Cảm nhận 8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc - 3 bài văn phân tích hay nhất

“ Việt Bắc” được coi là ngôi sao sáng trong văn học kháng chiến chống Pháp, bài thơ cũng là sự kết tinh tài năng, tâm hồn của nhà thơ trữ tình chính trị- Tố Hữu, người luôn hướng ngòi bút tới những dấu mốc lịch sử trọng đại của dân tộc.

Nhân sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, khi hiệp định Gionevo được kí kết mở ra giai đoạn mới của cách mạng nước ta. Năm 1954, các cơ quan trung ương Đảng dời căn cứ Việt Bắc- nơi nuôi dưỡng, chở che cán bộ, về xuôi tiếp quản thủ đô. Biết bao lưu luyến, ân tình của cán bộ Đảng và đồng bào miền núi. Tình cảm đó gợi cảm hứng nơi ngòi bút Tố Hữu tạo nên tác phẩm “ Việt Bắc”. Khi làm bài phân tích 8 câu thơ đầu, ta cần phân tích từng đoạn từ hình thức: câu từ, nhịp điệu, giọng điệu… đến nội dung để cảm nhận nét đẹp của tiếng lòng bịn rịn, bâng khuâng của người ra đi và kẻ ở lại trong giờ phút chia ly. Qua đó thấy được nghĩa tình cách mạng sâu nặng của người đồng bào miền núi với cán bộ chiến sĩ, một lòng sắt son với ánh sáng của đảng. Trước khi đặt bút, các bạn có thể tham khảo các bài viết sau để phát triển ý, các bạn nhé. Chúc các bạn học tập thật tốt!

8-cau-tho-dau-bai-tho-viet-bac.jpg

BÀI VIẾT SỐ 1 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN 8 CÂU THƠ ĐẦU BÀI THƠ “ VIỆT BẮC”
Bạch Cư Dị khi nói về nói thơ, cho rằng: “ Thơ, tình là gốc, lời là ngọn, âm thanh là hoa, nghĩa là quả”, đó là một sự toàn diện tạo nên sức sống của thơ giữa dòng thời gian. Tiếng thơ Tố Hữu cũng vậy. Nhà thơ dụng công dâng hiến áng thơ “ Việt Bắc” để gửi gắm tư tưởng tình cảm sâu sắc về nghĩa tình trong thời chiến còn làm rung động lòng người. Tám câu thơ đầu: “ Ta về mình có nhớ ta…Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...” là kết tinh tư tưởng chủ đề đó.

Tám câu thơ đầu hay dòng tâm trạng bâng khuâng, bịn rịn khi giờ chia ly đã điểm, đậm tô ân tình cách mạng của người đồng bào miền núi với cán bộ, chiến sĩ.
Thể thơ lục bát khiến câu thơ mềm mại, điệu thơ trầm bổng, kết hợp với vần phong phú, nhịp đều đặn gợi trạng thái muôn vàn trong tâm hồn người ở, kẻ đi. Kết cấu đối đáp, cách xưng hô “ mình, ta” quen thuộc xuất hiện trong ca dao giao duyên buổi tự tình, hò hẹn của chàng- nàng, mận- đào, mở ra bầu không khí tâm tình, giọng tình thương mến, ngọt ngào. Đoạn thơ nói tình cảm chính trị mà không khô khan.

Với người ở lại, nhạy cảm với sự đổi thay nên lên tiếng trước:
  • “- Mình về mình có nhớ ta?
  • Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
  • Mình về mình có nhớ không?
  • Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

Câu hỏi tu từ láy đi, láy lại theo hình thức tăng tiến “ có nhớ ta, có nhớ không” gợi những cung bậc cảm xúc từ ướm hỏi xa xôi đến nỗi khắc khoải lắng nghe lời đồng vọng. Qua đó giúp ta cảm tấm chân tình của người ở lại, tình đồng bào với người cất bước. Thời gian lịch sử “ mười lăm năm”, cũng là thời gian tình cảm mặn nồng ân nghĩa. Không gian “ cây, núi, sông, nguồn” gợi Việt Bắc đại ngàn, núi thăm thẳm. Điệp từ “ nhớ”diễn tả nỗi lòng lớp lớp, khôn nguôi. Cách diễn đạt mang lỗi nghĩ dân gian như lời nhắn nhủ của cha ông về lối sống ẩm hà tư nguyên, nhắc nhớ sự thủy chung.

