Nét nổi bật trong thơ Nguyễn Duy chính là tác phẩm vừa chứa đựng cảm xúc chân thành - 2 bài văn

Đề bài: Nét nổi bật trong thơ Nguyễn Duy chính là tác phẩm vừa chứa đựng cảm xúc chân thành lại thể hiện được những duy tư sâu sắc về cuộc đời, con người. Anh/chị hãy chứng minh qua bài thơ "Đò Lèn"

Nét nổi bật trong thơ Nguyễn Duy chính là tác phẩm vừa chứa đựng cảm xúc chân thành lại thể hiện được những duy tư sâu sắc về cuộc đời, con người. Anh/chị hãy chứng minh qua bài thơ "Đò Lèn".

Thơ văn khác với triết học và đạo đức vì nó không nói về chuyện đúng – sai, chuyện nên làm hay phải làm. Văn học chính là chuyện cuộc sống, chuyện xung quanh chúng ta, là chuyện chúng ta cần phải nghe, nhìn và nghĩ. Văn học chọn cách giáo dục con người tới chân thiện mĩ bằng sự tự nhận thức và tự hành động. Những câu thơ của Nguyễn Duy là những câu thơ như thế. Nhận xét về Nguyễn Duy, nhà phê bình Hoài Thanh đã cảm khái: “Thơ Nguyễn Duy đưa ta về một thế giới quen thuộc. Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái cao đẹp của những con người, những cuộc đời cần cù gian khổ, không tuổi không tên. Đọc thơ Nguyễn Duy thấy anh hay cảm xúc, suy nghĩ trước những chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều ở người khác thì có thể chỉ là chuyện thoáng qua thì ở anh, nó lắng sâu và dường như đọng lại…” (Báo Văn nghệ, ngày 14-4-1972). Đọc “Ánh trăng”, “Hơi ấm ổ rơm”, “Cây tre Việt Nam”,... ta đều thấy được điều đó. Đến với “Đò Lèn” ta vẫn cảm nhận được những cảm xúc chân thành lại vẫn có những suy tư sâu sắc về cuộc đời và con người. Hôm nay, chúng ta cùng làm rõ những nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật của thơ Nguyễn Duy qua bài thơ “Đò Lèn”. Bài phân tích cần chia luận điểm rõ ràng để làm sáng tỏ những đặc điểm. Các bạn có thể tham khảo bài văn dưới đây trước khi viết bài. Chúc các bạn học tập tốt!

cam-xuc-chan-thanh-tho-nguyen-duy.jpg

BÀI VIẾT SỐ 1 CHỨNG MINH NÉT NỔI BẬT TRONG THƠ CỦA NGUYỄN DUY LÀ VỪA CHỨA ĐỰNG CẢM XÚC CHÂN THÀNH LẠI THỂ HIỆN ĐƯỢC NHỮNG SUY TƯ SÂU SẮC VỀ CUỘC ĐỜI, CON NGƯỜI QUA “ĐÒ LÈN”
Trong phong trào của các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước, Nguyễn Duy đã xác lập cho mình một lối đi riêng: không ngang tàng bụi bặm như Phạm tiến Duật, không gân guốc như Nguyễn Đức mậu hay nghiêm trang như Nguyễn Khoa Điềm; ở Nguyễn Duy là những cảm xúc đầm ấm, hồn hậu đã lắng kết ngàn đời, trở thành tâm thức văn hóa, thành những hồi ức không thể nào quên. Tất cả những cảm xúc chân thành cùng những suy tư sâu lắng ấy được cảm nhận qua “Đò Lèn”.

