“Tây Tiến” và “Đồng chí” là hai bài thơ cùng sáng tác năm 1948 với chủ đề người lính của nhà thơ Quang Dũng và Chính Hữu. Qua những hình ảnh thơ, câu thơ giàu nhịp điệu, cảm xúc, người đọc có cơ hội khám phá ra những điểm chung và nét riêng ấn tượng ở hình tượng người lính trong hai bài thơ. Dưới đây là các bài văn mẫu cho đề bài này các bạn có thể tham khảo.
Lịch sử Việt Nam là một chặng đường dài với nhiều dấu mốc vàng son, đi cùng với chặng đường lịch sử đó là dòng chảy văn học với những nhà văn đóng góp cho đất nước những tác phẩm nghệ thuật giàu ý nghĩa, cảm xúc như một cách tiếp thêm ý chí, động lực cho con người trên hành trình dài chiến đấu nhiều gian truân đồng thời thể hiện sự trân trọng, ngợi ca nét đẹp tâm hồn, sự quả cảm của những người lính, những chiến sĩ chiến đấu quên mình vì Tổ quốc. Tố Hữu đã từng gửi hộ tình cảm của nhân dân dành cho anh vệ quốc quân trong bài thơ “Cá nước”: “Giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ/ Anh vệ quốc quân ơi/ Sao mà yêu anh thế!”. Hay như nhà thơ Trần Hữu Thung đã khắc họa cảm động hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ qua nỗi nhớ niềm mong của người vợ trong bài thơ “Thăm lúa”: “Ruộng mình quên cày xáo/ Nên lúa chín không đều/ Nhớ lấy để mùa sau/ Nhà cố làm cho tốt”. Trong “Đường ra mặt trận”, Tố Hữu một lần nữa phác họa đậm nét chân dung người lính: “Những buổi vui sao cả nước lên đường/ Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục/ Xóm dưới làng trên, con trai con gái/ Xôi nắm cơm đùm rít rít theo nhau”. Năm 1948, Quang Dũng và Chính Hữu đều sáng tác thơ viết về người lính, đó là bài “Tây Tiến” và “Đồng chí”. Dưới đây là các bài văn mẫu phân tích so sánh hình tượng người lính trong hai bài thơ các bạn có thể tham khảo. Chúc các bạn thành công!
Hình ảnh người lính trong cả 2 bài thơ đều hiện lên rất đẹp giản dị chất phác nhưng đầy hào hùng
BÀI VIẾT SỐ 1 SO SÁNH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH TRONG HAI BÀI THƠ “TÂY TIẾN” VÀ “ĐỒNG CHÍ”
Đọc bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tây Tiến” của Quang Dũng, ta đều bắt gặp hình ảnh những người lính thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà hào hùng. Một cách giản dị và thân thương, hình ảnh người lính với những điểm chung và nét riêng độc đáo đã đem đến cho người đọc cái nhìn sâu sắc hơn về người lính thời kháng chiến chống Pháp, đồng thời chia sẻ với những cảm xúc, suy nghĩ của hai tác giả và trân trọng hơn tài năng, cách phác họa hình tượng khéo léo, tinh tế của hai nhà thơ.
Cùng chắp bút viết thơ trong một giai đoạn lịch sử oai hùng của dân tộc, cả Chính Hữu và Quang Dũng đã xây dựng nên hình tượng người lính vô cùng chân thực trong hai bài thơ “Đồng chí” và “Tây Tiến”. Những người lính trong hai bài thơ này đều mang nét hào hùng và rất mực hào hoa, lãng mạn.Người lính trong “Tây Tiến” của Quang Dũng xuất hiện trên một nền cảnh thiên nhiên vùng cao kỳ vĩ, hiểm trở:
Những hình ảnh dốc đèo khúc khuỷu, heo hút với “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” ấy đã diễn tả chân thực khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng vô cùng hiểm trở, khiến cho chặng đường hành quân của những người lính càng thêm gian lao, vất vả hơn. Dẫu có khó khăn, nhọc nhằn, người lính Tây Tiến vẫn trong tư thế chủ động, sẵn sàng, ung dung, lạc quan đối diện với thực tại vô vàn khắc nghiệt:
Đây là một cách nói giảm nói tránh về sự hy sinh, mất mát đầy đau thương mà bất kỳ người lính Tây Tiến nào cũng có thể phải đối mặt. Song, những người lính ấy vẫn quyết tâm, tinh thần hừng hực lòng căm thù giặc, quyết chiến đấu để trả thù để đền đáp sự ngã xuống anh dũng của đồng đội mình trên chặng đường dài hành quân ra trận.
