Hướng dẫn làm bài văn cảm nhận bài thơ đây thôn vĩ dạ của Hàn Mạc Tử lớp 11 hay nhất có dàn ý định hướng và bài làm chi tiết
Nền văn học Việt Nam đa dạng và phong phú bởi nhiều thể loại, nhiều phong trào khác nhau phù hợp với bối cảnh thời đại. Một trong đó có phong trào Thơ Mới năm 1932-1945. Với sự bùng nổ của cái tôi cá nhân, các tác giả trong trào lưu này luôn cố gắng tiếp thu những tinh hoa của văn học nước ngoài, đề cao cái tôi của mình. Các tác giả tiêu biểu như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên và Hàn Mạc Tử,.... Hàn Mạc Tử là một trong những nhà thơ mới có hồn thơ "điên", hướng về những thứ mộng mị, hư ảo chìm sâu vào cõi mộng để trốn tránh thực tại khổ đau. Trong chương trình ngữ văn lớp 11 ta tiếp cận thơ của Hàn Mạc Tử qua bài thơ nổi tiếng với nhan đề Đây Thôn Vĩ Dạ. Bài thơ mang đến một luồng gió lạ trong phong trào thơ mới. Dưới đây là dàn ý chi tiết và bài làm cụ thể cảm nhận bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử để các bạn tham khảo và chọn lọc làm một bài văn thật hay nhé.
DÀN Ý CẢM NHẬN BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ LỚP 11
I MỞ BÀI
Dẫn dắt và giới thiệu tác giả tác phẩm
II THÂN BÀI
Khổ 1:
Khổ 2:
Khổ 3:
III KẾT BÀI
Tóm tắt nội dung nghệ thuật, nêu ra giá trị trong tác phẩm
BÀI LÀM PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ LỚP 11
"Thơ chỉ tràn ra khi cảm xúc thật đầy". Thật vậy, thơ là điệu cảm xúc, thơ là cứu cánh cho cuộc đời mỗi người. Đối với Hàn Mạc Tử cũng vậy, thơ trở thành nơi ông bày tỏ bao nỗi niềm giấu kín cùng cảm xúc mãnh liệt nhưng tồn tại trong đau thương. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của ông là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Hàn. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên đẹp xứ Huế và tình đời tình người sâu kín.
Cảnh sắc thiên nhiên nơi thôn Vĩ Dạ được gợi mở ra tươi mới tràn ngập sức sống:
Mở đầu là câu hỏi: “sao anh không về chơi thôn Vĩ?" vang lên như lời trách thầm, lời nhắn gửi nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình. Câu hỏi là của ai? Mà vừa có nhiều cung bậc như vậy. Không phải là của Hoàng Cúc, hay một cô gái nào khác ở Thôn Vĩ vậy thì của ai? Của Hàn Mạc Tử, dường như tác giả tự phân thâm để chất vấn chính mình. Cũng là một lời xác nhận đã lâu rồi không về thôn Vĩ, và không biết đến bao giờ, đến khi nào mới có thể trở về để thăm lại nơi đầy gắn bó những dấu yêu kỉ niệm. Không những vậy, câu hỏi còn là cái cớ rất đáng yêu, nhẹ bẫng lại xót xa để gợi về kỉ niệm thôn Vĩ và bức tranh thôn Vĩ mở ra tự nhiên ở ba câu thơ tiếp với nắng hàng cau, vườn cây và cành lá trúc thân thuộc. "nắng hàng cau" là nắng đầu tiên của buổi sáng sớm, cũng là hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mạc Tử. Buổi sớm với những hàng cau cao và thẳng vươn cao đón ánh nắng đầu tiên. Sau một đêm bừng tỉnh, sương còn chưa tan hết, nắng mới đã bừng lên tràn ngập trên những hàng cây mới mẻ thanh tân. Trong những câu thơ không chỉ miêu ta ánh nắng một lần mà tác giả còn sử dụng điệp từ "nắng" vẽ ra luồng ánh sáng của thời gian , nắng lan trên đầu vạn vật từ trên cao xuống thấp, tràn cả khu vườn. Khoác lên tấm áo mới tươi tắn thanh tân. Vườn thôn Vĩ ngời lên sắc xanh "xanh mướt như ngọc" thân thuộc. "Mướt" manh