Cảm nhận về bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đầy đủ hay nhất 3 bài văn

Một trong những khúc trường ca – bài ca không quên của thời kháng chiến chống Mỹ oanh liệt chính là “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm. Hôm nay ta cùng tìm hiểu và cảm nhận đoạn trích đặc sắc nhất - “Đất Nước” nhé!

Một trong những mạch chảy chủ đạo, xuyên suốt và nuôi dưỡng văn học Việt Nam mọi thế hệ chính là cảm hứng về đất nước, nhân dân. Bắt đầu từ những câu hát ngợi ca quê hương trong ca dao, những câu chuyện giải thích sự hình thành đất nước trong truyền thuyết đến những bài thơ, bài hịch, bài cáo hào hùng, thiêng liêng trong thời phong kiến. Đến những năm tháng kháng chiến, Đất nước và tình yêu nước được chuyển hóa vào những trang văn đậm tính sử thi, những câu thơ vừa gần gũi, giản dị mà thấm thía, thiêng liêng. “Đất Nước” không phải là thứ ta phải gánh vác, không phải ơn nghĩa ta phải trả. Đó chỉ đơn giản là nơi ta sống, là kí ức tuổi thơ, là những con người xung quanh đã yêu thương và sống vì chúng ta. Chính Nguyễn Khoa Điềm giúp chúng ta những điều đó qua trường ca “Mặt đường khát vọng”, cụ thể là qua “Đất Nước”. Những câu thơ nhẹ nhàng như chính lời ăn tiếng nói mà có sức mạnh đến lạ - cũng chính là điều đặc biệt của thơ Nguyễn Khoa Điềm: thơ trữ tình – chính luận. Hôm nay, chúng ta cùng nhau phân tích giá trị và điều đặc sắc của tác phẩm “Đất Nước”. Với tác phẩm dài cần chú ý chia thành các đoạn và tách ý để bài văn rõ ràng, mạch lạc nhất. Sau đây là những bài văn mẫu mọi người có thể tham khảo. Chúc các bạn học tập tốt!

la-trau-bai-tho-dat-nuoc.jpg

Ăn trầu là 1 phong tục khá phổ biến ở Việt Nam vào thời xưa của phụ nữ Việt Nam


BÀI VĂN MẪU SỐ 1 CẢM NHẬN BÀI THƠ ĐẤT NƯỚC LỚP 12 ĐẦY ĐỦ
Thời gian qua đi, lịch sử đã sang những trang mới, những chiến tuyến có thể được lập nên và san bằng nhưng những tác phẩm văn học vẫn còn đó với thời gian. Những năm cả đất nước đồng lòng một lí tưởng, một mục đích kháng chiến đến thời bình, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm vẫn được ngân vang mãi.

“Đất Nước” được mở đầu với một giọng điệu hết sức tình cảm:
  • “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
  • Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
  • Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
  • Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
  • Tóc mẹ thì bới sau đầu
  • Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
  • Cái kèo, cái cột thành tên
  • Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” nghe thật xa xăm trong chiều dài lịch sử mà cũng thật gần gũi trong kí ức tuổi thơ của mỗi con người. Một thoáng, trong kí ức lại hiện về với những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa…” Và bằng cách đó, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa cội nguồn về gần với con người từ thuở còn nằm trong nôi:
  • “Sơ sinh lòng mẹ đưa nôi
  • Hồn thiêng đất nước cũng ngồi bên con”
  • (“Nằm trong tiếng nói” – Huy Cận)

Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước theo mối quan hệ ruột rà, thân thuộc. Nhắc đến đất nước, ta đồng thời nhắc tới “cha”, “mẹ”, “bà”, “dân mình”, nhắc đến “lời kể chuyện cổ tích”, “miếng trầu”, “bờ tre”, nhắc đến “gừng cay muối mặn, cái cột, cái kèo, hạt gạo”. Tất cả những điều đó, những tình cảm ân nghĩa thủy chung, những nếp sống nghĩa tình, phong tục là điểm xuất phát của những suy tư về đất nước. Thật tự nhiên, hai mạch chính luận và trữ tình đã hòa với nhau làm một, tạo nên sự biến ảo của thơ khiến dòng tư duy dựa trên logic trở nên mềm mại. Như thế, thơ đã chọn được đúng con đường phải đi của nó, phá vỡ khung “đáp án” thường thấy ở nhiều bài thơ chính luận.

