Phân tích cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong “Tây Tiến” - 3 bài văn hay nhất ngắn gọn

Cảm hứng lãng mạn và cảm hứng bi tráng là hai nguồn cảm hứng chính trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng. Hai nguồn cảm hứng hòa vào nhau tạo nên hồn thơ rất riêng cho tác phẩm và phong cách nghệ thuật độc đáo cho nhà thơ. Sau đây là những bài văn chi tiết phân tích hai cảm hứng thơ này của tác phẩm.

Chiến tranh là đổ máu. Chiến tranh qua đi, dù ta có chiến đấu vì chính nghĩa, thì cũng không thể tránh một điều, đó là mất mát và đau thương. Và cuộc chiến tranh chống Pháp của ta cũng vậy, bi thương ngập tràn. Nhưng xúc cảm thời đại ấy lại không chỉ có bi mà còn có tráng. Con người thời đại ấy không chỉ chìm trong đau khổ mà có những lúc cảm xúc lãng mạn thăng hoa. Họ đã đi qua những chặng đường dài, vì thế mà sức mạnh tinh thần là điều quan trọng nhất nâng đỡ đôi chân họ để những người lính đạp bằng gian khổ. Xúc cảm lãng mạn bắt nguồn từ cái nhìn hóm hỉnh, nâng lên thành tinh thần lạc quan và nâng cao hơn để thành ý chí quyết tâm vượt khó. Đó là không khí của thời đại và cũng là cảm hứng văn chương: lãng mạn và bi tráng. “Tây Tiến”, một sáng tác của Quang Dũng chính là đúc kết của một người lính đã đi qua thời đại ấy, cuộc chiến ấy. Tác phẩm là sự hòa quyện của một ngòi bút lãng mạn hào hoa và âm hưởng bí tráng của cuộc chiến tranh vệ quốc cao cả. Dưới đây là bài làm chi tiết cho đề bài yêu câu phân tích cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong “Tây Tiến” của Quang Dũng cho những ai có nhu cầu tham khảo. Chúc các bạn thành công!

cam-hung-tay-tien.jpg

Đây là 1 trong những đều bài hay ra liên quan tới bài Tây Tiến vì đây là 1 trong những điểm nổi trội của bài thơ này khi nói về những người lính

BÀI VIẾT SỐ 1 PHÂN TÍCH CẢM HỨNG LÃNG MẠN VÀ BI TRÁNG TRONG TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG
Hồ Chí Minh từng nói “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy.”. Không nằm ngoài vòng quy luật, văn học chính là tấm gương phản ánh thực tại mà nó ra đời. Chẳng thế mà đọc “Tây Tiến” của Quang Dũng, ta vừa thấy cảm hứng lãng mạn lại vừa thấy âm hưởng bi tráng của một thời đại chiến đấu đau thương mà hào hùng của dân tộc.

Một tác phẩm mang cảm hứng lãng mạn là tác phẩm mà ở đó ta thấy sự thăng hoa của cảm xúc, tình cảm của nhân vật trữ tĩnh, trí tưởng tượng được phát huy tận độ, những cái tuyệt mĩ được tô đậm. Vì nó đề cao những cái phi thường nên cách diễn đạt phóng đại, đối lập, ngôn ngữ giàu sức gợi hình gợi cảm được sử dụng rộng rãi.

Cảm hứng lãng mãn của “Tây Tiến” được thể hiện ở nỗi nhớ tha thiết của tác giả:
  • “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
  • Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Cụm từ “Tây Tiến ơi” như hợp nhất lại với tựa đề “Tây Tiến” để cất thành tiếng gọi, từ ngôi làng Phù Lưu Chanh gửi đến vùng núi Tây Bắc xa xôi mà thân thương máu thịt. Con sông Mã cuồn cuộn chảy và hình ảnh Tây Tiến nay đã lùi vào quá khứ, đã “xa rồi” nhưng tiếng gọi da diết như vậy, nặng tình đến thế, ai dám bảo đã quên? Mà nhớ lại “nhớ chơi vơi”, một nỗi nhớ khó diễn tả bằng lời, khó nắm bắt nhưng lại cuộn sóng trong lòng. Chữ “ơi” hợp với “chơi vơi’ tạo nên âm hưởng vang vọng, tựa như tiếng gọi “Tây Tiến ơi” - tiếng lòng của nhà văn đang lan rộng trong không gian mênh mông của miền quá khứ.

