Hướng dẫn làm bài văn phân tích cảm nhận khổ hai bài thơ đây thôn vĩ dạ trong chương trình ngữ văn lớp 11 hay nhất có dàn ý định hướng và bài làm cụ thể
Trong trào lưu thơ mới năm 1932-1945, Hàn Mạc Tử là một trong những nhà thơ với nét mới lạ của hồn thơ "điên". Thơ ông ảnh hưởng trực tiếp từ thơ Siêu thực. Với ông " thơ chỉ tràn ra khi cảm xúc thật đầy", thơ là cứu cánh , là nơi thổ lộ những nỗi niềm giấu kín của tâm hồn mãnh liệt nhưng tồn tại trong đau đớn. Sự vận động đau đớn của linh hồn luôn muốn bay về cõi siêu nhiên nhưng lòng vẫn muốn gắn bó sâu sắc với đời. Trong trùm thơ đặc sắc của ông, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Hàn. Bài thơ vẽ lên cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế và những khát khao tình người tình đời của tác giả trong đó khổ hai là một bức tranh thiên nhiên sông nước nhưng đặc biệt hơn bức tranh ấy nhuốm màu tâm trạng. Dưới đây là dàn ý định hướng và bài làm cụ thể để các bạn tham khảo và chọn lọc làm một bài văn thật hay nhé.
DÀN Ý PHÂN TÍCH KHỔ 2 BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ
I MỞ BÀI
Dẫn dắt và giới thiệu tác giả, tác phẩm
Khổ hai
II THÂN BÀI
Hoa bắp lay: gợi buồn
III KẾT BÀI
Tóm tắt nội dung khổ 2 và nêu lên giá trị và những đóng góp
BÀI LÀM: PHÂN TÍCH KHỔ HAI BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ
Phong trào thơ mới năm 1932-1945 là sự nở rộ của cái tôi cá nhân. Có thể thấy nếu thơ trung đại gắn liền với những điều lớn lao, ước lệ thì thơ mới gắn liền với cảm xúc. Như nhà thơ Hàn Mạc Tử nói rằng: " tôi làm thơ nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng". Về cơ bản thơ Hàn luôn hướng tới quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật nhưng cái đẹp trong thơ ông lại riêng biệt, nó là nét đẹp kì dị, đau thương đan xen với những thứ hư ảo. Thiên nhiên trong thơ ông cũng vậy, nhuốm màu tâm trạng, như thực mà như mơ:
Bốn câu thơ được trích trong bài thơ nổi tiếng Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử đã vẽ lên một bức tranh sông nước xứ Huế nhưng bức tranh ấy cũng đượm nỗi buồn lo. Mở đầu khổ thơ với hình ảnh " gió" và "mây". Gió và mây xưa kia thường " gió thổi mây bay" nhưng trong thơ ông hai sự vật ấy lại chia làm đôi ngả. Những thứ vốn dĩ không thể tách rời thì hồn thơ Hàn Mạc Tử đã chia cắt những thứ không thể cắt chia. Bản thân dòng nước cũng là một vật vô tri vô giác trong tự nhiên nhưng với biện pháp nhân hóa " dòng nước buồn thiu" khiến nó có những cảm xúc buồn, vui của con người. Điệu chảy " buồn thiu" của dòng sông Hương lững lờ yên tĩnh như điệu làn êm ả. Không những vậy dường sự chảy trôi vô định của dòng nước thẫm đẫm nỗi buồn li tán của sự vận động giữa mây và gió hay chính là sự mặc cảm chia lìa của Hàn Mạc Tử lây lan sang cảnh vật. Đúng như lời Nguyễn Du đã nói trong truyện Kiều " lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Trên dòng sông Hương xứ Huế ấy là những "hoa bắp lay" khẽ lay động ở đôi bờ, rất nhẹ và rất khẽ, đặt cùng gió, mây, nước hoa bắp "lay" ấy trong ca dao và cũng gặp cái buồn ấy trong thơ , trong nỗi buồn của người chinh phụ, Trúc Thông có viết: "Lá ngô lay ở bờ rông".