Sang đoạn sau, yêu cầu định nghĩa về đất nước cũng không hạn chế nhiều liên tưởng đầy phóng túng. Nhà thơ tạo nên bất ngờ bởi sự giải thích nguyên nghĩa hai từ tố tạo nên từ “đất nước”:
  • “Đất là nơi anh đến trường
  • Nước là nơi em tắm”

Có lẽ bởi hai từ “đất” và “nước” đã quá quen thuộc nên đâm ra khó giảng nghĩa. Nhưng “cùng tắc biến”, nhà thơ đã vượt lên một cách tài tình, nói như chơi mà lại đạt được ý nghĩa sâu sắc: “đất” và “nước” là một cái gì đó vô cùng gần gũi, gắn bó với cuộc sống thường ngày của “anh” và “em”:
  • “Đất Nước là nơi ta hò hẹn
  • Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Và tiếp tục khái niệm “đất nước” được làm rõ theo thước đo của “Thời gian đằng đẵng” và “Không gian mênh mông” – thước đo lịch sử và địa lí. Những hình tượng quen thuộc của thần thoại, truyền thuyết, ca dao như chim, rồng, Lạc Long Quân và Âu Cơ, bọc trăm trứng,… cùng tụ về một lúc trong trường liên tưởng của nhà thơ, làm bật lên những ý thơ có tầm khái quát cao:
  • “Trong anh và em hôm nay
  • Đều có một phần Đất Nước
  • Khi hai đứa cầm tay
  • Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
  • Khi chúng ta cầm tay mọi người
  • Đất nước vẹn tròn, to lớn”

Đất nước là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa mỗi cá nhân và toàn thể cộng đồng, giữa cái nhỏ bé và cái to lớn, giữa cái gần và cái xa, giữa cái cụ thể, vật chất với cái trừu tượng, tinh thần. Như vậy, đất nước ở trong ta chứ không phải ngoài ta, nó là “máu xương của mình”, đòi hỏi “phải biết gắn bó và san sẻ”, phải biết “hóa thân” để đất nước tồn tại muôn đời và phát triển. Hai câu:
  • “Mai này con ta lớn lên
  • Con sẽ mang Đất Nước đi xa”
Nếu để riêng ra lại cảm giác lạ lẫm nhưng nếu đặt lại vào mạch thơ sẽ trở nên rất mực tự nhiên – tự nhiên một cách thú vị. Nó đã đạt tới sự giản dị đầy sức ám ảnh, xoáy vào lòng người mạnh hơn những lời kêu gọi cổ động khô cứng: phải “gắn bó”, phải “yêu thương”, phải có trách nhiệm.

Trọng tâm của bài “Đất Nước” có lẽ nằm ở phần giải đáp của nhà thơ cho câu hỏi: “Ai đã làm nên đất nước”. Để từ đó khai phá được những phát hiện mới mẻ về đất nước mà thế hệ trẻ lúc đó đạt tới. Rọi cái nhìn khám phá lên bản đồ đất nước, nhà thơ thấy những điều quen mà lạ:
  • “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
  • Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
  • Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
  • Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
  • Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
  • Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
  • Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
  • Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Đọc bài thơ đến đây, hẳn chúng ta không khỏi cảm giác ngạc nhiên và thích thú. Những địa danh, thắng cảnh ta đã đi qua, nghe qua, rất đỗi quen thuộc lại có khả năng nói lên nhiều điều mà ta chưa biết như vậy. Theo “Con mắt thơ’ của tác giả, ta sẽ biết hình non nước, sông núi mình một cách khác hơn, để hoàn toàn đồng cảm với nhà thơ ở điểm chốt phía sau:
  • “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
  • Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
  • Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
  • Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...”