sức gợi cảm cao, không chỉ diễn tả màu sắc mà còn cả sức sống. Tính từ độc đáo kết hợp sử dụng biện pháp so sánh "xanh như ngọc" khiến khu vườn biếc lên một màu ngọc lung linh. Vừa có màu sắc xanh tươi vừa lấp lánh ánh sáng khi bóng nắng trên cao chiếu dọi tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Nét đẹp thân thuộc mà cũng rất xa xôi qua đại từ phiếm chỉ "ai", trong " vườn ai" gợi lên một nét đẹp khó nắm bắt, đẹp nhưng lại quá xa vời. Tất cả chỉ là sự sống của thế giới ngoài kia- một thế giới mà tác giả mong muốn. Cảnh thiên nhiên được tô điểm với sự xuất hiện của con người: "lá trúc che ngang mặt chữ điền". Quả là một hình ảnh độc đáo, đa nghĩa với khuôn mặt chữ điền hiền hòa phúc hậu kín đáo che đi bởi màu xanh của lá trúc thanh mảnh. Thật vậy, đây là một sản phẩm sáng tạp quen thuộc trong thơ Hàn được tạo bởi mặc cảm chia lìa của con người luôn tự nhận mình đứng ngoài những cuộc vui. Mở ra một ấn tượng say đắm trong hồn thơ Hàn Mạc Tử trữ tình sâu lắng cùng với đó bộc lộ những khắc khoải chi phôi khi hướng về thôn Vĩ.
Nếu khổ thơ thứ nhất là một bức tranh xanh tươi thì ở khổ thơ thứ hai là bức tranh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng:
Ở khổ một và khổ hai là khắc họa bức tranh thiên nhiên thì ở khổ ba hình ảnh người con gái trong lòng tác giả xuất hiện với bao da diết nhớ mong:
Giọng thơ khẩn khoản, gấp gáp thể hiện khao kháy gắn liền với hình bóng cụ thể:" khách đường xa" và "em" với tà áo trắng. Thấp thoáng hình bóng giai nhân, dường như " khách đường xa" và "em" là một. "Em" là một giấc mộng say đắm mộng ảo. Đó là hình bóng đẹp đẽ nhưng vô cùng xa xôi diệu vợi thuộc về thế giới ngoài kia. Với thi sĩ thì hình bóng đó chỉ hiện hưu trong giấc mộng dài. Tưởng chừng giấc mộng như tác giả ngỡ ngàng phát hiện giai nhân đang hiện hữu với tà áo trắng thuần khiết mỏng manh. Đó là vẻ đẹp mà tác giả luôn tôn thờ. Đúng lúc giai nhân hiện hữu rõ nhất trong tâm tưởng cũng là lúc nhà văm tuyệt vọng nhất vì đang tuột mất nó khỏi tầm tay.
Khép lại tác phẩm với câu hỏi vang lên da diết:
Như vậy bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mang đến cho người đọc những giá trị sâu sắc. Bên cạnh đó, bài thơ cho ra thấy khi con người bị đẩy đến tận cùng của khổ đau và bế tắc nhưng vẫn hướng đến cuộc đời sự khao khát sẻ chia.
BÀI VĂN CẢM NHẬN BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ LỚP 11
Nếu như Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới thì Hàn Mạc Tử được mệnh danh là nhà thơ lạ nhất trong các nhà thơ mới. Thơ của ông nổi bật với những đường nét và màu sắc riêng khi thì táo bạo ấn tượng, khi thì thanh trong thoát tục. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của ông là một bài thơ rất hay và để lại nhiều tình cảm trong trẻo trong lòng người đọc.
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ gợi nhiều suy tưởng trong lòng người đọc:
Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong số ít những bài thơ không mang những nét u buồn thất vọng về cuộc đời nhưng cũng không hẳn là mang âm hưởng vui tươi. Tuy nhiên ta vẫn nhận ra những tình cảm hết sức sâu sắc, yêu đời, yêu đời và khát khao giao cảm hơn hết. Đọc bài thơ ta không khỏi nhận thấy sự âm vang trong tâm trí bởi cảm tình thiêng liêng và chân thành.
