Anh về sao đặng mà về
Non nước lời thề bỏ lại cho ai ?
Anh về há dễ về luôn
Để khăn xéo lại, lệ tuôn em chùi.
Bên Tây có chiếc tàu sang
Sinh ra khố đỏ, quần vàng, áo thâm
Cho nên anh chịu âm thầm
Vai vác khẩu súng, tay cầm bình toong
Ra đi sông cạn đá mòn
Ra đi thương nhớ vợ con ở nhà
Việc Tây anh phải trẩy xa
Khi ở Hà Nội khi ra Hải Phòng
Nói ra đau đớn trong lòng
Vợ con nào biết Vân Mòng là đâu!
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Cô về, sư ốm tuơng tư
Ốm lăn ốm lóc để sư trọc đầu
Muốn ăn đậu phụ tương dầu
Mài dao đánh kéo gọt đầu đi tu
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan
Chém tre đẳn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Nhũng giang cùng nứa lấy ai bạn cùng
Nuớc giếng trong con cá nó vẫy vùng.
Chàng về thiếp nắm lấy tay,
Mua khăn chàng vận, áo may cho chàng.
Chàng vui cho thiếp đi về,
Kẻo thiếp lơ lửng như huê trên cành.
Chân em đi dép quai ngang,
Tay đeo nhẫn bạc, anh càng say mê.
Chèo dài sông hẹp khó lùa,
Thấy em ở ruộng quê mùa anh thương.
Chèo mau cho thiếp gặp chàng,
Hai ta hiệp lại cho thành một đôi.
Chỉ điều đố gỡ cho ra,
Keo sơn cố kết một nhà hòa vui.
Chim bay về rú về non,
Cá kia về vựa anh còn đợi em.
Em thời canh cửi trong nhà
Nuôi anh đi học chiếm khoa bảng vàng
Trước là vinh hiển tổ đường
Bõ công đèn sách lưu gương đời đời.
Hôm qua tát nước dầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được cho chúng anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh không có mẹ già chưa khâu.
Học trò đèn sách hôm mai
Ngày sau thi đỗ nên trai mới hào
Làm nên quan thấp, quan cao
Làm nên vọng tía võng đào nghênh ngang.
Lạy trời mưa nắng phải thì
Nơi thì cày rộng nơi thì bừa sâu
Công lao chảng quản lâu đâu
Ngày nay nước bạc ngày sau cơm vàng
Rắp toan cỡi ngựa ra về
Chàng đề câu đối thiếp đề câu thơ.
Mải vui ngồi chốn đám cờ
Tưởng nhân duyên ấy bao giờ cho quên.
Chàng về giữ việc bút nghiên
Đừng tham nhan sắc mà quên học hành.
Một mai chiếm được khoa danh
Trước là rạng nghiệp sau mình vinh thân.
Rừng thư biển thánh khôn dò
Nhỏ mà không học, lớn mò sao ra
Sẵn sàng áo mẹ cơm cha
Có văn, có sách mới ra con người.
Triều đình còn chuộng thi thư
Khuyên anh đèn sách sớm trưa học hành.
May nhờ phận có công danh
Mà anh phú quý, ấy mình vẻ vang.
Thương người dãi nắng dầm mưa
Cho em cây đó, em đưa miếng trầu
Trầu này đệm với vôi tàu
Ăn dăm ba miếng kẻo rầu lòng em.
Reply: Thơ Lục bát hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
NHỮNG CÂU CA DAO LỤC BÁT HAY NHẤT (tt)
Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa, cò về?
Cò về đến gốc cây đề,
Giương cung anh bắn cò về làm chỉ
Cò về thăm bác thăm dì,
Thăm cô xứ Bắc thăm dì xứ Đông.
Con cò lấp lé bụi tre
Sao cò lại muốn lăm le vợ người
Vào đây ta hát đôi lời
Để cho cò hiểu sự đời , ở ăn
Sự đời cò lấy làm răn
Để cho cò khỏi băn khoăn sự đời.
Cái cò bay bổng bay lơ
Lại đây anh gởi xôi ngô cho nàng.
Đem về nàng nấu nàng rang,
Nàng ăn có dẻo thì nàng lấy anh.
Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò,
Không, không! Tôi đứng trên bờ
Mẹ con nhà vạc đổ ngờ cho tôi
Chẳng tin ông đứng ông coi
Mẹ con nhà nó còn ngồi đấy kia!
Đường đi chợ huyện thênh thang,
Kẻ đi người lại, sao chàng biệt tăm?
Đường đi những lách cùng lau
Cha mẹ tham giàu ép uổng duyên con.
