Liên hệ bài thơ “Sóng” và “Đây thôn Vĩ Dạ” - 2 bài văn mẫu hay nhất - Xuân Quỳnh - Hàn Mạc Tử

Tình yêu luôn là một đề tài bất tận đối với những thi sĩ. Một trong số đó không thể không kể đến “ Sóng “ và “ Đây thôn Vỹ Dạ”.

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời kì chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường.Hoàn cảnh ra đời bài thơ “Sóng” là vào năm 1967. Đó là những năm tháng dân tộc đang bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ và tay sai, là khi thanh niên trai gái ào ào ra trận, cho nên đặt bài thơ trong hoàn cảnh ấy mới thấy rõ được nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu. Sóng được viết trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ tha thiết, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó ta thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người. Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh thiên nhiên trong trẻo, đẹp đẽ của xứ Huế mộng mơ, đây cũng là một trong số ít bài thơ của sáng trong, mĩ lệ hiếm có trong thế giới nghệ thuật của Hặc Mặc Tử. Bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ bức tranh thôn Vĩ mà Hoàng Kim Cúc gửi tặng ông khi nhà thơ đang điều trị tại trại phong Tuy Hòa. Dưới đây là bài văn mẫu hy vọng sẽ giúp đỡ các bạn trong quá trình học tập. Chúc các bạn thành công!

lien-he-song-va-day-thon-vi-da.jpg

BÀI VĂN MẪU SỐ 1 PHÂN TÍCH KHỔ THƠ 5, 6 BÀI “SÓNG” – XUÂN QUỲNH VÀ LIÊN HỆ ĐẾN KHỔ CUỐI BÀI “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” – HÀN MẶC TỬ
Tình yêu là đề tài đầy ma lực với bao ngòi bút thơ ca, là cung đàn muôn điệu làm rung động bao trái tim yêu để từ đó ngân lên thành lời thơ nhân loại. Mỗi một nhà thơ đều có những cảm nhận khác nhau về tình yêu: một Tago đầy triết lý ngụ ngôn; một Puskin nồng nàn và cao thượng, một Xuân Diệu rạo rực, đắm say, vồ vập; một Hàn Mặc Tử say đắm mà bơ vơ…Và đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh ta lại bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của một tâm hồn người phụ nữ luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Đặc biệt, trong bài thơ, hai khổ thơ 5 và 6 nói về nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đoạn thơ trên là khổ 5-6 của bài thơ Sóng – tình yêu gắn liền với nỗi nhớ và lời thề thuỷ chung.
Hàn Mặc Tử được xem là hiện tượng lạ nhất của phong trào Thơ mới với sức sáng tạo mãnh liệt và đa dạng. “Đây thôn Vĩ Dạ” in trong tập “Đau thương”, là thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại. Khổ thơ trên nằm ở đoạn kết của bài thơ: tình yêu và nỗi mong chờ khắc khoải.
Khổ thơ thứ năm là khổ thơ đặc biệt nhất trong bài thơ Sóng – bởi nó có sáu câu. Dường như nỗi nhớ không thể đong đầy trong bốn dòng thơ ngắn ngủi nên Xuân Quỳnh đã chắp bút thêm hai câu thơ nữa để cân bằng nỗi nhớ cháy bỏng mãnh liệt của trái tim người phụ nữ khi yêu. Bằng thủ pháp nhân hóa và ẩn dụ, nhà thơ mang đến cho nguời đọc nỗi nhớ của sóng về bờ đồng thời cũng là nỗi nhớ của em về anh.

Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ bởi nỗi nhớ chính là giai điệu là hợp âm chủ đạo của tình yêu. Thơ xưa nói “nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp mà ngỡ như đã ba năm); trong tình yêu, nỗi nhớ là thước đo khoảng cách “nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” (Chinh phụ ngâm); tình yêu có khi muốn quên lại càng nhớ: “Nói rằng quên, có dễ quên/ Mỗi chiều em đứng bên hiên nhớ chàng” (Thanh Tâm). Với Xuân Quỳnh, nỗi nhớ người mình yêu ngập tràn khắp nẻo.
  • Con sóng dưới lòng sâu
  • Con sóng trên mặt nước
  • Ôi con sóng nhớ bờ
  • Ngày đêm không ngủ được
  • Lòng em nhớ đến anh
  • Cả trong mơ còn thức


Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc “con sóng – con sóng” quyện hòa cùng nghệ thuật đối “dưới lòng sâu – trên mặt nước” tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau:
  • Con sóng dưới lòng sâu
  • Con sóng trên mặt nước
Sóng không chỉ “dữ dội – dịu êm”; “ồn ào – lặng lẽ” mà sóng còn hiện diện “dưới lòng sâu” (sóng ngầm – chiều sâu) , “trên mặt nước” (sóng nổi – chiều rộng). Có con sóng dữ dội tung bọt trắng xóa trên mặt biển ngày đêm gào thét cùng đại dương nhưng cũng có con sóng âm thầm đi ngầm dưới lòng sâu, không ai thấy nó, khó ai cảm nhận được về nó, chỉ riêng nó mới hiểu mình đang cồn cào. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển. Đó cũng là nỗi nhớ của sóng, của em vừa có chiều sâu vừa có chiều rộng. Sóng là em, em là sóng. Cũng như sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn những phức tạp khó hiểu. Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để ẩn dụ cho nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu.

Hai câu sau diễn tả nỗi nhớ của sóng, dù sóng trên mặt nước hay sóng dưới lòng sâu thì cả hai đều nhớ bờ, đều hướng vào bờ:
  • Ôi con sóng nhớ bờ
  • Ngày đêm không ngủ được
Thì ra là “con sóng nhớ bờ”. Bờ là đích đến cuối cùng của sóng. Vì nhớ bờ mà nó bất chấp cả không gian rộng lớn vô biên, bất chấp cả thời gian “ngày đêm” để vươn tới bờ. Sóng cồn cào nhớ nhung và khao khát gặp bờ đến độ “không ngủ được”. Nỗi nhớ từ đó cũng trùm lên mọi không gian “dưới lòng sâu – trên mặt nước”; trùm lên mọi thời gian “ngày đêm”.
Dường như bốn câu thơ không thể chuyên chở hết được nỗi nhớ đang dâng trào nên Xuân Quỳnh đã thêm hai câu thơ nữa vào khổ thứ năm để hoàn thiện giai điệu ấy của nỗi nhớ. Ấy là lúc mà hình tượng “em” hiện ra với nỗi lòng nồng nàn, băn khoăn, bồn chồn, thao thức:
  • Lòng em nhớ đến anh
  • Cả trong mơ còn thức
Xuân Quỳnh xao xuyến nhận ra sự tương đồng kỳ diệu giữa một hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng của trời đất với những trạng thái cảm xúc của tình yêu luôn dào dạt trong lòng mình. Nếu sóng nhớ bờ thì em nhớ anh – đó là quy luật của tình yêu muôn thuở. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian được ý thức (khi chưa ngủ ) mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ (ngủ vẫn nhớ nhung). Như vậy có thể nói đây là một nỗi nhớ thường trực trong trái tim của người phụ nữ khi yêu. Hình tượng thơ cho thấy những khát khao mãnh liệt của người phụ nữ: sóng khao khát được có bờ – em khao khát được có anh.
Xuân Quỳnh hay mượn ngôn ngữ của cơ thể để diễn tả nỗi nhớ: nỗi nhớ dâng lên mắt, nỗi nhớ ngập cả tâm hồn, thậm chí là nỗi nhớ đầy ắp cả đôi tay:
  • Khi anh vắng, bàn tay em biết nhớ
  • Lấy thời gian đan thành áo mong chờ.
  • Lấy thời gian em viết những dòng thơ
  • Để thấy được chúng mình không cách trở.
  • (Bàn tay em)
Ở khổ thơ thứ năm này, Xuân Quỳnh dùng chữ “Lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. “Lòng” là chốn sâu kín nhất của tâm hồn con người, nhất lại là tâm hồn người phụ nữ. Lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà đã là gan, là ruột của người phụ nữ rồi. Cho nên khi nói “Lòng em nhớ đến anh” dường như Xuân Quỳnh đã dốc hết cả nỗi lòng mình để nghiêng hết về phương anh. Cô gái trong Xuân Quỳnh là thế, cô gái trong ca dao cũng thế, đó là tâm trạng chung cho người phụ nữ khi yêu.
  • Đêm nằm lưng chẳng tới dường
  • Cứ mong trời sáng ra đường gặp anh
  • (Ca dao)
Nếu nỗi nhớ là chất men say đánh thức tình yêu thì sự thuỷ chung lại là thước đo của tình yêu, của lòng người:
  • Dẫu xuôi về phương Bắc
  • Dẫu ngược về phương Nam
  • Nơi nào em cũng nghĩ
  • Hướng về anh một phương
Khi yêu, người ta thấy sự xa cách và thời gian chẳng là gì cả. Bởi vì chỉ cần nghĩ về nhau, thì bóng dáng người yêu đã đầy ắp trong tâm hồn.