Nền văn học Việt Nam đa dạng và phong phú bởi nhiều thể loại, nhiều phong trào khác nhau phù hợp với bối cảnh thời đại. Một trong đó có phong trào Thơ Mới năm 1932-1945. Với sự bùng nổ của cái tôi cá nhân, các tác giả trong trào lưu này luôn cố gắng tiếp thu những tinh hoa của văn học nước ngoài, đề cao cái tôi của mình. Các tác giả tiêu biểu như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên và Hàn Mạc Tử,.... Hàn Mạc Tử là một trong những nhà thơ mới có hồn thơ "điên", hướng về những thứ mộng mị, hư ảo chìm sâu vào cõi mộng để trốn tránh thực tại khổ đau. Trong chương trình ngữ văn lớp 11 ta tiếp cận thơ của Hàn Mạc Tử qua bài thơ nổi tiếng với nhan đề Đây Thôn Vĩ Dạ. Bài thơ mang đến một luồng gió lạ trong phong trào thơ mới. Dưới đây là dàn ý chi tiết và bài làm cụ thể cảm nhận bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử để các bạn tham khảo và chọn lọc làm một bài văn thật hay nhé.
DÀN Ý CẢM NHẬN BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ LỚP 11
I MỞ BÀI
Dẫn dắt và giới thiệu tác giả tác phẩm
II THÂN BÀI
Khổ 1:
- bức tranh Thôn Vĩ
- Câu hỏi mở đầu: cái cớ thân thương, mở ra bức tranh thôn Vĩ
- 3 câu sau: bức tranh thôn Vĩ sống dậy tự nhiên
- Nắng hàng cau
- Vườn xanh mướt
- Lá trúc
Khổ 2:
- bức tranh sông Hương nhuốm màu tâm trạng
- Nghiêng về cảnh ảo
- Dòng sông Hương
- Hoa bắp lay
- Dòng sông trăng trôi chảy, hình ảnh thuyền trở trăng
Khổ 3:
- hình bóng giai nhân hiện hữu
- Hai câu đầu:
- Giọng thơ khẩn khoản "mơ khách đường xa, khách đường xa".
- Tâm trạng tuyệt vọng nhất vì hình bóng giai nhân đang tuột mất khỏi tầm tay
- Hai câu kết:
- Đại từ phiếm chỉ "ai" có thể là tác giả cũng có thể là người con gái tác giả thầm thương
- Trở về thực tại, 1 thế giới đầy đau thương
- Khát khao được sẻ chia, thấu hiểu
III KẾT BÀI
Tóm tắt nội dung nghệ thuật, nêu ra giá trị trong tác phẩm
BÀI LÀM PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ LỚP 11
"Thơ chỉ tràn ra khi cảm xúc thật đầy". Thật vậy, thơ là điệu cảm xúc, thơ là cứu cánh cho cuộc đời mỗi người. Đối với Hàn Mạc Tử cũng vậy, thơ trở thành nơi ông bày tỏ bao nỗi niềm giấu kín cùng cảm xúc mãnh liệt nhưng tồn tại trong đau thương. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của ông là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Hàn. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên đẹp xứ Huế và tình đời tình người sâu kín.
Cảnh sắc thiên nhiên nơi thôn Vĩ Dạ được gợi mở ra tươi mới tràn ngập sức sống:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Mở đầu là câu hỏi: “sao anh không về chơi thôn Vĩ?" vang lên như lời trách thầm, lời nhắn gửi nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình. Câu hỏi là của ai? Mà vừa có nhiều cung bậc như vậy. Không phải là của Hoàng Cúc, hay một cô gái nào khác ở Thôn Vĩ vậy thì của ai? Của Hàn Mạc Tử, dường như tác giả tự phân thâm để chất vấn chính mình. Cũng là một lời xác nhận đã lâu rồi không về thôn Vĩ, và không biết đến bao giờ, đến khi nào mới có thể trở về để thăm lại nơi đầy gắn bó những dấu yêu kỉ niệm. Không những vậy, câu hỏi còn là cái cớ rất đáng yêu, nhẹ bẫng lại xót xa để gợi về kỉ niệm thôn Vĩ và bức tranh thôn Vĩ mở ra tự nhiên ở ba câu thơ tiếp với nắng hàng cau, vườn cây và cành lá trúc thân thuộc. "nắng hàng cau" là nắng đầu tiên của buổi sáng sớm, cũng là hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mạc