Phân tích cảm nhận khổ 2, đoạn 2 bài thơ Tây Tiến hay nhất - 4 bài văn mẫu

Được đánh giá là "đứa con đầu lòng hào hoa và tráng kiện của thơ ca cách mạng Việt Nam", bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đã đi qua bao cuộc chiến tranh vệ quốc, qua bao thế hệ bạn đọc, mà đến tận bây giờ vẫn là một trong số những thi phẩm xuất sắc nhất trong nền văn học thời chiến. Trong đó, đoạn thơ thứ hai là một trong những đoạn thơ để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Bài thơ Tây Tiến được sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, đơn vị mà Quang Dũng chuyển công tác đến sau khi kết thúc quãng thời gian một năm gắn bó keo sơn với đồng đội của quân đoàn Tây Tiến. Trong nỗi nhớ khôn nguôi hướng tới những kỉ niệm thời chiến bên anh em, đồng đội và núi rừng Tây Bắc, nhà thơ đã không kìm được lòng mình, để tiếng nói của trái tim cất lên thành trang thơ. Làm nên thành công cho tác phẩm, giúp cho bài thơ có một sức sống lâu bền trong trái tim bạn đọc bao thế hệ là một phần nhờ có cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn trong thơ ca nói chung là khuynh hướng nghệ thuật tiến bộ, giàu cảm xúc tin tưởng, hi vọng hướng đến một tương lai tươi sáng. Trong giai đoạn văn học thời kháng chiến, cảm hứng lãng mạn vừa là sự khẳng định cái tôi đầy tình cảm, vượt lên hiện thực chiến đấu gian khó, tin tưởng vào chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của dân tộc vừa là sự khẳng định lý tưởng của một cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới. Chính điều đó đã nâng đỡ con người trong gian khổ, vươn lên trên gian khổ mà hướng lòng mình tới những điều tốt đẹp. Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến đã gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc. 8 câu thơ của khổ thơ thứ hai đã thể hiện rất rõ cảm hứng lãng mạn ấy. Dưới đây là bài văn mẫu phân tích đoạn thơ để các bạn tham khảo. Chúc các bạn học tập thật tốt.

kho-2-tay-tien.jpg

Dù ở bất kỳ đoạn thơ nào những hình ảnh về thiên nhiên con người đều được tác giả vẽ nên rất đẹp nhưng lại mộc mạc dễ hiểu trong 1 chiều Mộc Châu sương mù


BÀI VĂN MẪU SỐ 1 PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ THỨ HAI, ĐOẠN 2 BÀI THƠ TÂY TIẾN
Trong vườn hoa của thơ ca kháng chiến chống Pháp, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng - nở ra từ một tâm hồn phóng khoáng, hồn hậu, hào hoa, một ngòi bút tình tế và lãng mạn - được coi là bông hoa đầu mùa vừa đẹp vừa lạ. Bài thơ không chỉ khắc hoạ thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở hay những gian khó trập trùng nơi núi cao vực sâu mà bên cạnh đó, ta cũng có cơ hội được cảm nhận bức tranh thiên nhiên gợi cảm, nên thơ cùng những giờ phút liên hoan tưng bừng, lãng mạn giữa những tháng năm khói lửa hào hùng. Và 8 câu thơ ở khổ thơ thứ hai là những vần thơ đã khắc hoạ rõ nhất vẻ đẹp lãng mạn ấy.