  • “Người mài mực cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô, người cùng Quang Trung đi đánh giặc
  • Quang Trung ngồi trên bành voi, người cầm giáo xông lên phía trước
  • Quang Trung lên làm vua, người về nhà cày ruộng
  • Bị lão trương tuần quát nạt cũng run”
  • (“Người cùng tôi” – Lưu Quang Vũ)

Anh hùng hữu danh thì chỉ có hữu hạn còn anh hùng vô danh thì vô cùng. Mà đó, không đâu xa lạ, là những người “con gái con trai bằng tuổi chúng ta”, “Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi”. Họ là chúng ta trong quá khứ, ta là họ của hiện tại. Bằng cách này, những nội dung lớn lao, những tư tưởng trừu tượng được hiện hình hóa: anh hùng chính là mọi người, là mỗi người, trong đó có “anh” và “em”. Vậy cớ gì “anh” và “em” lại đứng bên lề cuộc đấu tranh của dân tộc?

Đó là trên mặt trận cứu quốc. Trên mặt trận kiến quốc, nhân dân còn là người tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, là hồn cốt của văn hóa dân tộc:
  • “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
  • Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
  • Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
  • Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
  • Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”

Điệp từ “họ” cùng với phép liệt kê khiến cho nhịp thơ trở nên nhanh, giọng thơ sôi nổi. Nhân dân chính là người đã tạo ra những giá trị vật chất: lúa và còn cả những văn mình, lưu giữ những truyền thống văn hóa: “lúa”, “ngọn lửa’, “giọng điệu”, “tên xã, tên làng”,… Văn học kháng chiến, văn học sử thi đã ca ngợi rất nhiều về những “cô gái mở đường”, những người lính lái xe không kính, những “dáng đứng Việt Nam” đã “tạc vào thế kỉ” mà ít đề cập đến những người anh hùng trong cuộc sống đời thường đang ngày ngày nuôi dưỡng và gìn giữ văn hóa, hồn cốt dân tộc. Sau này, Lưu Quang Vũ cũng đã thấu hiểu và trân trọng hơn:
  • “Đi chân không, người thêu vạn hài cong
  • Mặc vải nâu, người dệt muôn sắc lụa.
  • Không biết chữ, người làm ra tục ngữ
  • Những thuyền to, chuông lớn, những vườn cây...
  • Người làm nên cuộc đời”
  • (“Người cùng tôi”)

Nhìn nhân dân một cách toàn diện để thấy được sức vóc và tâm hồn của những con người vô danh, chỉ một tên gọi “Nhân dân” để rồi Nguyễn Khoa Điềm hiểu ra rằng:
  • “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
  • Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Có thể nói, hai câu thơ chính là chủ đề của toàn đoạn trích, là cảm hứng chủ đạo để khai thác cũng như thể hiện. Ta đã hiểu vì sao không gian nghệ thuật của cả chương V lại đậm đà màu sắc truyền thống, và vì sao những chất liệu lấy từ huyền thoại, từ ca dao, tục ngữ đã được huy động một cách thoải mái và tự do đến vậy. Nói đến nhân dân đồng thời là nói đến những trải nghiệm thực của nhà thơ khi còn sống giữa lòng quần chúng trong cuộc đấu tranh vì lí tưởng độc lập, tự do. Vì thế, những điều nhà thơ nói ra luôn được tắm trong mạch cảm xúc dạt dào, không rơi vào đại ngôn, thuyết giáo, cũng không trở nên khô khan, trừu tượng. Nhiều câu thơ được viết ra tưởng như chỉ để trả lời cho câu hỏi này lại hàm chứa lời giải đáp cho một câu hỏi khác, tạo lên sự trùng điệp dư vang giữa các đoạn thơ.

Những câu thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như lời ru, lời tâm tình mà có sức thức tỉnh đến lạ. Bởi tác phẩm đã thực sự vang lên bằng tiếng nói của nghệ thuật, của thơ, của một tâm hồn luôn trăn trở vì đất nước và dân tộc. Và đó chính là điều làm nên sự sống tác phẩm cho đến ngày hôm nay.