Tử. Buổi sớm với những hàng cau cao và thẳng vươn cao đón ánh nắng đầu tiên. Sau một đêm bừng tỉnh, sương còn chưa tan hết, nắng mới đã bừng lên tràn ngập trên những hàng cây mới mẻ thanh tân. Trong những câu thơ không chỉ miêu ta ánh nắng một lần mà tác giả còn sử dụng điệp từ "nắng" vẽ ra luồng ánh sáng của thời gian , nắng lan trên đầu vạn vật từ trên cao xuống thấp, tràn cả khu vườn. Khoác lên tấm áo mới tươi tắn thanh tân. Vườn thôn Vĩ ngời lên sắc xanh "xanh mướt như ngọc" thân thuộc. "Mướt" manh sức gợi cảm cao, không chỉ diễn tả màu sắc mà còn cả sức sống. Tính từ độc đáo kết hợp sử dụng biện pháp so sánh "xanh như ngọc" khiến khu vườn biếc lên một màu ngọc lung linh. Vừa có màu sắc xanh tươi vừa lấp lánh ánh sáng khi bóng nắng trên cao chiếu dọi tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Nét đẹp thân thuộc mà cũng rất xa xôi qua đại từ phiếm chỉ "ai", trong " vườn ai" gợi lên một nét đẹp khó nắm bắt, đẹp nhưng lại quá xa vời. Tất cả chỉ là sự sống của thế giới ngoài kia- một thế giới mà tác giả mong muốn. Cảnh thiên nhiên được tô điểm với sự xuất hiện của con người: "lá trúc che ngang mặt chữ điền". Quả là một hình ảnh độc đáo, đa nghĩa với khuôn mặt chữ điền hiền hòa phúc hậu kín đáo che đi bởi màu xanh của lá trúc thanh mảnh. Thật vậy, đây là một sản phẩm sáng tạp quen thuộc trong thơ Hàn được tạo bởi mặc cảm chia lìa của con người luôn tự nhận mình đứng ngoài những cuộc vui. Mở ra một ấn tượng say đắm trong hồn thơ Hàn Mạc Tử trữ tình sâu lắng cùng với đó bộc lộ những khắc khoải chi phôi khi hướng về thôn Vĩ.
Nếu khổ thơ thứ nhất là một bức tranh xanh tươi thì ở khổ thơ thứ hai là bức tranh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng:
Hình ảnh gió mây, sông nước, trăng hiện lên khác biệt. Gió và mây không đi liền với nhau như vốn dĩ gió thổi mây bay hưng ở đây gió và mây chia làm đôi ngả. Những sự vật vốn dĩ không thể tách rời, thì hồn thơ Hàn Mạc Tử đã chia cắt một thứ không thể cắt chia. Bản thân dòng nước là một vật vô tri vô giác nhưng ở đây" dòng nước buồn thiu". Một biện pháp nhân hóa khiến dòng sông mang tâm trạng con người. Hay đó là sự chảy trôi của tâm trạng, là nỗi buồn li tán của sự vận động của mây, của gió, cũng chính là mặc cảm chia lìa của tác giả thấm vào cảnh vật. Trên dòng sông ấy là những bông hoa bắp lay. khẽ động ở đôi bờ rất nhẹ rất khẽ. Khi đặt chúng cùng với gió, mây, nước hoa bắp lay gợi sự tàn buồn hiu hắt khiến cảnh sông nước hiện lên hoang vắng rợn ngợp thấm thía nỗi buồn của sự chắc chở thê lương. Nỗi buồn thi sĩ hòa cùng nhịp buồn xứ Huế vang lên câu hỏi:" Thuyền ai đậu bến sông trăng đó". Trong tâm trạng ấy, chợt bật lên ước ao khát vọng là có một điều gì đó có thể trở về với mình để níu giữ, để bám víu. Những ước mơ của thi sĩ gắn liền với trăng với nhạc. Đó là ước mơ khao khát được tri âm. Ở trăng luôn có những vẻ đẹp mà Hàn Mạc Tử luôn hướng tới. Qua câu thơ ta tưởng tượng cả một dòng sông trăng đang chảy trôi hay trăng đang tan mình trong nước. Hình ảnh "thuyền chở trăng" vừa mơ vừa thực hư ảo huyền hoặc đến khó phân định. Đối với trăng tác giả không chỉ gắn vào đó những ước mơ khát vọng mà còn cả nỗi lo lắng, mặc cảm với hiện tại ngắn ngủi qua từ "kịp". Sự bối rối hiện hữu trong câu chữ bổ khát vọng thì ít mà cảm giác bi kịch thì nhiều. Mong mỏi của Hàn Mạc Tử gắn liền với đau thương dự cảm đổ vỡGió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Ở khổ một và khổ hai là khắc họa bức tranh thiên nhiên thì ở khổ ba hình ảnh người con gái trong lòng tác giả xuất hiện với bao da diết nhớ mong:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà
Giọng thơ khẩn khoản, gấp gáp thể hiện khao kháy gắn liền với hình bóng cụ thể:" khách đường xa" và "em" với tà áo trắng. Thấp thoáng hình bóng giai nhân, dường như " khách đường xa" và "em" là một. "Em" là một giấc mộng say đắm mộng ảo. Đó là hình bóng đẹp đẽ nhưng vô cùng xa xôi diệu vợi thuộc về thế giới ngoài kia. Với thi sĩ thì hình bóng đó chỉ hiện hưu trong giấc mộng dài. Tưởng chừng giấc mộng như tác giả ngỡ ngàng phát hiện giai nhân đang hiện hữu với tà áo trắng thuần khiết mỏng manh. Đó là vẻ đẹp mà tác giả luôn tôn thờ. Đúng lúc giai nhân hiện hữu rõ nhất trong tâm tưởng cũng là lúc nhà văm tuyệt vọng nhất vì đang tuột mất nó khỏi tầm tay.
Khép lại tác phẩm với câu hỏi vang lên da diết:
Chủ thể trữ tình đã trở về với thực tại đầy đau thương với màn sương khói của thực tại hay chính là sương khói của thời gian che phủ khiến tất cả trở nêm xa với hư ảo che mờ nhân ảnh của người yêu thương. Kết bài thơ lại một lần nữa vang lên câu hỏi đầy khắc khoải với đại từ phiếm chỉ "ai" có thể là tác giả cũng có thể là người con gái tác giả thầm thương. Tiếng ai vang lên chơi vơi khép lại bài thơ trong nỗi sầu mênh mang trong khát vọng không thôi hướng về tình người. Đó là khao khát được sẻ chia, thấu hiểu và yêu thương dẫu cô đơn tuyệt vọng nhưng không thôi khát khaoỞ đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà
Như vậy bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mang đến cho người đọc những giá trị sâu sắc. Bên cạnh đó, bài thơ cho ra thấy khi con người bị đẩy đến tận cùng của khổ đau và bế tắc nhưng vẫn hướng đến cuộc đời sự khao khát sẻ chia.
BÀI VĂN CẢM NHẬN BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ LỚP 11
Nếu như Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới thì Hàn Mạc Tử được mệnh danh là nhà thơ lạ nhất trong các nhà thơ mới. Thơ của ông nổi bật với những đường nét và màu sắc riêng khi thì táo bạo ấn tượng, khi thì thanh trong thoát tục. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của ông là một bài thơ rất hay và để lại nhiều tình cảm trong trẻo trong lòng người đọc.
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ gợi nhiều suy tưởng trong lòng người đọc:
Đây liệu có phải là câu hỏi có đượm một chút trách khéo của cô gái về việc chàng trai đã lâu không về thăm thôn Vĩ Dạ. Bởi, khi làm bài thơ này, Hàn Mạc Tử đang ở trại phong Tuy Hòa và nhận được bức ảnh của Hoàng Cúc về miền quê xứ Huế, ông theo đó mà miêu tả những đường nét của xứ Huế qua trí nhớ mà bức ảnh gợi lại. Nhưng với câu hỏi này, ta cũng có thể hiểu đó là một lời mời chàng trai về thăm thôn Vĩ của cô gái xứ Huế. Rồi từ câu hỏi đó, thi sĩ đã nhìn thấy bao nhiêu cảnh sắc, con người xứ Huế:Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Từ trong tưởng tượng của người đọc, một bức tranh tươi đẹp về thiên nhiên, con người xứ Huế được hiện lên nên thơ, yên bình. Cả bức tranh nổi bật lên màu nắng tươi mới trên bầu trời cao xanh, màu nắng ấy đã làm tỏa rạng cả một vườn xanh tươi. Từ “mướt” trong câu thơ gợi cho người đọc cảm giác xanh tươi lạ thường, có liên tưởng mảnh vườn nhỏ y như một viên ngọc thnah thoát mà đồng nội giữa cảnh sắc xứ Huế. Đặc biệt, nổi