Cứ như thế, sau tiếng gọi ấy là một nỗi nhớ trải rộng vào không gian Tây Tiến, những sông những núi cứ hiện ra tựa như là thực tại đang diễn ra chứ không phải là trong quá khứ nữa. Đó là thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở với “Sài Khao sương lấp”, là “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, là những cồn mây “heo hút” và “ngàn thước lên cao”. Hình ảnh Tây Tiến hiện lên là miền sơn cước chứa đầy những hiểm nguy cận kề, luôn sẵn sàng làm mỏi bước hành quân của con người. Thế nhưng trong nỗi nhớ, trong ánh nhìn của nhân vật trữ tình thì trong cái hùng vĩ là một nét lãng mạn nên thơ: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Những câu thơ với âm điệu dịu nhẹ như tiếng nói của tình cảm, của chất lãng mạn trong ngòi bút nhà thơ và cũng đồng thời vẽ ra một Tây Tiến thật khác”: thơ mộng và trữ tình. Hai câu thơ toàn thành bằng đối lập với những câu thơ toàn thành trắc tạo cho đoạn thơ chất lãng mạn rất đậm. Vượt lên trên nỗi nhớ về thiên nhiên đơn thuần, dòng kí ức của nhà thơ còn đưa ta về với những kỉ niệm găn bó với miền xa xôi ấy:

  • “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
  • Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Nhớ về Tây Tiến là nhớ cái hùng vĩ, là cảnh núi non trập trùng, cảnh “cọp trêu ngươi” nhưng cũng là nhớ cái khói của cơm tỏa, nhớ cái thơm của hương xôi. Khung cảnh không dữ dội mà cũng không hẳn là nên thơ tựa như cảnh Mường Lát, nó bình bình, nhẹ nhàng và dịu êm như “em”, nó ấm áp của tình nghĩa đong đầy trong những nếp cơm nếp xôi của dân bản. Lại một lần nữa nỗi nhớ được thốt lên “nhớ ôi”, một lần nữa tiếng lòng không thể kìm nén mà bật ra thành câu cảm thán pha lẫn chút tiếc nuối nhẹ vì đây chỉ là nhớ mà thôi.

Chất lãng mạn của bài thơ còn được thể hiện đậm nét qua hình ảnh của đoàn quân Tây Tiến. Thiên nhiên Tây Bắc rộng lớn hùng vĩ đã trở thành bức phông nền làm nổi bật ý chí vượt khó của những người lính:

  • “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
  • Heo hút cồn mây, súng ngủi trời
  • Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
  • Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
“Súng ngửi trời”, ấy là hình ảnh tả thực. Núi cao quá, mây cũng xà thật thấp xuống khiến cho ngọn súng tưởng như đang chạm vào trời cao. Nhưng, “súng ngửi trời”, ấy cũng là hình ảnh mang nghĩ ẩn dụ. Đó là cái hóm hỉnh của người lính, cao hơn là ý chí để vượt qua những dốc những thước cao ấy. Nói cách khác, chất lãng mạn tượng như một cán cân cân bằng cho cảnh vật và tâm hồn người, để người lính thấy nhẹ nhõm sau những bước mỏi, để ta thấy một Tây Bắc đẹp, lãng mạn từ cảnh vật cho đến con người. Tâm hồn người lính không chỉ dừng ở chất hóm hỉnh, mà nó còn được nâng cao lên thành tình thần lạc quan, tinh thần lạc quan trở thành tiền đề cho người lính vượt mọi gian khổ:
  • “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
  • Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”

“Không mọc tóc” là bởi căn bệnh sốt rét rừng. “Xanh màu lá”, cũng bởi cơn bệnh ấy mà nước da xanh xao. Nhưng câu thương lại không có nửa phần bi thương mà chỉ thấy mười phần kiên cường, có một chút tự tại. “Không mọc tóc”, cụm từ nghe có chút ngang tàn, tựa như họ chủ động không mọc tóc chứ không phải vì bệnh. “Quân xanh màu lá” nhưng lại chẳng ốm yếu mà lại quật lên sức mạnh “dữ oai hùm”. Sức mạnh ấy là để nuôi dưỡng giấc mộng
  • “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
  • Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Mộng qua bên kia đất nước là mộng lập công, còn mộng về Hà Nội là giấc mộng giai nhân. Ý chí kiên cường vừa là để giành lại độc lập, giành lấy tự do, giành lấy cả vinh quang thắng trận, vừa là để đượ trở về Hà Nội thủ đô để gặp giai nhân. Học trẻ tuổi nên cũng trẻ lòng, nên mộng lập công và mộng giai nhân cũng là điều dễ hiểu. Hai giấc mộng tưởng như đối lập nhưng lại song hành cùng nhau, tạo nên chất lính rất riêng của một thời đại lịch sử chiến đấu oanh liệt.