Trong cảnh rừng thiêng nước độc, người lính Tây Tiến vẫn lạc quan, ung dung, họ coi nhẹ cái chết bởi lý tưởng cách mạng đã tiếp thêm nghị lực, sức mạnh tinh thần cho họ:
Chiến tranh xảy đến, mất mát là không thể tránh khỏi, Quang Dũng nói đến sự trở về với đất mẹ của các anh một cách rất bi hùng, cao cả:
Vẻ đẹp hào hùng của người lính cũng được Chính Hữu phác họa rất rõ nét. Họ là những con người không ngại gian khó, hiểm nguy, đặt lý tưởng, mục tiêu chiến đấu lên trên hết:
Cái hoàn cảnh chiến đấu “rừng hoang sương muối” khắc nghiệt, dữ dội là vậy cũng không thể làm chùn bước chân, làm nản ý chí những người lính. Vượt lên hiện tại, họ là những con người hiên ngang, bất khuất “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”.
Bên cạnh vẻ đẹp hào hùng, những người lính trong cả hai bài thơ đều mang vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn. Quang Dũng miêu tả nét hào hoa ấy khi người lính cùng đồng bào vùng cao tham gia những lễ hội vui tươi, đầm ấm:
Hay như sự lãng mạn của người lính trong “Đồng chí” được thể hiện qua câu thơ:“Đầu súng trăng treo”.
Đều là những nhà thơ đã từng cầm súng chiến đấu vì Tổ quốc, nên Quang Dũng và Chính Hữu đều có những trải nghiệm và kỉ niệm sâu sắc để từ đó viết về người lính đặc sắc và cảm động. Bên cạnh những nét giống nhau, người lính trong hai bài thơ còn có những nét riêng ấn tượng. Người lính Tây Tiến đa phần ra đi từ Hà Nội, họ là những thanh niên, những trai trẻ vừa mới bước ra từ giảng đường. Còn ở “Đồng chí”, người lính đều là những nông dân bỏ áo lấm bùn khoác lên mình áo lính, họ ra đi từ những làng quê nghèo vì sự nghiệp bảo vệ đất nước: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Nếu như trong “Đồng chí”, Chính Hữu dùng bút pháp tả thực để tập trung làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chỉ cùng chung hoàn cảnh, chung quân ngũ, chung lý tưởng cao đẹp thì Quang Dũng lại lựa chọn khái quát vẻ đẹp chung của người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân nhiêu gian truân thử thách trong “Tây Tiến”.
Vẻ đẹp người lính Tây Tiến được gợi nên từ những cảm xúc, những kỷ niệm rất đỗi thiêng liêng của nhà thơ Quang Dũng trong thời gian tác giả gắn bó đậm sâu nghĩa tình với đoàn quân Tây Tiến. Nhà thơ gợi nên vẻ đẹp riêng của người lính Tây Tiến nhưng đồng thời cũng phác họa chân thực và sâu sắc vẻ đẹp của cả một thế hệ anh hùng trong thời kỳ lịch sử kháng chiến gian khổ, gian lao của quê hương, dân tộc. Để tái dựng lại một cách sinh động hình tượng người lính, nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng tài tình bút pháp lãng mạn trên cái nền của hiện thực.
Qua hai bài thơ “Tây Tiến” và “Đồng chí”, hai nhà thơ đã phác họa nên trước mắt người đọc hình ảnh những người lính có những điểm chung và nét riêng ấn tượng, góp phần làm hoàn chỉnh hơn bức tranh ngôn từ phác họa chân dung anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp.
