Bữa cơm của Khổng Tử

Chương II : 6. NGÀY HÔM QUA LÀ ƯỚC MƠ VĨ ĐẠI - NGÀY MAI LÀ TÀI SẢN KHỔNGLỒ Chúng ta, những người đuổi theo của cải, sống trong một thế giới luôn thay đổi. Thế giới ấy luôn đòi hỏi những tư tưởng mới, cách tiếp cận mới, thủ lĩnh mới, phát minh sáng chế, hệ thống đào tạo và tiếp thị, sách vở và kịch bản mới cho phim ảnh và truyền hình. Và trong cuộc thi đua nhu cầu về cái mới và tốt, ai có mục đích cụ thể và mong muốn thành công cháy bỏng, người đó sẽ chiến thắng. Chúng ta, những người mong muốn làm ra của cải, cần phải nhớ: thủ lĩnh chân chính của thế giới này là những người biết cách sử dụng và bắt cả sức mạnh vô hình của những khả năng còn chưa hiện ra phải làm việc, và biến những sức mạnh đó (xung động và ý nghĩ) thành nhà chọc trời, thành phố, công xưởng, máy bay, ôtô và hàng loạt những tiện nghi khác tô điểm thêm cho cuộc sống.Không điều gì được ảnh hưởng đến ước mơ của bạn. Bạn phải thấm nhuần tinh thần của những người mở đường vĩ đại trong quá khứ, những người đã tạo ra sức sống giúp phát triển và thể hiện các tài năng, những người mà nền văn minh Mỹ phải biết ơn. Nếu như điều bạn muốn là tốt, và cái chính là bạn tin tưởng vào nó, - đừng hoài nghi gì nữa, hãy hành động! Và không quan trọng là họ sẽ nói gì khi bỗng nhiên bạn gặp không may, bởi vì họkhông biết rằng mỗi một sự không may đều mang trong mình hạt giống của thành công vĩ đại. Thomas Edison mơ ước về chiếc bóng điện. Ông lập tức bắt tay vào thí nghiệm và không rời bỏ ý tưởng của mình bất chấp mười nghìn lần thử hỏng, cho đến khi ước mơ bắt đầu mang dáng dấp hiện thực. Người mơ ước thực tế không bao giờ bỏ dở! Uelan mơ ước có một mạng lưới các cửa hiệu thuốc lá, và ngày nay, các cửa hàng thuộc công ty anh ta ở Mỹ có trên từng góc phố. Anh em Wright mơ ước về một thiết bị biết bay. Ngày nay, ai cũng phải xác nhận rằng ước mơ của họ hoàn toàn lành mạnh.Marconi mơ ước truyền tín hiệu trong không khí nhờ những lực vô hình. Radio và truyền hình ngày nay đã chứng tỏ anh không mơ tưởng viển vông. Một điều rất thú vị là bạn bè của anh đã đưa anh vào bệnh viện tâm thần để khảo sát khi anh tuyên bố đã phát minh ra định luật cho phép truyền tin trong không khí mà không cần dây dẫn hoặc các thiết bị vật lý khác. Ngày nay người ta nhìn nhận rộng rãi hơn đối với những người mơ mộng, có đúng không?
 