“Đò Lèn” được sáng tác khi đất nước đã lặng im tiếng súng (1983), cuộc sống yên bình đã trở lại nhưng vẫn còn đó, nguyên vẹn một Nguyễn Duy đằm sâu triết lí mà thanh thoát, nhẹ nhàng trong hơi thở dân dã tự nhiên, một cái tôi có khả năng kết nối từ hồi ức riêng tư đến lịch sử dân tộc. Bài thơ “Đò Lèn” là lời của người cháu đã trưởng thành nhìn lại tuổi thơ, nhìn lại những năm tháng sống bên bà mà suy nghĩ, thức tỉnh. Cái nhìn có vẻ đơn sơ, hồn nhiên mà lại thấm thía, sâu sắc trong sự song hành quá khứ - hiện tại, trong những suy tưởng triết lí ẩn hiện phía sau. Bài thơ kết cấu theo dòng chảy của hoài niệm tuổi thơ, ngỡ ngọt ngào mà hóa ra xa xót, ngậm ngùi. Cái hay của thơ Nguyễn Duy là không thể phân định những câu thơ cảm xúc chân thành và những câu thơ đầy tính triết lí. Những câu chữ mới nghe thật giản dị, tự nhiên nhưng không phải sự thoáng qua, bay trôi mà tự bao giờ những những triết lí lại thấm thía đến xót xa...

Mở đầu bài thơ là những cảm xúc chân thành về những trang tuổi thơ còn tươi rói:
  • “Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
  • níu váy bà đi chợ Bình Lâm
  • bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
  • và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
  • Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
  • chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng”

Cái “tôi” hồi ức, kể lể, dãi bày về câu chuyện ấu thơ: “Thuở nhỏ tôi…” Đó là cái “tôi” hồn nhiên của một thời vô lo, vô nghĩ với những trò chơi dân gian thân thuộc đã làm nên tuổi thơ: câu cá, theo bà đi chợ, bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, ăn trộm nhãn chùa Trần.” Đó là cậu bé một thời hiếu động và nghịch ngợm. Nguyễn Duy thật tài tình khi chỉ vài nét bút đã làm hiện lên cậu bé hoạt bát “chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng” và còn có thể làm mờ hóa không gian bằng và trong hai câu thơ sau đẹp như ảo ảnh:
  • “mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
  • điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”


Hai câu thơ cuối không một từ nào khó hiểu nhưng đặt cạnh nhau lại tạo nên một ám ảnh da diết lạ thường. Câu trên là một màu sắc, hương thơm ảo; câu dưới là một âm thanh ảo, bóng hình ảo.

Cái hồn nhiên, vô lo nghĩ một thời “níu váy bà đi chợ Bình Lâm” trong cái nhìn hiện tại lại có gì day dứt khôn nguôi:
  • “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
  • bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
  • bà đi gánh chè xanh Ba Trại
  • Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”

Một chữ “thập thững” mang theo bao bước chân già nua trong đói rét, như có cả hơi thở hổn hển. Không phải bước chân hốt hoảng của Hoàng Cầm: “Bước cao thấp bên bờ tre hun hút” (“Bên kia sông Đuống”) mà là bước đi thường ngày của người già: bước lên – bước xuống theo nhịp quang gánh trĩu nặng, yếu ớt. Những địa danh riêng “Quán cháo, đồng Quan, Đồng Giao,…” mà vẫn đem lại cảm xúc chung về quê hương nguồn cội; bà của “tôi” mà như của mọi người. “Tôi đâu biết” là cái giật mình đầy xa xót như cái giật mình đầy xa xót của biết bao người con khi nghĩ về bà, về mẹ - những người phụ nữ Việt Nam. Đại từ “tôi” bé nhỏ, âm thầm, không phải cái thế kiêu bạc của người lính chiến “ung dung buồng lái ta ngồi” (Phạm Tiến Duật) mà trĩu nặng những ân tình, bộc bạch, sẻ chia. Những nhận thức, ăn năn về đạo đức chứ nhẹ nhàng đến mà thấm thía như thế.

Từ đó mà mạch thơ dẫn về tâm linh qua những cảm nhận nguyên sơ của con trẻ:
  • “Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
  • giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
  • cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
  • cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”

“Trong suốt” – một cảm nghiệm tâm linh hay một ảo giác, một tín ngưỡng trong tâm hồn thơ dại? “Tiên, Phật, thánh thần” là hư mà cũng từng là thực trong niềm tin tuổi nhỏ. Bà là thực mà cũng là hư trong bao điều mà “tôi đâu biết”. Những tương phản tạo nên sức ám ảnh của câu thơ: hư – thực, hiện thực (“củ dong riềng luộc sượng”) và tâm linh huyền ảo (“mùi huệ trắng hương trầm”) hay niềm tin vượt lên hiện thực? Cái đói là hiện thực nhưng nó cũng không giết được cái đẹp mà giữ người ta trong trạng thái “trong suốt” – nhìn xuyên thấu, hòa nhập vào tâm linh. Trong mắt cháu, bà hiện lên là một ám ảnh, một niềm vui, một nỗi xót xa và cả sự tâm linh lạ kì.

