Tình yêu luôn là một đề tài bất tận đối với những thi sĩ. Một trong số đó không thể không kể đến “ Sóng “ và “ Đây thôn Vỹ Dạ”.
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời kì chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường.Hoàn cảnh ra đời bài thơ “Sóng” là vào năm 1967. Đó là những năm tháng dân tộc đang bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ và tay sai, là khi thanh niên trai gái ào ào ra trận, cho nên đặt bài thơ trong hoàn cảnh ấy mới thấy rõ được nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu. Sóng được viết trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ tha thiết, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó ta thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người. Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh thiên nhiên trong trẻo, đẹp đẽ của xứ Huế mộng mơ, đây cũng là một trong số ít bài thơ của sáng trong, mĩ lệ hiếm có trong thế giới nghệ thuật của Hặc Mặc Tử. Bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ bức tranh thôn Vĩ mà Hoàng Kim Cúc gửi tặng ông khi nhà thơ đang điều trị tại trại phong Tuy Hòa. Dưới đây là bài văn mẫu hy vọng sẽ giúp đỡ các bạn trong quá trình học tập. Chúc các bạn thành công!
BÀI VĂN MẪU SỐ 1 PHÂN TÍCH KHỔ THƠ 5, 6 BÀI “SÓNG” – XUÂN QUỲNH VÀ LIÊN HỆ ĐẾN KHỔ CUỐI BÀI “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” – HÀN MẶC TỬ
Tình yêu là đề tài đầy ma lực với bao ngòi bút thơ ca, là cung đàn muôn điệu làm rung động bao trái tim yêu để từ đó ngân lên thành lời thơ nhân loại. Mỗi một nhà thơ đều có những cảm nhận khác nhau về tình yêu: một Tago đầy triết lý ngụ ngôn; một Puskin nồng nàn và cao thượng, một Xuân Diệu rạo rực, đắm say, vồ vập; một Hàn Mặc Tử say đắm mà bơ vơ…Và đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh ta lại bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của một tâm hồn người phụ nữ luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Đặc biệt, trong bài thơ, hai khổ thơ 5 và 6 nói về nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đoạn thơ trên là khổ 5-6 của bài thơ Sóng – tình yêu gắn liền với nỗi nhớ và lời thề thuỷ chung.
Hàn Mặc Tử được xem là hiện tượng lạ nhất của phong trào Thơ mới với sức sáng tạo mãnh liệt và đa dạng. “Đây thôn Vĩ Dạ” in trong tập “Đau thương”, là thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại. Khổ thơ trên nằm ở đoạn kết của bài thơ: tình yêu và nỗi mong chờ khắc khoải.
Khổ thơ thứ năm là khổ thơ đặc biệt nhất trong bài thơ Sóng – bởi nó có sáu câu. Dường như nỗi nhớ không thể đong đầy trong bốn dòng thơ ngắn ngủi nên Xuân Quỳnh đã chắp bút thêm hai câu thơ nữa để cân bằng nỗi nhớ cháy bỏng mãnh liệt của trái tim người phụ nữ khi yêu. Bằng thủ pháp nhân hóa và ẩn dụ, nhà thơ mang đến cho nguời đọc nỗi nhớ của sóng về bờ đồng thời cũng là nỗi nhớ của em về anh.
Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ bởi nỗi nhớ chính là giai điệu là hợp âm chủ đạo của tình yêu. Thơ xưa nói “nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp mà ngỡ như đã ba năm); trong tình yêu, nỗi nhớ là thước đo khoảng cách “nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” (Chinh phụ ngâm); tình yêu có khi muốn quên lại càng nhớ: “Nói rằng quên, có dễ quên/ Mỗi chiều em đứng bên hiên nhớ chàng” (Thanh Tâm). Với Xuân Quỳnh, nỗi nhớ người mình yêu ngập tràn khắp nẻo.
Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc “con sóng – con sóng” quyện hòa cùng nghệ thuật đối “dưới lòng sâu – trên mặt nước” tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau:
Hai câu sau diễn tả nỗi nhớ của sóng, dù sóng trên mặt nước hay sóng dưới lòng sâu thì cả hai đều nhớ bờ, đều hướng vào bờ:
Dường như bốn câu thơ không thể chuyên chở hết được nỗi nhớ đang dâng trào nên Xuân Quỳnh đã thêm hai câu thơ nữa vào khổ thứ năm để hoàn thiện giai điệu ấy của nỗi nhớ. Ấy là lúc mà hình tượng “em” hiện ra với nỗi lòng nồng nàn, băn khoăn, bồn chồn, thao thức:
Xuân Quỳnh hay mượn ngôn ngữ của cơ thể để diễn tả nỗi nhớ: nỗi nhớ dâng lên mắt, nỗi nhớ ngập cả tâm hồn, thậm chí là nỗi nhớ đầy ắp cả đôi tay:
Đầu mỗi câu thơ, Xuân Quỳnh đã đóng vào đó những từ chỉ sự đối lập: “dẫu xuôi – dẫu ngược”. Cách nói “xuôi Bắc, ngược Nam” lại trái với quy luật thông thường. Phải nói là “xuôi Nam” “ngược Bắc” mới đúng. Động từ xuôi – ngược vốn lại là những động từ chỉ sự vất vả, truân chuyên: “xuôi Nam ngược Bắc”, đi Nam về Bắc, xuôi ngược bôn ba… Lại thêm “dẫu xuôi, dẫu ngược” nữa thì lại càng nhân lên gấp bội phần những gian nan vất vả. Phải chăng đó là sự vất vả của con người trong cuộc hành trình nhọc nhằn tìm kiếm hạnh phúc. Ý thơ còn gợi một quyết tâm lớn của người phụ nữ: cuộc đời dẫu có thế nào đi chăng nữa thì em vẫn mãi mãi yêu anh. Tình yêu có thể làm đảo lộn phương hướng Bắc, Nam nhưng phương hướng thế nào không quan trọng, quan trọng nhất vẫn là “phương anh” mà em luôn hướng về.
Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: Ẩn dụ, nhân hóa, đối lập, lặp cấu trúc… kết hợp với thể thơ năm chữ đã làm nên những con sóng nhiều trạng thái tình cảm. Cách xây dựng hai hình tượng song hành: sóng và em độc đáo. Sóng vừa là sóng biển vừa là sóng lòng của người phụ nữ đang yêu. Hình tượng sóng rất đa dạng: lúc dữ dội, ồn ào, lúc dịu êm lặng lẽ cũng như tâm hồn em vậy dịu dàng lắm và cũng nồng cháy, mãnh liệt lắm.
Văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, vì vậy nó không cho phép sự trùng lặp, tương đồng, liên văn bản tuyệt đối. Nhưng điều kỳ diệu là ở chỗ, tác phẩm văn học lại là nơi gặp gỡ, đồng điệu của những tâm hồn nên nó vẫn có những điểm tương đồng, giao thoa. Bởi vậy sẽ không ngạc nhiên khi “Sóng” của Xuân Quỳnh và “Đây thôn Vỹ Dạ” của Hàn Mặc Tử lại có những điểm giống nhau đến không ngờ. Cả hai đoạn thơ đều thể hiện nỗi nhớ nhung, niềm khát khao gặp gỡ đến cháy bỏng. Đó là khao khát có được hạnh phúc và tình yêu; khao khát được chạm đến yêu thương để khoả lấp nỗi mong chờ và để được đến với bến bờ hạnh phúc. Nếu “Sóng” cồn cào nhớ thương đến “ngày đêm không ngủ được” và “cả trong mơ còn thức”; yêu đến nỗi bất chấp cả mọi không gian phương Bắc, phương Nam để được yêu; thì “Đây thôn Vỹ Dạ” lại là tình yêu gắn liền với khắc khoải, chờ mong đến mỏi mòn.
Tuy nhiên nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình:
Về mặt nội dung: Nếu Sóng là trái tim người con gái khi yêu bất chấp mọi vạn vật không gian, thời gian để đến được với người mình yêu; lấy thuỷ chung làm thước đo của tình yêu, lấy nỗi nhớ để tình yêu thêm nồng nàn; thì khổ thơ cuối trong bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ lại là một nỗi lòng tâm sự nặng trĩu vì một mối tình đơn phương vô vọng chưa một lần được đáp lại yêu thương.