-Nem-
Người lính cụ Hồ
BÀI VIẾT SỐ 2 SO SÁNH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH TRONG HAI BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ VÀ TÂY TIẾN
Chiến tranh tàn khốc đã đi qua nhưng những chiến công và những con người lịch sử thì còn sống mãi trong văn chương không tuổi. Văn học lưu giữ, khắc ghi và ca ngợi họ - những người lính anh dũng đã đem lại độc lập cho tổ quốc qua những câu thơ, áng văn đậm đà tình cảm. Tuy nhiên với mỗi bài thơ lại có cách khám phá và thể hiện rất riêng mang đậm dấu ấn cá nhân người nghệ sĩ. Hình tượng người lính trong hai bài thơ “Đồng chí” – Chính Hữu và “Tây Tiến” – Quang Dũng vừa mang những nét tương đồng vừa có những nét riêng đặc biệt.
“Hình tượng” là thế giới đời sống, con người hiện lên trong trang viết của người nghệ sĩ, là nơi tác giả thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Hình tượng người lính vốn không mấy xa lạ trong văn học Việt Nam nhưng mỗi người lại có cách thể hiện của riêng mình, tạo nên thế giới đời sống rất riêng và đặc sắc. Cùng ra đời trong cuộc kháng chiến chống Pháp, “Đồng chí” và “Tây Tiến” đã đem lại cho người đọc những cách nhìn nhận mới mẻ, những hình ảnh riêng độc đáo, hoàn thiện bức tranh về người lính chống Pháp và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không nguôi. Họ cùng là những con người của một thời đại anh dũng và hào hùng, cho nên ở đó luôn toát lên phong thái ngang tàng, mạnh mẽ, sẵn sàng vượt qua mọi gian nan thử thách dẫu mưa rừng thác lũ có dữ dội đến đâu:
Người lính phải vượt qua những trận mưa nguồn suối lũ, những đêm ngủ rừng chỉ có manh chiếu mỏng đắp vội, cơm chẳng đủ no, “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.” Nhưng đáng sợ nhất vẫn là những trận sốt rét rừng. Những cơn sốt rét rừng đến vàng da rụng tóc, bòn rút từng chút sức của họ:
Hay:
Gian nan, khổ đau là thế, những cơn sốt rét rừng hành hạ, thêm vào đó là tư trang tư phục chẳng đủ, thiếu thốn trăm bề nhưng những người lính đó chưa bao giờ thôi lạc quan và hạnh phúc. Bởi vì họ thiếu thốn vật chất nhưng đời sống tinh thần của họ lại thật phong phú biết bao: tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó, những đêm đốt lửa trại liên hoan dưới ánh đuốc hoa bập bùng, những trận sốt rét rừng hành hạ được ngả đầu trên vòng tay ấm áp của đồng đội. Có lẽ vì vậy mà họ có chung một niềm lạc quan, một sự anh dũng và quả cảm đáng phục, là nguồn động lực giúp họ chiến thắng mọi thử thách và đương đầu trước mọi gian truân. Có khó khăn, có gian khổ đấy, nhưng họ chưa bao giờ đầu hàng trước thử thách mà dũng cảm đối đầu với chúng để xứng đáng trở thành anh bộ đội cụ Hồ. Người lính trong “Đồng chí” hay người lính trong “Tây Tiến” xét cho cùng tuy hai mà một, gặp gỡ nhau trong nét cốt cách anh hùng của người lính chống Pháp năm xưa.