Đường dài ngựa chạy biệt tăm
Người thương có nghĩa trăm năm cũng về.
Đường dài ngựa chạy cát bay,
Ngãi nhân thăm thẳm mỗi ngày một xa.
Đố ai bưng kín miệng bình
Đố ai đan thúng cho mình úp voi
Hỏi thăm cô Bưởi hàng Gai
Quần sồi yếm nhiễu cho ai mất rồi
Biết chăng họa có ông trời
Chuyện này đến bụt cũng cười nhăn răng.
Tre già tủi thẹn vì măng
Chua ngoa mà cũng gió trăng nữa là.
Đố ai biết lúa mấy cây
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng
Đố ai quét sạch lá rừng,
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây
Rung cây, rung cội, rung cành
Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng.
Đố ai ngồi võng không đưa,
Ru con không hát anh chừa rượu tăm.
Đố ai chừa được rượu tăm,
Chừa ăn thuốc chín, chừa nằm chung hơi.
Có tôi chừa được mà thôi,
Chừa ăn thuốc chín, chung hơi chẳng chừa.
Lạy trời mưa nắng phải thì
Nơi thì cày rộng nơi thì bừa sâu
Công lao chảng quản lâu đâu
Ngày nay nước bạc ngày sau cơm vàng.
Một tay thì cắp hoả mai
Một tay xách giáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng.
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vồn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Văn chương phú lục chẳng hay
Trrở về làng cũ học cầy cho xong
Sáng ngày vác cuốc chăm đồng
Hết nước thì lấy gầu sồng tát lên
Hết mạ ta lại quẩy thêm
Hết thóc ta lại mang tiền đi đong
Nữa mai lúa tốt đầy đồng
Gặt về đập sảy bỏ công cấy cày.
(sưu tầm)
Ghi chú: Ảnh Hoa hậu Việt Nam 2008 Trần Thị Thùy Dung (áo dài xanh) và ảnh minh họa sưu tầm từ internet
Reply: Thơ Lục bát hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
NHỮNG CÂU CA DAO LỤC BÁT HAY NHẤT (tt)
Cái cò cái vạc cái nông
Ba con cùng béo, vặt lông con nào
Vặt lông con vạc cho tao
Mắm muối bỏ vào, xào rán rồi thuôn!
Cái cò cái vạc cái nông
Cùng ăn một đồng nói chuyện giăng ca
Muối kia đổ ruột con gà
Mẹ mình chẳng xót bằng ta xót mình.
Cái cò chết tối hôm qua
Có hai hạt gạo với ba đồng tiền
Một đồng mua trống mua kèn
Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong
Một đồng mua mớ rau răm
Đem về thái nhỏ thờ vong con cò.
Đường về xứ bắc xa xa
Có về Hà Nội với ta thì về
Đường thủy thì tiện thuyền bè
Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang.
Được vàng được bạc trên tay,
Em không mừng rỡ bằng nay gặp chàng.
Trèo lên khung cửi dệt hàng,
Cửi kêu lăng líu, dạ thương chàng líu lăng.
Lời nguyền dưới nước trên trăng
Trăm năm không bỏ đạo hằng cùng anh.
Được ích khúc khích ngồi cười
Hại người chẳng bỏ khi người hại cho
Được mùa chớ phụ ngô khoai
Đến khi thân, dậu lấy ai bạn cùng
Được mùa kén những tám xoan
Đến lúc cơ hàn ré cũng như chiêm
Đến đây chẳng lẽ ngồi không,
Nhờ chàng giã gạo cho đông tiếng hò.
Đến đây lạt miệng thèm chanh,
Khi về đã có cam sành chín cây.
Đêm đêm khêu ngọn đèn loan,
Nhớ chàng quân tử thở than mấy lời
Mong chàng chẳng thấy chàng ôi!
Thiếp tôi trằn trọc vội dời chân ra.
Nhác trông lên, trăng đã xế tà,
Đêm hôm khuya khoắt con gà đã gáy sang canh.
Mong anh mà chẳng thấy anh,
Thiếp tôi buồn bã khêu quanh ngọn đèn...
Đến ta mới biết của ta,
Nghìn trăm năm trước biết là của ai
Đi đâu bỏ nhện giăng mùng,
Bỏ đôi chiếu lạnh, bỏ phòng quạnh hiu?
Đi đâu cho đổ mồ hôi,
Chiếu trải không ngồi trầu để không ăn?
Đi đâu cho thiếp đi cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
Đêm đêm vuốt bụng thở dài,
Thở ngắn bằng chạch, thở dài bằng lươn.
