Phân tích tác phẩm Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam

Truyện Ngắn hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam, Phân tích tác phẩm Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam

hai-dua-tre-thach-lam.jpg

Hai Dua Tre - Thach Lam

Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.

Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát...” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.

Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.

Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này...”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên... tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dầy đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.
Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại.

Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người khốn khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu.

“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ.

Sưu tầm
 
  • Chủ đề
    2 dua tre hai dua tre hai đứa trẻ phan tich thach lam truyện ngắn
  • Lê Minh

    ✩✩✩✩
    Ðề: Phân tích tác phẩm Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam

    Anh ( Chị) hãy phân tích tác phẩm hai đứa trẻ của Thạch Lam.

    BÀI LÀM

    Mang một cuộc sống cơ cực, nghèo khổ, sống trong một khu phố tồi tàn và không có một chút ánh sáng ngoại trừ những thứ ánh sáng nhấp nhoáng nhỏ xíu cùng với một kiếp người sống tàn tạ và tồi tệ. Những con người này là những kiếp người không có lối thoát,họ mng muốn được sống với một kiếp người đầy đủ, tuy không giàu có nhưng cũng đủ để họ bớt cực khổ nhưng hy vọng đó chính là mong manh đối với họ. Những kiếp người tội nghiệp. Đây là nội dung cực kỳ ý nghĩa, gúp chúng ta cảm nhận được số phận của những người nghèo khổ thông qua tác phẩm “hai đứa trả” của tác giả Thạch Lam. Ông sinh năm…người quê…, đã có công lao to lớn khi đã đóng gpóp nhiều tác phẩm có giá trị trong nên văn học của nước nhà vào thế kỷ 20. Nằm trong nhóm Tự Lự Văn Đoàn vùng với những người bạn và tác phẩm như Số Đỏ- Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo – Nam Cao. Những tác phẩm của ông vô cùng phong phú và sâu sắc, không kém những tình tiết lãng mạn.
    Buổi chiều – là khoảng thời gian gồm có những yếu tố tác động đến con người, làm cho những con người như chúng ta cảm thấy có một cảm giác buồn chán và vô cùng cô đơn hiu hãnh. Hơn thế nữa, trong tác phẩm “hai đứa trẻ”thì tác giả Thạch Lam đã miêu tả một buổi chiều của nơi phố huyện, một buổi chiều của một ngày tàn, tiếp đến là phiên chợ tàn và những kiếp người tàn tạ không có lối thoát, họ luôn có những ước mơ và khát vọng cháy bỏng.
    Cảnh mở đầu của tác phẩm chính là một buổi chiều tàn,bầu trời gồm những áng mây hồng như hòn than sắp tàn, bầu trời được nhuộm một màu sắc đỏ đỏ mang một cảm giác ưu buồn và cô đơn. Không những thế, nó còn có những thứ tiếng âm thanh ếch nhái kêu ran, tiếng trống thu không. Nói tóm lại, thông qua sự miêu tả của một ngày tàn của Thạch Lam, thì phần nào cũng giúp người đọc nhận ra một điều rằng đây là một buổi chiều buồn bã và chán nãn, càng làm them cho người đọc một cảm giác buồn man mác giống như câu:
    “ Người buồn chứ cảnh có vui bao giờ”
    Xong, buổi chiều tàn kết thúc thế là đắt đầu về đêm, xuất hiện những phiên chợ tàn. Sỡ dỉ nói đến đêm chợ tàn thì tới đây ,càng làm cho người đọc hiểu rõ hơn về hương vị nghèo khó và dau khỏ của những kiếp người tàn tạ nơi phố Huyện. Phiên chợ tàn nơi phố huyện, có thể đây là nguyên nhân và minh chứng nói lên sự đau khổ và nghèo khó của những con người nơi đây. Họ sống song bong tối cùng sự buồn chán, đau khổ và tuyệt vộng. Đối với họ, đây giống như là một địa ngục của sự tỉnh lặng và hơn hết, họ sống điều không có ngày mai.
    Sau khi đêm chợ tàn kết thúc, người người điều đi về, tiếng ồn ào không còn nữa,thề là bắt đầu một không khí im lặng trong đêm khuya tăm tối. không những thế, những miếng rác của người bán hang, của những khách đi chợ điều ngoan ngoãn nằm trên mặt đất gồm những vỏ cam, võ bưởi, vỏ quất… Xong, thế là đêm khuya bắt đầu, xuất hiện hình bong của những đứa trẻ nghèo khó nơi phố huyện này. Chúng đi từng bước, từng bước nhẹ nhàng rồi nhặt nhạnh những thanh tre, thanh nứa bỏ vào bao tải. Tại sao chúng không làm chuyện gì khác mà lại nhặt những thứ đã bỏ đi rồi? đối với chúng, những thức rác nằm trên đường điều có thể là những thứ còn dùng được, chúng thật tội nghiệp và bất hạnh. Thông thường, ta điều thấy xung quanh chúng ta, thậm chí là bản thân chúng ta thì đa số ai nấy điều có một gia đình khá giả, đầy đủ, giàu có và được ăn những thức quà, được sử dụng những vật chất đầy đủ, nhưng một khi đã ăn xong rồi hay còn thừa thải, nói chung là những thứ còn dùng được thì ta lại vứt nó đi. Những đứa trẻ này lại nhặt thứ được xemà rác đem về nhà, sỡ dĩ chúng làm như thế là bởi vì chúng quá nghèo khổ.
