng chia sẻ: “Một tâm hồn đang nhớ là một trái tim đang yêu”. Những trái tim đang yêu có bao giờ ngừng nhớ, và có bao giờ chịu đứng yên, như những cón sóng cứ lặn xuống rồi lại trào lên. Vì thế, dù trong một bài thơ nhưng con sóng tình cảm vẫn luôn có sự biến đổi. Có thể thấy qua sự vận động của cảm xúc trữ tình trong hai đoạn thơ bài “Sóng” – Xuân Quỳnh:
- “Dữ dội và dịu êm
- Ồn ào và lặng lẽ
- Sông không hiểu nổi mình
- Sóng tìm ra tận bể”
- Và:
- “Cuộc đời tuy dài thế
- Năm tháng vẫn đi qua
- Như biển kia dẫu rộng
- Mây vẫn bay về xa
- Làm sao được tan ra
- Thành trăm con sóng nhỏ
- Giữa biển lớn tình yêu
- Để ngàn năm còn vỗ.”
Không còn phân biệt được sóng tạo nên Xuân Quỳnh, hay Xuân Quỳnh đã tạo nên sóng. Chỉ biết rằng người con gái ấy sinh ra là để dành cho thơ. Thơ ca, với Xuân Quỳnh, gắn liền với sự sống, tình yêu; làm thơ là nữ sĩ được sống với chính mình, sống đủ đầy trọn vẹn là mình. Mỗi bài thơ đều là tiếng nói chân thành nhất của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền – Thái Bình cuối năm 1967, được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). “Sóng” với “em”, hai mà như một, một trong hai, song hành cùng nhau để thể hiện sâu sắc nhất cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Bằng cái nhìn thơ và tâm hồn nhạy cảm, Xuân Quỳnh đã phát hiện thấy ở hiện tượng sóng của tự nhiên không ít những đặc tính của người phụ nữ. Nghe tiếng sóng vỗ mà như nghe được tiếng lòng của người con gái đang yêu:
- “Dữ dội và dịu êm
- Ồn ào và lặng lẽ”
Người phụ nữ luôn hướng tìm tới tự do:
- “Sông không hiểu nổi mình
- Sóng tìm ra tận bể”
Nhưng cũng có lúc, đứng trước tình yêu, “em” cũng cảm thấy âu lo:
- “Cuộc đời đi dài thế
- Năm tháng vẫn đi qua
- Như biển kia dẫu rộng
- Mây vẫn bay về xa”
Với trái tim đa cảm và tâm hồn giàu trắc ẩn, nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian và lòng người, người phụ nữ thường có những lo âu về những điều bất trắc: “Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn”. Nỗi khắc khoải ấy hiện hiện hình khi nhận ra quy luật cuộc sống: “Cuộc đời tuy dài thế/ Năm tháng vẫn đi qua”, “Mây vẫn bay về xa”. Cuộc đời dài rộng vẫn có điểm kết vậy tình yêu kia có thể bất biến giữa thời gian? Cảm giác lo âu, sợ rằng không thể nắm giữ ấy không chỉ xuất hiện một lần trong thơ Xuân Quỳnh. Khi càng yêu thì càng lo, càng muốn nắm giữ lại càng sợ bị vuột mất. Nó trở thành một cảm thức, “mặc cảm” về sự chia lìa thường trực của nữ sĩ. Đó là lời tự vấn trong “Hoa cỏ may”:
- “Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
- Ai biết lòng anh có đổi thay?”
Trong “Nói cùng anh”, nó trở thành sự thú nhận:
- “Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
- Hôm nay yêu mai có thể xa rồi”
Nhưng cuối cùng, người phụ nữ ấy vẫn chọn yêu thương, tin tưởng và dâng hiến hết mình:
- “Làm sao được tan ra
- Thành trăm con sóng nhỏ
- Giữa biển lớn tình yêu
- Ðể ngàn năm còn vỗ.”
“Tan ra”- đó là khát vọng được hóa thân vào sóng để được tồn tại trong không gian rộng lớn của biển cả và cái vĩnh hằng của thời gian. Đó là khát vọng vĩnh vieenc hóa tình yêu, dùng tình yêu để nối dài cuộc đời ngắn ngủi của con người. Khát vọng ấy lại làm ta nhớ tới câu chuyện nàng tiên cá hóa thân làm bọt biển để người mình yêu được hạnh phúc trọn vẹn. Phải chăng đó là bản tính hi sinh và dâng hiến của người phụ nữ?