-Hương Đoànn-



bai-tho-dat-nuoc.jpg

Đất nước trong con mắt tác giả thể hiện qua rất nhiều hình ảnh thân thuộc khác nhau

BÀI VĂN MẪU SỐ 2 CẢM NHẬN ĐOẠN TRÍCH BÀI THƠ “ĐẤT NƯỚC” NGUYỄN KHOA ĐIỀM LỚP 12


Đất nước là một đề tài muôn thuở của thơ ca. Mỗi thi sĩ có một góc nhìn khác nhau về hình hài đất nước. Nguyễn Trãi nhìn đất nước qua những lớp trầm tích của triều đại Đinh, Lý, Trần,…, Nguyễn Đình Thi thấy đất nước ở những cánh cò bay lả bay la, còn Nguyễn Khoa Điềm vẽ ra đất nước với hồn cốt của tinh thần: “Đất nước của nhân dân”. Trích đoạn “Đất nước” từ trường ca “Mặt đường khát vọng” là bức toàn cảnh về một “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.

Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trường ca “Mặt đường khát vọng” được viết năm 1971 khi nhà thơ đang tham gia chiến đấu ở chiến trường Bình Trị Thiên máu lửa. Trích đoạn thơ “Đất nước” nằm ở chương V của thiên trường ca.

Nhìn đất nước, nhà thơ không chỉ nhìn đất nước ở thực tại mà còn đưa cho trở về với xa xưa để tìm đến ngọn nguồn của đất nước. “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, điều này đã thôi thúc mỗi người con tìm về với nơi khởi nguồn của quê hương. Đất Nước bắt đầu từ những điều bình dị lắm. “Những cái “ngày xửa ngày xưa” là câu chuyện dân gian của mẹ, “miếng trầu bây giờ bà ăn” là nét phong tục xưa. Đất Nước “lớn lên” bằng tinh thần đấu tranh của dân tộc khi dân mình “biết trồng tre mà đánh giặc”. Thói quen bói tóc của người phụ nữ, lẽ sống nghĩa tình nồng thắm như “gừng cay muối mặn”, công việc lao động của vùng văn hóa lúa nước với “cái kèo, cái cột” và “hạt gạo một nắng hai sương xay giã dần sàng”.Và, “Đất Nước có từ ngày đó...”. Cội nguồn của đất nước xa xôi, chỉ thấy thoáng qua trong những cái “ngày xửa ngày xưa”, chỉ biết dân mình đã nuôi dưỡng đất nước bằng những truyền thống văn hóa và truyền thống lao động miệt mài cần cù. Đây là cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu của văn hóa truyền thống dân tộc.

Đất Nước là Đất và Nước, hai yếu tố làm nên một vùng địa lý Việt Nam. Đó cũng là một góc nhìn của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Tác giả tác Đất và Nước để có cái nhìn sâu sắc hơn:
  • “Đất là nơi anh đến trường
  • Nước là nơi em tắm”

Đất và Nước trở thành hai không gian riêng tư của em và anh. Nhưng anh và em lợi bén duyên lứa đôi nên Đất hòa cùng Nước để trở thành “Đất Nước” nơi ta “hò hẹn”. Hai yếu tố tự nhiên lại được gắn kết bằng thứ tình cảm trong suốt như thế bởi Đất Nước là sự gắn kết của anh và em, của mọi người dân trên khắp miền tổ quốc.

Đất Nước trải ra trong chiều rộng không gian, và Đất Nước cũng thật dài trong những trang sử đã qua. Trong quá khứ, Đất Nước là nơi thiêng liêng, gắn với truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu cơ:
  • “Đất là nơi Chim về
  • Nước là nơi Rồng ở
  • Lạc Long Quân và Âu Cơ
  • Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Truyền thuyết từ xa xưa nhưng Đất Nước không dừng lại ở trang huyền thoại mà được các thế hệ tiếp nối nhau,”sinh con đẻ cái”, “gáng vác phần người đi trước để lại”, “dặn dò con cháu” về những vua Hùng có công dựng nước để biết mình cần phải giữ nước. Chiều dài thời gian của Đất Nước tồn tại ở những truyền thuyết dân gian, bắt nguồn từ mười tám vị vua Hùng dựng nước. Những điều ấy, người dân ta biết, người dân ta nhớ và người dân ta coi như một tín ngưỡng để mỗi dịp mồng mười tháng ba “cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.