Cảnh sông Hương xứ Huế hiện lên thật buồn , gió mây đôi ngả, hoa bắp lay , hoang vắng rợn ngợp thấm thía nỗi buồn của sự thê lương. Nỗi buồn thi sĩ hòa hợp với nhịp buồn xứ Huế cùng những khát khao khôn nguôi:
Trong tâm trạng thẻ lương ấy, chợt bật lên những ước ao hy vọng là có một điều gì đó có thể trở về với mình để níu giữ, để bám víu. Dường như ước mơ của thi sĩ thường gắn với trăng, với thuyền thể hiện khao khát tri âm. Bởi thuyền chở trăng mang một vẻ đẹp mà tác giả luôn hướng tới, vẻ đẹp hư ảo huyền hoặc khó phân định . Đây quả là một sản phẩm củ trí tưởng tượng với dòng sông trăng đang trôi chảy, hay trăng đang lan mình thành nước để trôi chảy từ vũ trụ về nơi xa. Thuyền chở trang vừa mơ vừa thực. Bên cạnh những khát khao mong đợi ấy còn là những lo âu qua từ "kịp", nỗi mong ước thầm kín đã tìm được nơi gửi gắm là con thuyền trên sông trăng nhưng càng khao khát hy vọng thì lại càng lo âu bởi nỗi mặc cảm vì hiện tại ngắn ngủi. Khát vọng thì ít mà cảm giác tuyệt vọng thì lấp đầy tâm hồn. Những mong muốn tưởng trừng giản đơn ấy của Hàn Mạc Tử lại gắn liền với những đau thương và dự cảm đổ vỡ.
Nếu khổ thơ mở đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ là cảnh thực thì khổ thơ này nghiêng về thế giới ảo. Trong nỗi buồn da diết thì nhà thơ muốn nương tựa vào cái đẹp của tình đời tình người nhưng càng trông đợi thì vẫn không tránh khổ những tuyệt vọng để rồi tác giả chìm sâu vào cõi mộng. Khổ thơ thứ hai này góp phần tạo sự liên kết và giá trị sâu sắc cho cả bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ giúp khẳng định tài năng và thể hiện những cảm xúc chân thật nhất của Hàn Mạc Tử- nhà thơ "điên".
Trong trào lưu thơ mới năm 1932-1945, Hàn Mạc Tử là một trong những nhà thơ với nét mới lạ của hồn thơ "điên". Thơ ông ảnh hưởng trực tiếp từ thơ Siêu thực. Với ông " thơ chỉ tràn ra khi cảm xúc thật đầy", thơ là cứu cánh , là nơi thổ lộ những nỗi niềm giấu kín của tâm hồn mãnh liệt nhưng tồn tại trong đau đớn. Sự vận động đau đớn của linh hồn luôn muốn bay về cõi siêu nhiên nhưng lòng vẫn muốn gắn bó sâu sắc với đời. Trong trùm thơ đặc sắc của ông, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Hàn. Bài thơ vẽ lên cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế và những khát khao tình người tình đời của tác giả trong đó khổ hai là một bức tranh thiên nhiên sông nước nhưng đặc biệt hơn bức tranh ấy nhuốm màu tâm trạng. Dưới đây là dàn ý định hướng và bài làm cụ thể để các bạn tham khảo và chọn lọc làm một bài văn thật hay nhé.
DÀN Ý PHÂN TÍCH KHỔ 2 BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ
I MỞ BÀI
Dẫn dắt và giới thiệu tác giả, tác phẩm
Khổ hai
II THÂN BÀI
- Khổ hai là bức tranh sông nước nhuốm màu tâm trạng
- Mây gió: ngược chiều , trái tự nhiên, chia cắt đôi ngả
- Dòng nước: nhân hóa " buồn thiu"
- Dòng sông không còn là sự vật vô tri vô giác
- Sự chảy trôi buồn một nỗi buồn li tán
Hoa bắp lay: gợi buồn
- Thuyền và sông trăng: hình ảnh ảo, khó phân định vừa mơ vừa thực
- Trăng: chứa đựng vẻ đẹp tác giả luôn muốn gửi gắm
- Dòng sông trăng: trăng tan vào nước để trôi chảy từ vũ trụ về nơi xa.