Nhưng “Không có lối đi chung nào cho hai nhà văn cả”, những người nghệ sĩ có thể gặp gỡ nhau trong cảm xúc trữ tình, hình tượng họ xây dựng cũng có thể tương đồng đôi nét nhưng không bao giờ là một bản sao. Cho nên dù viết về người lính cùng một thời đại nhưng mỗi bài thơ lại có một nét khám phá, phát hiện rất riêng. Người lính của Chính Hữu mang nét gì đó mộc mạc, hiền lành, chân chất, bởi họ xuất thân từ vùng quê nghèo nơi nước mặn đồng chua, họ là những người nông dân vì chiến tranh mà phải buông liềm đi cầm súng:
Có lẽ vốn dĩ xuất thân từ những người nông dân bình dị, cho nên tình cảm của họ dành cho nhau cũng thật chân thành và kín đáo. Hai chữ “đồng chí!” thốt lên như là xúc cảm cố giữ bỗng chốc bật ra thành lời, họ quan tâm nhau và chăm sóc nhau bằng sự chân thành và thật thà của người dân vùng quê bến nước:
Họ đến với nhau vì cùng chung lí tưởng, mục đích, đó là dùng máu xương của mình để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Những người lính nông dân thật thà chất phác đó thể hiện tình cảm chân thành và ý nhị, chia cho nhau từng bát cơm, từng mảnh chăn chắp vá và dù đêm lạnh lẽo thế nào cũng có thể cười vì hơi ấm đồng đội trao:
Còn người lính của Quang Dũng lại xuất thân từ những sinh viên thủ đô vừa rời khỏi giảng đường Đại học. Vì tuổi trẻ, vì cuộc sống thị thành đã tôi luyện cho họ một nét tình cách vừa hào hoa vừa phong tình, đậm đà chất lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà họ không hề che giấu sự đa tình của mình ngay cả khi đang trên hành trình hành quân ra mặt trận, cái ngạo nghễ, tươi trẻ đó như rót vào lòng họ những tia sáng lấp lánh. Họ mơ về chiến công bên biên giới, họ cũng không quên mơ về giấc mộng của riêng mình: một “dáng Kiều thơm” hay người con gái của đất kinh đô, những nữ sinh Trưng Vương, Đồng Khánh đẹp người sóng sánh bên nước trời Hà Nội:
Lời thơ như có chút gì đó táo bạo nhưng cũng thật lãng mạn và đa tình. Họ chiến đấu anh dũng nhưng đồng thời cũng sở hữu trong mình những nét đẹp hào hoa đến lạ. Có lẽ nó vừa là nguồn động lực, vừa là cái đẹp rất riêng, rất táo bạo của người lính trẻ, họ như cánh hoa đong đưa mình trên dòng nước lũ, những bông hoa đã sống trọn kiếp mình với nắng, với gió, để tỏa sắc giữa cuộc đời dẫu thác lũ có dữ dội đến đâu.
Với “Đồng chí” và “Tây Tiến”, cả hai tác giả đã đưa ta đến với những vẻ đẹp của người lính chống Pháp năm xưa. Gặp gỡ có nhưng độc đáo cũng có, hai bài thơ vừa có những điểm chung lại có những nét rất riêng, rất mới lại, góp phần hoàn thiện vẻ đẹp người chiến sĩ cách mạng. Đúng như ai đó đã từng nói rằng, nhà thơ phải đốt cháy mình mới mong ngọn lửa của mình tỏa rạng giữa đời, cả Chính Hữu và Quang Dũng thực sự đã đốt lửa lòng để viết ra những câu thơ đẹp đẽ. Văn chương cách mạng nhờ vậy mà còn sống mãi, bởi bản thân nó đã trở thành những áng văn thơ mang lửa, sẵn sàng tỏa rạng để vào “đốt lửa lòng” bất kì ai.
Có những sự thích thú chỉ là thoáng qua nhưng có những tình cảm sẽ là mãi mãi. Có những bài viết đọc một lần rồi quên nhưng có những áng thơ trường tồn bất diệt dẫu thời gian có nghiệt ngã cỡ nào. Người nghệ sĩ chân chính cũng giống như những áng thơ bất diệt vậy, khi họ viết tác phẩm của mình bằng Tài và Tâm.