Nếu đoạn thơ đầu tiên của Tây Tiến mở ra trước mắt người đọc không gian hùng vĩ, hiển trở của núi rừng Tây Bắc thì với 8 câu thơ tiếp theo của khổ thơ thứ hai, bạn đọc sẽ được hoà mình vào không gian từng bừng của buổi liên hoan doanh trại và sự lãng mạn, nên thơ của chiều sương Châu Mộc
  • "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
  • Kìa em xiêm áo tự bao giờ"
Chữ "bừng" như một nét vẽ có thần, nó làm cho không gian như sáng bừng lên trong âm thanh, trong ánh lửa bập bùng và trong hơi ấm của tỉnh quân dân cá nước. Trong không gian ấy, người lính Tây Tiến phải ngạc nhiên đầy tình tứ, mà thốt lên hai tiếng "kìa em". Giây phút này đây họ nhưng rũ bỏ tất cả mọi gian truân, mệt mỏi được cùng hòa mình theo giai điệu của những bản nhạc nơi rừng núi, để sống trọn vẹn, trẻ trung, tận hưởng niềm vui với một tâm hồn lãng mạn
  • "Khèn lên man điệu nàng e ấp
  • Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Ban đầu là "em" tiếp đến là "nàng" rồi sau lại là "em". Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh. Là một người nghệ sĩ đa tài, không chỉ làm thơ mà Quang Dũng còn viết nhạc, vẽ tranh,... chính điều đó đã khiến cho ngòi bút của Quang Dũng trở nên tài hoa, sống động hơn bao giờ hết. Trong thi có nhạc, có hoạ, từng nét vẽ, từng âm thanh, từng ánh lửa bập bùng cùng tiếng nhạc dân tộc dập dìu vui tươi tưởng như hiện lên thật hữu hình trước mắt, vang lên thật hữu thanh bên tai, để chính lòng ta cũng phải rạo rực mà hoà theo không khí rộn ràng ấy. Bốn câu thơ không chỉ khắc hoạ chân thực và lãng mạn buổi liên hoan doanh trại nơi vùng cao mà còn làm hiện lên tâm hồn trẻ trung, hào hoa của những người lính Tây Tiến, họ anh dũng, họ phi thường nhưng cũng có những giờ phút, những cảm xúc hết sức đời thường. Không chỉ thế, đoạn thơ còn làm nổi bật tình quân dân cá nước ấm nồng, dõi theo, tiếp thêm sức mạnh cho những chiến sĩ trên chiến trường gian lao, khói lửa.
  • "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
  • Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
  • Có thấy dáng người trên độc mộc
  • Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Thì ra không chỉ có những "dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm", hay "ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống" mà thiên nhiên miền cao Tây Bắc cũng có những nét đẹp hoang sơ, thơ mộng như vậy. 4 câu thơ với những nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều như vẽ nên một bức tranh thiên nhiên quá đôi nên thơ, quyến rũ. Chiều sương gợi mở một không gian huyền bí, cái thực cái mộng của một cõi trời nước Tây Bắc bảng lảng sương nhuốm một màu cổ tích Đại từ phiếm chỉ "ấy" càng làm cho khoảng thời gian trở nên mơ hồ không xác thực, thế nhưng nó lại rất rõ ràng, rất gợi, rất đáng nhớ trong ký ức của nhà thơ. Hình ảnh "lau" hiện lên không phải là một bông, một nhành, một bờ, mà là "hồn lau", dường như chẳng có một hình dung cụ thể nào, mà ta chỉ có thể cảm nhận ở đâu đây một chuyển động nhẹ nhàng, gợi cảm. Giữa không gian ấy, hình ảnh con thuyền độc mộc hiện lên làm cho bức tranh thiên nhiên cũng mang một vẻ trầm tĩnh như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tế vi, mờ ảo như hư vô, hư thực mà lại thơ mộng đến lạ lùng. Một lần nữa hình ảnh hoa lại xuất hiện trong bài thơ. Tính từ "đong đưa" gơi nên một chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế của bông hoa, như đang làm dáng làm duyên giữa dòng nước lũ đang dữ dội cuộn trào. Thật là một vẻ đẹp nguyên sơ, thanh khiết và gợi cảm đến nao lòng.