Chương II : 7. MONG MUỐN ĐẺ RA ƯỚC MƠ Như vậy, đối với những người hay mơ ước, mong muốn là xuất phát điểm. Ước mơ không sinh ra từ thờ ơ, lười biếng và thiếu tự tin. Hãy nhớ rằng những người về đích trước tiên cũng bắt đầu từ những bất thành. Bước ngoặt trong cuộc đời họ thường trùng với một thời điểm kịch biến mà từ đó họ trở thành những con người khác hẳn. John Banhian đã viết ra Hành hương - một trong những cuốn sách hay nhất bằng tiếng Anh, - sau khi ông ngồi tù vì lý do tôn giáo. O.Henry phát hiện ra tài năng của mình vào một thời điểm chẳng lấy gì làm vui vẻ trong cuộc đời, khi ông ngồi tù thành phố Colambes, bang Ohio. cái tôi thứ hai của ông sống dậy do hoàn cảnh. Nên cũng dễ hiểu là ông thích viết về cuộc đời những tên tội phạm bất hạnh và những người bị xã hội ruồng bỏ.Charles Dickens bắt đầu bằng việc dán nhãn lên nắp các hộp xi đánh giày. Bi kịch mối tình đầu đã làm cho tâm hồn ông trở nên sâu sắc, biến ông thành một trong những nhà văn vĩ đại nhất. Bi kịch đó đã cho thế giới David Coperfieldằ và hàng loạt tác phẩm làm tất cả những người đã đọc sách của ông trở nên giàu hơn, tốt hơn. Helen Kepler câm, điếc, mù ngay sau khi ra đời. Bất chấp những bất hạnh khổng lồ này, chị đã vĩnh viễn khắc tên mình vào lịch sử nhân loại. Suốt đời chị đã chứng minh: không ai thất bại nếu họ không tự chịu thua. Robert Berns xuất phát là một gã trai quê thiếu học. Chán chường vì nghèo đói, lẽ ra anh đã trở thành kẻ nát rượu. Nhưng thế giới đã trở nên tốt hơn vì trong anh sống một tâm hồn biến ý nghĩ thành thơ ca, biến mảnh đất trước đây chỉ có ngải cứu thành nơi mọc lên hoa hồng. Bethoven bị điếc, Milton bị mù, nhưng tên tuổi của họ chỉ mất đi cùng vũ trụ bởi vì họ không những biết ước mơ, mà còn biết biến đổi, tổ chức ước mơ của mình.Có khoảng cách giữa mong muốn và sự sẵn sàng tiếp nhận điều mình mong muốn. Nếu bạn chưa tin thì tức là bạn chưa sẵn sàng. Và cuối cùng, phải nhớ: để vươn lên trên, muốn giàu sang và thịnh vượng, thì sức lực đòi hỏi cũng không nhiều hơn so với việc chấp nhận túng thiếu và đói nghèo. Một thi sỹ vĩ đại đã nêu lên chân lý chung này ở các dòng sau: Tôi mặc cả từng đồng - Và nhận được từng đồng. Thử hỏi xin một triệu - Cầm, và đừng ngạc nhiên! Cuộc đời này vẫn sống, Nhưng chỉ cho phần mình.Và chúng ta tất cả Làm việc cho cuộc đời. Cậu đáng giá năm xu? Đừng kêu ca oán thán. Lườm chi người giàu có, Hãy học cách ước mơ. Làm thuê hay triệu phú - Đời đối xử công bình Muốn được đời tưởng thưởng Hãy đòi hỏi chính mình.
 