Về mặt nghệ thuật: Sóng hoà mình trong thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, nhịp sóng và nhịp lòng với bao thổn thức yêu thương. Những ẩn dụ, nhân hoá, tương phản, điệp cấu trúc…hoà kết thành một đại dương tình yêu nhiều cung bậc. “Đây thôn Vỹ Dạ” lại sử dụng thể thơ thất ngôn; phép điệp ngữ, cách ngắt nhịp tinh tế; ngôn ngữ, hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị; sử dụng câu hỏi tu từ để bật lên cái tôi với bao khắc khoải trong một mối tình vô vọng, đơn phương.
Xuân Quỳnh và Hàn Mặc Tử là những ngôi sao sáng trên bầu trời thơ ca Việt Nam. Và hai thi phẩm “Sóng”, “Đây thôn Vỹ Dạ” chính là hai thi phẩm đã dệt nên hồn thơ lãng mạn ấy. Về cuộc đời, cả Xuân Quỳnh và Hàn Mặc Tử đều có số phận không được ấm yên trong tình yêu và hạnh phúc, kể cả trong cuộc đời cũng nhiều sóng gió. Nhưng sau tất cả, họ vẫn vượt lên bằng nghị lực, họ đã vịn tay vào thơ ca để cất lên tiếng hát yêu đời.
Tóm lại, Sóng là câu chuyện tình yêu đẹp và nhân văn của một hồn thơ nữ tính luôn giàu những khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Sóng đã đi vào lòng người và mãi mãi khắc ghi một bài ca không quên về một câu chuyện tình yêu đầy lãng mạn. Gấp trang sách lại rồi mà dường như trong ta vẫn còn ngân nga một giai điệu của sóng và của em:
BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH KHỔ THƠ 5, 6 BÀI “SÓNG” – XUÂN QUỲNH VÀ LIÊN HỆ ĐẾN KHỔ CUỐI BÀI “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” – HÀN MẶC TỬ
Bằng niềm yêu mến và sự thấu hiểu của mình, TS Chu Văn Sơn đã gọi Xuân Quỳnh là “người đàn bà bước dưới đạn bom mà làm thơ về sự sống”. Vì thế, thơ nữ sĩ cũng có một hương sắc rất riêng: không mang mùi lửa cháy chiến tranh mà nồng nàn hơi thở của những ước nguyện đời thường. Có lẽ vì thế mà những dòng thơ của nữ sĩ chưa bao giờ cũ, vẫn vỗ mãi trong lòng người. Có thể nhắc đến hai khổ thơ trong bài thơ “Sóng”:
Đứng trước sóng, “em” chợt nhận ra được những quy luật của tình yêu, cũng ngưng truy tìm nguồn gốc “Khi nào ta yêu nhau” mà chuyển sang thể hiện những sắc thái của người phụ nữ khi yêu. Trước hết, phải nói đến nỗi nhớ:
Đó còn là tấm lòng thủy chung:
Như vậy, sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế vừa chủ động, mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành. Xin mượn lời nhà phê bình Chu Văn Sơn: “Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ. Cho nên, tìm những miền thi cảm khác lạ cho thơ, chế tác những hình thức tân kỳ cho thơ không phải thao thức của chị. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điệu đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ. Thơ Xuân Quỳnh là tính linh Xuân Quỳnh. Trường hợp Xuân Quỳnh thật điển hình cho qui luật : thơ là sự ký thác phận người vào chữ. Có lẽ vì thế mà, dù đời thơ Xuân Quỳnh đã dừng, sóng thơ Xuân Quỳnh vẫn vỗ khôn nguôi.”