    Ta thấy, cuộc sống của những người nơi phố Huyện thì họ điều là những kiếp người sống trong sự nghèo khổ, cô đơn hiu quạnh, và sống trong bong tối không có lối thoát. Những nhân vật quen thuộc nằm trong truyện như mẹ con chị Tí, gia đình bác Siêu, vợ chồng bác Xẩm, chị em Liên và An và cụ Thi điên.
    Trước tiên, ta nói đến hoàn cảnh sống của mẹ con chị Tí. Mẹ con chị sống như một con thoi và hoàn toàn trong bong tối và không có lối thoát. Hằng ngày, mẹ con chị mưu sinh bằng việc kiếm sống nhờ bán hang, những hình ảnh trong truyện nhằm cho ta hấy được là “ Trời nhá nhem tối, thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế từ trong ngõ đi ra. Chị tí, mẹ nó, theo sau, đội cái chõng trên đầu và tay xách rất nhiều đồ đạc”. thông qua hình ảnh miêu tả công việc mưu sinh của mẹ con chị Tí, thì phần nào thể hiện rõ mẹ con chị rất vất vả từng ngày, từng tháng. Không những thế, mẹ con chị xem công việc này như là cái cớ để mong thời gian trôi qua mau hơn, muốn có một cuộc sống ổn định, một công việc ổn định để làm, nhưng cho dù đây chỉ là một điều ước không thể nào thực hiện được.
    Đến gia đình bác Siêu,thì ta thấy, bác cũng mưu sinh bằng nghề bán phở. Đói với chúng ta ngày nay, món phở không còn xa lạ cũng như không ít ai cũng đã từng thưởng thức món phở ngon lành và tuyệt vời chỉ từ giá thành bình dân. Nhưng đối với cái phố Huyện tồi tàn này, món phở là một thức quà xa xỉ đối với họ. Công việc mưu sinh của Bác Siêu là bán phở, và cũng giống như chị Tí, nhờ công việc này để có thể mong thời gian thôi qua mau hơn, muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, dù đó là hy vọng mong manh và huyền ảo.
    Đến với gia đình của bác Xẩm, thì cũng như mọi người thôi, công việc làm ăn sinh sống của bác là không gì khác đó chính là hát. Bác muốn hát đê mong thời gian trôi qua mau hơn và cũng mong muốn có một công việc nào đó để có thể cải thiện được hoàn cảnh sống, thì nó xa vời lắm. Chúng ta cũng không thể nhắc đến với bà cụ Thi Điên suốt ngày đắm chìm trong cái thứ men ấy chính là rượu. Bản thân của cụ thì bị điên và mất ý thức tự chu của bản thân. Một khi đắm chìm trong thứ men ấy thì cụ đã tồn tại nhưng tồn tại ở dạng thân thể chứ không tồn tại ở dạng có linh hồn, giống như một khói thịt khổng lồ vô tri vô giác.
    Những người nơi phố Huyện, họ sống, sinh ra và lớn lên ở nơi đây. Đối với họ thì không khí im lặng, sự cô đơn và buồn chán. Nhưng đối với chị em Liên và An thì nơi đây cũng chưa quen thuộc lắm bởi lẽ hai đứa trẻ này không phải là người dân nơi đây. Hai đứa trước kia là người Hà Nội chốn phồn vinh, kể từ khi cha của hai đứa thất nghiệp và chuyễn về phố Huyện, thì chị em Liên và An phải nhận thức và làm quen nơi đây.
    Hằng ngày chị em Liên và An, không những ai đứa trẻ này mà hầu hết tất cà những kiếp người nơi phố huyện điều trông chờ một thứ rất quan trọng vào môi buổi tối. Không gì khác, đó chính là thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu hạy ngang từ Hà Nội.
    Thứ ánh sáng ấy cũng một phần soi đến phố Huyện và giúp cho khu phố trở nên có ánh sáng thêm một chút, không những thế còn có những thứ âm thanh cười nói của những người hành khách trên tàu làm cho không khí im lặng của khi phố bị ảnh hưởng một tí. Những âm thanh trên đoàn tàu giúp cho chị em Liên và An gợi nhớ đến những tháng ngày ở Hà Nội. sống một cuộc sống tươi đẹp ở chốn thành thị, ngươi đi qua lại tấp nập và được uống với những cốc nước xanh đỏ.
    Ngoài ra, thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu ấy đã giúp cho những kiếp người nơi phố Huyện một phần nào đó thức tỉnh, họ dám mơ ước đến những cuộc sống ấm no và hạnh phúc, mong muốn một điều gì đó thật tốt đẹp và ý nghia, muốn những gì mà họ khát khao và cháy bỏng bấy lai nay điều thành sự thật, chứ không phải là một thứ phù du mà chờ đợi mỏi mòn.
    Hai đứa trẻ, một tác phẩm lãng mạn, xúc động và đầy ý nghĩa. Chuyện kể về một buổi chiều tàn, những phiên chợ tàn và những kiếp người tàn tạ. Những kiếp người nơi phố Huyện, họ luôn là những con người mang một cuộc sống đáng thương nhưng đầy sự khát khao và cháy bỏng nhưng thật sự, những điều mà khát khao cháy bỏng đo thực ra chỉ là sự mong manh và huyền ảo. cuộc đồi của họ phải gánh vác cùng với số mệnh, là những kiếp người nghèo khổ, không có lối thoát.