“Thời gian đằng đẵng”, “không gian mênh mông”, Đất Nước không chỉ là những thước đo ấy mà Đất Nước còn tồn tại trong mối quan hệ với con người:
  • “Trong anh và em hôm nay
  • Đều có một phần Đất Nước”

Mỗi người dân đều mang trong mình một phần của vùng tổ quốc thiêng liêng này. Anh và em “cầm tay”, Đất Nước “hài hòa nồng thắm” bởi tình yêu lứa đôi. Và khi ta cầm tay mọi người thì Đất Nước “vẹn tròn to lớn”. Đất Nước tồn tại trong mối quan hệ giữa anh và em, Đất Nước còn trở thành chất gắn kết bởi hai chữ thiêng liêng ấy đã gắn kết cả một dân tộc, làm nên tinh thần đoàn kết của đồng bào ta. Vì ta và Đất Nước gắn bó nên ta phải có trách nhiệm với Đất Nước. Đất Nước cho ta những cánh đồng trù phú, cho những dòng sông mang nguồn nước mát, Đất Nước trao anh cho em, Đất Nước trao em cho anh, nên mình phải biết hy sinh cho nguồn cội nuôi dưỡng ấy:
  • “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
  • Phải biết gắn bó san sẻ
  • Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
  • Làm nên Đất Nước muôn đời...”

Đó là trách nhiệm của mỗi người dân, biết hy sinh cho tổ quốc. Đất Nước được như ngày hôm nay là máu xương của cha ông ngã xuống, và em và anh phải biết hy sinh, biết san sẻ và gắn bó bền chặt, biết “hóa thân” để “làm nên Đất Nước muôn đời”. Có lẽ chưa một nhà thơ nào nhìn Đất Nước bằng cái nhìn toàn diện và toàn vẹn như thế. Đất Nước trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm vừa có bề rộng, bề dài và bề sâu. Đất Nước hiện lên vừa quen thuộc lại vừa thiêng liêng và trường tồn.

Đất Nước trong ánh nhìn của Nguyễn Khoa Điềm càng trở nên sâu sắc, hào hùng bơi tư tưởng cốt lõi mà nhà thơ hướng đến: “Đất Nước của nhân dân”. Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” được tác giả cảm nhận trước hết ở không gian địa lý. Dưới cái nhìn của nhà thơ, mỗi ngọn núi, con sông đều là sự hóa thân của nhân dân đồng bào. Người vợ nhớ chồng nên hòn Vọng Phu, lứa đôi nghĩa tình nên hòn Trống Mái. Tình nghĩa thủy chung đã dựng nên những biểu tượng yêu thương mãi mãi. Đất Nước còn “lớn lên” bởi tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước giữ nước của nhân dân ta:
  • “Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
  • Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
  • Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”

Đất Nước còn được tạo nên bởi truyền thống hiếu học: “Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.”

Nhân dân làm nên từng núi từng sông, nhân dân còn làm nên cả bốn nghìn năm lịch sử “đằng đẵng”. Người anh hùng dựng nước trong cảm nhận của nhà thơ chẳng có tên, họ chỉ là những người con gái con trai bình dị, “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng “họ đã làm ra Đất Nước”. Đất Nước đâu chỉ từ máu xương của những trang anh hùng đi vào sử sách, Đất Nước còn là sự hy sinh của những tấm thân vùi vội nơi dọc đường, những mộ phần rải rác chẳng biết là của ai. Đó là sự hy sinh thầm lặng nhưng cao đẹp. Và Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh hơn vào sự hy sinh của mỗi cá nhân ấy, khẳng định vai trò của mỗi người đối với dân tộc tổ quốc. Nhân dân không chỉ hy sinh máu xương làm nên hồn dân tộc, nhân dân còn tạo ra và giữ gìn những giá trị truyền thống. Họ truyền cho ta hạt lúa tạo nên cả cánh đồng trù phú, cho ta ánh lửa khai sáng văn mình, cho ta giọng điệu dân tộc, những từ những tiếng. Nhân dân biết dựng nước thì cũng truyền cho ta sức mạnh giữ nước, đó là hồn cốt của một dân tộc giàu tình yêu tổ quốc, biết vùng lên mà diệt ngoại an nội. Nhân dân là người đã gây dựng và vun đắp nên nền móng cho Đất Nước.

Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” còn được xây dựng ở chiều sâu văn hóa:
  • “Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
  • Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
  • Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
  • Đi trả thù mà không sợ dài lâu”

Đó là lối sống anh em như thể tay chân, biết trân trọng công sức lao động, biết “trồng tre đợi ngày thành gậy” để chiến đấu chống kẻ thù xâm lăng.

Đoạn trích “Đất nước” đã thể hiện cái nhìn mới mẻ mang tính phát hiện của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Khái niệm Đất Nước như mở rộng ra theo không gian, lịch sử và con người. Chưa bao giờ ta thấy Đất Nước ở một bình diện rộng lớn và sâu sắc như thế, và cũng chưa bao giờ tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” lại lắng sâu và chạm vào lòng ta đến vậy. Thành công của đoạn trích không chỉ là sự đóng góp về mặt nội dung mà còn bởi tài năng chắp bút của tác giả. Thơ thời hiện đại mà tính dân gian lại thấm nhuần như hơi thở của câu hát dân ca, ngôn ngữ thơ mềm mại với những phép lặp khiến lời thơ, ý thơ càng như thêm khắc sâu hơn. Giọng thơ khi thong thả khi lại dồn dập trong niềm cảm xúc dồn nén về Đất Nước khiến bài thơ tựa như bản nhạc du dương mà người nghệ sĩ tấu lên chỉ dành cho mảnh đất quê hương của mình. Chất suy tư, triết luận sâu sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm được thể hiện rất rõ trong lời thơ khiến đoạn thơ càng thêm có sức nặng hơn.

Hình ảnh đất nước đã không còn xa lạ với người đọc thơ văn nữa. Quê hương Việt Nam đã làm bao bút thơ rung động, đã chiếm lòng của bao thi sĩ yêu quê. Nguyễn Khoa Điềm với đoạn trích “Đất nước” nói riêng và trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung đã góp một định nghĩa sâu sắc và lắng đọng về Đất Nước và cũng là góp vào lòng người một ngọn lửa rực cháy tình yêu quê hương trời Nam.

-QP-

cam-nhan-bai-tho-dat-nuoc.jpg

BÀI VĂN MẪU SỐ 3 CẢM NHẬN VỀ ĐOẠN TRÍCH ĐẤT NƯỚC CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Nếu như những nhà thơ đi trước bày tỏ tình yêu đất nước qua sự gắn bó thân mật với cội nguồn, thì đến Nguyễn Khoa Điềm, ông không chỉ bộc lộ tình yêu ấy mà còn trăn trở, suy tư về cội nguồn hình thành nên đất nước, nhìn nhận đất nước một cách đa chiều qua những góc nhìn từ chiều rộng của địa lí, chiều dài của thời gian và chiều sâu của những trầm tích văn hóa, để cho ra đời bài thơ "Đất Nước".

“Đất Nước” là chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào cuối năm 1971. Có thể nói đây là chương hay nhất, thể hiện sâu sắc một trong những tư tưởng cơ bản nhất của bản trường ca. Nó cô đọng kết quả nhận thức của thế hệ trẻ Việt Nam về đất nước – một nhận thức có thể làm thành điểm tựa để họ xác định vai trò, vị trí của mình trong cuộc đấu tranh chung vĩ đại của dân tộc.