Bằng ngòi bút tài hoa hữu nhạc, hữu hoạ, kết hợp với những bút pháp miêu tả độc đáo, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp thơ mộng của Tây Bắc và những dấu ấn vui tươi của một thời chiến đấu bên đồng đội. Cũng chính đoạn thơ đã thể hiện rõ nét nhất cảm hứng lãng mạn, tâm hồn hào hoa và chất lãng tử của nhà thơ "xứ Đoài mây trắng". 8 câu thơ đã góp một phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm nói riêng và văn thơ cách mạng nói chung, để Tây Tiến trở thành một bông hoa mãi tươi xanh trong dòng chảy của thời gian.

-M-

phan-tich-kho-2-tay-tien.jpg

Ở đoạn 2 bắt đầu với hình ảnh đốt lửa trại ở doanh trại được tác giả ví như hình ảnh 1 đuốc hoa



BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN KHỔ 2 BÀI THƠ “TÂY TIẾN” CỦA QUANG DŨNG
Quang Dũng là một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, là nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, là nghệ sĩ của những vần thơ giàu chất nhạc, chất họa. “Tây Tiến” là thi phẩm nổi tiếng nhất của ông, được bao nhiêu thế hệ bạn đọc yêu mến. Cảm xúc bao trùm bài thơ là nỗi nhớ trải theo những cung đường dãi dầu mà mĩ lệ nơi đoàn binh Tây Tiến đã đi qua và để lại bao kỉ niệm đẹp. Có những kỉ niệm thật dữ dội nhưng cũng có những kỉ niệm thật êm đềm. Kỉ niệm êm đềm ấy giúp ta cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp lãng mạn của những người lính Tây Tiến thuở nào:
  • “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
  • Kìa em xiêm áo tự bao giờ
  • Khèn lên man điệu nàng e ấp
  • Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
  • Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
  • Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
  • Có nhớ dáng người trên độc mộc
  • Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào cuối năm 1948- một năm sau khi Quang Dũng rời đoàn binh Tây Tiến. Nỗi nhớ thương những người đồng chí đồng đội cùng những tháng năm gắn bó với đoàn quân đã thôi thúc nhà thơ cầm bút ghi lại những cảm xúc chân thật, tự nhiên, mãnh liệt, dâng trào.

Tây Tiến là một cuộc trường chinh vô cùng gian khổ. Nhưng vượt lên mọi khó khăn, tâm hồn người lính Tây Tiến vẫn đầy chất lãng mạn và không phôi pha đi cái dáng vẻ của người nghệ sĩ hào hoa. Sau chặng đường dài hành quân gian khổ, những người lính mang trong mình tâm hồn nghệ sĩ ấy đã hòa nhập vào sinh hoạt bình dị mà đầy chất thơ cùng nhân dân trên những nẻo đường hành quân. Không có chất nghệ sĩ bẩm sinh của chàng trai đất Thăng Long nghìn năm văn hiến sẽ không có những giờ phút thăng hoa theo tiếng khèn, theo những vũ điệu của đêm hội đuốc hoa.
Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến trước hết thể hiện ở tâm hồn mộng mơ, đa tình khi đắm mình trong không khí của đêm liên hoan văn nghệ:
  • “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”