    Bên cạnh đó, chuyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam còn thể hiện sự khát khao to lớn của một đời người,một số phận nghèo khổ muốn vươn tới một cuộc sống tốt đẹp tuy còn khó khăn và lắm chật vật. Và qua đó,tác phẩm còn cho thấy tài năng miêu tả của Thạch Lam đạt đến đỉnh cao về sự miêu tả tâm lí của nhân vật cũng như giúp người đọc nhận ra thứ tình cảm mà Thạch Lam đã dành cho những kiếp người ấy.
     

    Lê Minh

    ✩✩✩✩
    Ðề: Phân tích tác phẩm Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam

    ách văn 11 , năm 1996 nhận định về truyện ngắn của Thạch Lam:" Mỗi truyện ngắn là một bài thơ trữ tình đầy xót thương ( trang 148 ).
    Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ để làm sáng tỏ nhận định trên.


    Đề bài yêu cầu phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam để chứng minh rằng hai đứa trẻ là một bài thơ trữ tình đầy xót thương.

    Trước khi chứng minh tác phẩm, cần nói qua về khuynh hướng, cảm hứng và giọng điệu truyện ngắn Thạch Lam làm tiền đề dọn đường cho việc phân tích truyện ngắn này.

    Cần phân tích Hai đứa trẻ để làm nổi bật các ý sau đây :

    - Chất thơ của truyện ( bài thơ trữ tình) : những cảm xúc dịu nhẹ mà lắng sâu của Thạch Lam trước cảnh đời, tình người lúc bấy giờ nó gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc ( ở đây là những cảm xúc đối với người dân ở cái phố huyện nghèo nàn và tàn lụi - và đặc biệt đối với cuộc sống buồn chán và ước mơ của hai đứa trẻ).