Đầu mỗi câu thơ, Xuân Quỳnh đã đóng vào đó những từ chỉ sự đối lập: “dẫu xuôi – dẫu ngược”. Cách nói “xuôi Bắc, ngược Nam” lại trái với quy luật thông thường. Phải nói là “xuôi Nam” “ngược Bắc” mới đúng. Động từ xuôi – ngược vốn lại là những động từ chỉ sự vất vả, truân chuyên: “xuôi Nam ngược Bắc”, đi Nam về Bắc, xuôi ngược bôn ba… Lại thêm “dẫu xuôi, dẫu ngược” nữa thì lại càng nhân lên gấp bội phần những gian nan vất vả. Phải chăng đó là sự vất vả của con người trong cuộc hành trình nhọc nhằn tìm kiếm hạnh phúc. Ý thơ còn gợi một quyết tâm lớn của người phụ nữ: cuộc đời dẫu có thế nào đi chăng nữa thì em vẫn mãi mãi yêu anh. Tình yêu có thể làm đảo lộn phương hướng Bắc, Nam nhưng phương hướng thế nào không quan trọng, quan trọng nhất vẫn là “phương anh” mà em luôn hướng về.
  • Nơi nào em cũng nghĩ
  • Hướng về anh – một phương
Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” nghiêng hết tình, dốc hết yêu thương về “phương anh”. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã thành “hệ qui chiếu” của đời em. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn. Chỉ cần nghĩ về anh, nhớ về anh thì anh đã ở trong trái tim em rồi.

Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: Ẩn dụ, nhân hóa, đối lập, lặp cấu trúc… kết hợp với thể thơ năm chữ đã làm nên những con sóng nhiều trạng thái tình cảm. Cách xây dựng hai hình tượng song hành: sóng và em độc đáo. Sóng vừa là sóng biển vừa là sóng lòng của người phụ nữ đang yêu. Hình tượng sóng rất đa dạng: lúc dữ dội, ồn ào, lúc dịu êm lặng lẽ cũng như tâm hồn em vậy dịu dàng lắm và cũng nồng cháy, mãnh liệt lắm.

Văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, vì vậy nó không cho phép sự trùng lặp, tương đồng, liên văn bản tuyệt đối. Nhưng điều kỳ diệu là ở chỗ, tác phẩm văn học lại là nơi gặp gỡ, đồng điệu của những tâm hồn nên nó vẫn có những điểm tương đồng, giao thoa. Bởi vậy sẽ không ngạc nhiên khi “Sóng” của Xuân Quỳnh và “Đây thôn Vỹ Dạ” của Hàn Mặc Tử lại có những điểm giống nhau đến không ngờ. Cả hai đoạn thơ đều thể hiện nỗi nhớ nhung, niềm khát khao gặp gỡ đến cháy bỏng. Đó là khao khát có được hạnh phúc và tình yêu; khao khát được chạm đến yêu thương để khoả lấp nỗi mong chờ và để được đến với bến bờ hạnh phúc. Nếu “Sóng” cồn cào nhớ thương đến “ngày đêm không ngủ được” và “cả trong mơ còn thức”; yêu đến nỗi bất chấp cả mọi không gian phương Bắc, phương Nam để được yêu; thì “Đây thôn Vỹ Dạ” lại là tình yêu gắn liền với khắc khoải, chờ mong đến mỏi mòn.