Lời người đi xuôi đáp lại tiếng lòng kẻ ở lại:
  • “- Tiếng ai tha thiết bên cồn
  • Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
  • Áo chàm đưa buổi phân ly
  • Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”

Cặp câu lục bát sử dụng những láy từ “ bồn chồn, bâng khuâng” biểu hiện mọi nỗi niềm trong lòng người ly biệt. Tâm trạng được hữu hình hóa, vô hình thành hữu hình “ bồn chồn bước đi” gợi bước đi chầm chậm chẳng nỡ rời buông như bước chân kẻ chinh phu, tráng sĩ ngày nào trong “ Chinh phụ ngâm”:
  • “ Bước đi một bước, giây giây lại dừng”

Nhưng đó là tình phu- phụ, còn “ Việt Bắc” nói tới tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Hình ảnh áo chàm trong buổi phân ly đã từng đi về từng đi về trong ca dao xưa, chiếc áo để người đắp cho bớt hiu quạnh, áo bào của nàng Kiều trong buổi chia ly Thúc sinh. Nhưng Tố Hữu mượn sắc áo chàm bình dị, bền, khó phai, khó nhạt của đồng bào miền ngược nói sắc lòng người ở lại mãi vẹn nguyên. Tâm tư tình cảm người ở được cảm bởi người đi, dường như “ ta, mình” hiểu nhau cả những điều không nói ra. Bởi vậy, hành động “ Cầm tay nhau biết nói gì” như khoảng lặng của âm nhạc, khoảng trống của nhiếp ảnh, khoảng vô ngôn dư tình trong văn học. Thời gian như ngưng lại để kẻ ở và người đi đối thoại đàm tâm, sự thấu hiểu của tình tri âm, tri kỷ giữa người đồng bào và cán bộ cách mạng mang ân tình cách mạng sâu đậm.

Tám câu thơ đầu trong “ Việt Bắc” vừa tiếp thu giá trị dân gian phong phú vừa được nhà thơ Tố Hữu sáng tạo ý mới, hình ảnh mới, diễn đạt tình cảm, sự kiện thời đại phản ánh quy luật kế thừa, cách tân nghệ thuật.

-Thu Hường- vfo.vn

cam-nhan-8-cau-tho-bai-viet-bac.jpg

BÀI VIẾT SỐ 2 PHÂN TÍCH 8 CÂU ĐẦU BÀI THƠ “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU
Những tên địa danh, đối với Địa lý chỉ đơn giản là một địa điểm, một đối tượng phân tích nhưng với Văn học, nó là cả một miền nhớ, miền ký ức và là nơi khơi nguồn cảm xúc. Tây Tiến. Sông Đuống, Kinh Bắc,... đã trở thành một miền thơ, là ký ức về một những năm tháng không thể nào quên của dân tộc. Việt Bắc cũng là một địa danh như thế. “Việt Bắc” chính là bản hùng ca, khúc tình ca về cuộc sống kháng chiến và con người kháng chiến. Ngay trong tám câu thơ đầu đã thể hiện được những điều đó:
  • “Mình về mình có nhớ ta
  • Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
  • Mình về mình có nhớ không
  • Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
  • - Tiếng ai tha thiết bên cồn
  • Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
  • Áo chàm đưa buổi phân li
  • Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp quay trở lại nước ta đã kết thúc thắng lợi. Hòa bình được lặp lại, nửa đất nước được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội được giải phóng, trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Lịch sử dân tộc bước sang một trang mới. Ở thời khắc này, người ta có nhu cầu nhìn lại chặng đường vừa qua, đồng thời hướng về con đường tương lai để bước tiếp. Bài thơ “Việt Bắc” ra đời để đáp ứng nhu cầu ấy của xã hội, là tiếng lòng của đồng bào mọi người. “Việt Bắc” là bản trường ca đầy ân tình – tình quê hương, tình đất nước, nghĩa tình giữa con người. Vì thế bài thơ là một bản tổng kết lịch sử bằng tâm tình. Bởi là một chặng đường dài nên từ những câu thơ này đến dòng thơ sau đều có sự phát triển và vận động, mang ý nghĩa riêng của nó.

