“Tây Tiến” là một bài thơ quen thuộc và nổi bật của Quang Dũng. Trong đó, sự hy sinh cao cả của người lính được nhà thơ nhắc đến hai lần với những lớp ý nghĩa riêng. Dưới đây là một số bài văn mẫu phân tích sự hi sinh của người lính trong hai đoạn thơ trong phần đầu và cuối tác phẩm để từ đó thấy được sự vận động của nhân vật trữ tình mà các bạn có thể tham khảo để bài viết của mình đầy đủ và ấn tượng hơn.
Trong vườn hoa thi ca đượm hương thắm sắc vẻ lãng mạn ấy, “Tây Tiến” của Quang Dũng lại mang màu sắc mới lạ, riêng biệt nhưng vẫn vô cùng ấn tượng. Nhà thơ Vũ Quần Phương trong một buổi tọa đàm từng chia sẻ rằng: “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ “Tây Tiến”, ông không có điểm gì chung với các nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”. Trong bài thơ, Quang Dũng đã đặc biệt nhắc đến sự hi sinh của người lính trong hai đoạn thơ “Anh bạn dãi dầu…Mường Hịch cọp trêu người” và “Rải rác biên cương…gầm lên khúc độc hành”. Các bài văn mẫu dưới đây phân tích sự hi sinh của người lính trong hai đoạn thơ để từ đó thấy được sự vận động của nhân vật trữ tình một cách đầy đủ chi tiết nhất để chia sẻ với các bạn. Chúc các bạn thành công!
Đề bài: Trong "Tây Tiến", Quang Dũng 2 lần nhắc đến sự hi sinh của người lính: "Anh bạn dãi dầu.... Mường Hịch cọp trêu người" và "Rải rác biên cương.... gầm lên khúc độc hành" . Phân tích hai đoạn để thấy sự vận động của hình tượng trữ tình
BÀI VĂN MẪU SỐ 1 PHÂN TÍCH SỰ HY SINH CỦA NGƯỜI LÍNH TRONG“TÂY TIẾN”
Nói về bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng, nhà phê bình văn học Nguyễn Xuân Nguyên từng nhận xét rằng: “Nó như một viên ngọc sáng trong tâm hồn Việt, tấm lòng Việt và thơ ca Việt”. Sự hy sinh của người lính Tây Tiến được nhà thơ gợi nhắc hai lần trong hai đoạn thơ “Anh bạn dãi dầu…Mường Hịch cọp trêu người” và “Rải rác biên cương…gầm lên khúc độc hành”. Từ việc phân tích sự hy sinh của người lính trong hai đoạn trích, người đọc phần nào hiểu hơn sự vận động của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Nhà thơ Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Dậu, sau phải mượn tên của người anh họ là Bùi Đình Diệm để đủ tuổi đi học. Ông sinh năm 1921, quê ở huyện Đan Phượng, Hà Tây. Quang Dũng là một con người đa tài, thơ nhạc họa gì cũng thạo. Nhà thơ có tính cách phóng khoáng, sôi nổi, nhiệt thành tham gia các chiến dịch hành quân bảo vệ quê hương, tổ quốc. Trong chiến dịch Tây Tiến, ông cùng biết bao thanh niên trẻ tuổi nhiệt huyết khác của Hà Nội phải trải qua những tháng ngày gian lao, cùng khổ nhưng vô cùng đáng nhớ. Ông viết “Tây Tiến” như một lời tri âm, một tiếng lòng nhớ nhung thầm kín gửi vào từng câu thơ, hình ảnh người lính hào hùng và hào hoa. Sự hy sinh cao cả của người lính đã được nhà thơ khắc họa hai lần với những nét ý nghĩa riêng trong hai đoạn thơ: “Anh bạn dãi dầu…Mường Hịch cọp trêu người” và “Rải rác biên cương…gầm lên khúc độc hành”. Cảm nhận về những sự hi sinh ấy, người đọc càng thấu hơn sự vận động của nhân vật trữ tình trong bài thơ này.