Trong đoạn thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đến một cách cảm nhận mới mẻ, vừa thấm thía xúc động về Đất Nước trong mối quan hệ với cuộc sống Nhân Dân.
  • “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
  • Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
  • Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
  • Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
  • Tóc mẹ thì bới sau đầu
  • Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
  • Cái kèo, cái cột thành tên
  • Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tác giả sử dụng từ "khi" để đánh dấu sự ra đời của khái niệm "đất nước". Từ khi mỗi chúng ta sinh ra thì đât nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lí giải nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu nhẹ, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những "ngày xưa ngày xưa". Đó như một nốt nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ :ngày xửa, ngày xưa" đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh giặc. Là những con người đó làm nên đất nước… Mỗi câu thơ đều chứa đựng một ý một tứ nào đó của ca dao, thành ngữ, tục ngữ, một hình ảnh quen thuộc nào đó của truyền thuyết, thần thoại, cổ tích. Những chất liệu dân gian qua sự chọn lọc tinh tế của nhà thơ hiện đại đã làm hiện lên những phong tục, những thói quen sinh hoạt hàng ngày như miếng trầu bây giờ bà ăn hay hình ảnh tóc mẹ thì bới sau đầu, thói quen đặt tên theo các sự vật quen thuộc “ cái kèo cái cột thành tên,hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã giần sàng,..”, truyền thống đánh giặc ngoại xâm trong hình ảnh cây tre làng Gióng, văn hoá ứng xử trong đạo lí nghĩa tình của mẹ cha gừng cay muối mặn,…

Trên phương diện địa lí, đất nước là sự kết hợp của những cuộc đời ta vừa thấy. Trên phương diện lịch sử, sự hình thành của đất nước không thể thiếu những con người bình dị, vô danh để “làm nên Đất Nước muôn đời”. Tác giả đã không điểm lại tên các anh hùng vang danh trong sử sách mà hấn mạnh sự cống hiến của những con người : “Không ai nhớ mặt đặt tên/ Nhưng họ đã làm ra đất nước”. Bởi nếu những anh hùng hữu danh kia đã có sử sách ghi danh, đền đài miếu mạo tri ân thì những anh hùng vô danh này lại chẳng được ai nhắc đến tên. Họ chỉ “Giản dị và bình tâm”, “không ai nhớ mặt đặt tên”. Tôi bỗng nhớ những câu thơ đầy suy ngẫm của Lưu Quang Vũ sau này, khi ông nghĩ về hai tiếng “nhân dân”:
  • “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
  • Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
  • Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
  • Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...”

Nguyễn Khoa Điềm như đã tiếp thu nguồn mạch cảm hứng yêu nước chưa bao giờ vơi cạn trong lịch sử văn học Việt Nam. Khi ở trong bối cảnh của thời đại dân tộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, người đọc nhận thấy được đoạn trích Đất Nước trong trường ca “Mặt đường khát vọng” dường như đã thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về vẻ đẹp đất nước, quê hương.

Tư tưởng đất nước của nhân dân đã manh nha từ xa xưa trong lịch sử với quan niệm dân vi bản, khi Nguyễn Trãi khẳng định “ Làm lật thuyền mới biết sức dân như nước”, khi Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người nông dân nghãi sĩ cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó mà cao cả, anh hùng…Tư tưởng ấy được khẳng định và nhận thức sâu sắc hơn trong thời kháng chiến chống Mĩ khi được soi chiếu bằng quan điểm mác xít về Nhân Dân và thực tiễn của cuộc chiến tranh Nhân Dân. Tư tưởng đất nước của Nhân Dân không chỉ được khẳng định ở bình diện nội dung mà còn thể hiện ngay trong yếu tố nghệ thuật, sử dụng phong phú các yếu tố của văn hoá, văn học dân gian một cách sáng tạo, hoà nhập trong cách diễn đạt và tư duy hiện đại, đem đến màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc vừa mới mẻ, phù hợp với tư tưởng cốt lõi của tác phẩm, cũng là tư tưởng bao trùm của văn học 1945- 1975, tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân.

Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp nối mạch cảm xúc trong thơ ca yêu nước dân tộc. Bài thơ đã mang nội dung cảm nhận cùng cách thể hiện thật độc đáo cho thấy được tư tưởng mới của Nguyễn Khoa Điềm đó là tư tưởng Đất nước của nhân dân.

-Hiên Bùi-vfo.vn
 
  • Chủ đề
    đất nước
  • Top