Tuy nhiên nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình:
Về mặt nội dung: Nếu Sóng là trái tim người con gái khi yêu bất chấp mọi vạn vật không gian, thời gian để đến được với người mình yêu; lấy thuỷ chung làm thước đo của tình yêu, lấy nỗi nhớ để tình yêu thêm nồng nàn; thì khổ thơ cuối trong bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ lại là một nỗi lòng tâm sự nặng trĩu vì một mối tình đơn phương vô vọng chưa một lần được đáp lại yêu thương.
  • Mơ khách đường xa, khách đường xa
  • Áo em trắng quá nhìn không ra
  • Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
  • Ai biết tình ai có đậm đà ?
Nhịp thơ 4/3 và điệp ngữ “Khách đường xa” được lặp lại hai lần thể hiện tâm trạng khắc khoải chờ đợi và niềm khát khao đến mãnh liệt. Từ “mơ” nằm đầu câu đã thể hiện rõ tâm trạng mong chờ ấy của thi nhân. “Mơ” chứ không phải là “mong”, vì không mong được nên mơ, vì sống trong mơ có lẽ sẽ bớt đi nỗi cô đơn thì phải. “Khách đường xa” có lẽ chính là cô gái Huế, và khách đường xa xuất hiện trong màu áo trắng. Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng tinh khôi của cô gái Huế – nhất là Hoàng Cúc từng là nữ sinh của trường Đồng Khánh, trong sự đa nghĩa của câu thơ, màu trắng còn là sắc màu chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương; màu trắng ở đây vượt lên trên mức bình thường nên đã hóa thành sắc màu của ảo ảnh và chính vì nhìn vào ảo ảnh nên hình bóng của giai nhân cứ mờ nhoè, hư ảo.
  • “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
“Ở đây” – nơi nhà thơ dưỡng bệnh – nơi mà Hàn Mặc Tử luôn xem là lãnh cung giam lỏng mình. “Ở đây” và “ngoài kia” có xa xôi mấy đâu vậy mà một lần về thăm thôi cũng là điều không tưởng. Bởi thế câu thơ như vừa thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào Huế – nơi đó giai nhân trong mộng đang lẫn trong màu khói sương của kỷ niệm. Hình bóng giai nhân ấy đã bao năm làm điên đảo mộng thi ca:
  • “Trời hỡi làm sao cho khỏi đói
  • Gió trăng có sẵn làm sao ăn
  • Làm sao giết được người trong mộng
  • Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”
Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ trong trạng thái bị dày vò vì khát khao tình yêu, vì trái tim đang rơi vào trống trải. Câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn, mang theo nỗi buồn vô vọng và những uẩn khúc của Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau thương chới với, bất lực trong mặc cảm chia lìa nhưng cũng hết lòng thiết tha với cuộc đời.

Về mặt nghệ thuật: Sóng hoà mình trong thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, nhịp sóng và nhịp lòng với bao thổn thức yêu thương. Những ẩn dụ, nhân hoá, tương phản, điệp cấu trúc…hoà kết thành một đại dương tình yêu nhiều cung bậc. “Đây thôn Vỹ Dạ” lại sử dụng thể thơ thất ngôn; phép điệp ngữ, cách ngắt nhịp tinh tế; ngôn ngữ, hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị; sử dụng câu hỏi tu từ để bật lên cái tôi với bao khắc khoải trong một mối tình vô vọng, đơn phương.

Xuân Quỳnh và Hàn Mặc Tử là những ngôi sao sáng trên bầu trời thơ ca Việt Nam. Và hai thi phẩm “Sóng”, “Đây thôn Vỹ Dạ” chính là hai thi phẩm đã dệt nên hồn thơ lãng mạn ấy. Về cuộc đời, cả Xuân Quỳnh và Hàn Mặc Tử đều có số phận không được ấm yên trong tình yêu và hạnh phúc, kể cả trong cuộc đời cũng nhiều sóng gió. Nhưng sau tất cả, họ vẫn vượt lên bằng nghị lực, họ đã vịn tay vào thơ ca để cất lên tiếng hát yêu đời.

Tóm lại, Sóng là câu chuyện tình yêu đẹp và nhân văn của một hồn thơ nữ tính luôn giàu những khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Sóng đã đi vào lòng người và mãi mãi khắc ghi một bài ca không quên về một câu chuyện tình yêu đầy lãng mạn. Gấp trang sách lại rồi mà dường như trong ta vẫn còn ngân nga một giai điệu của sóng và của em:
  • Em trở về đúng nghĩa trái tim em
  • Là máu thịt đời thường ai chẳng có
  • Dẫu ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
  • Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.”
_TN_vfo.vn