Mở đầu bài thơ là sự mãnh mẽ, chủ động tìm đến hạnh phúc, kết thúc lại bằng sự hi sinh, yêu thương vô bờ. Mở đầu bài thơ là khát vọng được làm rõ mình, kết thúc lại bằng khát vọng được hòa mình của người phụ nữ. Mở đầu bài thơ là ước vọng về hạnh phúc đến cuối bài thơ chính là hành động để tạo dựng và gìn giữ hạnh phúc ấy. Sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế vừa chủ động, mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành. Đó là một quá trình biến đổi hết sức tự nhiên và cũng đầy can đảm, cao đẹp trong phẩm chất, vẻ đẹp của người phụ nữ. Từ đó, cũng tạo nên sự khác biệt trong giọng điệu: từ những câu thơ ngắt nhịp nhanh, giọng thơ tự tin, dứt khoát đến những câu thơ nhẹ nhàng, du dương như tiếng đại dương rì rào sóng vỗ, không nghe rõ thanh âm nhưng vang vọng đến mãi về sau.
Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ. Nếu nói thơ là chuyện “rút ruột rút gan mình” mà viết, Xuân Quỳnh chính là người như thế. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điệu đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ.
Đọc những câu thơ của Xuân Quỳnh, ta cảm giác như “đứng trước một bến đò gió nổi, một khao khát sang sông, một thúc đẩy lên đường” để hướng tới vùng trời của chính mình, vùng trời của hạnh phúc.
-Bỉ Ngạn-vfo.vn

BÀI VIẾT SỐ 3 PHÂN TÍCH KHỔ THƠ 1 VÀ 2 KHỔ THƠ CUỐI CỦA BÀI THƠ “ SÓNG” ( XUÂN QUỲNH) ĐỂ THẤY SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CẢM XÚC TRỮ TÌNH
Tình yêu luôn là thứ tình cảm đẹp đẽ nhất, trong sáng nhất, lãng mạn nhất trong nhân sinh hữu hạn của mỗi con người. Sự đời vật đổi sao dời, đổi thay là điều không thể tránh, chỉ có những tình cảm rung động ấy là sẽ theo ta suốt cuộc đời, lưu lại nơi trái tim ta những vì sao lấp lánh. Có lẽ cũng bởi thế mà tình yêu luôn khơi gợi trong lòng thi nhân những cảm xúc mãnh liệt, để từ đó làm nên những vần thơ sống mãi với thời gian. Ta chắc hẳn đã từng bắt gặp một Hàn Mặc Tử với tình yêu đầy thổn thức, xót xa trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, một Nguyễn Bính với tình yêu giản dị, “Chân quê”. Và đến với Xuân Quỳnh, ta như lạc vào thế giới tâm hồn của người phụ nữ tràn đầy cảm xúc trong những khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Một trong những thi phẩm đặc sắc của chị chính là bài thơ “sóng”.
Đại thi hào Nga Puskin từng nói : “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Thơ Xuân Quỳnh chính là tiếng lòng của một người phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn tha thiết trong khát vọng tình yêu và khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ “Sóng” là bông hoa được Xuân Quỳnh “hái” dọc chiến hào vào năm 1967. Đây cũng là bài thơ tình duy nhất được in trong tập thơ. Mượn hình ảnh sóng trong khổ thơ đầu và hai khổ thơ cuối, nữ sĩ đã diễn tả những cảm xúc đối lập trong tình yêu, từ đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và quan niệm tình yêu của mình
Mở đầu đoạn thơ là những trạng thái cảm xúc đầy mâu thuẫn, đối lập trong tình yêu:
- Dữ dội và dịu êm
- Ồn ào và lặng lẽ
Những cặp tính từ đối lập “dữ dội - dịu êm”, “ồn ào - lặng lẽ” đã khắc họa một quy luật bất biến: dù cho tình yêu của người phụ nữ có ồn ào, dữ dội đến đâu thì cuối cùng vẫn sẽ đổ về phía dịu êm, lặng lẽ. Đôi mắt nữ sĩ đã chạm tới phần thẳm sâu trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu để rồi tìm ra quy luật muôn đời bất biến. Điệp từ “và” xuất hiện hai lần ở giữa câu thơ đã gợi ra mối quan hệ gắn kết lẫn nhau, song hành cùng nhau của hai trạng thái tình yêu. Bản tính của sóng cũng chính là tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu, đầy mãnh liệt nhưng cũng rất dịu dàng e lệ.