    - Nhưng đó lại là mộ bài thơ trữ tình đầy xót thương, có nghĩa là chất thơ ấy được bay lên từ một cuộc sống còn lầm than cơ cực của những kiếp người bé nhỏ vô danh trong xã hội cũ (họ sống lầm lũi , vật vờ như những cái bóng trong bóng tối dầy đặc bao phủ kín mít của phố huyện nghèo mà buồn chán).

    - Cái chất thơ ấy còn được thể hiện ở nghệ thuật, ở giọng điệu văn Thạch Lam.

    BÀI LÀM:


    Trên văn đàn văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí số một nhưng cũng là một tên tuổI rất đáng coi trọng và khẳng định, Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn, bởI ở đó tài năng nghệ thuật được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân viết : “Nói đến Thạch Lam ngườI ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài”. Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở nghệ thuật mà nó còn giúp ta thanh lọc tâm hồn : “ MỗI truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” . Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam cũng là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương” như thế . Thạch Lam tuy có chân trong Tự lực Văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ lạI theo một hướng riêng. Ông xây dựng cho mình một thế giớI nhân vật khác. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút của mình về phía những ngườI nghèo khổ vớI tấm lòng trắc ẩn chân thành? ( Phong Lê ). Thế giớI nhân vật là những lớp ngườI nghèo khổ cơ cực bế tắc nói chung, những nhân vật của Thạch Lam thật nhỏ bé và tộI nghiệp: Họ thường nép mình trong bóng tốI của một không gian hẹp thường là nơi phố huyện tiêu điều, xơ xác hoặc những xóm nghèo ngoạI ô Hà NộI. Nhân vật của ông chủ yếu là con ngườI thân phận, họ thường tìm kiếm nơi ẩn nấu trong gia đình, giữa bốn bức tường hoặc trong sân vườn, có nghĩa là tách khỏI cuộc đờI, nơi xã hộI đầy bất trắc bên ngoài. Có lẽ như thế con ngườI mớI cảm nhận hết về mình và về cuộc sống xung quanh. Dường như họ thu mình trước thực tạI để xót mình và thương ngườI, để bâng khuâng man mác khi hồI tưởng về quá khứ? Không dám nhìn về tương lai, mang nặng một mặc cảm mờ mịt trong lòng khi nghĩ về mai sau.

    Cảm quan trong truyện của Thạch Lam có thể gói gọn trong ba chữ đó là niềm xót thương. Những con ngườI nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn học trong một không khí trữ tình đầy mến thươngtoả ra một cách dịu dàng từ tấm lòng tác giả ..

    Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện đặc biệt, giọng điệu và ngôn ngữ nhiều chất trữ tình: MỗI truyện ngắn của Thạch Lam có cấu từ và giọng điệu như một bài thơ trữ tình, gợI sự thương xót trước số phận của những con ngườI nhỏ bé bất hạnh. Một giọng văn bình dị mà tinh tế. Âm điệu man mác bao trùm hầu hết truyện ngắn và thiên nhiên cũng trữ tình. Văn cứ mềm mạI, uyển chuyển, giàu hình ảnh, nhạc điệu . Đó chính là chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, “có cái dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây” khiến ta vương phải.