Sự kiện “Bom Mĩ dội nhà bà tôi bay mất” khiến nhân vật bừng tỉnh. Bầu trời cổ tích vỡ tan và hiện thực nghiệt ngã về cuộc đời hiện ra: “Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”. Sự bừng tỉnh đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật trữ tình. Cậu bé hồn nhiên sống trong tình yêu thương vô điều kiện đã bước khỏi tuổi thơ để nhìn thấy bà trong đời thực. Khiến thánh thần bay mất: “thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết” như đang giải huyền thoại cho một niềm tin ngây thơ. Có sự hạ bệ thần thánh. Nhưng điều đặc biệt ở đấy là: hạ bệ trên cơ sở không tuyệt đối phủ nhận. Phép giải thiêng này đồng nghĩa với việc khẳng định sự trưởng thành của con người và cả sự trỗi dậy về nhận thức của con người đó. Cả bài thơ là sự đánh thức nhận thức sâu sắc về cuộc đời: thế giới này sẽ vĩnh viễn không bao giờ là cổ tích. Cổ tích chỉ là giấc mơ do con người ảo tưởng xây dựng lên mà thôi. Những ngôn ngữ đậm chất dân dã, hài hước càng rõ nét cho sự giải thiêng để khẳng định sức sống của con người bình thường.

Và rồi kết thúc câu chuyện là một nỗi buồn sâu, buồn lâu và một suy ngẫm phổ quát rất “Nguyễn Duy”, đậm tính suy tưởng Nguyễn Duy:
  • “Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
  • dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
  • khi tôi biết thương bà thì đã muộn
  • bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”

Cách kể “Tôi đi lính lâu không về quê ngoại” ngỡ như một lời tự sự bình thường mà dồn nén thời gian cả một cuộc chiến, chất chứa trong đó cả một cuộc đời. Đứa trẻ năm nào nhìn dòng sông trong sự toàn vẹn của nó: “bên lở bên bồi”. Thì ra, cuộc đời này vẫn luôn là thế: là sự được – mất, thành – không luôn song hành. Con người ta đôi khi để có được điều gì đó lại phải đánh đổi những điều rất quý giá của mình. Đôi khi, đến cuối con đường, lại nhận ra sự trả giá ấy là quá đắt: “biết thương bà thì đã muộn”. Cái “nấm cỏ” kia có thể là “cỏ khâu xanh rì” hay “sè sè nắm đất bên đường”, chẳng hề vô tri mà là cuộc đời của cả một con người, là dòng thác cuộn chảy của cả một thời kì lịch sử.

Bài thơ tưởng như rất cá nhân (từ nhan đề “Đò Lèn” – một địa danh cụ thể đến danh xưng “tôi”) lại mang đậm màu sắc nhân sinh là một cách thức nhận lại mình, lại lịch sử một cách công bằng và trung thực hơn. Cảm xúc tưởng như rất giản dị, đơn giản nhưng lại thấm thía, xót xa. Triết lí mà không cao siêu, nhẹ nhàng mà thấm thía trong cách cảm về sự đời và con người, giản dị trong tiếng nói mà gây thành ấn tượng, ám ảnh. Mỗi đoạn thơ chỉ có chữ đầu tiên đoạn viết hoa, tưởng như là mỗi câu văn của một câu chuyện được thủ thỉ, tâm tình, giãi bày rất thân thương, gần gũi. Ngôn từ không một chút khó hiểu nhưng khi ứng hiện với nhau tạo lên một hình thức lấp lánh, đầy sức gợi mở. Bài thơ đã thực hiện sứ mệnh của văn học: làm cho người ta không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người, quên rằng đó là tiếng nói của ai mà chỉ thấy nó như tiếng ca từ trong lòng mình, như là của mình vậy.