Chương II : 8. VÀ CÁI KHÔNG THỂ TRỞ THÀNH CÓ THỂ Câu chuyện sau đây là cực điểm của chương này. Tôi muốn giới thiệu với bạn một trong những người phi thường nhất. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cậu ta sau khi cậu ra đời được vài phút. Cậu không có tai, và theo lời bác sỹ, cậu sẽ câm điếc suốt đời. Tôi không đồng ý với bác sỹ - tôi có quyền đó bởi vì tôi là cha đứa trẻ. Tôi cũng có ý kiến của mình, nhưng tôi chỉ lặng im trả lời trong sự tĩnh lặng của trái tim mình. Tôi tự nhủ: con trai tôi sẽ nghe được và nói được. Bằng cách nào? Tôi tin chắc rằng phải có một phương pháp nào đó, và tôi biết rằng mình sẽ tìm thấy nó. Tôi nhớ lại lời nói của Emerson bất tử: Thế giới tạo cho ta niềm tin. Cần tuân theo và sống bằng số phận của mình, và tập trung chờ đợi qua tháng năm và qua mất mát, giờ phút mà Đấng sáng tạo loài người sẽ nói chuyện với mình.Lời của Đấng tạo hoá? Mong ước! Con trai tôi không bị câm điếc - đó là điều tôi mong mỏi hơn mọi điều trên thế gian này. Tôi không bao giờ từ bỏ mơ ước đó. Nhưng tôi có thể làm được gì? Tôi cần truyền cho con tôi mong muốn giống tôi - tìm ra cách thức và phương tiện đưa được âm thanh vào não mà không cần qua tai. Tôi quyết định: chỉ cần thằng bé lớn đủ để có thể giao tiếp được, tôi sẽ nạp vào nhận thức của nó mong muốn nghe được, và thiên nhiên sẽ buộc phải ủng hộ. Tôi không nói với ai điều tôi suy nghĩ và quyết định. Nhưng mỗi một ngày tôi đều nhắc lại lời thề của mình: con trai tôi không thể chịu câm điếc. Khi con trai tôi lớn dần và bắt đầu để ý đến thế giới xung quanh, chúng tôi nhận thấy nó cũng có một chút phản ứng yếu ớt về âm thanh. Và mặc dầu khi đến tuổi mà những trẻ khác bắt đầu tập nói còn con tôi thì không có một biểu hiện gì, theo dõi hành vi của nó chúng tôi cũng hiểu là nó có thể phân biệt được một vài âm thanh gì đó. Đó là điều chúng tôi muốn biết! Tôi tin chắc rằng nếu nó nghe được, dù chỉ yếu ớt, thì có thể phát triển thính giác cho nó được. Sau đó diễn ra một việc đem lại cho tôi niềm hy vọng. Và sự việc này xuất hiện từ hướng bất ngờ nhất. .
 
Chương II : 9. ĐÃ TÌM THẤY! : Chúng tôi mua máy ghi âm. Lần đầu tiên khi đứa trẻ nghe thấy nhạc, nó phấn chấn cao độ và dành ngay lấy máy. Có lần nó quay đĩa trong hai tiếng đồng hồ liền, răng cắn chặt mép ống nghe. Chúng tôi không hiểu hết tầm quan trọng trong thói quen này của nó khi chưa biết đến tính chất truyền âm của xương. Sau đó tôi phát hiện ra rằng nó nghe được khá rõ nếu tôi chạm môi mình vào xương sọ của nó. Khi biết chắc rằng nó phân biệt được giọng nói, tôi liền truyền cho nó ước muốn nghe được và nói được. Khi tôi thấy nó thích nghe kể chuyện trước khi đi ngủ, tôi liền sáng tác ra những câu chuyện có thể giúp hình thành tính tự tin, phát triển óc tưởng tượng và mong muốn nghe được và trở thành người bình thường.Có một câu chuyện mà tôi thường hay kể nhất, mỗi lần lại thêm vào những sắc màu và bước ngoặt mới về nội dung. ý nghĩa chung quy ở chỗ tật nguyền của nó không phải là điểm yếu, mà là tài sản có giá trị rất lớn lao. Tuy tôi có triết lý rằng nỗi bất hạnh nào cũng mang trong mình mầm mống của một ưu thế lớn, tôi vẫn (phải thành thật thú nhận) không mảy may hình dung được giá trị nào có thể chứa đựng trong sự tật nguyền của con trai tôi.
 