lien-he-song-day-thon-vi-da.jpg

BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH KHỔ THƠ 5, 6 BÀI “SÓNG” – XUÂN QUỲNH VÀ LIÊN HỆ ĐẾN KHỔ CUỐI BÀI “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” – HÀN MẶC TỬ
Bằng niềm yêu mến và sự thấu hiểu của mình, TS Chu Văn Sơn đã gọi Xuân Quỳnh là “người đàn bà bước dưới đạn bom mà làm thơ về sự sống”. Vì thế, thơ nữ sĩ cũng có một hương sắc rất riêng: không mang mùi lửa cháy chiến tranh mà nồng nàn hơi thở của những ước nguyện đời thường. Có lẽ vì thế mà những dòng thơ của nữ sĩ chưa bao giờ cũ, vẫn vỗ mãi trong lòng người. Có thể nhắc đến hai khổ thơ trong bài thơ “Sóng”:
  • “Con sóng dưới lòng sâu
  • Con sóng trên mặt nước
  • Ôi con sóng nhớ bờ
  • Ngày đêm không ngủ được
  • Lòng em nhớ đến anh
  • Cả trong mơ còn thức
  • Dẫu xuôi về phương bắc
  • Dẫu ngược về phương nam
  • Nơi nào em cũng nghĩ
  • Hướng về anh - một phương”
Không còn phân biệt được sóng tạo nên Xuân Quỳnh, hay Xuân Quỳnh đã tạo nên sóng. Chỉ biết rằng người con gái ấy sinh ra là để dành cho thơ. Thơ ca, với Xuân Quỳnh, gắn liền với sự sống, tình yêu; làm thơ là nữ sĩ được sống với chính mình, sống đủ đầy trọn vẹn là mình. Mỗi bài thơ đều là tiếng nói chân thành nhất của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” được viết năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền (Thái Bình), là tiếng thơ của những ngọt ngào, đắng cay từng trải trong tình yêu, khi đã vun đắp và trải nghiệm sự tan vỡ trong tình yêu mà vẫn thật tha thiết, tràn đầy khát vọng.

Đứng trước sóng, “em” chợt nhận ra được những quy luật của tình yêu, cũng ngưng truy tìm nguồn gốc “Khi nào ta yêu nhau” mà chuyển sang thể hiện những sắc thái của người phụ nữ khi yêu. Trước hết, phải nói đến nỗi nhớ:
  • “Con sóng dưới lòng sâu
  • Con sóng trên mặt nước
  • Ôi con sóng nhớ bờ
  • Ngày đêm không ngủ được
  • Lòng em nhớ đến anh
  • Cả trong mơ còn thức”
Nhà phê bình Chu Văn Sơn từng viết; “Một trái tim đang nhớ là một trái tim đang yêu”. Điệp từ “sóng” liên tiếp làm cho những con sóng nhớ thương như đang trào dâng dào dạt khỏi bề mặt con chữ, vừa gợi cái sôi trào mà miên man, sâu lắng của nỗi nhớ. Nỗi nhớ đầy ắp không gian: “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, tràn ngập thời gian “ngày đêm”. Nỗi nhớ trong tình yêu đã trở thành một trong những mạch nguồn chính nuôi dưỡng thơ ca: từ ca dao:
  • “Nhớ ai bồi hổi bồi hồi
  • Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Đến những câu thơ của Hàn Mặc Tử nhớ đến ngẩn ngơ:
  • “Người đi một nửa hồn tôi mất
  • Một nửa hồn tôi hóa dại khờ”
Nỗi nhớ của người con gái ấy cồn cào, da diết đến nỗi những con sóng kia cũng chẳng thể diễn tả hết mà tự em phải giãi bày. Hai câu thơ cuối như con sóng xuyên qua cả cõi thực, cõi mộng. Không chỉ ở ý thức mà còn lắng sâu vào tiềm thức để hiện ra trong giấc mơ. Cái dào dạt nhớ nhung khiến cảm xúc tràn bờ mà kéo dung lượng ra 6 câu để biểu đạt. Cảm xúc ấy có gì giống khi Xuân Quỳnh viết “Tự hát”:
  • “Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em
  • Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
  • Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
  • Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
Nỗi nhớ “cả trong mơ còn thức” hay “biết yêu anh cả khi chết đi rồi” rất đậm chất Xuân Quỳnh: mãnh liệt mà đằm thắm, táo bạo, giàu nữ tình. Xuân Quỳnh là thế: bao giờ cũng dám sống thật với mình, thật với cảm xúc của chính mình.