Mở đầu bài thơ là lời của người ở lại gửi tới người ra đi:
  • “Mình về mình có nhớ ta
  • Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
  • Mình về mình có nhớ không
  • Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Ta lại bắt gặp lối đối đáp “mình- ta” quen thuộc trong những câu hát giao duyên của lứa đôi, giữa bến – thuyền, mận – đào. Điệp cấu trúc: “Mình về, mình có nhớ....” là câu hỏi hay là sự gợi nhắc đầy ý tứ, ý tình. Nghe đâu đây những câu hát ân nghĩa ngày xưa như vọng về:
  • “Thuyền về có nhớ bến chăng?
  • Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
Hay
  • “Chàng về để áo lại đây
  • Phòng khi em đắp gió Tây lạnh lùng”...

Lối đối đáp mình – ta với âm điệu ngọt ngào, thiết tha làm cho những câu thơ bỗng trở nên mềm mại, như cũng vấn vương nỗi lưu luyến, nhớ nhung. Tình quân – dân, vấn đề chính trị khô khan, từ bao giờ lại được trữ tình hóa, trở nên da diết và nồng nàn như tình yêu đôi lứa, đó chính là nhờ ngòi bút của nhà thơ Tố Hữu. “Mười lăm năm” không chỉ là khoảng thời gian địa lí, nó kí ức, là một phần thanh xuân của biết bao con người, của cả dân tộc. Một chữ “ấy” thôi, không cụ thể nhắc đến thời gian nào nhưng lại mở ra muôn vàn ý nghĩa. Mười năm năm của thời gian: từ những ngày thành lập ở Cao Bằng, những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc đến chiến thắng vang dội của Hồng Thái, Tân Trào,... Mười năm năm ân tình, ân nghĩa của đồng đội, quân – dân của những ngày tháng “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, “miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”. Mất đi một chút rõ ràng để thêm nhiều tầng ý vị và tình cảm chính là như thế. Người ở lại còn gợi nhắc về những ân tình, thủy chung – đạo lí dân tộc: “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Những thành ngữ, chất liệu dân gian, qua ngòi bút tài hoa Tố Hữu, vừa mang hơi thở thời đại, vừa giữ được tính dân tộc của nó: “cây- núi”, “sông- nguồn”. Đó chẳng phải là câu thành ngữ quen thuộc: “Uống nước nhớ nguồn” đó sao? Bốn dòng thơ, cho 15 năm dằng dặc, vất vả mà hào hùng. Bốn dòng thơ cho những nghĩa tình không bao giờ nói hết. Bốn dòng thơ cho những da diết, luyến lưu không lỡ rời. Bốn dòng thơ cho cả lẽ sống cần có, bây giờ và mãi về sau: ân tình, thủy chung, uống nước nhớ nguồn....

Bốn câu thơ tiếp theo là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi lưu luyến, nhớ nhung của kẻ ở người đi:
  • “- Tiếng ai tha thiết bên cồn
  • Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
  • Áo chàm đưa buổi phân li
  • Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Người ra đi bịn rịn, nhớ nhung, ngập ngừng mà lưu luyến khiến từng bước chân còn vương vấn mãi những âm thanh mơ hồ: “tiếng ai”. Đó là tiếng người ở lại hay tiếng vọng từ trong tâm tưởng người ra đi. Không gian từ ngoại giới: “bên cồn” chuyển vào “trong dạ” rồi “bồn chồn bước đi” từ hữu hình đến vô hình. Hữu hình hóa cái vô hình, ngoại giới hóa nội tâm càng làm bước đi thêm ngập ngừng, chầm chậm chẳng muốn rời. Những bước chân ngập ngường ấy ta đã bắt gặp trong giây phút chia phút chia li của “chàng” và “nàng” trong “Chinh phụ ngâm”: “Bước đi một bước giây giây lại dừng” hay trong cái nhìn của chàng trai với người mình yêu:
  • “Vừa đi vừa ngoảnh lại
  • Vừa đi vừa ngoái trông”
  • (“Xống chụ xôn xao”)

Nhưng ở đây lại là tình đồng chí, nghĩa đồng bào, thắm thiết và vấn vương tha thiết.