Chương II : 10. CÁI GÌ ĐÁNH TAN CƠN BÃO : Giờ đây, khi phân tích lại các sự kiện, tôi có thể nói rằng những kết quả ngạc nhiên mà con tôi đã đạt được có liên quan trực tiếp đến lòng tin của nó đối với tôi. Nó không cãi bất cứ điều gì tôi nói với nó. Tôi truyền cho nó ý nghĩ rằng nó có ưu thế rất lớn so với anh trai nó, và điều này thể hiện ở nhiều khía cạnh. Ví dụ, thầy giáo trong trường, thấy nó không có tai thì sẽ quan tâm đến nó nhiều hơn và sẽ đặc biệt âu yếm. Và nó thấy đúng là như vậy. Hoặc là, tôi nói với nó, khi nào lớn nó sẽ đi bán báo (anh nó đã làm việc đó rồi), và nó sẽ có lợi thế hơn anh nó rất nhiều, bởi vì người ta sẽ cho nó nhiều tiền thưởng hơn khi thấy nó là một đứa trẻ lạc quan và là người của công việc bất chấp khuyết tật của mình. Khi nó gần được bảy tuổi, xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên cho thấy phương pháp dự báo của chúng tôi mang lại kết quả. Suốt mấy tháng liền nó xin chúng tôi đặc quyền được đi bán báo, nhưng mẹ nó không đồng ý.Cuối cùng, cậu bé tự quyết định. Một lần, khi chúng tôi để nó ở nhà với gia nhân, nó chuồn ra phố qua cửa sổ ở bếp, vay 6 cent của ông thợ giày hàng xóm, đầu tư số vốn ban đầu này vào báo, bán hết, tái đầu tư, và cứ như vậy cho đến chiều. Sau khi cân đối và thanh toán với nhà băng, lãi ròng là 42 cent. Tối về đến nhà, chúng tôi thấy con đang ngủ say sưa. Một tay nắm chặt. Mẹ nó gỡ nắm tay, lôi ra mấy đồng xu và bật khóc. Tại sao? Khóc chiến thắng đầu tiên tưởng chừng không thực hiện nổi! Phản ứng của tôi ngược lại. Tôi vui cười thật sự vì thấy rằng: việc tôi kiên trì truyền cho thằng bé niềm tin vào chính mình đã đơm hoa kết trái. Trong hành động kinh doanh đầu tiên này, mẹ nó nhìn thấy cậu con trai bé nhỏ, ra phố và mạo hiểm cuộc sống để kiếm tiền. Còn tôi, tôi nhìn thấy một nhà doanh nghiệp nhỏ mạnh bạo, tham vọng và tự tin; niềm tin vào bản thân nhân gấp đôi vì cậu tự quyết định kinh doanh và đã chiến thắng. Thay đổi này làm tôi sung sướng - nó nói lên sức sống sẽ theo con tôi suốt đời.Cậu học trò nhỏ trong trường phổ thông và đại học không nghe thấy giáo viên nói gì nếu họ không hét lên từ một khoảng cách đủ gần. Nhưng cậu không đến trường dành cho người điếc. Chúng tôi không cho phép nó học ngôn ngữ ra hiệu. Chúng tôi rất kiên định rằng con trai chúng tôi sẽ sống một cuộc sống bình thường, giao tiếp với những đứa trẻ phát triển bình thường, và cương quyết không từ bỏ quyết định của mình, dù rất hao tổn thần kinh và mất thì giờ cãi cọ với quan chức nhà trường. Khi con trai tôi học trong trường đại học, nó thử một thiết bị nghe chạy điện, nhưng không có kết quả. Tuần sau, hoàn toàn do tình cờ mà nó vớ được một thiết bị nghe khác, nhưng nó không vội đeo thử vì sợ lại thất vọng. Khi nó cuối cùng cũng quyết định, đeo thiết bị và bật lên, thì - ôi diệu kỳ! - dường như theo lệnh chiếc đũa thần, mơ ước cả đời của nó đã được thực hiện - nó nghe được! Rõ gần như với người có thính giác bình thường.Tràn ngập hạnh phúc được bước vào thế giới âm thanh, nó lao ra điện thoại để gọi điện về cho mẹ - nó nghe lời mẹ thật rõ ràng. Lần đầu tiên trong đời nó nghe rõ lời các giáo sư trên giảng đường. Lần đầu tiên trong đời nó có thể nói chuyện thoải mái với mọi người mà không cần họ phải nói to. Thế giới thay đổi. Mong muốn bắt đầu đem lại lợi ích, nhưng chiến thắng vẫn chưa hoàn toàn. Con trai tôi còn phải tìm kiếm một con đường đi cụ thể và biến khuyết tật của mình thành tài sản có giá trị.
 