-Minh Anh-
Lịch sử Việt Nam là một chặng đường dài với nhiều dấu mốc vàng son, đi cùng với chặng đường lịch sử đó là dòng chảy văn học với những nhà văn đóng góp cho đất nước những tác phẩm nghệ thuật giàu ý nghĩa, cảm xúc như một cách tiếp thêm ý chí, động lực cho con người trên hành trình dài chiến đấu nhiều gian truân đồng thời thể hiện sự trân trọng, ngợi ca nét đẹp tâm hồn, sự quả cảm của những người lính, những chiến sĩ chiến đấu quên mình vì Tổ quốc. Tố Hữu đã từng gửi hộ tình cảm của nhân dân dành cho anh vệ quốc quân trong bài thơ “Cá nước”: “Giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ/ Anh vệ quốc quân ơi/ Sao mà yêu anh thế!”. Hay như nhà thơ Trần Hữu Thung đã khắc họa cảm động hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ qua nỗi nhớ niềm mong của người vợ trong bài thơ “Thăm lúa”: “Ruộng mình quên cày xáo/ Nên lúa chín không đều/ Nhớ lấy để mùa sau/ Nhà cố làm cho tốt”. Trong “Đường ra mặt trận”, Tố Hữu một lần nữa phác họa đậm nét chân dung người lính: “Những buổi vui sao cả nước lên đường/ Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục/ Xóm dưới làng trên, con trai con gái/ Xôi nắm cơm đùm rít rít theo nhau”. Năm 1948, Quang Dũng và Chính Hữu đều sáng tác thơ viết về người lính, đó là bài “Tây Tiến” và “Đồng chí”. Dưới đây là các bài văn mẫu phân tích so sánh hình tượng người lính trong hai bài thơ các bạn có thể tham khảo. Chúc các bạn thành công!
Hình ảnh người lính trong cả 2 bài thơ đều hiện lên rất đẹp giản dị chất phác nhưng đầy hào hùng
BÀI VIẾT SỐ 1 SO SÁNH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH TRONG HAI BÀI THƠ “TÂY TIẾN” VÀ “ĐỒNG CHÍ”
Đọc bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tây Tiến” của Quang Dũng, ta đều bắt gặp hình ảnh những người lính thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà hào hùng. Một cách giản dị và thân thương, hình ảnh người lính với những điểm chung và nét riêng độc đáo đã đem đến cho người đọc cái nhìn sâu sắc hơn về người lính thời kháng chiến chống Pháp, đồng thời chia sẻ với những cảm xúc, suy nghĩ của hai tác giả và trân trọng hơn tài năng, cách phác họa hình tượng khéo léo, tinh tế của hai nhà thơ.
Cùng chắp bút viết thơ trong một giai đoạn lịch sử oai hùng của dân tộc, cả Chính Hữu và Quang Dũng đã xây dựng nên hình tượng người lính vô cùng chân thực trong hai bài thơ “Đồng chí” và “Tây Tiến”. Những người lính trong hai bài thơ này đều mang nét hào hùng và rất mực hào hoa, lãng mạn.Người lính trong “Tây Tiến” của Quang Dũng xuất hiện trên một nền cảnh thiên nhiên vùng cao kỳ vĩ, hiểm trở:
- “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
- Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
- Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
- Mường Lát hoa về trong đêm hơi
- Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
- Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
- Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
- Nhà ai Pha Luông mưa sa khơi”
Những hình ảnh dốc đèo khúc khuỷu, heo hút với “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” ấy đã diễn tả chân thực khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng vô cùng hiểm trở, khiến cho chặng đường hành quân của những người lính càng thêm gian lao, vất vả hơn. Dẫu có khó khăn, nhọc nhằn, người lính Tây Tiến vẫn trong tư thế chủ động, sẵn sàng, ung dung, lạc quan đối diện với thực tại vô vàn khắc nghiệt:
- “Anh bạn dãi dầu không bước nữa
- Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Đây là một cách nói giảm nói tránh về sự hy sinh, mất mát đầy đau thương mà bất kỳ người lính Tây Tiến nào cũng có thể phải đối mặt. Song, những người lính ấy vẫn quyết tâm, tinh thần hừng hực lòng căm thù giặc, quyết chiến đấu để trả thù để đền đáp sự ngã xuống anh dũng của đồng đội mình trên chặng đường dài hành quân ra trận.