Hình ảnh những con sóng từ lâu vốn đã trở nên quen thuộc trong thơ ca. Ca dao khi xưa từng viết : Chiều chiều bước xuống ghe buôn Sóng bao nhiêu gợn dạ em buồn bấy nhiêu
Thế nhưng, khác với những con sóng trong ca dao xưa thường gợi về nỗi nhớ nhung sầu muộn, sóng trong thơ Xuân Quỳnh lại tràn đầy sức sống, chủ động tìm kiếm cội nguồn của mình, cội nguồn của tình yêu: Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể
Mượn quy luật muôn đời của thiên nhiên, nhà thơ đã thể hiện khát vọng lớn lao, khát vọng được khám phá, được hiểu biết khi những con sóng bình yên, lặng lẽ không thể dung nạp được cái khát khao, mãnh liệt nữa rồi. Đó cũng chính là sự chủ động đầy bản lĩnh của người con gái trong thời đại mới. Quan niệm đó thật mới mẻ, táo bạo, không giống như người phụ nữ trong thời kỳ trung đại :
- Thân em vừa trắng lại vừa tròn
- Bảy nổi ba chìm với nước non
- Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
- Mà em vẫn giữ tấm lòng son
- (Bánh trôi nước - Hồ Quỳnh Hương)
Hình tượng sóng còn gợi về những dự cảm mong manh trước tình yêu, hạnh phúc.
- Cuộc đời tuy dài thế
- Năm tháng vẫn qua đi
- Như biển kia dẫu rộng
- Mây vẫn bay về xa
Kết cấu câu “tuy- vẫn” đã diễn tả quy luật tất yếu của tự nhiên. Cuộc đời là vô cùng, vô tận nhưng sự sống con người lại chỉ là hữu hạn, nhỏ bé. Ý thức được điều đó, chính Xuân Quỳnh cũng thoáng chút lo âu trước sự trôi chảy của cuộc đời. Khổ thơ cũng ngầm ẩn chứa sự đối lập giữa cuộc đời mỏng manh tựa sương khói với không gian, thời gian rộng lớn, vô tận. Ẩn sâu trong những trăn trở, lo âu ấy lại là niềm tin vào tình yêu, khát khao được sống trọn vẹn, được cháy hết mình với tình yêu của mình.
Xuôi theo mạch nguồn cảm xúc ấy, ta bỗng thấy khát khao được hòa nhập, dâng hiến của người phụ nữ:
- Làm sao được tan ra
- Thành trăm con sóng nhỏ Giữa bể lớn tình yêu
- Để ngàn năm còn vỗ
Hai chữ “làm sao” như cứa sâu vào lòng người nỗi niềm trăn trở của thi sĩ. Xuân Quỳnh khao khát được hòa mình thành trăm nghìn con sóng trên biển xanh rộng lớn. Đó là khát khao được yêu và dâng hiến hết mình cho tình yêu, cũng là khát vọng thẳm sâu như đại dương của người phụ nữ. “Biển lớn tình yêu” trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ là tình yêu rộng lớn, bao dung mà còn là tình yêu giữa con người với con người, tình yêu với ngọn núi dòng sông, với Tổ quốc tươi đẹp. Chị muốn “tan ra” không phải để biến mất mà để hòa nhập, góp một phần sức nhỏ nhoi, hữu han của mình cho cuộc đời. Nếu như ở khổ thơ đầu tiên, sóng là hình tượng để em gửi gắm những suy tư thì giờ đây, sóng và em đã trở thành một, chan chứa tình yêu với cuộc đời.
Ba khổ thơ trên là tiêu biểu cho bài thơ “Sóng”, góp phần đưa bài thơ trở thành một trong những thi phẩm tiêu biểu của Xuân Quỳnh nói riêng và thi đàn Việt Nam nói chung. Bằng hình tượng sóng đầy độc đáo, bài thơ đã thể hiện một quan niệm tình yêu đầy độc đáo, mới mẻ. Qua đó làm bật lên phong cách nghệ thuật rất riêng của nhà thơ.
Thời gian không ngừng thay đổi, những thành quách lâu đài rồi cũng sẽ lụi tàn. Thế nhưng “Sóng” cùng với Xuân Quỳnh vẫn sẽ luôn sống mãi trong lòng bạn đọc yêu thơ hôm nay và mai sau.
_TN_vfo.vn
- Chủ đề
- cảm xúc trữ tình song xuân quỳnh