Mỗi cuộc chiến tranh qua đi, dù có hào hùng thì vẫn là mất mát. Và đoàn bình Tây Tiến cũng thế, bài thơ “Tây Tiến” cũng đậm chất bi tráng. Bi tráng nghĩa là có cái hào hùng của tráng ca, tựa như những trang cổ sử, nhưng cũng lại có cái bi bởi đau thương. Âm hưởng bi tráng trong tác phẩm được thể hiện qua những dòng thơ tác giả viết về cái chết:


  • “Rải rác biên cương mồ viễn xứ
  • Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh “

Tính từ “rải rác” gợi ra hình ảnh những nấm mồ thưa thớt nhưng lại thật nhiều, tựa như mỗi bước hành quân đề có người ngã xuống, có người hi sinh. Nó tựa như không có điểm dừng vậy, xa xôi và hoang vắng đến lạ. Câu thơ sử dụng từ Hán Việt khiến cho cái chết trở nên thiêng liêng, trở nên đáng trân trọng như cái chết của những anh hùng thiên cổ, có đau thương nhưng lại hùng tráng. Câu thơ không bi quan ủy mị mà được nâng đỡ bởi tinh thần quật cường: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” là tuổi trẻ, là thanh xuân một đi không trở lại. Nhưng có hề gì chứ, đã lên đường là quyết chí, là không sợ hi sinh. Câu thơ vang lên như một lời thề vững bước không lùi. Cái chết hiện ra lại nhẹ tựa lông hồng: “chẳng tiếc”.

Các tráng sĩ ngày xưa lấy da ngựa bọc thây. Nhưng những người lính thời ấy chỉ có áo nâu nhuộm bùn:


  • “Áo bào thay chiếu, anh về đất
  • Sông Mã gầm lên khúc độc hành“

Họ hi sinh mà chẳng có một manh chiếu che thấn, chỉ đắp tạm chiếc áo nâu mỏng. Những cái chết thiêng liêng quá, áo nâu giản dị cũng thành áo bào hào hùng thiêng liêng. Các anh chết vì nghĩa cử cao đẹp quá, vì tổ quốc rộng lớn, vì đồng bào dân tộc, nên cái chết của các anh cũng cảm hóa ngoại cảnh, để áo nâu thành áo bào, để con sông Mã cùng “gầm lên khúc đọc hành”. Thiên nhiên tựa như đang nói lời chia ly, tựa như đang cất tiếng đưa các anh về nơi suối bạc, về những ngày xưa xa xôi để tổ quốc và đồng bào tạc tên mà ghi nhớ.

Giàu lãng mạn, nhưng bài thơ không sa vào cái xa vời thực tế. Mang âm hưởng bi tráng nhưng lại không quá đau thương hay quá hào sảng như thời cổ. Đó là một “Tây Tiến” rất riêng của Quang Dũng, là nét pha trộn của những điều tưởng như đối lập, của những điều hiện đại và cổ xưa.

- QP -

cam-hung-lang-man-va-bi-trang-trong-tay-tien.jpg

Trong khó khăn gian khổ chẳng biết ngày mai nhưng hình ảnh người lính đầy chất lãng mạn được tác giả khắc họa lên tuyệt đẹp giữa đất trời Tây Tiến​

BÀI VIẾT SỐ 2 PHÂN TÍCH CẢM HỨNG LÃNG MẠN VÀ TINH THẦN BI TRÁNG TRONG BÀI THƠ “ TÂY TIẾN” CỦA QUANG DŨNG
Quang Dũng là nhà thơ tài hoa về nhiều lĩnh vực, nhưng nổi bật hơn cả là khả năng thơ ca. Thơ ông luôn thể hiện một cái tôi hào hoa thanh lịch, giàu chất lãng mạn. Bài "Tây Tiến" tiêu biểu cho hồn thơ ấy của Quang Dũng. Bài thơ thành công về nhiều phương diện, nhưng đặc sắc tổng thể của nó là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của người lính.

Bài thơ được rút trong tập thơ "Mây đầu ô", được ông viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh, sau khi ông đã chuyển sang đơn vị khác và nhớ về đoàn quân Tây Tiến ngày nào. Sau in lại năm 1975, bài thơ có tựa đề là "Tây Tiến".

Bởi cả bài thơ đã bao trùm nỗi nhớ niềm tự hào của tác giả về đoàn binh Tây Tiến. Nếu như các nhà thơ cùng viết về người lính bằng cảm hứng hiện thực với vẻ đẹp hồn nhiên, chân chất giản dị. Thì Quang Dũng lại tạc vào thời gian, vào lịch sử dân tộc hình tượng người lính có một không hai bằng cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ phi thường, độc đáo, vượt lên những cái tầm thường quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Tinh thần bi tráng trong văn học thể hiện ở việc không né tránh hiện thực, miêu tả cái gian khổ và đau thương ở hiện tại mà không hề né tránh. Cái bi ở đây không phải là cái lụy, mà chính xác là cái bi tráng và hào hùng. Là cái chết nhưng mà là cái chết vĩnh hằng đi vào cõi bất tử. Cái bi hùng này còn được thể hiện ở âm hưởng, màu sắc và giọng điệu.
Trước hết là vẻ đẹp lãng mạn của hình tượng người lính. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên khắc nghiệt, dữ dội: vực sâu, dốc cao, đèo thẳm nhưng họ lại thấy thiên nhiên ấy hiện lên thật hùng vĩ nên thơ:
  • "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
  • Mường Lát hoa về trong đêm hơi
  • Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
  • Heo hút cồn mây súng ngửi trời
  • Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
  • Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"