Cuộc chiến nào cũng có hy sinh, mất mát. Nhưng cao cả hơn tất thảy là tinh thần người lính trong cuộc chiến ấy, sự mạnh mẽ, lạc quan của họ dường như xoa dịu đi nhiều nỗi đớn đau, xót xa khi phải chứng kiến đồng đội mình ngã xuống. Tinh thần ấy được thể hiện rõ qua đoạn thơ:
“Bạn ta đó
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng chừng nửa bước xung phong
Ôi những con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trên tư thế tiến công!”
Những người lính trong cả hai đoạn thơ, họ đều phải trải qua đau thương, mất mát, nhưng họ sẵn sàng đối mặt đau thương, họ chủ động và hiên ngang đón đợi và vượt qua những cảm xúc đó. Người lính Tây Tiến ra đi hiên ngang, với một tâm thế vô cùng đáng trân trọng “bỏ quên đời”. Nhẹ nhàng và thanh thản, sự hy sinh đến bủa vây tinh thần người lính, nhưng đâu thể làm chùn bước chân hành quân ra trận của họ. Trái lại, dường như sự mất mát to lớn ấy lại càng khiến họ quyết tâm hơn, mạnh mẽ hơn.
Đến với khổ thơ thứ ba, Quang Dũng lại một lần nữa nhắc đến sự hy sinh của người lính:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sự hy sinh của người lính trong đoạn thơ này hiện lên trong sự song hành gắn bó với niềm lạc quan, tin tưởng. Đảo ngữ kết hợp cùng tính từ “rải rác” đã phác họa trọn vẹn sự bi thương của người lính, của đoàn quân Tây Tiến trên đường hành quân nhiều gian khó. Những người lính bỏ sau lưng nhiều hoài bão tuổi trẻ, họ nhiệt thành tham gia chiến đấu, nhưng những khó khăn nhiều lúc cản bước và để họ ra đi ở nơi biên cương, nằm lại trong những “mồ viễn xứ” vô danh, không ai hay biết. Đó là một sự hy sinh to lớn và rất đỗi cao cả. Biết khó khăn, gian truân là vậy, người lính vẫn “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Thanh xuân, tuổi trẻ, những người lính ấy quyết tâm bỏ lại sau lưng, để cùng anh em đồng đội hành quân, viết nên bài ca người lính, bài ca ra trận tuy có những nốt trầm đau thương nhưng vẫn vang cao khúc tráng ca hào hùng. Nhiều người lính chiến đấu quên mình và hy sinh vì cuộc chiến, họ không có một mảnh chiếu để chôn cất, mà thay đó là tấm áo bào với sự chôn cất sơ sài. Họ nằm xuống, nhưng những hình ảnh, tâm hồn và sự dung cảm, ý chí chiến đấu vẫn ngời sáng trong trái tim, trong thẳm sâu tấm lòng những người ở lại, những người sẽ thay anh viết tiếp bài ca ra trận hào hùng. Hình ảnh “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” mang dáng dấp một khúc bi hùng tiễn đưa người ngã xuống về với đất mẹ vĩnh hằng, chứa chan tình cảm thiêng liêng.
Thơ ca là một dòng thi hứng không bao giờ ngừng chảy trôi. Trong dòng chảy đó, nhà văn không ngừng rèn luyện, tích lũy và hình tượng thơ cũng không ngừng vận động, phát triển. Hình ảnh người lính nhà thơ Quang Dũng phác họa ra trong bài thơ “Tây Tiến” cũng mang một sự vận động. Nếu như thiên nhiên trong bài thơ đi từ cái dữ dội đến thiêng liêng hóa, thì trên nền cảnh ấy, con người hiện ra từ vẻ mạnh mẽ, chủ động đối đầu với thiên nhiên hùng vĩ hiểm trở để vượt qua thử thách đến chấp nhận hòa mình, sống hòa hợp với thiên nhiên để rồi trở thành trung tâm của bức tranh hùng vĩ ấy. Ngôn ngữ, bút pháp, giọng điệu thơ được Quang Dũng linh hoạt thay đổi để từ đó ta thấy rõ hơn sự vận động của nhân vật trữ tình.