Trong cảnh rừng thiêng nước độc, người lính Tây Tiến vẫn lạc quan, ung dung, họ coi nhẹ cái chết bởi lý tưởng cách mạng đã tiếp thêm nghị lực, sức mạnh tinh thần cho họ:
- “Rải rác biên cương mồ viễn xứ
- Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Chiến tranh xảy đến, mất mát là không thể tránh khỏi, Quang Dũng nói đến sự trở về với đất mẹ của các anh một cách rất bi hùng, cao cả:
- “Áo bào thay chiếu anh về đất
- Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Vẻ đẹp hào hùng của người lính cũng được Chính Hữu phác họa rất rõ nét. Họ là những con người không ngại gian khó, hiểm nguy, đặt lý tưởng, mục tiêu chiến đấu lên trên hết:
- “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
- Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
- Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”
Cái hoàn cảnh chiến đấu “rừng hoang sương muối” khắc nghiệt, dữ dội là vậy cũng không thể làm chùn bước chân, làm nản ý chí những người lính. Vượt lên hiện tại, họ là những con người hiên ngang, bất khuất “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”.
Bên cạnh vẻ đẹp hào hùng, những người lính trong cả hai bài thơ đều mang vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn. Quang Dũng miêu tả nét hào hoa ấy khi người lính cùng đồng bào vùng cao tham gia những lễ hội vui tươi, đầm ấm:
- “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
- Kìa em xiêm áo tự bao giờ
- Khèn lên man điệu nàng e ấp
- Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Hay như sự lãng mạn của người lính trong “Đồng chí” được thể hiện qua câu thơ:“Đầu súng trăng treo”.
Đều là những nhà thơ đã từng cầm súng chiến đấu vì Tổ quốc, nên Quang Dũng và Chính Hữu đều có những trải nghiệm và kỉ niệm sâu sắc để từ đó viết về người lính đặc sắc và cảm động. Bên cạnh những nét giống nhau, người lính trong hai bài thơ còn có những nét riêng ấn tượng. Người lính Tây Tiến đa phần ra đi từ Hà Nội, họ là những thanh niên, những trai trẻ vừa mới bước ra từ giảng đường. Còn ở “Đồng chí”, người lính đều là những nông dân bỏ áo lấm bùn khoác lên mình áo lính, họ ra đi từ những làng quê nghèo vì sự nghiệp bảo vệ đất nước: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Nếu như trong “Đồng chí”, Chính Hữu dùng bút pháp tả thực để tập trung làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chỉ cùng chung hoàn cảnh, chung quân ngũ, chung lý tưởng cao đẹp thì Quang Dũng lại lựa chọn khái quát vẻ đẹp chung của người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân nhiêu gian truân thử thách trong “Tây Tiến”.
Vẻ đẹp người lính Tây Tiến được gợi nên từ những cảm xúc, những kỷ niệm rất đỗi thiêng liêng của nhà thơ Quang Dũng trong thời gian tác giả gắn bó đậm sâu nghĩa tình với đoàn quân Tây Tiến. Nhà thơ gợi nên vẻ đẹp riêng của người lính Tây Tiến nhưng đồng thời cũng phác họa chân thực và sâu sắc vẻ đẹp của cả một thế hệ anh hùng trong thời kỳ lịch sử kháng chiến gian khổ, gian lao của quê hương, dân tộc. Để tái dựng lại một cách sinh động hình tượng người lính, nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng tài tình bút pháp lãng mạn trên cái nền của hiện thực.
Qua hai bài thơ “Tây Tiến” và “Đồng chí”, hai nhà thơ đã phác họa nên trước mắt người đọc hình ảnh những người lính có những điểm chung và nét riêng ấn tượng, góp phần làm hoàn chỉnh hơn bức tranh ngôn từ phác họa chân dung anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp.