    “ Hai đứa trẻ” là đặc trưng của hồn văn Thạch Lam. Nó là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương”
    Truyện “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là một mẩu chuyện sinh hoạt kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một phố huyện gần một cái ga xép. Đêm đêm những bóng ngườI bình thường cũng lù mù đi qua trước gian hàng. Những bóng ngườI ấy cũng lù mù như nhiều chấp lửa ở những nguồn sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có tiếng động mạnh và những luồng sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em ngày nào cũng chờ một chuyến tàu đêm kéo qua ra mớI chịu đóng cửa hàng. Nguyễn Tuân đã tóm tắt truyện như thế. Đúng vậy, truyện này tưởng như không có cốt truyện, không có biến cố. Nó chỉ là biến diễn của một thờI gian ngắn, từ khoảng năm giờ chiều khi “phương tây đỏ rực như lửa cháy” đến chín giờ tốI “đêm tốI bao bọc chung quang”; nó chỉ là biến diễn bên trong “tâm hồn ngay thơ của hai chị em Liên, An trong một buổI tốI của các thường ngày tưởng như “ tẻ nhạt”, “không có gì” … Song vượt lên trên các thường ngày, Thạch Lam bằng con đường nghệ thuật riêng vớI thế giới nghệ thuật riêng, một thờI gian riêng, không gian riêng, nhân vật riêng, ngôn ngữ riêng đã tạo nên khí vị nhẹ nhàng, buồn man mác, đậm đà hương vị đồng quê; nhiều bóng tốI mà chói sáng mốI tình thương yêu hiền hoà, nhân hậu, xót thương chân thành, phảng phất thơ toả lên từ quê hương. Truyện không có cốt truyện như chất chứa biết bao cảnh đờI, bao tâm trạng, tâm cảnh sâu lắng tinh tế.
    Diện mao phố huyện được Thạch Lam tái hiện là một khung cảnh buồn, là cảnh chiều tàn đi dần vào đêm khuya. Hàng ngà, những cái ồn ào của buổI sáng làm không khí bị nhoè đi trong nắng như đến chiều thì cái bộ mặt thật của phố huyện hiện ra vớI tất cả những cái tiêu điều, xác xơ, tàn lụi. “Chiều chiều rồI” như là một lờI thảng thốt, bàng hoàng như một tiếng thơ dài. Thế là một buổI chiều nữa lạI đến, chiều là buồn. Ấn tượng về buổI chiều khá sâu đậm. Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả bộ mặt của phố huyện. Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, biểu hiện thuần phong mĩ tục của làng quê. NgườI ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui tấp nập. Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ tiêu điều của phố huyện. Mặc dù không tả buổi chợ phiên nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lạI của buổI chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của phố huyện. Tả những con ngườI cuốI cùng trao đổI vớI nhaurồI bước vào các ngỏ tối. Rác chỉ là những thứ phế thảI vớ vẫn “rác rưởI, vỏ bưởI, vỏ thị, lá nhãn và bã mía, những thanh nứa thanh tre…Lũ trẻ vẫn còn ra bòn mót, nhặt nhạnh. Ngày chợ phiên như thế thì sức sống đã kém lắm, đã yếu lắm rồi. NgườI bán trông vào ngườI mua và ngược lạI nhưng chỉ là sự vô vọng, lẩn quẩn, trông chờ vào sự vô vọng. Mùi vị toả ra trong không gian này là một thứ mùi đặc trưng để nói tớI sự nghèo nàn. Đó là mùi bã mía, vỏ bưởI, vỏ thị, đất ẩm, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu nồng nồng ngai ngái… Cái mùi vị ấy cũng góp phần làm cho khung cảnh thêm phần tàn tạn héo úa, lụI dần.