Đó chính là lí do thơ văn đã xuất hiện cùng với con người từ thời Homere đến Kinh Thi và còn tồn tại tới khi sự sống này kết thúc. Thơ Nguyễn Duy chính là sự sống kéo dài như thế.

-Bỉ Ngạn-vfo.vn

net-noi-bat-trong-tho-nguyen-duy.jpg

BÀI VIẾT SỐ 2 CHỨNG MINH PHONG CÁCH NGUYỄN DUY QUA BÀI THƠ "ĐÒ LÈN"
Nguyễn Duy là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ Nguyễn Duy vừa chứa đựng những cảm xúc chân thành vừa thể hiện những suy tư sâu sắc về cuộc đời và con người. Điều đó được thể hiện một cách rõ nét qua bài thơ "Đò Lèn" - một trong những bài thơ tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông.

Thơ Nguyễn Duy vừa giàu tính chất dân gian, vừa phảng phất phong vị thơ cổ điển phương Đông. Cho nên không lấy làm lạ khi thơ ông vừa chứa đựng những cảm xúc giản dị, mộc mạc nhưng thật đỗi chân thành, vừa thể hiện những triết lí, suy tư sâu sắc, thể hiện cái nhìn sâu lắng của ông về cuộc đời, con người. Ông tìm thấy ở cuộc sống giản dị quanh ta những giá trị vĩnh hằng, phát hiện trong thế giới ấy sự lắng kết của những giá trị cốt lõi. Cho nên những sáng tác đó thoạt nhìn tưởng như rất mộc mạc, thô sơ, gần gũi nhưng lại toát lên vẻ đẹp của những triết lí, suy tưởng sâu xa, làm nên vẻ đẹp cho thơ ca Nguyễn Duy. Bài thơ "Đò Lèn" nằm trong tập thơ "Ánh trăng" tiêu biểu cho vẻ đẹp ấy. Qua những hình tượng nghệ thuật giản dị, bài thơ phô bày những mộng tưởng sâu xa của chính tác giả về con người, cuộc đời, gửi gắm vào đó nhiều bài học quý báu.

Hình ảnh nhân vật trữ tình trong bài thơ là nơi tác giả thể hiện ngòi bút tài hoa của mình. Đó là một cậu bé hiếu động và nghịch ngợm - hình ảnh của chính tác giả thuở còn thơ bé:
  • "Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
  • níu váy bà đi chợ Bình Lâm
  • bắt chim sẻ ở vành tai tượng phật
  • và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần"

Nhà thơ sử dụng thủ pháp liệt kê để nói những lời tự thú chân thành của thuở nhỏ để hồi tưởng lại thời dân dã gắn với ấu thơ của mình: câu cá, theo bà đi chợ,n bắt chim sẻ, ăn trộm nhãn. Câu chuyện của tuổi thơ khốn khó nhưng rất đỗi bình yên và đủ đầy về tinh thần gợi cho mỗi người đọc chúng ta về thời bé nhỏ, cuộc sống hiện lên trong những câu thơ thật bình dị như bao làng quê khác. Cậu bé đó được lớn lên trong vòng tay chở che, yêu thương của bà nên dù nghèo khó, cậu vẫn sống hồn nhiên, được đắm mình trong thế giới cổ tích với huệ trắng, hương trầm, với tiên phật và thánh thần. Với cái nhìn trong trẻo, nhân vật "tôi" đồng nhất thế giới thực và ảo, với thần tiên và cổ tích để có một tuổi thơ trọn vẹn:
  • "mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
  • điệu hát văn lảo đảo bóng cô hồn"

Tác giả như ngược dòng quá khứ để tìm về một thời cổ tích. Cảm xúc thơ vừa tiếc nuối, vừa xuyến xao, vừa có sự hồi tưởng đầy xúc động của tác giả, vừa là tình cảm chân thành mà nhà thơ gửi gắm cho quá khứ. Quá khứ ấy còn có bà - một người phụ nữ tảo tần, vất vả sớm hôm để lo cho cháu có một tuổi thơ ấm no:
  • "bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan
  • bà đi gánh chè xanh Ba Trại
  • Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn"