Đó còn là tấm lòng thủy chung:
  • “Dẫu xuôi về phương Bắc
  • Dẫu ngược về phương Nam
  • Nơi nào em cũng nghĩ
  • Hướng về anh - một phương”
Trong khổ thơ trên ta đã thấy sự khác biệt so với cách diễn đạt thông thường, không phải là ngược Bắc xuôi Nam mà là “xuôi Bắc ngược Nam”. Sự khác biệt hé lộ một tình yêu trắc trở, gian nan. Nhưng ở đó, hình như có thoáng qua một chút thách thức:
  • “Yêu nhau mấy núi cũng trèo
  • Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”
Đối với Xuân Quỳnh, dù có xáo trộn xuôi – ngược thì điều đó cũng chẳng có gì quan trọng. Quan trọng nhất chỉ là “phương anh”. Xuân Quỳnh đã cho thấy một tình yêu thật đẹp, khi khẳng định tình yêu đích thực không phụ thuộc vào không gian. Nếu khổ thơ trên, nữ sĩ soi vào sóng để nhận ra mình thì ở đây, nhà thơ nhìn sâu vào mình để nhìn vào quy luật sóng: sóng hướng về bờ thì cuộc đời em duy nhất chỉ hướng về anh. Nếu nói đến sự quyết liệt của tình yêu Xuân Quỳnh thì khổ thơ này là dẫn chứng tiêu biểu nhất – những câu thơ “rất Xuân Quỳnh”.

Như vậy, sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế vừa chủ động, mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành. Xin mượn lời nhà phê bình Chu Văn Sơn: “Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ. Cho nên, tìm những miền thi cảm khác lạ cho thơ, chế tác những hình thức tân kỳ cho thơ không phải thao thức của chị. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điệu đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ. Thơ Xuân Quỳnh là tính linh Xuân Quỳnh. Trường hợp Xuân Quỳnh thật điển hình cho qui luật : thơ là sự ký thác phận người vào chữ. Có lẽ vì thế mà, dù đời thơ Xuân Quỳnh đã dừng, sóng thơ Xuân Quỳnh vẫn vỗ khôn nguôi.”

Cũng những vần thơ được viết ra từ “máu” của mình, Hàn Mặc Tử đã viết lên những câu thơ tuyệt bút:
  • “Mơ khách đường xa, khách đường xa
  • Áo em trắng quá nhìn không ra...
  • Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
  • Ai biết tình ai có đậm đà?”
Giọng khắc khoải đã hiển hiện thành nhịp điệu. Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của “khách đường xa”. Tất cả đều được phủ một lớp mờ ảo, huyền sương. Nó đẹp thật đấy nhưng đều rất “xa” của thế giới “ngoài kia” mà chẳng bao giờ thi sĩ có thể với tới, nhìn được. Câu hỏi cuối bài cất lên càng da diết, như một sự cố níu kéo mà càng thêm phần chấp chới, càng cố tin tưởng lại càng tuyệt vọng: “Ai biết tình ai có đậm đà”. Xét đến cùng âm điệu của câu hỏi ấy được cất lên từ một niềm thiết tha với cuộc đời đến mức thương tâm của một hồn đau. Ở bài thơ vốn được xem là kiệt tác này, niềm yêu đau đáu đến tuyệt vọng còn hoá thân thành một mặc cảm sâu xa, thấm đẫm vào toàn thể thi phẩm: mặc cảm chia lìa.

Như vậy, nếu nói: “Thơ là sự lên tiếng của thân phận” thì Xuân Quỳnh và Hàn Mặc Tử chính là hình ảnh tiêu biểu. Giống như Xuân Quỳnh, Hàn Mặc Tử gắn cuộc đời mình với thơ, thơ là sự sống và là lí do để người sống… Nhưng nếu Xuân Quỳnh dùng thơ để kí gửi tình yêu, khát khao được yêu và hạnh phúc ở phía tích cực thì Hàn Mặc Tử lại ở phía bên kia của bờ khát vọng ấy. Tiếng thơ thi sĩ là tiếng thơ đau thương, tiếng thơ kì dị chỉ để mong níu lại chút tình yêu với trần thế.

“Thơ là nơi giải phóng tôi, cũng là nơi để tôi trú ẩn” , hẳn là thế rồi…

-Bỉ Ngạn-vfo.vn
 
  • Chủ đề
    hàn mặc tử liên hệ song xuân quỳnh đây thôn vĩ dạ
  • Top