Sài Khao rồi Mường Lát hiện lên trong “sương lấp”, “đêm hơi” vừa như thực như mộng. Đèo cao, đường hành quân quanh co. Thiên nhiên vừa là chướng ngại, vừa là để thưởng thức. Các từ láy "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút" kết hợp các điệp từ "dốc", điệp ngữ "ngàn thước", phép tương phản "lên cao" – "xuống" càng làm cho bức tranh thiên nhiên Tây Bắc thêm hùng vĩ, tráng lệ. Có thể hình dung địa hình Tây Bắc toàn dốc núi quanh co, điệp trùng, hết lên cao rồi lại xuống thấp, một bên là dốc đá dựng đứng hiểm trở, một bên là vực sâu hun hút, nhìn xuống hay nhìn lên đều rợn ngợp đến chóng mặt. Qua dốc cao, vực sâu là mưa rừng:
  • "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"

Thiên nhiên nên thơ, trữ tình. Cơn mưa rừng hiếm hoi như trải dài hút tầm mắt tạo nên cảnh tượng "mưa xa khơi" bồng bềnh, ảo mộng. Câu thơ dệt nên bởi những thanh bằng gợi sự yên ả, nhẹ nhàng. Đặc biệt đoạn thơ:
  • "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
  • Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
  • Có nhớ dáng người trên độc mộc
  • Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"

Tất cả gợi nhớ Châu Mộc trong một cảnh chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật thấm đẫm hồn thơ. Chữ "ấy" ở câu trên cùng chữ "thấy" ở câu dưới bắt thành một vần lưng giàu âm điệu. Hồn lau lay động trong gió mang nét lưu luyến của buổi chia ly. Nổi bật trên dòng nước là nét uyển chuyển thanh tú trên thuyền độc mộc của các cô gái Tây Bắc. Hình ảnh "hoa đong đưa" vừa là hình ảnh tả thực, vừa như ẩn dụ gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người đọc như lạc vào cõi mộng. Vượt qua bao gian khổ, hi sinh, mất mát, tâm hồn người lính thăng hoa, bay bổng trong đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân:
  • "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
  • Kìa em xiêm áo tự bao giờ
  • Khèn lên man điệu buồn e ấp
  • Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"

Cả doanh trại "bừng sáng", tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của ngọn lửa đuốc trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ "kìa em" thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng Tây Bắc xúng xính những bộ xiêm áo lộng lẫy vừa e thẹn, vừa tình tứ trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến. Trong gian khổ, thiếu thốn, mất mát hi sinh, tâm hồn người lính vẫn lạc quan, vẫn mộng mơ về "Hà Nội dáng kiều thơm":
  • "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
  • Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Lối diễn đạt này có vẻ cầu kì nhưng phù hợp với tâm hồn những người lính trẻ thủ đô xa người yêu đi kháng chiến. Nhớ về các cô gái Hà thành, bóng dáng những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều thơ mộng không hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong khói lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp lạc quan, yêu đời của những người lính xuất thân từ thành thị đi kháng chiến Cùng với cảm hứng lãng mạn, là tinh thần bi tráng rất Tây Tiến. Trong gian khổ, người chiến sĩ Tây Tiến luôn hiên ngang, bất khuất. Trên nền thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ, người lính xuất hiện với tầm vóc bi tráng, phi thường:

  • "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
  • Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

Thơ ca kháng chiến khi viết về người lính thường hay đề cập đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ "Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh này:
  • "Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
  • Rét run người vầng trán ướt mồ hôi"

Quang Dũng trong "Tây Tiến" cũng không hề che giấu khó khăn và sự hi sinh lớn lao của người lính. Đoàn quân trông thật kì dị: "không mọc tóc", "quân xanh màu lá". Đó là nguyên do của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá. Đối lập với ngoại hình ốm yếu là tinh thần đầy mạnh mẽ, dũng mãnh. Cách nói "không mọc tóc" là để tả cái ngang tàng của người lính, họ vẫn lạc quan, yêu đời, coi thường gian khổ. Ba từ "dữ oai hùm" gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt, hiên ngang. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình thế, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp đổ mọi gian khổ. Họ vượt lên trên hoàn cảnh hi sinh, mất mát, gian khổ bằng lý tưởng sống cao đẹp: "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh":
  • "Rải rác biên cương mồ viễn xứ
  • Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