Đọc “Tây Tiến”, ta không chỉ chia sẻ cảm xúc nhớ nhung, trân trọng những người đồng đội, miền đất từng một thời gắn bó, đoàn quân từng lên thác xuống ghềnh vượt mọi gian truân của tác giả, mà ta còn thấy sự vận động của nhân vật trữ tình sau khi cảm nhận sự hy sinh của người lính mà nhà thơ khéo gửi gắm qua từng câu chữ, hình ảnh.
-Nem-
BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH SỰ HI SINH CỦA NGƯỜI LÍNH TRONG “TÂY TIẾN”
Những bức tượng đài về con người Việt Nam trong kháng chiến không chỉ được viết bằng những trang sử hào hùng mà còn bằng những áng thơ văn tuyệt đẹp. Họ khổ đau nhưng vẫn ngời sáng sức mạnh và niềm tin. Dù có mất mát đau thương nhưng điều cuối cùng ở lại là sự kiên định với lí tưởng và hi sinh vì cuộc sống. Sự hi sinh của những người lính đã sống vì Tổ quốc đã được Quang Dũng tái hiện chân thực trong bài thơ “Tây Tiến”:
Và:
Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ cùng quân đội Lào bảo vệ vùng biên giới Việt-Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Quang Dũng viết về người lính Tây Tiến không chỉ bằng con mắt quan sát mà còn bằng chính những trải nghiệm thực tế bởi ông cũng là một người lính Tây Tiến năm xưa. Cuối năm 1948, ông phải rời quân đoàn đi làm nhiệm vụ khác, nỗi nhớ về Tây Tiến và núi rừng, con người Tây Bắc đã giúp ông viết lên bài thơ. Bài thơ được viết lên bằng nỗi nhớ, được họa bằng hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và hoang sơ, hiểm trở và hình ảnh con người thành trung tâm với những nét hào hoa, lãng mạn mà thật cao đẹp. Đặc biệt, tầm vóc của con người được khắc họa đẹp nhất, ấn tượng nhất qua những hi sinh, mất mát.
Gian nan bao giờ cũng được xem là ngọn lửa thử vàng. Trước những dãi dầu thân xác trong dằng dặc thời gian là hình ảnh:
Hai câu thơ đầu là bức họa ấn tượng về người lính. Hai tính từ “dãi dầu” đã đủ để làm hiện về bao vất vả, nhọc nhằn của những cuộc hành quân. “Không bước nữa” có thể là những giây phút hiếm hoi người lính buông mình vào giấc ngủ; nhưng cũng có thể là một thực tế đau xót là người lính đã ngã xuống và không thể bước cùng đồng đội. Sự hy sinh là có đấy và Quang Dũng không bao giờ né tránh hiện thực. Nhưng hiện thực trong mắt ông không bao giờ chỉ giản đơn và tẻ nhạt. Một loạt các từ mang tính chủ động: “không bước nữa”, “bỏ quên đời” làm cho câu thơ trở nên gân guốc, rắn rỏi; giọng thơ ngang tàng; khó khăn trở nên nhẹ tênh và con người hiện lên với tâm thế chủ động, ung dung trước những khó khăn gian khổ, thậm chí là hi sinh mất mát. Sau này, ta cũng được gặp giọng điệu ngang tàng ấy trong những câu thơ rất lính của Phạm Tiến Duật: “Không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo” (“Bài thơ về tiểu đội xe không kính”). “Thác gầm thét, cọp trêu người” là những hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự hoang sơ, dữ dội, bí hiểm của núi rừng Tây Bắc. “Chiều chiều, đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng. Sức mạnh của thiên nhiên ngự trị nơi đây không phải chỉ có một chiều, một đêm mà là “chiều chiều, đêm đêm”. Nhưng đó cũng là thời gian của những cuộc hành quân Tây Tiến. Vì thế mà hai câu thơ miêu tả cái thâm u, bí ẩn của rừng núi miền Tây Bắc càng khiến chân dung người chiến sĩ thêm cao lớn, mạnh mẽ.