Chỉ một từ “bừng” trong câu thơ mà nói lên được cả một cảm xúc dào dạt, phấn chấn. Đâu chỉ là ánh sáng của ngọn lửa hồng lên, mà đó là sự bừng sáng trong tâm hồn, đó là niềm vui rạng rỡ. Cảnh được miêu tả lại là cảnh hồi tưởng từ quá khứ nên “bừng” còn là bừng thức cả một vùng kỉ niệm. Trong cái nhìn lãng mạn của người lính, đêm liên hoan văn nghệ trở thành “đêm hội đuốc hoa”. “Đuốc” trước hết là những bó lửa đuốc được thắp lên trong đêm liên hoan. “Đuốc hoa” là hình ảnh đẹp vừa tươi sáng, rực rỡ, ấm áp, vừa lung linh ảo huyền thơ mộng, đó là cái tình, cái ý của những chàng trai trẻ tuổi trẻ lòng. “Đuốc hoa” từ hán còn là hoa chúc, xa xôi gợi về lễ hợp cẩn lứa đôi. Vậy là tình quân dân cá nước cũng say đắm, rạo rực như tình lứa đôi buổi đầu gặp mặt. Quả là một sự liên tưởng táo bạo, thú vị và đầy bất ngờ. Đêm hội vừa đông đúc, vừa đông vui, vừa có vẻ tưng bừng náo nhiệt của những đêm hội trai gái mở hội lòng.
Đang say sưa trong đêm hội liên hoan, người lính phải thốt lên:
  • “ Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
“Xiêm áo” là từ Hán Việt đủ để Quang Dũng diễn tả sự rực rỡ, lộng lẫy của người con gái vùng sơn cước vừa như từ trang truyện cổ bước ra, vừa như từ trang đời bước lại. Từ “kìa” bật lên bộc lộ cả một niềm thích thú , một sự say mê ngỡ ngàng, một cái nhìn đam mê ngưỡng vọng trước vẻ đẹp đầy quyến rũ. Sự hóm hỉnh trẻ trung của người lính đã được thể hiện một cách đầy tinh tế như thế. Cảnh quá khứ mà sống động như thực tại chứng tỏ những kí ức về Tây Tiến trong lòng tác giả nguyên vẹn không một chút phai nhạt.
  • “Khèn lên man điệu nàng e ấp
  • Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Viết về nhạc nên câu thơ của Quang Dũng cũng đầy chất nhạc. Một thứ nhạc êm ái dìu dặt khiến hồn ta lâng lâng bay bổng. Thứ nhạc ấy được tạo nên nhờ sự hòa phối thanh điệu tài tình với thanh bằng là chủ yếu. Nhưng đó còn là một thứ nhạc đặc biệt khác ở ngoài lời, là nhạc tâm hồn của những anh lính trẻ mộng mơ. “Hồn thơ” đã biến người lính thành thi sĩ, còn “nàng thơ”- cảm hứng của những thi sĩ hào hoa đó là những sơn nữ vùng sơn cước duyên dáng yêu kiều trong tiếng khèn “man điệu” quyến rũ gọi mời.

Người chiến binh ra đi chiến đấu với một tâm hồn nghệ sĩ. Họ cầm súng chiến đầu là vì hoàn cảnh không thể khác được, còn về bản chất, họ thật sự là nghệ sĩ. Anh hùng mà nghệ sĩ , gian khổ mà vẫn hào hoa, đó là những nét cơ bản trong tính cách con người Việt Nam mà những chàng trai Hà Nội mang trong mình rất đậm. Phút chốc bao nhiêu gian khổ nhọc nhằn dọc đường hành quân được gột sạch để chỉ còn tràn ngập trong hồn người chiến binh Tây Tiến niềm bâng khuâng xao xuyến và những rung động đầy chất thơ.
Từ đêm lửa trại, Quang Dũng đột ngột chuyển cảnh về một miền sông nước Tây Bắc đầy chất thơ:
  • “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
  • Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
  • Có nhớ dáng người trên độc mộc
  • Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Chất nhạc, chất họa như được nhân lên trong những vần thơ sâu lắng gợi khung cảnh Châu Mộc chiều sương. Nơi đoàn quân Tây Tiến đi qua, có những khung cảnh cực kì dữ dội, vất vả, có những cảnh thật thơ mộng trữ tình. Có những buổi chiều oai linh thác gầm thét, có những lúc sương lấp đoàn quân mỏi nhưng cũng có những Châu Mộc chiều sương đẹp bảng lảng, mơ hồ. Nỗi nhớ Châu Mộc được gắn với không gian thời gian cụ thể. Thời gian là “chiều”- khoảng thời gian gợi nỗi nhớ, gợi khát khao sum họp. Độc đáo trong câu thơ là đại từ “ấy”, một từ vô danh về ngữ pháp nhưng hữu tình về ngữ nghĩa. Tố Hữu đã dùng từ “ấy” để ghi lại thời khắc đáng nhớ:
  • “ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”
Hay trong thơ Thế Lữ:
  • “Buổi ấy lòng ta nghe tiếng bạn
  • Ngàn năm chưa dễ đã ai quên”