Cảm hứng cuả ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh của những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng. Mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Sự hi sinh của người lính cũng được bao bọc trong một không khí hoành tráng, trang nghiêm mà thanh thản:

  • "Áo bào thay chiếu anh về đất
  • Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Con sông Mã, chứng nhân của lịch sử, bạn đồng hành của Tây Tiến, cũng nhỏ dòng lệ cảm thương lay động cả đất trời, đã gầm lên "khúc độc hành" khúc tráng ca bi hùng rực rỡ nét sử thi. Tiếng gầm ấy là khúc nhạc bi tráng, khúc nhạc thiêng tiễn đưa người lính về với nơi an nghỉ cuối cùng. Có lúc sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người:


  • "Anh bạn dãi dầu không bước nữa
  • Gục lên súng mũ bỏ quên đời"

Hai chữ "dãi dầu" ta đọc thấy có biết bao niềm xót xa, thương cảm, vô bờ bến. Cái chết đậm chất bi hùng: Chết trong tư thế đẹp ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu không quên nhiệm vụ của người lính. Vần thơ nói đến cái mất mát hy sinh nhưng không chút bi luỵ thảm thương. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng cho Tây Tiến. Ở đây có sự gặp gỡ giữa hồn thơ lãng mạn, hào hùng của thi nhân cùng nhân vật trữ tình là những người lính Tây Tiến.

Như vậy, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của bài thơ. Tiếng thơ đầy bi tráng cùng với hồn thơ cực lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử, một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc mà người đọc muôn đời yêu quý, tự hào.

-TTT-

cam-hung-trong-tay-tien.jpg

Tuy Lãng mạn nhưng cũng đầy bi tráng, các em cần làm rõ 2 chi tiết trên trong bài thơ này

BÀI VĂN MẪU SỐ 3 PHÂN TÍCH CẢM HỨNG LÃNG MẠN VÀ BI TRÁNG TRONG TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG
Văn học cách mạng mang trong mình một sứ mệnh cao cả, không chỉ tái hiện lại những tháng năm gian lao mà anh dũng của quân và dân ta trong những cuộc chiến vệ quốc máu lửa, mà còn để khắc tạc trong dòng chảy thời gian những tượng đài bất tử của những người lính cụ Hồ vô danh. Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những thi phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam thời kì ấy. Làm nên thành công cho tác phẩm, giúp cho bài thơ có một sức sống lâu bền trong trái tim bạn đọc bao thế hệ chính là nhờ có sự kết hợp đan xen của cảm hứng lãng mạn và cảm hứng bi tráng trong bài thơ

Cảm hứng lãng mạn trong thơ ca nói chung là khuynh hướng nghệ thuật tiến bộ, giàu cảm xúc tin tưởng, hi vọng hướng đến một tương lai tươi sáng. Trong giai đoạn văn học thời kháng chiến, cảm hứng lãng mạn vừa là sự khẳng định cái tôi đầy tình cảm, vượt lên hiện thực chiến đấu gian khó, tin tưởng vào chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của dân tộc vừa là sự khẳng định lý tưởng của một cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới. Chính điều đó đã nâng đỡ con người trong gian khổ, vươn lên trên gian khổ mà hướng lòng mình tới những điều tốt đẹp. Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến đã gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc, không chỉ qua nỗi nhớ xuyên suốt trải dài tác phẩm, mà còn ở trong cảnh thiên nhiên và vẻ đẹp của con người. Song văn học chính là tấm gương phản ánh đời sống, thơ ca cách mạng ra đời trong nhưng tháng năm kháng chiến máu lửa trường kì, vậy nên làm sao có thể tránh khỏi nhưng đớn đau, hi sinh, mất mát. Bởi vậy, đồng hành cùng với cảm hứng lãng mạn chính là cảm hứng bi tráng. Cảm hứng bị tráng thể hiện ở chỗ, người nghệ sĩ không hề né tránh hiện thực mất mát, đau thương. Thế nhưng bi mà không lụy. Dù là khắc hoạ cái chết thì cũng là cái chết anh dũng, kiên cường đi về cõi vĩnh hằng, bất tử. Bên cạnh đó, cảm hứng bi tráng cũng được thể hiện một cách hiệu quả qua âm hưởng và giọng điệu oai hùng, tráng lệ. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm tiêu biểu mang trong mình cảm hứng lãng mạn và bi tráng của một thời hào hùng.