Sau đó, Quang Dũng còn một lần nữa nhắc tới sự hi sinh của những người lính:
Câu thơ là một trong những bức tượng đài bi tráng nhất của người lính Việt Nam. Nơi viễn xứ, những con người ấy chỉ còn là áo vải mong manh. Cái bi, cái mất mát trong chiến tranh là chẳng thể nào chối bỏ. Vì thế, Nguyễn Duy từng đúc kết một cách đau xót: “Kì quan nào chẳng hắt bóng xót xa” (“Đứng trước tượng đài Kiev). Nhưng bi mà không hề lụy. Câu thơ sử dụng hệ thống những từ Hán Việt: “biên cương” “viễn xứ”, “chiến trường”, “áo bào”, “độc hành” làm cho không khí trở nên trang giọng, lời thơ trầm lắng, giọng thơ trầm hùng, bi tráng. Lại một cách nói chủ động: “chẳng tiếc đời xanh” khẳng định khí thế ngang tàng của những bậc nam nhi coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. Hình ảnh “áo bào” gợi về bóng dáng những Kinh Kha bên bờ sông Dịch: “Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn” cùng biện pháp nói giảm nói tránh càng làm cho người lính hiện lên cao đẹp. Cái chết đối với họ, đơn giản chỉ là sự trở về khi mình đã sống và chiến đấu hết mình trong một tâm thế ung dung, nhẹ nhàng. Trước đây, khi nhắc đến những câu thơ này của Quang Dũng, người ta thường thấy ở đó những biểu hiện tiêu cực của “mộng rớt”, “buồn rớt” hay “yêng hùng tư sản”. Cái khẩu khí của nhà thơ, của những anh bộ đội Tây Tiến ấy, thực ra, vô cùng đáng trọng. Nó là biểu hiện quyết tâm của những con người yêu giống nòi, sẵn sàng đổ máu hi sinh vì những lẽ sống lớn lao. Họ không phải nạn nhân, những con tốt đen vô danh vô nghĩa trên bàn cờ trận mạc mà là những “chủ thể đầy ý thức của lịch sử”, biết sống đẹp từng giây phút, biết ước mơ, hi vọng và khi cần thì sẵn sàng hiến dâng. Những câu thơ của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ đã bỏ mình vì nghĩa lớn. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc hành” của sông Mã đầy uy nghiêm và trang trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ.
Một bài thơ hay không bao giờ là sự giản đơn, tĩnh tại mà luôn có sự vận động trong chính bản thân chủ thể của nó. Thiên nhiên trong hai đoạn thơ đi từ dữ dội đến hào hùng, thiêng hóa, từ hình ảnh của những khó khăn thử thách thành nền để tôn vinh và thiêng hóa con người. Người lính từ đối đầu để chinh phục thiên nhiên, vượt qua thử thách đến hòa hợp để làm trung tâm trong bức tranh thiên nhiên. Bút pháp thơ đều từ tả thực kết hợp với bút pháp sử thi, hào hùng, cảm hứng bi tráng nhưng ở mỗi đoạn lại có những thay đổi và độc đáo riêng. Những câu thơ đem cho chúng ta có một phong vị rất riêng: vừa dung dị, vừa bay bổng, không đẽo gọt cầu kì mà có khi vẫn mới lạ một cách đáng ngạc nhiên.
Những câu thơ của Quang Dũng không chỉ đơn giản là câu chữ mà như là những khúc tráng ca hào hùng, là những bức tượng đài trường tồn về những con người bất tử mà dẫu cho lịch sử đã sang trang, những chiến tuyến đã hạ xuống nhưng nó vẫn không thôi làm ám ảnh và xúc động cho bạn đọc nhiều thế hệ.