    Có thể thấy xung đột giữa bóng tốI và ánh sáng khá mạnh mẽ. Ánh sáng và bóng tốI đang giao tranh nhau. Ánh sáng yếu dần ban đầu là “ bầu trờI đỏ rực như lửa cháy, mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” sau đó là bóng tốI hiện dần ở bóng xẩm trên ngọn tre và cuốI cùng bao trùm lên khu phố huyện là cái bóng tốI mênh mông của nó, tín hiệu là ngọn đèn Hoa Kỳ của chị Tí. Ở đây ánh sáng và bóng tốI còn mang ý nghĩa tượng trưng, ánh sáng là ước mơ , bóng tốI là nghèo nàn và cô đơn; mở đầu chuyện ánh sáng tắt dần, bóng tốI chiếm lĩnh. Chính cái ánh sáng cuốI cùng ấy báo hiệu rõ màn đêm- màn đêm vừa sâu vừa dày sẽ diễn ra tiếp đó. Ánh sáng càng ngày càng thu nhỏ phạm vi hoặc ở xa manh mảnh, li ti như ánh sáng của ngôi sao trên bầu trờI hoặc yếu ớt ảm đạm lọt qua khe cửa khép hờ hoặc toả trên cái bóng tre của chị Tí. Ánh sáng ấy biểu hiện một sự tàn lụI ở cường độ thấp và khả năng thu hẹp của nó. Tiếng trống thu không rờI rạc, chậm, lẽ tẻ và cứ tắt lịm dần. Nhưng âm thanh nhỏ nhất như tiếng muỗI vo ve gợI cảm giác về sự ngưng đọng. Nó rơi tỏm vào trong không gian đang chết lặng. Đó là những âm thanh không có hồI âm, nó chỉ nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn ngườI của phố huyện lúc chiều tối. Tất cả hô ứng, qui tụ để cho ngườI đọc thấy rõ được khung cảnh thật của phố huyện một ngày tàn. Thạch Lam miêu tả nhận xét một cách tinh tế, sâu xa bước đi thờI gian của nơi phố nghèo. NgườI đọc dường như thấy được bước chuyển biến của thờI gian rung lên bằng ngôn ngữ riêng. Sức rung động của câu văn có khả năng đánh thức con ngườI hãy cảm nhận thật tinh tế khung cảnh phố huyện và tâm sự của Thạch Lam.
    Trên cái nền ấy, những cảnh đờI, những con ngườI, đúng hơn là những phiến cảnh về cuộc đờI, về con ngườI bé mọn, hoàn toàn không có ước vọng, khát khao được khắc hoạ rõ nét. Họ nói chuyện vớI nhau nhưng dường như chẳng có nộI dung. Họ có đi lạI, ăn nói vớI nhau nhưng chỉ thấy họ vừa lòng thoả mãnvớI cảnh chật hẹp. Mua chịu nửa bánh xà phòng, bán đong hơn một ngấn rượu trong chiếc cút bé nhỏ …Chị Tí là điển hình cho ngườI dân phố huyện vớI nhịp sống quẩn quanh : ban ngày mò cua bắt tép, ban tốI chị mớI mở cái hàng bán nước. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không được gì “sớm muộn mà có ăn thua gì?” mà vẫn cứ ra. Đây không phảI là sự sống thực sự mà là sự sống cầm chừng cầm cự vớI cuộc sống, giao tranh, tranh giành vớI cái đói,cái chết trông chờ vào những ngườI trên tàu là qua bấp bênh có khác gì trông chờ vào những ngườI khách ấy để sống. Cách chị Tí trả lờI câu hỏI của Liên: không trực tiếp trả lờI ngay mà còn làm thêm để chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồI mớI chép miệng trả lờI : “ỐI chao, sớm muộn mà có ăn thua gì”. Câu văn cho ta thấy nhịp sống chập chạp, lẩn quẩn của nhân vật. Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhưng nhưng nguy cơ lạI lớn hơn vì thứ mà bác bán là thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác Xẩm góp tiếng đàn run bần bật trong đêm tốI, mà không hề có tiếng động nào của một đồng xu. Bà cụ là một con ngườI bị tàn lụI, héo úa và cho ta cảm giác rợn ngườI, kinh hoàng. Bà là kiếp ngườI đáng sợ ở chi tiết vừa đi vào bóng tốI vừa cườI khanh khách. Cách xưng hô vớI Liên “chị” đã kéo xa khoảng cách tình giữa con ngườI vớI con gnườI vốn nó rất cần trong hoàn cảnh cầm chứng này. Cụ Thi điên là một nạn nhân đầy đủ nhất của kiếp ngườI, như một cái cây đã tàn lụI quá nhiều - kiếp ngườI héo hắt – tàn lụi. Cụ Thi xuất hiện chỉ trong mấy dòng truyện ít ỏI nhưng đã ám ảnh ngườI đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành.
    Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đờI buồn thảm, héo tàn, mờ mờ lay động bóng hai chị em nhỏ tuổI cũng âm thầm không kém vớI cái “cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu” mà khách hàng là những ngườI khốn khổ có khi không đủ tiền mua nổI nửa bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ “uống một hơi cạn sạch”. Liên xót xa cho những kiếp ngườI lay lắt nhưng cuộc sống của Liêncũng cầm chừng không kém. NỗI khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗI khổ vật chất của những ngườI khác, đó là bi kịch tinh thần bởI họ khổ mà không biết mình khổ còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc hết ngày này sang ngày khác. Biện pháp duy nhất để khuây khoả nỗI hắt hiu, đơn điệu chỉ là đêm nào cũng mỏI mắt cố gắng chờ đợI một chuyến tàu đi qua : “đó là hoạt động cuốI cùng của đêm khuya”.