Trước hết là cảm hứng lãng mạn trong bài thơ. Một trong những yếu tố quan trọng làm nên chất lãng mạn bay bổng chính là cảm xúc của nhận vật trữ tình. Sau một năm gắn bó với đội quân Tây Tiến, Quang Dũng được chuyển công tác đến một đơn vị mới. Bao trùm lấy cả bài thơ, một mạch ngầm xuyên suốt là nỗi nhớ trào dâng của tác giả dành cho những tháng ngày cùng đồng đội chia ngọt sẻ bùi cùng kề vai kháng chiến. Mở đầu bài thơ là tiếng gọi đầy thiết tha cùng nỗi nhớ "chơi vơi":
  • "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
  • Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Hình ảnh con sông Mã hiện lên là một hình ảnh gắn liền với địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến, là chứng nhân của một thời dậy vang, máu lửa. Tiếng gọi "Tây Tiến ơi" thân thương, da diết như tiếng gọi một người bạn hữu đã lâu ngày xa cách. Điệp từ "nhớ" trong một câu toàn thanh bằng nhưng một nốt nhấn cao độ trong bản nhạc trầm, nỗi nhớ dường như luôn thường trực trong lòng nhà thơ bỗng trào dâng, lên tiếng. Hai câu thơ gieo vần "ơi" kết hợp với tính từ "chơi vơi" vang lên, khiến cho lòng ta cũng bất chợt lâng lâng, lửng lơ song lại ắp đầy, tuy nhẹ mà lại lắng sâu. Cả một vùng kí ức sống lại, nồng nàn và thân thương, thiết tha và trọn vẹn, dù đã ở nơi xa, tấm lòng Quang Dũng vẫn cứ mãi hướng về đoàn quân Tây Tiến, trở thành một lời ước hẹn:
  • "Tây Tiến người đi không hẹn ước
  • Đường lên thăm thẳm một chia phôi
  • Ai lên Tây Tiến mùa xuân đó
  • Hồn về Sầm Nứa chằng về xuôi"

Quang Dũng rời xa đơn vị, rời xa đoàn quân Tây Tiến mà bản thân đã đồng hành, gắn bó suốt một năm trời để đến đơn vị mới, chẳng thể nói trước được một lời hứa đoàn tụ. Người đi, thế nhưng, tâm hồn lại ở lại, trái tim vẫn cứ hướng mãi về nơi đầy ắp nhưng kỉ niệm xưa. Đó chính là chất lãng mạn của bài thơ.

Cùng với cảm xúc của nhân vật trữ tình, cảm hứng lãng mạn của bài thơ còn được thể hiện qua vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
  • "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
  • "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
  • Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Một trong những nét nghệ thuật tiêu biểu cảm hứng lãng mạn là phép tương phản đối lập. Nếu những câu thơ trước và sau đó khắc họa hình ảnh thiên nhiên to lớn, với những chiều kích được mở rộng đến choáng ngợp, thì hai câu thơ này đây lại trở về với những hình ảnh rất đỗi thơ mộng với sương, với hoa cùng với một nhịp thơ chậm rãi được kết cấu bởi nhiều thanh bằng. "Sài Khao", "Mường Lát" là tên của những bản núi mù sương, những địa bàn hoạt động mà đoàn quân Tây Tiến đã từng gắn bó. Hai câu thơ như gợi nhắc đến một nơi xa xôi bí ẩn nào đó và cũng chính sự bí ẩn ấy lại quyến rũ vô cùng. Nhà thơ sử dụng hai từ "đêm hơi", là một đêm mờ hơi sương, đêm của hơi núi rừng, hay là một đêm nhẹ như hơi thở. Trong không gian ảo huyền nên thơ, hình ảnh "hoa về" như điểm nhấn cho cảm hứng lãng mạn. "Hoa" là những bông hoa trên tay trên vai trên áo trên mũ người lính trên đường hành quân, hay là hoa lửa hoa đuốc sáng soi dẫn đường trong đêm tối, hay phải chăng "hoa" lại chính là người con gái người thôn nữ miền sơn cước đi về trong miền nhớ, miền thương... Không chỉ có thế, vẻ đẹp lãng mạn của thiên nhiên còn hiện lên trong "chiều sương" chơi vơi giữa một miền tâm thức.
  • "Người đi Châu mộc chiều sương ấy
  • Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
  • Có nhớ dáng người trên độc mộc
  • Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"

Chiều sương gợi mở một không gian huyền bí quyến rũ. Đại từ phiếm chỉ "ấy" càng làm cho khoảng thời gian trở nên mơ hồ không xác thực, thế nhưng nó lại rất rõ ràng, rất gợi, rất đáng nhớ trong ký ức của nhà thơ. Hình ảnh "lau" hiện lên không phải là một bông, một nhành, một bờ, mà là "hồn lau", dường như chẳng có một hình dung cụ thể nào, mà ta chỉ có thể cảm nhận ở đâu đây một chuyển động nhẹ nhàng, gợi cảm. Giữa không gian ấy, hình ảnh con thuyền độc mộc hiện lên làm cho bức tranh thiên nhiên cũng mang một vẻ trầm tĩnh như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tế vi, mờ ảo như hư vô, hư thực mà lại thơ mộng đến lạ lùng. Một lần nữa hình ảnh hoa lại xuất hiện trong bài thơ. Tính từ "đong đưa" gơi nên một chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế của bông hoa, như đang làm dáng làm duyên giữa dòng nước lũ đang dữ dội cuộn trào. Thật là một vẻ đẹp nguyên sơ, thanh khiết và gợi cảm đến nao lòng.