-Nem-
Người lính cụ Hồ
BÀI VIẾT SỐ 2 SO SÁNH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH TRONG HAI BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ VÀ TÂY TIẾN
Chiến tranh tàn khốc đã đi qua nhưng những chiến công và những con người lịch sử thì còn sống mãi trong văn chương không tuổi. Văn học lưu giữ, khắc ghi và ca ngợi họ - những người lính anh dũng đã đem lại độc lập cho tổ quốc qua những câu thơ, áng văn đậm đà tình cảm. Tuy nhiên với mỗi bài thơ lại có cách khám phá và thể hiện rất riêng mang đậm dấu ấn cá nhân người nghệ sĩ. Hình tượng người lính trong hai bài thơ “Đồng chí” – Chính Hữu và “Tây Tiến” – Quang Dũng vừa mang những nét tương đồng vừa có những nét riêng đặc biệt.
“Hình tượng” là thế giới đời sống, con người hiện lên trong trang viết của người nghệ sĩ, là nơi tác giả thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Hình tượng người lính vốn không mấy xa lạ trong văn học Việt Nam nhưng mỗi người lại có cách thể hiện của riêng mình, tạo nên thế giới đời sống rất riêng và đặc sắc. Cùng ra đời trong cuộc kháng chiến chống Pháp, “Đồng chí” và “Tây Tiến” đã đem lại cho người đọc những cách nhìn nhận mới mẻ, những hình ảnh riêng độc đáo, hoàn thiện bức tranh về người lính chống Pháp và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không nguôi. Họ cùng là những con người của một thời đại anh dũng và hào hùng, cho nên ở đó luôn toát lên phong thái ngang tàng, mạnh mẽ, sẵn sàng vượt qua mọi gian nan thử thách dẫu mưa rừng thác lũ có dữ dội đến đâu:
- “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
- Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Người lính phải vượt qua những trận mưa nguồn suối lũ, những đêm ngủ rừng chỉ có manh chiếu mỏng đắp vội, cơm chẳng đủ no, “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.” Nhưng đáng sợ nhất vẫn là những trận sốt rét rừng. Những cơn sốt rét rừng đến vàng da rụng tóc, bòn rút từng chút sức của họ:
- “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
- Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”
Hay:
- “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
- Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Gian nan, khổ đau là thế, những cơn sốt rét rừng hành hạ, thêm vào đó là tư trang tư phục chẳng đủ, thiếu thốn trăm bề nhưng những người lính đó chưa bao giờ thôi lạc quan và hạnh phúc. Bởi vì họ thiếu thốn vật chất nhưng đời sống tinh thần của họ lại thật phong phú biết bao: tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó, những đêm đốt lửa trại liên hoan dưới ánh đuốc hoa bập bùng, những trận sốt rét rừng hành hạ được ngả đầu trên vòng tay ấm áp của đồng đội. Có lẽ vì vậy mà họ có chung một niềm lạc quan, một sự anh dũng và quả cảm đáng phục, là nguồn động lực giúp họ chiến thắng mọi thử thách và đương đầu trước mọi gian truân. Có khó khăn, có gian khổ đấy, nhưng họ chưa bao giờ đầu hàng trước thử thách mà dũng cảm đối đầu với chúng để xứng đáng trở thành anh bộ đội cụ Hồ. Người lính trong “Đồng chí” hay người lính trong “Tây Tiến” xét cho cùng tuy hai mà một, gặp gỡ nhau trong nét cốt cách anh hùng của người lính chống Pháp năm xưa.