- Bỉ Ngạn-
Trong vườn hoa thi ca đượm hương thắm sắc vẻ lãng mạn ấy, “Tây Tiến” của Quang Dũng lại mang màu sắc mới lạ, riêng biệt nhưng vẫn vô cùng ấn tượng. Nhà thơ Vũ Quần Phương trong một buổi tọa đàm từng chia sẻ rằng: “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ “Tây Tiến”, ông không có điểm gì chung với các nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”. Trong bài thơ, Quang Dũng đã đặc biệt nhắc đến sự hi sinh của người lính trong hai đoạn thơ “Anh bạn dãi dầu…Mường Hịch cọp trêu người” và “Rải rác biên cương…gầm lên khúc độc hành”. Các bài văn mẫu dưới đây phân tích sự hi sinh của người lính trong hai đoạn thơ để từ đó thấy được sự vận động của nhân vật trữ tình một cách đầy đủ chi tiết nhất để chia sẻ với các bạn. Chúc các bạn thành công!
Đề bài: Trong "Tây Tiến", Quang Dũng 2 lần nhắc đến sự hi sinh của người lính: "Anh bạn dãi dầu.... Mường Hịch cọp trêu người" và "Rải rác biên cương.... gầm lên khúc độc hành" . Phân tích hai đoạn để thấy sự vận động của hình tượng trữ tình
BÀI VĂN MẪU SỐ 1 PHÂN TÍCH SỰ HY SINH CỦA NGƯỜI LÍNH TRONG“TÂY TIẾN”
Nói về bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng, nhà phê bình văn học Nguyễn Xuân Nguyên từng nhận xét rằng: “Nó như một viên ngọc sáng trong tâm hồn Việt, tấm lòng Việt và thơ ca Việt”. Sự hy sinh của người lính Tây Tiến được nhà thơ gợi nhắc hai lần trong hai đoạn thơ “Anh bạn dãi dầu…Mường Hịch cọp trêu người” và “Rải rác biên cương…gầm lên khúc độc hành”. Từ việc phân tích sự hy sinh của người lính trong hai đoạn trích, người đọc phần nào hiểu hơn sự vận động của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Nhà thơ Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Dậu, sau phải mượn tên của người anh họ là Bùi Đình Diệm để đủ tuổi đi học. Ông sinh năm 1921, quê ở huyện Đan Phượng, Hà Tây. Quang Dũng là một con người đa tài, thơ nhạc họa gì cũng thạo. Nhà thơ có tính cách phóng khoáng, sôi nổi, nhiệt thành tham gia các chiến dịch hành quân bảo vệ quê hương, tổ quốc. Trong chiến dịch Tây Tiến, ông cùng biết bao thanh niên trẻ tuổi nhiệt huyết khác của Hà Nội phải trải qua những tháng ngày gian lao, cùng khổ nhưng vô cùng đáng nhớ. Ông viết “Tây Tiến” như một lời tri âm, một tiếng lòng nhớ nhung thầm kín gửi vào từng câu thơ, hình ảnh người lính hào hùng và hào hoa. Sự hy sinh cao cả của người lính đã được nhà thơ khắc họa hai lần với những nét ý nghĩa riêng trong hai đoạn thơ: “Anh bạn dãi dầu…Mường Hịch cọp trêu người” và “Rải rác biên cương…gầm lên khúc độc hành”. Cảm nhận về những sự hi sinh ấy, người đọc càng thấu hơn sự vận động của nhân vật trữ tình trong bài thơ này.
Cuộc chiến nào cũng có hy sinh, mất mát. Nhưng cao cả hơn tất thảy là tinh thần người lính trong cuộc chiến ấy, sự mạnh mẽ, lạc quan của họ dường như xoa dịu đi nhiều nỗi đớn đau, xót xa khi phải chứng kiến đồng đội mình ngã xuống. Tinh thần ấy được thể hiện rõ qua đoạn thơ:
- “Anh bạn dãi dầu không bước nữa
- Gục lên súng mũ bỏ quên đời
- Chiều chiều oai linh thác gầm thét
- Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
“Bạn ta đó
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng chừng nửa bước xung phong
Ôi những con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trên tư thế tiến công!”