Từ âm thanh mơ hồ ấy, Tố Hữu đề cập đến hình ảnh cụ thể đến nao lòng: “áo chàm đưa buổi phân li”. Nói tới “áo” trong buổi chia li là Tố Hữu đã trở về với ngọn nguồn dân tộc:
  • “Áo xông hương để chàng vắt mắc
  • Đêm em nằm em đắp dành hơi”
  • (Ca dao)
  • “Người về để áo lại đây
  • Phòng khi em đặp gió Tây lạnh lùng”
  • (Ca dao)
  • “Người lên ngựa, kẻ chia bào
  • Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”
  • (“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)

Nhưng chiếc áo trong thơ Tố Hữu không phải áo xông hương đài các hay áo bào sang trọng mà chỉ là “áo chàm” giản dị một sắc nâu. Đó không phải cái cầm tay “Nhủ rồi tay lại cầm tay” (“Chinh phụ ngâm” – Đoàn Thị Điểm) của nghĩa phu thê hay của tình đồng chí, đồng đội: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” mà là cái nắm tay của tình đồng chí, đồng bào. Dấu “…” như khoảng trống, khoảng trắng vô ngôn mà hữu ý, dư tình. Đôi khi, không nói là để nói được nhiều nhất. Đôi khi, ngôn ngữ cũng bất lực trước tình cảm mênh mông của con người. Khi ấy, “Thử thời vô thanh thắng hữu thanh” (Lý Bạch)

Đoạn thơ của Tố Hữu chỉ tám câu mà gợi lên nghĩa tình bao kể xiết: tình quân dân cá nước, tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Những tình cảm chính trị được đưa vào thơ một cách rất tự nhiên, ý tình khiến cho thơ có “thép” mà không cứng, nói về lẽ sống lớn dân tộc mà không sa vào giáo điều, khô khan. Có được hiệu qua ấy chính là nhờ những câu thơ với lối nói dân gian gần gũi, giọng điệu tâm tình nhẹ nhàng với ngôn ngữ, hình ảnh trở về với cội nguồn dân tộc mà vẫn mang hơi thở thời đại càng làm cho đoạn thơ thêm hấp dẫn. Và chính những tình cảm ấy là động lực, là hậu phương cho con người Việt Nam vượt qua mưa bom bão đạn mà làm nên những chiến thắng “Lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu”. Phải chăng, Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ?

Xin mượn lời của nhà thơ – nhà phê bình một thời cùng Tố Hữu sống và viết, Chế Lan Viên, để làm lời kết: “Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì cũng được, sống sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó.”

-Bỉ Ngạn-vfo.vn

8-cau-tho-bai-viet-bac.jpg

BÀI VIẾT SỐ 3 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN 8 CÂU THƠ ĐẦU BÀI THƠ “ VIỆT BẮC” NGẮN GỌN
Nhớ về giai đoạn 1945-1975, bạn đọc đều khắc khoải những giây phút chiến đấu hào hùng, những gian khổ khắc nghiệt của bom đạn chiến tranh. Và chính hoàn cảnh đó đã sản sinh ra Những ngòi bút Cách Mạng tiêu biểu cho một thời kì văn học dân tộc. Nếu Phạm Tiến Duật hay Quang Dũng viết về gian khổ bằng giọng thơ tươi trẻ, yêu đời, thì Tố Hữu lại đi vào lòng bạn đọc nhờ cái trữ tình, lắng sâu của lời thơ. Tám câu thơ mở đầu Viết Bắc là minh chứng rõ nét cho phong cách thơ Tố Hữu.

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ra và lớn lên nơi xứ Huế mộng mơ. Phải chăng chính đất và người nơi đây đã đọng lại trong tâm hồn thi sĩ chất nhẹ nhàng, duyên dáng, rất thơ, rất Huế. Ở thi nhân có sự hòa quyện thống nhất giữa cuộc đời Cách mạng và cuộc đời thơ. Ông chọn con đường Cách mạng từ thời niên thiếu, viết thơ cũng là viết cùng chặng đường lịch sử của cả dân tộc. Bởi vậy, Tố Hữu quan niệm: “Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng; xác định thật rõ ràng tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân. Ngoài ra, các nhà thơ Cách mạng còn phải kiên quyết đấu tranh, không khoan nhượng trước những biểu hiện lệch lạc, với cái xấu cái ác. Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng." Và Việt Bắc chính là áng thơ được kết tinh từ tư tưởng chính trị vững vàng cùng trái tim ấm nóng luôn hướng về quê hương đất nước của nhà thơ. Bài thơ ra đời trong không khí hân hoan của quân và dân sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, trong giây phút những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Việt Bắc là khúc ca hùng tráng và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trong niềm tự hào dân tộc. Tám câu thơ mở đầu đã dội nên bao nỗi niềm thân thương, lưu luyến trong tâm tình người chiến sĩ khi rời xa đồng bào vùng cao để trở về.
Cuộc chia tay đầy bịn rịn, tiếc nuối hiện ra qua giọng thơ ngọt ngào, trữ tình của Tố hữu.
  • “ - Mình về mình có nhớ ta?
  • Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
  • Mình về mình có nhớ không?
  • Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