bật trong những sắc màu tốt tươi tuyệt vời mang lại cảm giác thanh bình yên ả ấy, hình ảnh con người xứ Huế hiện lên hiền lành, đôn hậu với “khuôn mặt chữ điền” ấn lấp sau lá trúc, một biểu tượng cho sự thanh tao của người quân tử. Có thể đó là khuôn mặt dễ mến, đôn hậu của con người xứ Huế trong tâm thức nhà thơ cũng có thể là hình ảnh người con gái Huế thân thương dịu dàng. Ở khổ một này, tất thẩy cả màu sắc đến đường nét đều tạo cho bức tranh một sự tươi sáng lạ thường, khiến lòng người yên ổn, nhưng ở đạn thơ thứ hai, giống như những cảm xúc vui tươi nhất thời khi đsn nhận được món quà đã qua, xúc cảm bám viú bao nhiêu ngày nay trở lại, ta nhận ra giọng đượm màu chia cách trong giọng thơ;Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
“Gió” và “mây” vốn là hai hiện tượng thân thiết nhưng ở câu thơ của Hàn Mạc Tử thì lại mỗi thứ một đường, tạo một sự chia xa khó tả. Không chỉ có vậy, sự êm đềm của dòng sông xứ Huế lại tạt vào lòng người cảm giác “buồn thiu”, những cánh hoa bắt “lay” cũng gợi sự mỏng manh yếu ớt khiến cho cả không giam nhuốm màu thê lương. Trong khung cảnh không nhiều vui tươi như thế, một câu hỏi tu từ chợt bật ra:Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Câu này là hỏi cho thuyền cho trăng hay là hỏi cho chính con người? Câu hỏi bật lên nhẹ nhàng nhưng nặng trĩu sự lo lắng, sự thấp thỏm, không biết liệu rằng có còn kịp hay không? Kịp để nhìn thấy sự tươi đẹp của cuộc đời, của con người, có kịp làm điều mong ước, tất cả đều là sự khát khoa giao cảm đến tột cùng khi con người ta phải xa với đời trong chốn cô đơn và ngày ngày chờ đến lời phán quyết cuối cùng của cuộc đời mình. Ở đoạn thơ thứ ba, khát khoa này càng bộc lộ rõ hơn bao giờ hết:Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Điệp từ “khách đường xa” được lập lại như thể nhấn mạnh sự ước ao, sự lưu ý bao nhiêu ngày tháng. “Khách đường xa” ở đây là ai? Có lẽ là cô gái chăng? Hay chỉ là một người nào đó vu vơ, mơ là để vơi đi nỗi cô đơn bao nhiêu ngày tháng, mơ là để ước ao có một ai đó đến với nhân vật trữ tình trong những ngày đau khổ này. Chỉ có điều: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Màu trắng là màu sắc rất hay xuất hiện trong thơ của Hàn Mạc Tử, luôn là biểu hiện của sự tinh khôi thanh khiết, giống y như nàng trinh nữ, lúc nào cũng trắng trong tuyệt vời. Nhưng có lẽ do màu trắng tinh khôi của áo mà trong giấc mơ của mình, Hàn Mạc Tử đã không thể nhìn rõ cô gái, bởi sương khói mông lung đã làm mờ nhạt cả trí nhớ, chỉ còn lại sự thanh khiết không gì nhạt phai. Kết thúc bài thơ, một câu hỏi tu từ lại được thốt lên hết sức thiết tha:Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Ai ở đây là ai? Là cô gái? Chàng trai đang băn khoăn về tình cảm của cô gái, hay chính là chàng trai đang có ý trách cô gái không nhận ra tình ảm đậm đà bấy lâu của mình. Hay có lẽ đây là nghi vấn về tình cảm của con người với con người, của người đời dành cho nhau. Thật khiến người ta phải suy ngẫm!Ai biết tình ai có đậm đà?
Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong số ít những bài thơ không mang những nét u buồn thất vọng về cuộc đời nhưng cũng không hẳn là mang âm hưởng vui tươi. Tuy nhiên ta vẫn nhận ra những tình cảm hết sức sâu sắc, yêu đời, yêu đời và khát khao giao cảm hơn hết. Đọc bài thơ ta không khỏi nhận thấy sự âm vang trong tâm trí bởi cảm tình thiêng liêng và chân thành.