Những người lính trong cả hai đoạn thơ, họ đều phải trải qua đau thương, mất mát, nhưng họ sẵn sàng đối mặt đau thương, họ chủ động và hiên ngang đón đợi và vượt qua những cảm xúc đó. Người lính Tây Tiến ra đi hiên ngang, với một tâm thế vô cùng đáng trân trọng “bỏ quên đời”. Nhẹ nhàng và thanh thản, sự hy sinh đến bủa vây tinh thần người lính, nhưng đâu thể làm chùn bước chân hành quân ra trận của họ. Trái lại, dường như sự mất mát to lớn ấy lại càng khiến họ quyết tâm hơn, mạnh mẽ hơn.
Đến với khổ thơ thứ ba, Quang Dũng lại một lần nữa nhắc đến sự hy sinh của người lính:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sự hy sinh của người lính trong đoạn thơ này hiện lên trong sự song hành gắn bó với niềm lạc quan, tin tưởng. Đảo ngữ kết hợp cùng tính từ “rải rác” đã phác họa trọn vẹn sự bi thương của người lính, của đoàn quân Tây Tiến trên đường hành quân nhiều gian khó. Những người lính bỏ sau lưng nhiều hoài bão tuổi trẻ, họ nhiệt thành tham gia chiến đấu, nhưng những khó khăn nhiều lúc cản bước và để họ ra đi ở nơi biên cương, nằm lại trong những “mồ viễn xứ” vô danh, không ai hay biết. Đó là một sự hy sinh to lớn và rất đỗi cao cả. Biết khó khăn, gian truân là vậy, người lính vẫn “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Thanh xuân, tuổi trẻ, những người lính ấy quyết tâm bỏ lại sau lưng, để cùng anh em đồng đội hành quân, viết nên bài ca người lính, bài ca ra trận tuy có những nốt trầm đau thương nhưng vẫn vang cao khúc tráng ca hào hùng. Nhiều người lính chiến đấu quên mình và hy sinh vì cuộc chiến, họ không có một mảnh chiếu để chôn cất, mà thay đó là tấm áo bào với sự chôn cất sơ sài. Họ nằm xuống, nhưng những hình ảnh, tâm hồn và sự dung cảm, ý chí chiến đấu vẫn ngời sáng trong trái tim, trong thẳm sâu tấm lòng những người ở lại, những người sẽ thay anh viết tiếp bài ca ra trận hào hùng. Hình ảnh “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” mang dáng dấp một khúc bi hùng tiễn đưa người ngã xuống về với đất mẹ vĩnh hằng, chứa chan tình cảm thiêng liêng.
Thơ ca là một dòng thi hứng không bao giờ ngừng chảy trôi. Trong dòng chảy đó, nhà văn không ngừng rèn luyện, tích lũy và hình tượng thơ cũng không ngừng vận động, phát triển. Hình ảnh người lính nhà thơ Quang Dũng phác họa ra trong bài thơ “Tây Tiến” cũng mang một sự vận động. Nếu như thiên nhiên trong bài thơ đi từ cái dữ dội đến thiêng liêng hóa, thì trên nền cảnh ấy, con người hiện ra từ vẻ mạnh mẽ, chủ động đối đầu với thiên nhiên hùng vĩ hiểm trở để vượt qua thử thách đến chấp nhận hòa mình, sống hòa hợp với thiên nhiên để rồi trở thành trung tâm của bức tranh hùng vĩ ấy. Ngôn ngữ, bút pháp, giọng điệu thơ được Quang Dũng linh hoạt thay đổi để từ đó ta thấy rõ hơn sự vận động của nhân vật trữ tình.
Đọc “Tây Tiến”, ta không chỉ chia sẻ cảm xúc nhớ nhung, trân trọng những người đồng đội, miền đất từng một thời gắn bó, đoàn quân từng lên thác xuống ghềnh vượt mọi gian truân của tác giả, mà ta còn thấy sự vận động của nhân vật trữ tình sau khi cảm nhận sự hy sinh của người lính mà nhà thơ khéo gửi gắm qua từng câu chữ, hình ảnh.