    Ánh sáng của đoàn tàu là mảng ánh sáng rực rở, mạnh mẻ song ở ánh sáng này cũng chỉ vụt loé lên nhanh như một vì sao băng dể rồI vĩnh viễn tắt lịm trong màn đêm khiến ta phảI ngơ ngác, bàng hoàng. Dường như “Hai đứa trẻ” là truyện của những nguồn ánh sáng, hồi tưởng của Liên cũng là hồI tưởng về ánh sáng. Lần đầu tiên Liên “nhớ lạI” Hà NộI, một kí ức không rõ rệt, Hà NộI là một vừng sáng rực lấp lánh “và” Hà NộI nhiều đèn quá. Lần thứ hai, Liên mơ tưởng “Hà NộI xa xăm” , “Hà NộI sáng rực vui vẻ và huyên náo” . Cái cảnh tượngcủa quá khứ đẹp đẽ ấy tương phản gay gắt vớI cái tốI mịt mù dướI gốc bàng của hiện tạI đang diễn ra. Quá khứ và hiện tạI, ánh sáng và bóng tốI, lãng mạng và hiện thực, giấc mơ nghèo và sự thật nghèo khổ, tất cả tạo nên biến động sâu kín trong tâm hồn Liên. Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sángcủa mơ ước, nó chỉ thoáng qua, tắt lịm và để rồI tất cả lạI chìm trong bóng tốI mênh mông, buồn tẻ.
    Tất cả các nhân vật đó đã hiện ra dướI cái nhìn xót thương của ngườI tái hiện. Và nỗI thương cảm của Liên đốI vớI mấ đứa trẻ đi nhặt rác, vớI chị Tí, vớI bác Siêu, vớI cụ Thi điên cũng là cảm xúc của chính Thạch Lam. Thạch Lam đã hoá thân vào nhân vật để nói cái cảm quan xót thưong của mình. Đoàn tàu vớI thoáng sáng vụt qua rất nhanh rồI tắt lịm đã thay đổI một chút ít không khí của thế giớI hiện tạI, phảI chăng đó là khát vọng thoát khỏI cuộc sống tù đọng dù chỉ trong chốc lát của Thạch Lam. Nhà văn day dứt về một kiếp sống tàn lụI, héo úa, đơn điệu, hư vô chứ không chỉ có xót thương thông thường. Chính vì vậy mà ông trình bày hiện thực của phố huyện mang ý nghĩa khái quát lớn của xã hộI Việt Nam về sự trì trệ. Nếu đặt trong dòng thờI sự văn học buổI ấy, ta thấy Thạch Lam phản ánh khá rõ nét một hoàn cảnh, tâm lí thờI đạI mã Nam Cao đã phảI từng thốt lên : “Cuộc đờI đang cùn đi, gỉ đi, nổI váng lên”…

    “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn như một bài thơ trữ tình bởI cấu từ, giọng điệu, ngôn ngữ của nó, giống như một bài thơ.