Chương II : 11. ÔI, NHỮNG ÂM THANH DIỆU KỲ! : Còn chưa đủ sức hiểu hết ý nghĩa của sự việc, nhưng không nén nổi sung sướng được làm quen với thế giới âm thanh mới, nó viết một bức thư cho nhà sản xuất thiết bị nghe và hào hứng kể về trường hợp của mình. Không hiểu tại sao công ty mời chàng trai đến Nữu-ước. Khi nó tham quan nhà máy và nói chuyện với kỹ sư trưởng, có điều gì đó - tia sáng, sự cảm hứng hay một ý niệm ( bạn muốn gọi thế nào cũng được) - đã loé lên trong nhận thức của nó. ít nhất thì cũng chính ý nghĩ loé lên này đã biến khuyết tật của nó thành tài sản và bắt đầu đưa lại cái lợi - bằng tiền cũng như bằng hạnh phúc của hàng nghìn người bất hạnh. Nó nghĩ ra rằng câu chuyện về thế giới riêng của nó đã thay đổi, nếu được kể lại dưới hình thức này hay hình thức khác, chắc sẽ giúp cho hàng triệu người điếc đang sống thiếu thiết bị nghe.Suốt một tháng nó tích cực nghiên cứu, phân tích hệ thống bán máy nghe và nghĩ cách liên hệ với người điếc trên toàn thế giới để chia sẻ với họ cảm giác mới của mình. Sau đó nó lập kế hoạch hai năm. Khi nó giới thiệu kế hoạch này với công ty, họ đã nhận ngay nó vào biên chế để thực hiện ý tưởng đã định. Khi bắt đầu công việc, nó có mơ ước rằng số phận của nó sẽ mang lại niềm hy vọng và giảm bớt nỗi khổ đau cho hàng ngàn người cam chịu bị điếc suốt đời hay không? Tôi không phút nào nghi ngờ rằng nếu như tôi với mẹ nó không hình thành được nhận thức cho con trai như chúng tôi đã làm, Blaer đã phải chịu câm điếc suốt đời. Khi bằng trái tim và ý chí của mình, tôi truyền cho nó sự ham thích được nghe, được nói và sống như tất cả mọi người, người tôi có phát ra một xung lượng, bắt thiên nhiên bắc cầu qua biển lặng im ngừng chia cắt bộ óc của nó với thế giới bên ngoài? Thật sự chỉ niềm ham mê mới biết hết những con đường ngoằn nghoèo có khả năng biến đổi ham mê đó thành tương đương vật chất. Blaer muốn nghe được, và nó đã nghe được. Nó ra đời mang khuyết tật, người kém vươn tới mục đích hơn chắc sẽ chấp nhận và ra phố - bán bút chì. Lời nói dối nhằm mục đích cứu giúp mà tôi thôi miên nó (rằng khuyết tật của nó là tài sản lớn lao), đã trở thành sự thật. Không có gì không thể khắc phục được bằng niềm tin kết hợp với sự đam mê. Nhưng mà, những điều này có ở mỗi người. .
 