Hai tiếng “chiều sương” kết hợp với đại từ phiếm định “ấy” vừa làm tăng thêm vẻ xa vắng bâng khuâng, vừa khiến buổi chiều sương Châu Mộc hiện ra rõ ràng, không lẫn vào muôn buổi chiều vô danh khác của loài người.
Trong nỗi nhớ về Châu Mộc, hình ảnh ngàn lau bỗng trở nên có hồn:
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
Câu thơ Quang Dũng gợi nhớ đến những vần thơ nổi tiếng trong bài “Lau biên giới” của nhà thơ Chế Lan Viên:
  • “Ai lên biên giới cho lòng ta theo với
  • Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
  • Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
  • Suốt một đời cùng với gió giao tranh”

Nếu “lau” trong thơ Chế Lan Viên chủ yếu thiên về ấn tượng thị giác thì trong thơ Quang Dũng lại nghiêng về những cảm nhận từ tâm hồn. Miêu tả hoa lau, Quang Dũng viết “hồn lau” chứ không phải bờ lau hay triền lau. Bởi nếu như vậy thì chỉ tả hình sắc, còn “hồn lau” hiện lên cả tâm hồn, linh hồn của Tây Bắc đại ngàn. Lau không còn vô tri vô cảm nữa, nó làm thành hồn riêng của chiều sương Châu Mộc.

Tâm tình của con người không chỉ gửi vào hồn lau nẻo bến bờ mà còn trong những hình ảnh duyên dáng đáng yêu của con người:
  • “Có nhớ dáng người trên độc mộc”
Trên cái nền huyền ảo của sương và lau trắng, nổi bật lên dáng người lom khom trên con thuyền độc mộc. Đó là cái dáng của những cô lái đò người Mèo, người Thái, cái dáng mềm mại duyên dáng thật hợp với con thuyền độc mộc, hợp với bức tranh có sự hài hòa từ màu sắc đến đường nét. Một lần nữa, Quang Dũng lại bật lên câu hỏi “có nhớ” làm câu thơ càng thêm da diết, bâng khuâng.
Khép lại nỗi nhớ về buổi chiều sương Châu Mộc là một hình ảnh vô cùng ấn tượng:
  • “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
“Hoa” ở đây trước hết là hiện thực, là hoa rừng vì Tây Bắc là xứ sở của các loài hoa: hoa đào, hoa mơ, “bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù núi khói Mèo đốt nương xuân”. Miêu tả hoa, tác giả chọn “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” vì “đung đưa” chỉ gợi lên chuyển động cơ học, có tính chất vật lý, còn “đong đưa” gợi bao nhiêu tình tứ, gọi mời. Đến cả bông hoa rừng trên dòng nước lũ cũng không vô tình bởi nó được nhìn bằng cặp mắt đa tình và mơ mộng của anh lính Tây Tiến. Nhưng bước vào thơ ca nói chung, thơ Quang Dũng nói riêng thì hoa muôn đời là ẩn dụ cho cái đẹp, cho người con gái. Bóng hoa là bóng người con gái trên thuyền soi xuống dòng nước, đong đưa tình tứ nhưng vẫn kín đáo, duyên dáng. Như vậy, cái tình tứ của cảnh suy cho cùng là do người ngắm cảnh.

Như vậy, qua những kỉ niệm êm đềm, ngọt ngào về đêm liên hoan văn nghệ và cảnh Châu Mộc chiều sương, ta càng cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến: mộng mơ, đa tình, giàu rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con người, trong hiện thực nhiều gian khó, khốc liệt, họ luôn mơ về những điều tốt đẹp, về ngày mai chiến thắng. Chất nhạc, chất họa, chất thơ đã hòa vào nhau, làm nên những vần thơ tuyệt đẹp. Đoạn thơ đã góp phần làm nên thành công của cả bài thơ, đưa “Tây Tiến” xứng đáng với vị trí là một trong những tác phẩm mở đầu xuất sắc của nền thơ cách mạng Việt Nam.