Đêm hè gió mát trăng thanh,
Em ngồi canh cửi còn anh vá chài.
Đêm khuya giục bóng trăng tà,
Sao mai đã mọc, tiếng gà gọi con.
Vằng vặc giãi tấm lòng son,
Lại thêm con vượn véo von bên ghềnh.
Chém cha cái sắc khuynh thành,
Làm cho mắc tiếng phao danh để đời.
Trách ai sao khéo vẽ vời,
Trách ai khéo đặt những lời bướm ong.
Sông sâu nước chảy đôi dòng,
Biết đâu mà đọ tấm lòng cho đang.
Đêm hè gió mát trăng thanh,
Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp thừng.
Lạt chẳng mỏng sao thừng được tốt?
Duyên đôi ta đã trót cùng nhau.
Trăm năm thề những bạc đầu,
Chớ tham phú quý đi cầu trăng hoa.
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải nhãn hai hàng
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
Sông Tô nước chảy trong ngần
Con thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa
Thon thon hai mũi chèo hoa
Lướt đi lướt lại như là bướm bay.
Thanh Trì có bánh cuốn ngon
Có gò Ngũ Nhạc, có con sông Hồng
Thanh Trì cảnh đẹp người đông
Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.
Sáng ngày em đi hái dâu
Em gặp anh ấy ngồi câu thạch bàn
Và anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô đã vội vàng đi đâu
Thưa rằng em đi hái dâu
Và anh mở túi đưa trầu mời ăn
Thưa rằng bác me em răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Thăng Long Hà Nội đô thành
Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ
Cố đô rồi lại tân đô
Ngàn năm văn vật bây giờ là đây.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
(sưu tầm)
Ghi chú: Ảnh Hoa hậu Việt Nam 2008 Trần Thị Thùy Dung (áo dài xanh), ảnh cầu Thê Húc (Hà Nội) và ảnh minh họa sưu tầm từ internet
Reply: Thơ Lục bát hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
NHỮNG CÂU CA DAO LỤC BÁT HAY NHẤT (tt)
Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục Vương
Cổ Loa hình ốc khác thường
Trải bao năm tháng, nẻo đường còn đây.
Ai qua phố Nhổn, phố La
Dừng chân ăn miếng chả pha thơm giòn.
Ba mươi súc miệng ăn chay
Sáng ngày mồng một dựng cây trúc đài
Làm sân khấn vái Phật Trời
Biết đâu có nắng mà phơi quần hồng
Ai ơi, hãy hoãn lấy chồng
Để cho trai gái dốc lòng đi tu.
Chùa này chẳng có Bụt ru
Mà đem chuông khánh treo chùa Hồ Sen
Thấy cô yếm đỏ răng đen
Nam mô Di phật lại quên mất chùa!
Ai mua tấc cảnh thì mua
Thanh la não bạt, thày chùa bán cho
Hộ pháp thì một quan ba
Long thần chín rưỡi, thích ca ba tiền
Còn hai mụ Thiện hai bên
Ai mua bán nốt lấy tiền nộp cheo
Lệ làng thiếu thốn bao nhiêu
Đẵn cây tre cộc cắm nêu sân chùa.
Cái cò lặn lội bờ ao
Phất phơ đôi dải yếm đào gió bay
Em về giục mẹ cùng thầy,
Cắm sào đợi nước biết ngày nào trong?
Cổ yếm em thõng thòng thòng,
Tay em đeo vòng như bắp chuối non.
Em khoe em đẹp em giòn,
Anh trông nhan sắc em còn kém xuân.
Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay ngồi một xó, hay ăn thịt gà
Ai ra ruộng chú ở nhà
Nói thì dở giọng ba hoa chích chòe!
Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa
Ngày thì ước những ngày mưa!
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
Cái cò lặn lội bờ sông,
Muốn lấy vợ đẹp, nhưng không có tiền!
Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bẩy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh.
Đường lên xứ Lạng bao xa?
Cách một trái núi với ba quãng đồng.
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ.
Anh chớ thấy em lắm bạn mà ngờ
Bụng em vốn thẳng như tờ giấy phong
Đường về mỗi bước một xa
Lá bay xào xạc, sương sa ngập ngừng
Bứt dây riêng sợ động rừng
Đắng cay cam chịu xin đừng thở than.
Đường xa mượn cáng mà đi,
Xin cho tốt tuế quản chi xa đường.
Trồng hường lấy lá che hường,
Thương em chẳng quản nỗi đường xa xôi.
Gắng công kén hộ cốm Vòng
Kén chồng Bạch Hạc cho lòng ai vui.