Cảm hứng lãng mạn không chỉ có trong cảnh thiên nhiên, mà còn có trong chính tâm hồn của những người lính Tây Tiến.
  • "Heo hút cồn mây súng ngửi trời"

Đây quả là một cái nhìn hóm hỉnh, thú vị của người chiến sĩ, nó như phá tan đi cái mệt nhọc của quãng đường hành quân đầy gian khó. Trong bài thơ "Đồng chí", Chính Hữu cũng đã từng ghi lại hình ảnh "đầu súng trăng treo". Đây đều là những hình ảnh tả thực, khi những người lính hành quân, họ luôn vác súng trên vai, đầu súng hướng lên, ở một góc độ nào đó, như thể súng đang chạm tới trời, như đang treo mảnh trăng sáng của đêm rừng canh gác. Chính qua những hình ảnh đó, mà ta như nhìn vào được tâm hồn của họ, họ cũng mang một trái tim trẻ trung, cũng thơ mộng chứ không hề chai sạn giữa những gian nan thử thách nơi chiến trường cam go, khốc liệt. Đâu chỉ hóm hỉnh, trẻ trung, người lính Tây Tiến cũng có những phút giây đắm chìn trong những đêm liên hoan doanh trại tưng bừng:
  • "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
  • Kìa em xiêm áo tự bao giờ
  • Khèn lên man điệu nàng e ấp
  • Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"

Chữ "bừng" như một nét vẽ có thần, nó làm cho không gian như sáng bừng lên trong âm thanh, trong ánh lửa bập bùng và trong hơi ấm của tỉnh quân dân cá nước. Trong không gian ấy, người lính Tây Tiến phải ngạc nhiên đầy tình tứ, mà thốt lên hai tiếng "kìa em". Giây phút này đây họ nhưng rũ bỏ tất cả mọi gian truân, mệt mỏi được cùng hòa mình theo giai điệu của những bản nhạc nơi rừng núi, để sống trọn vẹn, trẻ trung, tận hưởng niềm vui với một tâm hồn lãng mạn. Những người lính Tây Tiến vốn xuất thân là những thanh niên nơi phố thị phồn hoa, họ từ bỏ những giảng đường, từ bỏ cuộc sống hiện đại để ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, vậy nên họ cũng có những giờ phút nhớ nhung dáng kiều chốn Hà Thành. "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Trong văn chương xưa việc đi sâu vào đời sống tâm hồn là điều hiếm hoi khó thấy. Nhưng khi khám phá vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến giờ đây, Quang Dũng đã đi sâu vào khám phá một tâm hồn phong phú, họ cũng là những con người trẻ tuổi tài hoa trái tim họ cũng biết rung động cũng đập những nhịp đập rất đỗi đời thường.

Song hành cùng với cảm hứng lãng mạn là cảm hứng bị tráng. Nhà thơ đã tái hiện lại chân thực những khó khăn, gian lao trong nhưng tháng năm kháng chiến.
  • "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
  • Quân xanh màu lá dữ oai hùm".

"Không mọc tóc" là một nét vẽ tả thực đã khắc hoạ thật chân thật hoàn cảnh gian nan, thiếu thốn của người lính Tây Tiến trên những bước đường hành quân. Trong thực tế đầy xót xa, những người lính đã hi sinh vì bệnh tật, vì cái đói cái rét còn nhiều hơn hi sinh vì chiến đấu với kẻ thù. Không chỉ có thế, hiện thực gian nan còn hiện lên qua hình ảnh "quân xanh màu lá". Cũng chính những căn bệnh nguy hiểm như sốt rét rừng đã khiến cho người lính trở nên tiều tụy, xanh xao. Thế nhưng, nói về hiện thực đầy khó khăn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ người lính với một tâm thế chủ động "không mọc tóc", chứ không phải là "tóc không mọc". Đó chính là tư thế hiên ngang, lạc quan, làm chủ trước gian nan thử thách. Và "xanh màu lá" ấy, dường như trong cái bị động ta lại thấy cái chủ động mạnh mẽ, những người lính khôn khéo lợi dụng cái bất lợi của mình để ngụy trang giữa màu xanh của rừng cây núi đá, để lẩn trốn, để phục kích quân thù. Chẳng những ung dung, chủ động, họ còn khiến kẻ thù phải khiếp sợ với khí thế của những loài sơn lâm, chúa rừng "dữ oai hùm". Chí khí và sức mạnh lẫm liệt vô song ấy lại hiện lên trong hình ảnh của người lính Tây Tiến, qua một giọng thơ hào sảng, mạnh mẽ vô cùng.