Gấp lại đoạn thơ đầy chất lãng mạn trữ tình, độc giả cảm nhận được những kỉ niệm thời chiến cũng có lúc không vương khói bụi chiến trường, không thấy bóng dáng của sự khốc liệt, của hiện thực nghiệt ngã. Nhà thơ đã giúp chúng ta hiểu rằng: chiến trường đâu chỉ có thiếu thốn, gian khổ với bao mất mát, hi sinh?
-Mai Ánh-
doan-2-tay-tien.jpg

Hy vọng 3 bài văn phân tích khổ 2 của bài thơ Tây Tiến các em sẽ hiểu rõ hơn các chi tiết của từng khổ thơ từng câu thơ mà tác giả gửi gắm vào đó \


BÀI VĂN MẪU SỐ 3 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN KHỔ 2, ĐOẠN 2 BÀI THƠ “ TÂY TIẾN” CỦA QUANG DŨNG
Thơ ca muôn đời nay luôn là tiếng lòng của người nghệ sĩ, là cây đàn muôn điệu đa bậc nhiều cung cảm xúc khác nhau. Thơ ca cũng là cầu nối giữa trái tim đến với trái tim, đi tìm chân trời của một người đến chân trời của triệu người. Bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng cũng đã thực sự trở thành tiếng nói tri âm của độc giả. Đọc đoạn 2 của bài thơ ta ấn tượng sâu sắc về những kỉ niệm và nỗi nhớ qua đó tác giả thể hiện sinh động vẻ đẹp lãng mạn hào hoa của chiến sĩ Tây Tiến.

Bốn câu thơ đầu miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của chiến sĩ Tây Tiến về một đêm lửa trại:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về viên chăn xây hồn thơ”

Câu thơ đầu tựa như một tiếng reo vui. Đây là lần thứ hai, “ lửa” và “ đuốc” được lien tưởng tới hoa trong đêm sương ở Mường Lát, chiến sĩ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh, huyền ảo mà thấy như “ hoa về trong đêm hơi” thì lần này trong đêm lửa trại giữa bản làng miền Tây . Nghệ thuật ẩn dụ và cảm hứng lãng mạn đã khiến ánh lửa bập bùng nơi bóng quân trơ thành đuốc hoa rực rỡ gợi lien tưởng thi vị, tình tứ, đem đến niềm vui náo nức, rạo rực cho lòng người, niềm vui khiến đêm lien hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội tưng bừng. Cụm từ “ bừng lên” như một nốt nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, nó không chỉ đem đến ấn tượng về ánh sáng chói loà, đột ngột của lửa, của đuốc, xua đi cái tối tăm, lạnh lẽo của núi rừng mà còn thể hiện niềm vui sướng rạo rực trong lòng người. Người đọc có thể hình dung những ánh mắt ngỡ ngàng, những gương mặt bừng sáng của những anh chiến sĩ là do phản chiếu của ánh lửa, ấm lòng chiến sĩ, ngọn lửa của niềm vui, trẻ trung, lạc quan, tin tưởng vào tương lai.

Hình ảnh trung tâm của hội đuốc hoa là các cô thiếu nữ miền sơn cước “ Kìa em xiêm áo tự bao giờ”. Từ “ kìa” và từ nghi vấn “ tự bao giờ” bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, vừa ngưỡng mộ trìu mến của các chiến sĩ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác rất chân thực trong một dịp hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, với mưa rừng và thú dữ,… “ Man điệu” có thể hiểu là những vũ điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể hiểu là giai điệu say đắm, ngọt ngào vừa hoang sơ, vừa bí ấn, vừa mới mẻ lạ lung làm mê hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa, nghệ sĩ đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp, người lính Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm thanh ngọt ngào của đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu, bay bổng trong thế giới mộng mơ, để xây “ hồn thơ”.