Nhác trông lên chốn kinh đô
Kìa đền Quán Thánh, nọ hồ Hoàn Gươm.
Tàu seo nước giá như đồng
Tay đưa liềm giấy mà lòng nhớ ai
Nhớ người tuổi ngoại đôi mươi
Da xanh mai mái miệng cười đưa duyên.
Trầu này têm với vôi Tàu
Giữa thêm cát cánh hai đầu quế cay
Trầu này ăn thật là say
Dù mặn dù nhạt dù cay dù nồng
Dù chẳng nên nghĩa vợ chồng
Xơi dăm ba miếng kẻo lòng nhớ thương.
Trầu này trầu quế trầu hồi
Trầu loan trầu phượng, trầu tôi trầu mình
Trầu này trầu tính trầu tình
Trầu nhân, trầu ngãi, trầu mình, trầu ta
Trầu này têm tối hôm qua
Trầu cha, trầu mẹ đem ra mời nàng
Trầu này không phải trầu hàng
Không bùa, không thuốc sao nàng không ăn?
Hay nàng chê khó, chê khăn
Xin nàng đứng lại mà ăn trầu này.
(sưu tầm)
Ghi chú: Chùm ảnh Thiếu nữ và Hà Nội sưu tầm từ internet
Reply: Thơ Lục bát hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
CHIỀU TRÊN SÔNG HÀN
Em xa rời bến sông Hàn Nắng chao chát đổ, gió ràn rạt bay Lắt lay một mảnh trăng gầy Câu yêu gởi lại với ngày rụng rơi.
Bời bời đêm rủ lơi lơi Thuyền nghiêng nghiêng nổi, mây rời rời trôi Sợi buồn, tóc rụng ngang môi Giọt buồn, sao rụng ngang trời mưa sa.
Bến xưa, bướm cũ, vườn cà... Cung đàn đứt nhịp theo tà áo bay Em đi sương lạnh hương đầy Ta về yêu mãi những ngày yêu em.
Đà Nẵng 1994
(Tuyển tập thơ Lục Bát Tình - NXB Đồng Nai 1997)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Ghi chú: ảnh cầu Quay Sông Hàn (Đà Nẵng) và ảnh minh họa sưu tầm từ internet
Reply: Thơ Lục bát hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
HOA MUA
Ngày xưa hai đứa chiều chiều
Rủ nhau chơi hái thật nhiều hoa mua
Hoa mua em bán tôi mua
Tiền là lá rụng cuối mùa vàng bay
Rồi tôi kết lá thành dây
Kết hoa vào lá, kết ngày vào đêm
Kết thành hoa cưới trao em
Vòng hoa tím mái tóc mềm bến sông
Cô dâu cười ửng má hồng
Dắt tay chú rể chạy rong khắp làng…
Sao giờ mây trắng sang ngang
Hoa mua nở tím rụng sang tay người
Thuyền còn một bóng trôi xuôi
Tình còn một đám lá rơi giữa dòng
Mẹ buồn đám cưới em đông
Xe hơi chín chiếc, qua sông chín đò…
Ngược thuyền về với tuổi thơ
Bến sông vẫn tím đôi bờ hoa mua
"Hoa mua ai bán mà mua"
Để tôi vớt lá tìm mùa thu xa?
1995 (Tập thơ Hoa Sứ Trắng – NXB Đà Nẵng 1997)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Ghi chú: ảnh hoa mua và ảnh minh họa sưu tầm từ internet
Reply: Thơ Lục bát hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
Một lần cùng các nhà thơ lang thang trên cánh đồng Vĩnh Long chợt nhìn thấy một ngôi mộ hoang không ai chăm sóc. Thế là các nhà thơ lấy giấy ra ghi lại cảm xúc của mình. Nhiều người mãi viết về sự cô đơn, về quá khứ, về sự mất mát... Riêng tôi, tôi lại viết về mùa xuân!