Đoạn thơ nương theo điệu hồn truyền thống từ thể thơ đến cách xưng hô, gợi một nỗi niềm bình dụi, thân thuộc. Tố Hữu tìm về với văn học cổ để khai phá cái tình, cái tứ trong thẻ thơ lục bát bình dị, tạo âm hưởng đối thoại tâm tình giữa quân và dân. Giữa đồng bào và người lính, giữa những đồng đội không phải là “anh-tôi” như trong “Đồng chí” (Chính Hữu), không phải “nàng, em” trong lời thơ Tây Tiến (Quang Dũng), tình cảm son sắt, thắm đượm ấy đã trở thành “mình-ta”. Lối xưng hô quen thuộc trong ca dao dân ca xưa vừa gợi nét ấm cúng, thân mật, vừa tạo nên nét độc đáo trong ngòi bút khám phá của Tố Hữu. Với nhà thơ, tình quân dân cũng ấm nồng như tình cảm gia đình, cần sự thủy chung, gắn bó bền chặt không rời. Lời thơ là lời của người ở lại nói với người ra đi rằng: sau khi trở về thành thị phồn hoa rồi, liệu lòng người có còn vương vấn chút gì nơi đây, có nhớ “15 năm” kháng chiến gian khổ, có nhớ núi rừng đồng cỏ nơi đây hay không. Nỗi niềm ấy cứ day dứt trong lòng người ở lại. Ngay sau cụm từ “15 năm” dài đằng đẵng ấy là hình ảnh của non sông suối nguồn miền cao, gợi cho bạn đọc cảm giác mênh mang, chơi vơi của nỗi nhớ, nó đã trải ra khắp không gian, thấm đượm vào từng vết hằn của thời gian đời người. Câu thơ chất chứa cái tình, cái nghĩa của người ra đi và người ở lại, hay cũng chính là cái gắn bó sâu đậm của đồng bào miền ngược với những chiến sĩ miền xuôi.
  • “- Tiếng ai tha thiết bên cồn
  • Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
  • Áo chàm đưa buổi phân ly
  • Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Nhớ về Việt Bắc, người lính nhớ thiên nhiên đại ngàn hùng vĩ, nhớ về những tháng ngày chiến đấu gian khổ và đặc biệt hơn cả là nhớ về trái tim của những người ở lại. “Tiếng ai” – tiếng người ở lại hay tiếng người ra đi, nhà thơ không nói rõ nhưng dù là của ai cũng đều bâng khuâng, bồn chồn không yên. Phải chăng đó là nỗi lòng người lính khi phải rời xa chốn thân thương này, bồi hồi, lưu luyến không thể cất bước. Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật hoán dụ vô cùng tinh tế “Áo chàm đưa buổi phân ly”. Áo chàm là trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc trên vùng cao, dùng hình ảnh áo chàm để khắc họa lên hình ảnh con người, vừa kín đáo, vừa giàu giá trị nghệ thuật, Lời thơ trở nên mềm mại, giàu hình ảnh hơn. Trong giờ phút chia tay ấy, mọi người đứng gần nhau, nắm tay nhau. Bao kỉ niệm, bao lời giãi bày đều không thể cất nên thành tiếng. Khoảng lặng vô định bỗng chiếm đoạt bầu không gian, là lúc tiếng lòng cất lời. Chỉ nhìn nhau, chỉ nắm tay nhau cũng đủ hiểu nhau. Đó là biểu hiện của sự đoàn kết, gắn bó keo sơn suốt bao năm tháng. Chỉ bằng những hình ảnh giản dị, ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhà thơ đã khắc họa nên bức tranh buổi chia tay vô cùng ấm nồng, cảm động. Con người, thời gian, không gian như hòa làm một. Tình cảm quân dân, đồng chí- đồng bào đã trở thành tình yêu đất nước.
Bằng tài năng nghệ thuật cùng tâm hồn nhạy cảm, tha thiết với Cách mạng, Tố hữu đã tái hiện lại khung cảnh buổi chia tay đầy xúc động của đồng bào dân tộc miền núi với chiến sĩ khi về xuôi. Từ đó làm ngời sáng lên vẻ đẹp của tình cảm quân dân gắn bó, thắp lên hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn.
_TN_vfo.vn
 
  • Chủ đề
    8 câu đầu to huu việt bắc
  • Top