-Nem-
BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH SỰ HI SINH CỦA NGƯỜI LÍNH TRONG “TÂY TIẾN”
Những bức tượng đài về con người Việt Nam trong kháng chiến không chỉ được viết bằng những trang sử hào hùng mà còn bằng những áng thơ văn tuyệt đẹp. Họ khổ đau nhưng vẫn ngời sáng sức mạnh và niềm tin. Dù có mất mát đau thương nhưng điều cuối cùng ở lại là sự kiên định với lí tưởng và hi sinh vì cuộc sống. Sự hi sinh của những người lính đã sống vì Tổ quốc đã được Quang Dũng tái hiện chân thực trong bài thơ “Tây Tiến”:
- “Anh bạn dãi dầu không bước nữa
- Gục lên súng mũ bỏ quên đời
- Chiều chiều oai linh thác gầm thét
- Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Và:
- “Rải rác biên cương mồ viễn xứ
- Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
- Áo bào thay chiếu anh về đất
- Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ cùng quân đội Lào bảo vệ vùng biên giới Việt-Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Quang Dũng viết về người lính Tây Tiến không chỉ bằng con mắt quan sát mà còn bằng chính những trải nghiệm thực tế bởi ông cũng là một người lính Tây Tiến năm xưa. Cuối năm 1948, ông phải rời quân đoàn đi làm nhiệm vụ khác, nỗi nhớ về Tây Tiến và núi rừng, con người Tây Bắc đã giúp ông viết lên bài thơ. Bài thơ được viết lên bằng nỗi nhớ, được họa bằng hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và hoang sơ, hiểm trở và hình ảnh con người thành trung tâm với những nét hào hoa, lãng mạn mà thật cao đẹp. Đặc biệt, tầm vóc của con người được khắc họa đẹp nhất, ấn tượng nhất qua những hi sinh, mất mát.
Gian nan bao giờ cũng được xem là ngọn lửa thử vàng. Trước những dãi dầu thân xác trong dằng dặc thời gian là hình ảnh:
- “Anh bạn dãi dầu không bước nữa
- Gục lên súng mũ bỏ quên đời
- Chiều chiều oai linh thác gầm thét
- Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Hai câu thơ đầu là bức họa ấn tượng về người lính. Hai tính từ “dãi dầu” đã đủ để làm hiện về bao vất vả, nhọc nhằn của những cuộc hành quân. “Không bước nữa” có thể là những giây phút hiếm hoi người lính buông mình vào giấc ngủ; nhưng cũng có thể là một thực tế đau xót là người lính đã ngã xuống và không thể bước cùng đồng đội. Sự hy sinh là có đấy và Quang Dũng không bao giờ né tránh hiện thực. Nhưng hiện thực trong mắt ông không bao giờ chỉ giản đơn và tẻ nhạt. Một loạt các từ mang tính chủ động: “không bước nữa”, “bỏ quên đời” làm cho câu thơ trở nên gân guốc, rắn rỏi; giọng thơ ngang tàng; khó khăn trở nên nhẹ tênh và con người hiện lên với tâm thế chủ động, ung dung trước những khó khăn gian khổ, thậm chí là hi sinh mất mát. Sau này, ta cũng được gặp giọng điệu ngang tàng ấy trong những câu thơ rất lính của Phạm Tiến Duật: “Không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo” (“Bài thơ về tiểu đội xe không kính”). “Thác gầm thét, cọp trêu người” là những hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự hoang sơ, dữ dội, bí hiểm của núi rừng Tây Bắc. “Chiều chiều, đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng. Sức mạnh của thiên nhiên ngự trị nơi đây không phải chỉ có một chiều, một đêm mà là “chiều chiều, đêm đêm”. Nhưng đó cũng là thời gian của những cuộc hành quân Tây Tiến. Vì thế mà hai câu thơ miêu tả cái thâm u, bí ẩn của rừng núi miền Tây Bắc càng khiến chân dung người chiến sĩ thêm cao lớn, mạnh mẽ.