Không chỉ có khó khăn, người lính Tây Tiến còn phải đối mặt với cái chết. Quang Dũng đã hơn một lần nhắc đến sự hi sinh, ấy thế nhưng, bi mà không lụy.
  • "Anh bạn dãi dầu không bước nữa
  • Gục lên súng mũ bỏ quên đời"

Câu thơ có hai cách hiểu, có thể hiểu là người lính dừng chân, dựa lên súng mũ nghỉ ngơi, tạm quên đi những nhọc nhằn, vất vả, nhưng cũng có thể hiểu ấy là sự hi sinh. Trên chặng đường hành quân, phải đối mặt với địa hình hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, nguy hiểm rình rập suốt ngày lẫn đêm, chiến đấu với kẻ thù, đã không ít người ngã xuống. Cách nói giảm nói tránh, dù đã giảm nhẹ phần nào nỗi bi thương nhưng vẫn cứ nao nao, nặng trĩu. Tuy vậy, hình ảnh người lính hiện lên vẫn cứ hiên ngang, ung dung đến thế. Dường như họ chỉ từ giã bạn bè khi súng vẫn nắm chặt trong tay, mũ vẫn đội trên đầu, cái chết đến nhẹ nhàng như một giấc ngủ dài "quên đời".
  • "Rải rác biên cương mồ viễn xứ
  • Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
  • Áo bào thay chiếu anh về đất
  • Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Hình ảnh "mồ viễn xứ" gợi lên cái cảm giác ghê sợ, lạnh lẽo, tang thương nhưng lại không thể không tự hào, kiêu hãnh trước sự hi sinh bất khuất của người lính Tây Tiến. Bằng một loạt những từ Hán Việt, những vần thơ bỗng trở nên trang trọng như một nén tâm nhang thắp lên cho người đã ngã xuống. Khi xưa, những tráng sĩ thắng trận trở về thường được nhà vua ban cho áo bào. Thế nhưng, tấm "áo bào" của những người lính Tây Tiến giờ đây có chăng chỉ là một mảnh áo lính. Nhìn vào lịch sử, trong thời kì gian khó, khi những người lính hi sinh, người dân địa phương thường đem cho họ những manh chiếu để quấn lấy thân thể trước khi chôn, nhưng rồi lính hi sinh nhiều, những manh chiếu còn chẳng có đủ, những người đã ra đi chỉ còn lại manh áo đơn sơ. Quang Dũng đã gọi những tấm áo ấy là những tấm "áo bào", chính là sự công nhận ngợi ca công lao của họ, đó cũng là cách để ăn ủi người đi, mà cũng đỡ tủi lòng kẻ ở lại. Cách nói "anh về đất" cũng là một cách nói giảm nói tránh, lấy cái tráng lệ để nói cái bị thương như đang bất tử hoá người lính. Và "sông Mã", con sông đã gắn liền với cả một giai đoạn chiến đấu của đoàn quân Tây Tiến, là chứng nhân của những hi sinh anh hùng, đã tắm trong máu của kẻ thù xâm lược, giờ đây cũng không nén nổi bi thương mà "gầm lên khúc độc hành". "Khúc độc hành" như khúc tráng ca đưa tiễn người ra đi. Sự hi sinh của người lính đặt giữa đất trời, thiên nhiên, có đất mẹ dang tay đón đợi, có sông Mã anh hùng dạo khúc tráng ca, rõ ràng là một sự hi sinh cao quý. Bởi vậy mà bi thương bỗng hoá thành bi tráng, trong cái đau thương không thể tránh khỏi, vẫn cứ âm vang chất tráng ca, tự hào, kiêu hãnh, biến hình ảnh người lính Tây Tiến trở thành một tượng đài bất tử.

Rõ ràng, sự kết hợp hài hòa giữa cảm hứng lãng mạn và cảm hứng bị tráng đã góp phần vẽ nên bức tranh hoàn thiện về thiên nhiên Tây Bắc và hình tượng người lính Tây Tiến. Họ là những con người vừa mang trong mình vẻ đẹp phi thường, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, đời thường của thời đại. Qua đây, ta cũng thấy được ở Quang Dũng một tình cảm gắn bó đậm sâu với đội quân Tây Tiến, những thấu hiểu sâu sắc, một hồn thơ hào hoa và cả một ngòi bút tài ba, tinh tế. Những đóng góp ấy giúp cho bài thơ Tây Tiến, theo lời nhận định của nhà phê bình Phong Lan, quả thực đã trở thành "một tượng đài bất tử của những người lính vô danh" mà sẽ muôn đời khắc tạc trong dòng chảy văn học Việt Nam và trong trái tim bao thế hệ bạn đọc.
-M-
 
  • Chủ đề
    cảm hứng quang dung tây tiến
  • Top