Trong dòng chảy miên viễn của thời gian, những hoài niệm bỗng lắng lại thật sâu ở một buổi chiều sương mộc:
  • “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
  • Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
  • Có nhớ dáng người trên độc mộc
  • Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Những nét vẽ mềm mại, tinh tế đã tạo nên một bức tranh thuỷ mặc với hồn lau bến nách, hơi sương giăng mờ mờ ảo ảo cùng con người trên chiếc thuyền độc mộc và cánh hoa trôi trong dòng nước lũ. “ Chiều sương” gói trọn không gian phủ một lớp u buồn phảng phất lên cảnh vật. Chữ “ ấy” bắt vần với chữ “ thấy” làm cho âm điệu câu thơ trĩu nặng xuống như một nốt nhấn, như một sự nhắc nhở trong hoài niệm những bâng khuâng. Chịu sự tác động của nỗi nhớ, những bông hoa lau chập chờn, lay động trên những bến bờ dường như cũng có hồn hơn. Nếu từ láy “ đung đưa” gợi hình hơn biểu cảm và chủ yếu gợi tả những cánh hoa rập rờn đôi bờ sông thì hình ảnh “ hoa đong đưa” không dừng lại ở nét nghĩa cụ thể ấy mà còn đưa đến những liên tưởng thi vị về dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của sơn nữ miền Tây, đó là một sáng tạo mới mẻ về ngôn từ thể hiện chất lãng mạn rất đặc sắc của hồn thơ “ Quang Dũng.

Bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến đã được Quang Dũng thổi hồn vào cái nồng nàn của cảm xúc, những đường nét ấn tượng về hội hoạ và thanh âm trong trẻo của nhạc tính. Bức tranh ấy chính là nền tuyệt đẹp để người lính Tây Tiến xuất hiện một cách hiên ngang và hùng dũng. Cũng trên cái nền ấy tâm hồn và tài năng của nhà thơ đã được chắp cánh bởi sự say mê trong cảm xúc và tài hoa của nghệ thuật.

Gấp trang sách lại mà những vần thơ của Quang Dũng vẫn văng vẳng để rồi những cảm xúc chân thật nhất của nhà thơ gửi gắm mãi neo động trong tâm hồn con người trở thành một nỗi niềm chung.

-Hiên Bùi-



BÀI VIẾT SỐ 4 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN KHỔ 2 BÀI THƠ “ TÂY TIẾN”
Voltaire từng nói: “ Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”, thơ ca phản ánh chân thực tâm tư tình cảm người nghệ sĩ. Bởi vậy, ta có dịp bắt gặp tiếng lòng nhà thơ Quang Dũng gửi nỗi nhớ niềm thương gửi tới Tây Tiến trong bài thơ cùng tên. Khổ thơ bốn kết tinh nỗi niềm và tài năng của nhà thơ:

  • “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
  • Kìa em xiêm áo tự bao giờ
  • Khèn lên man điệu nàng e ấp
  • Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp cam go, thơ văn trở thành vũ khí tinh thần, động viên ý chí chiến đấu, lòng yêu nước của nhân dân ta. Giữa những năm tháng ác liệt đó, năm 1948, khi nhà thơ Quang Dũng được lệnh chuyển đơn vị căn cứ đến đơn vị khác. Hình ảnh làng Phù Lưu Chanh- nơi đã gắn bó với cuộc đời người lính trở thành nỗi ám ảnh trong hồn thơ tác giả. Nỗi nhớ về một thời đã sống với đoàn quân Tây Tiến chắp cảm hứng bay bổng cho lời thơ tuôn trào.