Từ láy "thập thững" như bước chân thẹn thùng bước cao bước thấp, vừa thể hiện một cuộc đời vất vả lo toan. Nhưng đằng sau cái vất vả đó là tình yêu thương vô bờ bến bà dành cho cháu, đằng sau vẻ lặng lẽ âm thầm là tình yêu vô bờ: Trong thế giới của cháu, bà đồng nhất với Tiên, phật và thánh thần, bà thuộc về một thế giới tốt đẹp, cũng là nơi đứa cháu luôn có thể tìm về để nương tựa. Ẩn chứa trong mỗi câu thơ là niềm xúc động trào dâng, lòng biết ơn của người cháu đối với người bà thân yêu của mình. Nốt ngân dài của cảm xúc kéo theo sự bồi hồi, run rẩy trong những câu thơ trữ tình. Nhưng thơ Nguyễn Duy không đơn thuần chỉ là cảm xúc. Đó còn là những triết lí, những suy tưởng sâu sắc của tác giả ẩn hiện trong những hình ảnh thơ mộc mạc:
  • "Bom Mĩ dội, nhà bà tôi bay mất
  • đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền"
Bom Mĩ dội khiến nhân vật tôi bừng tỉnh. Bầu trời cổ tích vỡ tan trong tiếng gầm rú của bom rơi và hiện thực nghiệt ngã của cuộc đời bước ra. Sự bừng tỉnh ấy đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật trữ tình: cậu bé hồn nhiên và trong sáng của tuổi thơ đã bước ra khỏi thế giới huyền bí của cổ tích để đối diện với những hiện thực phũ phàng. Nhân vật "tôi" bừng ngộ khi đứng trước nấm mộ đơn sơ và nhỏ bé của bà, cùng theo đó là niềm tiếc thương vô hạn và những suy tư:
  • "Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
  • dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
  • khi tôi biết thương bà thì đã muộn
  • bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi."

Hình ảnh dòng sông tượng trưng cho bên được, bên mất, con người luôn chấp chới giữa ranh giới đó. Cuộc đời con người cũng chỉ là dòng sông, nay được, mai mất vì cuộc đời không hoàn hảo bao giờ. "Nấm mộ" nhỏ bé của bà tượng trưng cho sự hữu hạn của đời người và cũng là sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ bao la. Hóa ra cuộc đời là thế, vốn ngắn ngủi và nhỏ bé trước nhịp đi vĩnh hằng của không gian, con người sinh ra rồi cũng đến lúc phải nằm xuống trong vòng tay của đất mẹ. Cho nên đừng vô tâm với những gì đang có, hãy biết nâng niu những giá trị xung quanh mình để không phải nuối tiếc và ân hận. Liệu đó có phải là điều mà Nguyễn Duy gửi gắm trong những câu thơ của mình hay chăng?

Đối với Nguyễn Duy mà nói, đời sống xung quanh ta dẫu có giản dị và mộc mạc đến đâu, thì đó cũng là nơi lưu giữ những giá trị vĩnh hằng và có thể thức tỉnh ta sống sao cho đúng với đạo lí làm người. Cho nên lời thơ vừa là cảm xúc chân thành của chính tác giả về tuổi thơ, về bà, về quê hương, vừa chứa đựng những suy tưởng sâu sắc về con người và cuộc đời. Ngôn ngữ thơ tự nhiên, sinh động như lời nói nhưng cũng rất giàu sức gợi, mở ra những liên tưởng sâu xa trong lòng bạn đọc.

Let-sing từng nói: "Trong tác phẩm của Shakespeare, mỗi một ưu điểm nhỏ nhất cũng in một dấu ấn riêng. Dấu ấn ấy sẽ lập tức nói với thế giới rằng:"Tôi là Shakespeare!"". Và phong cách gắn với cá tính sáng tạo là dấu ấn mà tác giả ghi vào lòng bạn đọc. Nguyễn Duy đã in dấu ấn riêng của mình vào những trang thơ để sống mãi trong lòng bạn đọc muôn đời.

-Minh Anh-vfo.vn
 
  • Chủ đề
    duy nguyen đò lèn
  • Top