    Cấu từ của truyện là cấu từ vòng tròn xoay quanh hình ảnh bóng tốI được lặp đi lặp lạI nhiều lần (không dướI ba mươi lần). Khi miêu tả cảnh trờI phố huyện cũng như cảnh đờI những con ngườI phố huyện, tác giả đặc biệt có ý sử dụng một cách công phu yếu tố nghệ thuật :hình ảnh bóng tốI bao trùm cảnh vật và con ngườI mà tác giả dụng công miêu tả từ nhiều thờI điểm, từ nhiều góc nhìn, từ nhiều tâm cảnh khác nhau. Bóng tốI như một ám ảnh, như một sự hăm doạ, như một quái vật đè nặng lên cảnh vật và con người. Tác giả nhắc đến bóng tốI nhiều lần dướI những cách nói hình ảnh từ ngữ tuy có khác nhau : “buổI chiều hòn than sắp tàn”, “mặt đen lạI”, “chiều, chiều rồI” , “bóng tốI ngập đầy” , “bước của buổI chiều” , “ngày tàn” . Tác giả miêu tả rất nhiều trạng thái khác nhau của bóng tốI đến vớI tiếng trống thu không tư trên chòi cao, bóng tốI sắp đến vớI những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, bóng tốI đến vớI dãy tre làng đen lạI, bóng tốI đến vớI cánh muỗI vo vo, bóng tốI đến vớI những viên đá nhỏ trên con đường mấp mô, bóng tốI trùm lên đường phố và các ngõ huyện… Nói tóm lạI, bóng tốI được lặp đi lặ lạI đầu và cuốI huyện. Bóng tốI như một cái gì hãi hùng đang hoạt động, đang thâm nhập, đanglen lỏI, luồn lách, bám sát vào mọI cảnh vật, mọI trạng thái hoạt động âm thâm của mọI sinh vật. Nó như cái nền không gian nghệ thuật của tác phẩmvà không gian xã hộI của con người. BởI tốI là lúc chị Tí xuất hiện “tốI đến chị mớI dọn cái hàng dướI gốc cây bàng”; về đêm bác phở Siêu mớI xuất hiện như một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tốI, mất đi rồI lạI hiện ra … bóng tốI là nơi cụ Thi mang đến và mang đi “một tiếng cườI khanh khách nhỏ dần” , một cụ Thi cuộc đờI không rõ ràng nhưng rõ ràng là đang chứa ẩn một nỗI lòng u uất cứ chìm trong bóng tốI; vợ chồng bác Xẩm thu gọn trên manh chiếu chật hẹp, vớI chị em Liên, tác giả kể tỉ mỉ hơn nhưng tâm trạng, những suy nghĩ của hai đứa trong đêm tốI: đêm tốI ngập đầy đôi mắt của Liên, Liên thích ngồI yên lặng ngắm nhìn trong đêm tốI, về khuya, Liên ngồI yên lặng trong đêm chờ đón đoàn tàu, khi tàu vụt qua, Liên nhập dần vào giấc ngủ yên tĩnh như đêm ở trong phố tịch mịch và đầy bóng tối…

    Lặp đi lặp lạI gián tiếp hay trực tiếp hình tượng bóng tốI cũng chính là cách để tác giác bộc lộ chủ đề tác phẩm qua cảm quan xót thương và tạo cho truyện có âm hưởng, cấu từ như một bài thơ trữ tình.

    Mặt khác, việc miêu tả những cảm giác thiên nhiên rất hiếm trong hiện thực phê phán nhưng trong “Hai đứa trẻ” , Thạch Lam luôn luôn miêu tả khi có cơ hội. Thiên nhiên bao bọc truyện vớI nhiều trạng thái phong phú. Tác giả còn chú ý khắc hoạ được cảm giác mơ hồ về giờ khắccủa ngày tàn và về vũ trụ thăm thẳm bao la rất gần ũi mang sắc thái dân tộc, cũng chính vì vậy mà nhân vật chính của câu chuyện là Liên cứ mang theo vẻ hồn man mác.

    Chất thơ còn được thể hiện ở ngữ điệu nhỏ nhẹ, man mác thú vị ở lờI văn, ở những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dể rung động. Truyện cứ trảI dài ra như một bài thơ, lắng sâu thanh lọc hồn ta. Chất nhạc thấm trong từng câu văn thấm thía. Một giọng văn bình dị mà tinh tế, đầy ưu ái. Có thể nói “ hai đứa tẻ” là một bài thơ trữ tình trọn vẹn của Thạch Lam.
    Khi nói “mỗI truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” thì ngườI nói muốn nhấn mạnh cả về nộI dung lẫn hình thức của truyện. NộI dung thể hiện hình thức và ngược lại. Nó là sự gắn bó hoài hoà để tạo nên tác phẩm. Văn phong của Thạch Lam được thể hiện đặc trưng trong “Hai đứa trẻ”, và tôi muốn kết thúc bài viết này bằng ý kiến của Nguyễn Tuân: “Ngày này đọc lạI Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học.”
     
    Top