Nỗi nhớ chảy tràn trong từng câu thơ, nhà thơ bâng khuâng buổi sinh hoạt ở doanh trại lính giữa rừng núi Tây Bắc. Hình ảnh đêm liên hoan mở ra ngập tràn với ánh sáng hoa lửa:


  • “ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”


Cụm từ “ đuốc hoa” không chỉ là hình ảnh thực về ánh lửa đuốc mà còn gợi cái nhìn lãng mạn của chàng trai trẻ tuổi, trẻ lòng, cảm nhận ánh lửa tươi sáng, rạng ngời, lung linh. Vầng sáng gọi về không gian ấm áp, ảo huyền xua tan cái lạnh lẽo, âm u của nơi rừng thiêng nước độc. Hình ảnh độc đáo cũng xa xôi gợi liên tưởng về lễ hợp cẩn lứa đôi êm đềm. Chi tiết gợi tình quân dân cá nước nồng nàn, say đắm. Không khí nơi doanh trại đông vui tựa đêm hội hoa đăng để những chàng trai, thiếu nữ sơn thôn mở hội lòng. Kết hợp với động từ “ bừng” đậm tô ánh đuốc bùng sáng không gian, mang lại niềm vui tươi mới, gọi dậy một miền kỉ niệm trong sâu thẳm tâm trí nhân vật trữ tình.

Giữa đêm hội tưng bừng, náo nhiệt, hình ảnh mộng mơ của bóng dáng những cô em làm xao xuyến trái tim những chàng lính trẻ:

  • “ Kìa em xiêm áo tự bao giờ
  • Khèn lên man điệu nàng e ấp
  • Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”



Từ hán việt “ xiêm áo” khắc họa nét lộng lẫy, rực rỡ của y phục những cô gái vùng cao, dưới ánh lửa càng trở nên kín đáo, tình tứ, dễ mến. Câu từ gần gũi như bước từ trang đời vào trang thơ, làm sống động một trời kí ức. Người lính Tây Tiến xuất thân là những chàng trai mới dời ghế nhà trường, đến từ Hà thành ngàn năm văn hiến. Nay các anh đặt chân đến nơi rừng lạ núi xa, chứa đầy bí ẩn, làm sao tránh khỏi giây phút ngỡ ngàng trước sắc đẹp bình dị của những sơn thôn nơi đây. “ Kìa em” là lời thốt lên tự nhiên, phản ánh cái nhìn mê đắm, hóm hỉnh, trẻ trung, đậm chất lính.

Giọng điệu nhẹ nhàng, sôi nổi, gợi hình ảnh người lính đắm say trong khung cảnh đậm chất trữ tình, ngân vang tiếng khèn bay bổng và trước điệu nhảy quyến rũ, gọi mời trong đêm hoa đăng lộng lẫy. Đọc thơ Quang Dũng quả thực như ngậm nhạc, câu thơ mang nhạc điệu hài hòa, lôi cuốn bạn đọc cùng đắm say. Những nét phong tục, văn hóa vùng núi mới mẻ, cuốn hút trong cái nhìn của những anh lính. Hữu cảnh sinh tình, không gian là chất xúc tác biến người chiến sĩ thành người thi sĩ. Nàng thơ của các anh là cái đẹp duyên dáng của sơn nữ miền sơn cước, yêu kiều. Dừng chân trên chặng đường hành quân gập ghềnh, cheo veo, những đêm hội đông vui thể hiện tinh thần lạc quan, nét hòa hoa, yêu đời của họ.


Khổ thơ bốn giúp ta có cái nhìn trọn vẹn hơn về tâm hồn người lính Tây Tiến. Họ không chỉ mang hào hùng, bất khuất trước gian khó, nhà thơ khám phá những nét tâm tư rất đời của các anh. Nơi đó, hiện lên trái tim rung động, xao xuyến trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cô em sơn thôn. “ Tây Tiến” trở về vẹn nguyên, sinh động bởi hình ảnh đó luôn thường trực trong tâm trí nhà thơ Quang Dũng. Nét bút đa tài của tác giả cùng nỗi nhớ chân thành còn lưu lại dư âm trong lòng bạn đọc.


-Thu Hường-
 
  • Chủ đề
    khổ 3 quang dung tây tiến đoạn 3
  • Top