Cũng những vần thơ được viết ra từ “máu” của mình, Hàn Mặc Tử đã viết lên những câu thơ tuyệt bút:
Như vậy, nếu nói: “Thơ là sự lên tiếng của thân phận” thì Xuân Quỳnh và Hàn Mặc Tử chính là hình ảnh tiêu biểu. Giống như Xuân Quỳnh, Hàn Mặc Tử gắn cuộc đời mình với thơ, thơ là sự sống và là lí do để người sống… Nhưng nếu Xuân Quỳnh dùng thơ để kí gửi tình yêu, khát khao được yêu và hạnh phúc ở phía tích cực thì Hàn Mặc Tử lại ở phía bên kia của bờ khát vọng ấy. Tiếng thơ thi sĩ là tiếng thơ đau thương, tiếng thơ kì dị chỉ để mong níu lại chút tình yêu với trần thế.
“Thơ là nơi giải phóng tôi, cũng là nơi để tôi trú ẩn” , hẳn là thế rồi…
-Bỉ Ngạn-vfo.vn
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời kì chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường.Hoàn cảnh ra đời bài thơ “Sóng” là vào năm 1967. Đó là những năm tháng dân tộc đang bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ và tay sai, là khi thanh niên trai gái ào ào ra trận, cho nên đặt bài thơ trong hoàn cảnh ấy mới thấy rõ được nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu. Sóng được viết trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ tha thiết, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó ta thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người. Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh thiên nhiên trong trẻo, đẹp đẽ của xứ Huế mộng mơ, đây cũng là một trong số ít bài thơ của sáng trong, mĩ lệ hiếm có trong thế giới nghệ thuật của Hặc Mặc Tử. Bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ bức tranh thôn Vĩ mà Hoàng Kim Cúc gửi tặng ông khi nhà thơ đang điều trị tại trại phong Tuy Hòa. Dưới đây là bài văn mẫu hy vọng sẽ giúp đỡ các bạn trong quá trình học tập. Chúc các bạn thành công!
BÀI VĂN MẪU SỐ 1 PHÂN TÍCH KHỔ THƠ 5, 6 BÀI “SÓNG” – XUÂN QUỲNH VÀ LIÊN HỆ ĐẾN KHỔ CUỐI BÀI “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” – HÀN MẶC TỬ
Tình yêu là đề tài đầy ma lực với bao ngòi bút thơ ca, là cung đàn muôn điệu làm rung động bao trái tim yêu để từ đó ngân lên thành lời thơ nhân loại. Mỗi một nhà thơ đều có những cảm nhận khác nhau về tình yêu: một Tago đầy triết lý ngụ ngôn; một Puskin nồng nàn và cao thượng, một Xuân Diệu rạo rực, đắm say, vồ vập; một Hàn Mặc Tử say đắm mà bơ vơ…Và đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh ta lại bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của một tâm hồn người phụ nữ luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Đặc biệt, trong bài thơ, hai khổ thơ 5 và 6 nói về nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đoạn thơ trên là khổ 5-6 của bài thơ Sóng – tình yêu gắn liền với nỗi nhớ và lời thề thuỷ chung.
Hàn Mặc Tử được xem là hiện tượng lạ nhất của phong trào Thơ mới với sức sáng tạo mãnh liệt và đa dạng. “Đây thôn Vĩ Dạ” in trong tập “Đau thương”, là thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại. Khổ thơ trên nằm ở đoạn kết của bài thơ: tình yêu và nỗi mong chờ khắc khoải.
Khổ thơ thứ năm là khổ thơ đặc biệt nhất trong bài thơ Sóng – bởi nó có sáu câu. Dường như nỗi nhớ không thể đong đầy trong bốn dòng thơ ngắn ngủi nên Xuân Quỳnh đã chắp bút thêm hai câu thơ nữa để cân bằng nỗi nhớ cháy bỏng mãnh liệt của trái tim người phụ nữ khi yêu. Bằng thủ pháp nhân hóa và ẩn dụ, nhà thơ mang đến cho nguời đọc nỗi nhớ của sóng về bờ đồng thời cũng là nỗi nhớ của em về anh.
Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ bởi nỗi nhớ chính là giai điệu là hợp âm chủ đạo của tình yêu. Thơ xưa nói “nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp mà ngỡ như đã ba năm); trong tình yêu, nỗi nhớ là thước đo khoảng cách “nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” (Chinh phụ ngâm); tình yêu có khi muốn quên lại càng nhớ: “Nói rằng quên, có dễ quên/ Mỗi chiều em đứng bên hiên nhớ chàng” (Thanh Tâm). Với Xuân Quỳnh, nỗi nhớ người mình yêu ngập tràn khắp nẻo.
- Con sóng dưới lòng sâu
- Con sóng trên mặt nước
- Ôi con sóng nhớ bờ
- Ngày đêm không ngủ được
- Lòng em nhớ đến anh
- Cả trong mơ còn thức
Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc “con sóng – con sóng” quyện hòa cùng nghệ thuật đối “dưới lòng sâu – trên mặt nước” tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau:
- Con sóng dưới lòng sâu
- Con sóng trên mặt nước
Hai câu sau diễn tả nỗi nhớ của sóng, dù sóng trên mặt nước hay sóng dưới lòng sâu thì cả hai đều nhớ bờ, đều hướng vào bờ:
- Ôi con sóng nhớ bờ
- Ngày đêm không ngủ được
Dường như bốn câu thơ không thể chuyên chở hết được nỗi nhớ đang dâng trào nên Xuân Quỳnh đã thêm hai câu thơ nữa vào khổ thứ năm để hoàn thiện giai điệu ấy của nỗi nhớ. Ấy là lúc mà hình tượng “em” hiện ra với nỗi lòng nồng nàn, băn khoăn, bồn chồn, thao thức:
- Lòng em nhớ đến anh
- Cả trong mơ còn thức
Xuân Quỳnh hay mượn ngôn ngữ của cơ thể để diễn tả nỗi nhớ: nỗi nhớ dâng lên mắt, nỗi nhớ ngập cả tâm hồn, thậm chí là nỗi nhớ đầy ắp cả đôi tay:
- Khi anh vắng, bàn tay em biết nhớ
- Lấy thời gian đan thành áo mong chờ.
- Lấy thời gian em viết những dòng thơ
- Để thấy được chúng mình không cách trở.
- (Bàn tay em)
- Đêm nằm lưng chẳng tới dường
- Cứ mong trời sáng ra đường gặp anh
- (Ca dao)
- Dẫu xuôi về phương Bắc
- Dẫu ngược về phương Nam
- Nơi nào em cũng nghĩ
- Hướng về anh một phương
Đầu mỗi câu thơ, Xuân Quỳnh đã đóng vào đó những từ chỉ sự đối lập: “dẫu xuôi – dẫu ngược”. Cách nói “xuôi Bắc, ngược Nam” lại trái với quy luật thông thường. Phải nói là “xuôi Nam” “ngược Bắc” mới đúng. Động từ xuôi – ngược vốn lại là những động từ chỉ sự vất vả, truân chuyên: “xuôi Nam ngược Bắc”, đi Nam về Bắc, xuôi ngược bôn ba… Lại thêm “dẫu xuôi, dẫu ngược” nữa thì lại càng nhân lên gấp bội phần những gian nan vất vả. Phải chăng đó là sự vất vả của con người trong cuộc hành trình nhọc nhằn tìm kiếm hạnh phúc. Ý thơ còn gợi một quyết tâm lớn của người phụ nữ: cuộc đời dẫu có thế nào đi chăng nữa thì em vẫn mãi mãi yêu anh. Tình yêu có thể làm đảo lộn phương hướng Bắc, Nam nhưng phương hướng thế nào không quan trọng, quan trọng nhất vẫn là “phương anh” mà em luôn hướng về.
- Nơi nào em cũng nghĩ
- Hướng về anh – một phương
Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: Ẩn dụ, nhân hóa, đối lập, lặp cấu trúc… kết hợp với thể thơ năm chữ đã làm nên những con sóng nhiều trạng thái tình cảm. Cách xây dựng hai hình tượng song hành: sóng và em độc đáo. Sóng vừa là sóng biển vừa là sóng lòng của người phụ nữ đang yêu. Hình tượng sóng rất đa dạng: lúc dữ dội, ồn ào, lúc dịu êm lặng lẽ cũng như tâm hồn em vậy dịu dàng lắm và cũng nồng cháy, mãnh liệt lắm.
Văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, vì vậy nó không cho phép sự trùng lặp, tương đồng, liên văn bản tuyệt đối. Nhưng điều kỳ diệu là ở chỗ, tác phẩm văn học lại là nơi gặp gỡ, đồng điệu của những tâm hồn nên nó vẫn có những điểm tương đồng, giao thoa. Bởi vậy sẽ không ngạc nhiên khi “Sóng” của Xuân Quỳnh và “Đây thôn Vỹ Dạ” của Hàn Mặc Tử lại có những điểm giống nhau đến không ngờ. Cả hai đoạn thơ đều thể hiện nỗi nhớ nhung, niềm khát khao gặp gỡ đến cháy bỏng. Đó là khao khát có được hạnh phúc và tình yêu; khao khát được chạm đến yêu thương để khoả lấp nỗi mong chờ và để được đến với bến bờ hạnh phúc. Nếu “Sóng” cồn cào nhớ thương đến “ngày đêm không ngủ được” và “cả trong mơ còn thức”; yêu đến nỗi bất chấp cả mọi không gian phương Bắc, phương Nam để được yêu; thì “Đây thôn Vỹ Dạ” lại là tình yêu gắn liền với khắc khoải, chờ mong đến mỏi mòn.
Tuy nhiên nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình:
Về mặt nội dung: Nếu Sóng là trái tim người con gái khi yêu bất chấp mọi vạn vật không gian, thời gian để đến được với người mình yêu; lấy thuỷ chung làm thước đo của tình yêu, lấy nỗi nhớ để tình yêu thêm nồng nàn; thì khổ thơ cuối trong bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ lại là một nỗi lòng tâm sự nặng trĩu vì một mối tình đơn phương vô vọng chưa một lần được đáp lại yêu thương.
- Mơ khách đường xa, khách đường xa
- Áo em trắng quá nhìn không ra
- Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
- Ai biết tình ai có đậm đà ?
- “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
- “Trời hỡi làm sao cho khỏi đói
- Gió trăng có sẵn làm sao ăn
- Làm sao giết được người trong mộng
- Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”
Về mặt nghệ thuật: Sóng hoà mình trong thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, nhịp sóng và nhịp lòng với bao thổn thức yêu thương. Những ẩn dụ, nhân hoá, tương phản, điệp cấu trúc…hoà kết thành một đại dương tình yêu nhiều cung bậc. “Đây thôn Vỹ Dạ” lại sử dụng thể thơ thất ngôn; phép điệp ngữ, cách ngắt nhịp tinh tế; ngôn ngữ, hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị; sử dụng câu hỏi tu từ để bật lên cái tôi với bao khắc khoải trong một mối tình vô vọng, đơn phương.
Xuân Quỳnh và Hàn Mặc Tử là những ngôi sao sáng trên bầu trời thơ ca Việt Nam. Và hai thi phẩm “Sóng”, “Đây thôn Vỹ Dạ” chính là hai thi phẩm đã dệt nên hồn thơ lãng mạn ấy. Về cuộc đời, cả Xuân Quỳnh và Hàn Mặc Tử đều có số phận không được ấm yên trong tình yêu và hạnh phúc, kể cả trong cuộc đời cũng nhiều sóng gió. Nhưng sau tất cả, họ vẫn vượt lên bằng nghị lực, họ đã vịn tay vào thơ ca để cất lên tiếng hát yêu đời.
Tóm lại, Sóng là câu chuyện tình yêu đẹp và nhân văn của một hồn thơ nữ tính luôn giàu những khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Sóng đã đi vào lòng người và mãi mãi khắc ghi một bài ca không quên về một câu chuyện tình yêu đầy lãng mạn. Gấp trang sách lại rồi mà dường như trong ta vẫn còn ngân nga một giai điệu của sóng và của em:
- Em trở về đúng nghĩa trái tim em
- Là máu thịt đời thường ai chẳng có
- Dẫu ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
- Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.”
BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH KHỔ THƠ 5, 6 BÀI “SÓNG” – XUÂN QUỲNH VÀ LIÊN HỆ ĐẾN KHỔ CUỐI BÀI “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” – HÀN MẶC TỬ
Bằng niềm yêu mến và sự thấu hiểu của mình, TS Chu Văn Sơn đã gọi Xuân Quỳnh là “người đàn bà bước dưới đạn bom mà làm thơ về sự sống”. Vì thế, thơ nữ sĩ cũng có một hương sắc rất riêng: không mang mùi lửa cháy chiến tranh mà nồng nàn hơi thở của những ước nguyện đời thường. Có lẽ vì thế mà những dòng thơ của nữ sĩ chưa bao giờ cũ, vẫn vỗ mãi trong lòng người. Có thể nhắc đến hai khổ thơ trong bài thơ “Sóng”:
- “Con sóng dưới lòng sâu
- Con sóng trên mặt nước
- Ôi con sóng nhớ bờ
- Ngày đêm không ngủ được
- Lòng em nhớ đến anh
- Cả trong mơ còn thức
- Dẫu xuôi về phương bắc
- Dẫu ngược về phương nam
- Nơi nào em cũng nghĩ
- Hướng về anh - một phương”
Đứng trước sóng, “em” chợt nhận ra được những quy luật của tình yêu, cũng ngưng truy tìm nguồn gốc “Khi nào ta yêu nhau” mà chuyển sang thể hiện những sắc thái của người phụ nữ khi yêu. Trước hết, phải nói đến nỗi nhớ:
- “Con sóng dưới lòng sâu
- Con sóng trên mặt nước
- Ôi con sóng nhớ bờ
- Ngày đêm không ngủ được
- Lòng em nhớ đến anh
- Cả trong mơ còn thức”
- “Nhớ ai bồi hổi bồi hồi
- Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
- “Người đi một nửa hồn tôi mất
- Một nửa hồn tôi hóa dại khờ”
- “Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em
- Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
- Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
- Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
Đó còn là tấm lòng thủy chung:
- “Dẫu xuôi về phương Bắc
- Dẫu ngược về phương Nam
- Nơi nào em cũng nghĩ
- Hướng về anh - một phương”
- “Yêu nhau mấy núi cũng trèo
- Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”
Như vậy, sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế vừa chủ động, mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành. Xin mượn lời nhà phê bình Chu Văn Sơn: “Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ. Cho nên, tìm những miền thi cảm khác lạ cho thơ, chế tác những hình thức tân kỳ cho thơ không phải thao thức của chị. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điệu đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ. Thơ Xuân Quỳnh là tính linh Xuân Quỳnh. Trường hợp Xuân Quỳnh thật điển hình cho qui luật : thơ là sự ký thác phận người vào chữ. Có lẽ vì thế mà, dù đời thơ Xuân Quỳnh đã dừng, sóng thơ Xuân Quỳnh vẫn vỗ khôn nguôi.”
Cũng những vần thơ được viết ra từ “máu” của mình, Hàn Mặc Tử đã viết lên những câu thơ tuyệt bút:
- “Mơ khách đường xa, khách đường xa
- Áo em trắng quá nhìn không ra...
- Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
- Ai biết tình ai có đậm đà?”
Như vậy, nếu nói: “Thơ là sự lên tiếng của thân phận” thì Xuân Quỳnh và Hàn Mặc Tử chính là hình ảnh tiêu biểu. Giống như Xuân Quỳnh, Hàn Mặc Tử gắn cuộc đời mình với thơ, thơ là sự sống và là lí do để người sống… Nhưng nếu Xuân Quỳnh dùng thơ để kí gửi tình yêu, khát khao được yêu và hạnh phúc ở phía tích cực thì Hàn Mặc Tử lại ở phía bên kia của bờ khát vọng ấy. Tiếng thơ thi sĩ là tiếng thơ đau thương, tiếng thơ kì dị chỉ để mong níu lại chút tình yêu với trần thế.
“Thơ là nơi giải phóng tôi, cũng là nơi để tôi trú ẩn” , hẳn là thế rồi…
-Bỉ Ngạn-vfo.vn