Sau đó, Quang Dũng còn một lần nữa nhắc tới sự hi sinh của những người lính:
- “Rải rác biên cương mồ viễn xứ
- Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
- Áo bào thay chiếu anh về đất
- Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Câu thơ là một trong những bức tượng đài bi tráng nhất của người lính Việt Nam. Nơi viễn xứ, những con người ấy chỉ còn là áo vải mong manh. Cái bi, cái mất mát trong chiến tranh là chẳng thể nào chối bỏ. Vì thế, Nguyễn Duy từng đúc kết một cách đau xót: “Kì quan nào chẳng hắt bóng xót xa” (“Đứng trước tượng đài Kiev). Nhưng bi mà không hề lụy. Câu thơ sử dụng hệ thống những từ Hán Việt: “biên cương” “viễn xứ”, “chiến trường”, “áo bào”, “độc hành” làm cho không khí trở nên trang giọng, lời thơ trầm lắng, giọng thơ trầm hùng, bi tráng. Lại một cách nói chủ động: “chẳng tiếc đời xanh” khẳng định khí thế ngang tàng của những bậc nam nhi coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. Hình ảnh “áo bào” gợi về bóng dáng những Kinh Kha bên bờ sông Dịch: “Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn” cùng biện pháp nói giảm nói tránh càng làm cho người lính hiện lên cao đẹp. Cái chết đối với họ, đơn giản chỉ là sự trở về khi mình đã sống và chiến đấu hết mình trong một tâm thế ung dung, nhẹ nhàng. Trước đây, khi nhắc đến những câu thơ này của Quang Dũng, người ta thường thấy ở đó những biểu hiện tiêu cực của “mộng rớt”, “buồn rớt” hay “yêng hùng tư sản”. Cái khẩu khí của nhà thơ, của những anh bộ đội Tây Tiến ấy, thực ra, vô cùng đáng trọng. Nó là biểu hiện quyết tâm của những con người yêu giống nòi, sẵn sàng đổ máu hi sinh vì những lẽ sống lớn lao. Họ không phải nạn nhân, những con tốt đen vô danh vô nghĩa trên bàn cờ trận mạc mà là những “chủ thể đầy ý thức của lịch sử”, biết sống đẹp từng giây phút, biết ước mơ, hi vọng và khi cần thì sẵn sàng hiến dâng. Những câu thơ của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ đã bỏ mình vì nghĩa lớn. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc hành” của sông Mã đầy uy nghiêm và trang trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ.
Một bài thơ hay không bao giờ là sự giản đơn, tĩnh tại mà luôn có sự vận động trong chính bản thân chủ thể của nó. Thiên nhiên trong hai đoạn thơ đi từ dữ dội đến hào hùng, thiêng hóa, từ hình ảnh của những khó khăn thử thách thành nền để tôn vinh và thiêng hóa con người. Người lính từ đối đầu để chinh phục thiên nhiên, vượt qua thử thách đến hòa hợp để làm trung tâm trong bức tranh thiên nhiên. Bút pháp thơ đều từ tả thực kết hợp với bút pháp sử thi, hào hùng, cảm hứng bi tráng nhưng ở mỗi đoạn lại có những thay đổi và độc đáo riêng. Những câu thơ đem cho chúng ta có một phong vị rất riêng: vừa dung dị, vừa bay bổng, không đẽo gọt cầu kì mà có khi vẫn mới lạ một cách đáng ngạc nhiên.
Những câu thơ của Quang Dũng không chỉ đơn giản là câu chữ mà như là những khúc tráng ca hào hùng, là những bức tượng đài trường tồn về những con người bất tử mà dẫu cho lịch sử đã sang trang, những chiến tuyến đã hạ xuống nhưng nó vẫn không thôi làm ám ảnh và xúc động cho bạn đọc nhiều thế hệ.
- Bỉ Ngạn-
- Chủ đề
- nguoi linh quang dung sự hi sinh tây tiến