- " kịp" không chỉ là khát khao mong đợi mà còn âu lo
III KẾT BÀI
Tóm tắt nội dung khổ 2 và nêu lên giá trị và những đóng góp
BÀI LÀM: PHÂN TÍCH KHỔ HAI BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ
Phong trào thơ mới năm 1932-1945 là sự nở rộ của cái tôi cá nhân. Có thể thấy nếu thơ trung đại gắn liền với những điều lớn lao, ước lệ thì thơ mới gắn liền với cảm xúc. Như nhà thơ Hàn Mạc Tử nói rằng: " tôi làm thơ nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng". Về cơ bản thơ Hàn luôn hướng tới quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật nhưng cái đẹp trong thơ ông lại riêng biệt, nó là nét đẹp kì dị, đau thương đan xen với những thứ hư ảo. Thiên nhiên trong thơ ông cũng vậy, nhuốm màu tâm trạng, như thực mà như mơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Bốn câu thơ được trích trong bài thơ nổi tiếng Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử đã vẽ lên một bức tranh sông nước xứ Huế nhưng bức tranh ấy cũng đượm nỗi buồn lo. Mở đầu khổ thơ với hình ảnh " gió" và "mây". Gió và mây xưa kia thường " gió thổi mây bay" nhưng trong thơ ông hai sự vật ấy lại chia làm đôi ngả. Những thứ vốn dĩ không thể tách rời thì hồn thơ Hàn Mạc Tử đã chia cắt những thứ không thể cắt chia. Bản thân dòng nước cũng là một vật vô tri vô giác trong tự nhiên nhưng với biện pháp nhân hóa " dòng nước buồn thiu" khiến nó có những cảm xúc buồn, vui của con người. Điệu chảy " buồn thiu" của dòng sông Hương lững lờ yên tĩnh như điệu làn êm ả. Không những vậy dường sự chảy trôi vô định của dòng nước thẫm đẫm nỗi buồn li tán của sự vận động giữa mây và gió hay chính là sự mặc cảm chia lìa của Hàn Mạc Tử lây lan sang cảnh vật. Đúng như lời Nguyễn Du đã nói trong truyện Kiều " lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Trên dòng sông Hương xứ Huế ấy là những "hoa bắp lay" khẽ lay động ở đôi bờ, rất nhẹ và rất khẽ, đặt cùng gió, mây, nước hoa bắp "lay" ấy trong ca dao và cũng gặp cái buồn ấy trong thơ , trong nỗi buồn của người chinh phụ, Trúc Thông có viết: "Lá ngô lay ở bờ rông".
Cảnh sông Hương xứ Huế hiện lên thật buồn , gió mây đôi ngả, hoa bắp lay , hoang vắng rợn ngợp thấm thía nỗi buồn của sự thê lương. Nỗi buồn thi sĩ hòa hợp với nhịp buồn xứ Huế cùng những khát khao khôn nguôi:
Thuyền ai chở bến sông trăng đó
Có trở trăng về kịp tối nay
Trong tâm trạng thẻ lương ấy, chợt bật lên những ước ao hy vọng là có một điều gì đó có thể trở về với mình để níu giữ, để bám víu. Dường như ước mơ của thi sĩ thường gắn với trăng, với thuyền thể hiện khao khát tri âm. Bởi thuyền chở trăng mang một vẻ đẹp mà tác giả luôn hướng tới, vẻ đẹp hư ảo huyền hoặc khó phân định . Đây quả là một sản phẩm củ trí tưởng tượng với dòng sông trăng đang trôi chảy, hay trăng đang lan mình thành nước để trôi chảy từ vũ trụ về nơi xa. Thuyền chở trang vừa mơ vừa thực. Bên cạnh những khát khao mong đợi ấy còn là những lo âu qua từ "kịp", nỗi mong ước thầm kín đã tìm được nơi gửi gắm là con thuyền trên sông trăng nhưng càng khao khát hy vọng thì lại càng lo âu bởi nỗi mặc cảm vì hiện tại ngắn ngủi. Khát vọng thì ít mà cảm giác tuyệt vọng thì lấp đầy tâm hồn. Những mong muốn tưởng trừng giản đơn ấy của Hàn Mạc Tử lại gắn liền với những đau thương và dự cảm đổ vỡ.
Nếu khổ thơ mở đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ là cảnh thực thì khổ thơ này nghiêng về thế giới ảo. Trong nỗi buồn da diết thì nhà thơ muốn nương tựa vào cái đẹp của tình đời tình người nhưng càng trông đợi thì vẫn không tránh khổ những tuyệt vọng để rồi tác giả chìm sâu vào cõi mộng. Khổ thơ thứ hai này góp phần tạo sự liên kết và giá trị sâu sắc cho cả bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ giúp khẳng định tài năng và thể hiện những cảm xúc chân thật nhất của Hàn Mạc Tử- nhà thơ "điên".
- Chủ đề
- cam nhan phan tich đây thôn vĩ dạ