Reply: Thơ Lục bát hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
CHỢT NHỚ
Đầu đình chợt nhớ đêm sao
Cánh đồng chợt nhớ thu nào mưa bay
Đồi sim chợt nhớ cỏ may
Vườn dâu chợt nhớ trăng đầy giếng thơi
Bến sông chợt nhớ một người
Bão dông chợt nhớ biển trời Trường Sa
Đường làng chợt nhớ anh xa
Mắt em chợt nhớ lệ nhòa trong mưa…
1994
(Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Ghi chú: Ảnh Hoa hậu Việt Nam 2012 Đặng Thu Thảo (nữ sinh) và nữ diễn viên Xuân Văn sưu tầm từ internet
Reply: Thơ Lục bát hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
TÌNH VỠ Tình em như cánh chuồn chuồn Khi bay đậu lại nỗi buồn riêng tôi Dây trầu chưa quấn chợt rơi Vành trăng chợt vỡ để người chợt xa…
1994 (Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Ghi chú: Ảnh người mẫu Thái Nhã Vân và ảnh minh họa sưu tầm từ internet
Reply: Thơ Lục bát hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
Thạch Động là một danh lam thắng cảnh ở Hà Tiên. Tương truyền Thạch Động là nơi Đại Bàng giam giữ công chúa và chính Thạch Sanh đã giết Đại Bàng cứu công chúa tại đây. Những câu thơ cuối Thanh Trắc Nguyễn Văn đã xếp thành hình bậc thang và tạo hiệu ứng âm thanh, nhằm miêu tả đường lên Thạch Động chông chênh cùng với tiếng chuông chùa âm vang trong chiều.
Hà Tiên thu đến rồi em Đường lên Thạch Động chông chênh nắng vàng Mây chiều rủ gió lang thang Bẽ bàng lá giận khẽ khàng rụng rơi.
Đá xanh xanh bám đỉnh trời Giọt tan lách tách ướt lời đưa trao Câu quen quen đến ngọt ngào Câu thương thương đến bứt nhàu cỏ may.
Cầm tay rồi lại dắt tay Dìu nhau qua hết tháng ngày buồn tênh Nẻo lên .......lối xuống .............gập ghềnh Chuông rền Thạch Động ...................bồng bềnh khói sương.
Hà Tiên 1997 (Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Ghi chú: ảnh Thạch Động và ảnh minh họa sưu tầm từ internet
Reply: Thơ Lục bát hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
Chuyện xưa kể rằng dưới trần gian có một anh chàng nhà giàu rất kén vợ đẹp, nổi tiếng lên đến tận thiên đình! Ngọc Hoàng Thượng Đế bèn cho công chúa út xuống trần gian với lời dặn: "Nếu hắn biết thế nào là cái đẹp, ta cho phép con làm vợ hắn 20 năm. Còn nếu quá 3 năm hắn vẫn không biết thế nào là cái đẹp hoàn mỹ, con hãy cho hắn một bài học rồi về trời!"
Công chúa út xuống trần liền hóa làm một cô gái mặt mũi bình thường đến xin làm người hầu cho chàng nhà giàu. Với tính tình hiền dịu, thông minh và đảm đang không bao lâu cô gái được rất nhiều người khen ngợi. Chàng nhà giàu thấy cô gái không đẹp, lại là người hầu nên vẫn có ý không thích. Sau này nghe những người lái buôn đồn công chúa nước Xiêm rất đẹp, chàng nhà giàu liền đem của cải lên thuyền quyết đi cầu hôn công chúa nước Xiêm!
Ở lại nhà, cô gái hầu hóa thân trở lại thành công chúa út với sắc đẹp tuyệt trần. Thất vọng với nhan sắc của công chúa nước Xiêm, chàng nhà giàu trở về và bàng hoàng trước nhan sắc của công chúa út. Chàng vội chạy đến quỳ xuống cầu hôn, nhưng đã quá muộn vì đã đến hạn 3 năm. Công chúa út bay về trời, chàng trai chỉ còn nhặt được chiếc khăn tay của nàng. Tương tư và tiếc nuối khiến chàng nhà giàu bị bệnh qua đời và biến thành con rắn mối (theo Kho Tàng Cổ Tích Việt Nam, soạn giả Nguyễn Đổng Chi)
Reply: Thơ Lục bát hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
MƯA HOÀNG HÔN
Nẻo thôn về lại một chiều
Hỏi hoa bưởi trắng sao nhiều phấn son?
Bến xưa đâu bóng trăng tròn
Lênh đênh thuyền cũ chỉ còn bơ vơ
Một thời khắc nhớ vào thơ
Khắc thương vào gió, khắc chờ vào mây
Em cười vỡ hết thơ ngây
Tình tôi rụng trắng ướt đầy hoàng hôn.
1998
(Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Reply: Thơ Lục bát hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
Sông Rừng còn có tên là sông Vân Cừ, nhưng nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam là với tên sông Bạch Đằng (trong thơ ca còn gọi là Bạch Đằng Giang). Tôi đến bến phà Rừng lần đầu tiên vào năm 1997. Khi ngồi đợi qua phà, trong một quán nước tôi vô tình nghe được câu chuyện của một đôi vợ chồng già phải đi làm ăn xa nay mới có dịp cùng nhau về thăm lại quê hương. Tôi đã xúc động viết bài thơ này...