Nhưng “Không có lối đi chung nào cho hai nhà văn cả”, những người nghệ sĩ có thể gặp gỡ nhau trong cảm xúc trữ tình, hình tượng họ xây dựng cũng có thể tương đồng đôi nét nhưng không bao giờ là một bản sao. Cho nên dù viết về người lính cùng một thời đại nhưng mỗi bài thơ lại có một nét khám phá, phát hiện rất riêng. Người lính của Chính Hữu mang nét gì đó mộc mạc, hiền lành, chân chất, bởi họ xuất thân từ vùng quê nghèo nơi nước mặn đồng chua, họ là những người nông dân vì chiến tranh mà phải buông liềm đi cầm súng:
- “Quê hương anh nước mặn đồng chua
- Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Có lẽ vốn dĩ xuất thân từ những người nông dân bình dị, cho nên tình cảm của họ dành cho nhau cũng thật chân thành và kín đáo. Hai chữ “đồng chí!” thốt lên như là xúc cảm cố giữ bỗng chốc bật ra thành lời, họ quan tâm nhau và chăm sóc nhau bằng sự chân thành và thật thà của người dân vùng quê bến nước:
- “Anh với tôi đôi người xa lạ
- Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
- Súng bên súng, đầu sát bên đầu
- Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”
Họ đến với nhau vì cùng chung lí tưởng, mục đích, đó là dùng máu xương của mình để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Những người lính nông dân thật thà chất phác đó thể hiện tình cảm chân thành và ý nhị, chia cho nhau từng bát cơm, từng mảnh chăn chắp vá và dù đêm lạnh lẽo thế nào cũng có thể cười vì hơi ấm đồng đội trao:
- “Thương nhau chia củ sắn lùi
- Bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng”
Còn người lính của Quang Dũng lại xuất thân từ những sinh viên thủ đô vừa rời khỏi giảng đường Đại học. Vì tuổi trẻ, vì cuộc sống thị thành đã tôi luyện cho họ một nét tình cách vừa hào hoa vừa phong tình, đậm đà chất lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà họ không hề che giấu sự đa tình của mình ngay cả khi đang trên hành trình hành quân ra mặt trận, cái ngạo nghễ, tươi trẻ đó như rót vào lòng họ những tia sáng lấp lánh. Họ mơ về chiến công bên biên giới, họ cũng không quên mơ về giấc mộng của riêng mình: một “dáng Kiều thơm” hay người con gái của đất kinh đô, những nữ sinh Trưng Vương, Đồng Khánh đẹp người sóng sánh bên nước trời Hà Nội:
- “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
- Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”
Lời thơ như có chút gì đó táo bạo nhưng cũng thật lãng mạn và đa tình. Họ chiến đấu anh dũng nhưng đồng thời cũng sở hữu trong mình những nét đẹp hào hoa đến lạ. Có lẽ nó vừa là nguồn động lực, vừa là cái đẹp rất riêng, rất táo bạo của người lính trẻ, họ như cánh hoa đong đưa mình trên dòng nước lũ, những bông hoa đã sống trọn kiếp mình với nắng, với gió, để tỏa sắc giữa cuộc đời dẫu thác lũ có dữ dội đến đâu.
Với “Đồng chí” và “Tây Tiến”, cả hai tác giả đã đưa ta đến với những vẻ đẹp của người lính chống Pháp năm xưa. Gặp gỡ có nhưng độc đáo cũng có, hai bài thơ vừa có những điểm chung lại có những nét rất riêng, rất mới lại, góp phần hoàn thiện vẻ đẹp người chiến sĩ cách mạng. Đúng như ai đó đã từng nói rằng, nhà thơ phải đốt cháy mình mới mong ngọn lửa của mình tỏa rạng giữa đời, cả Chính Hữu và Quang Dũng thực sự đã đốt lửa lòng để viết ra những câu thơ đẹp đẽ. Văn chương cách mạng nhờ vậy mà còn sống mãi, bởi bản thân nó đã trở thành những áng văn thơ mang lửa, sẵn sàng tỏa rạng để vào “đốt lửa lòng” bất kì ai.
Có những sự thích thú chỉ là thoáng qua nhưng có những tình cảm sẽ là mãi mãi. Có những bài viết đọc một lần rồi quên nhưng có những áng thơ trường tồn bất diệt dẫu thời gian có nghiệt ngã cỡ nào. Người nghệ sĩ chân chính cũng giống như những áng thơ bất diệt vậy, khi họ viết tác phẩm của mình bằng Tài và Tâm.
-Minh Anh-
- Chủ đề
- hình ảnh người linh tây tiến đồng chí