Chương II : 12. ĐIỀU KỲ DIỆU SAU HẬU TRƯỜNG Một đoạn nhỏ tiểu sử bà Shuman Hink đăng trên báo sẽ cho ta chìa khoá để hiểu được thành công đáng sửng sốt của người đàn bà ca sỹ phi thường này. Tôi trích nó ra đây: Lúc đầu bà Shuman Hink đến gặp giám đốc Nhà hát opera hoàng gia ở Viên để ông nghe bà hát thử. Khinh khỉnh nhìn cô gái vụng về, ăn mặc nghèo nàn, ông kêu lên không cần giữ gìn ý tứ: Với bộ mặt và bề ngoài như thế này, làm sao cô có thể hy vọng thành công trong opera được? Cô bé ơi, từ bỏ ngay ý định này đi. Tốt hơn hết là nên mua máy may mà làm việc. Một thế kỷ nữa cô cũng không thể trở thành ca sỹ được. Song một thế kỷ thì quá lâu! Giám đốc Nhà hát opera hoàng gia Viên biết rất nhiều về kỹ thuật thanh nhạc. Nhưng ông không biết gì về sức mạnh của ước mơ khi nó đã trở thành tư tưởng ám ảnh. Vì nếu không thế thì ông đã không phê phán thiên tài mà không cho người ta một cơ hội nào để thử. . . . Mấy năm trước đây một người bạn hàng của tôi ốm nặng. Sức khoẻ ngày càng kém đi, và cuối cùng người ta quyết định mổ. Bác sỹ cảnh báo tôi rằng anh ta khó lòng sống sót. Nhưng bệnh nhân không nghĩ như vậy. Trước khi vào phòng mổ, anh thì thầm: Đừng lo, sếp. Vài ngày nữa tôi sẽ ra khỏi đây. Cô y tá có mặt trong cuộc nói chuyện nhìn tôi thương hại. Thế mà - bệnh nhân đã sống! Khi mọi việc đã qua, bác sỹ nói thế này: Mong muốn được sống đã cứu anh ta thoát chết, chứ không có gì hơn. Anh ta đã không thể thoát được, nếu anh đồng ý chấp nhận cái chết. Tôi tin vào hiệu lực của mong ước, củng cố bằng lòng tin, bởi vì tôi đã thấy sức mạnh này nâng con người từ hạng hèn mạt lên đỉnh cao của quyền lực và giàu sang, tôi đã thấy nó cứu các nạn nhân, làm phương tiện kéo mọi người ra khỏi chốn không tồn tại sau hàng trăm bất hạnh; cho con tôi một cuộc sống bình thường và hạnh phúc, bất chấp việc thiên nhiên đã bắt con tôi ra đời mà không cho tai. Thiên nhiên . . . sử dụng các phương tiện nhận thức hoá sinh lạ kỳ, hùng mạnh và không được biết đến, thiên nhiên ngụy trang bằng xung lượng ước mơ - không bao giờ chấp nhận từ không thể và không muốn biết đến từ không thành.
 
Chương II : 13. Suy nghĩ cần ghi chép: Khi ước muốn tập trung sức mạnh cho chiến thắng, bạn không cần đường rút lui nữa: chiến thắng đã đảm bảo. Sáu lời khuyên trong chương này sẽ biến mong muốn thành tiền bạc. Trường hợp của Andrew Carneghi - thành 100.000.000, đôla. Ước muốn biến không may thành chiến thắng. Chính ước muốn đã xây dựng một trong những cửa hàng lớn nhất thế giới trên đống tro tàn. Cậu bé không có tai đã học cách nghe được. Người phụ nữ không có một cơ hội nào đã trở thành danh ca opera nổi tiếng. Người bệnh mà bác sỹ kết tội chết , đã sống sót. Chính cái nhận thức hoá sinh bất thường và không rõ ràng đối với chúng ta đã giúp những người đó. KHÔNG CÓ MỘT TRỞ NGẠI NÀO ĐỐI VỚI TRÍ TUỆ, CHỈ TRỪ NHỮNG TRỞ NGẠI MÀ TA TỰ CÔNG NHẬN .
 
Ðề: Bữa cơm của Khổng Tử

sorry spam . xem tron bo sach moi vao :blog.yahoo.com/_K3JSH4O7H5QBRPJ4AJUGYKEW3I/articles/page/8?detail
 
Ðề: Bữa cơm của Khổng Tử

Chương III : 1. Niềm tin có điều khiển bắt mọi ý nghĩ ráo riết rung. Hưng phấn vì sức mạnh tự tin vào bản thân, bạn có thể đạt tới đỉnh cao bất ngờ nhất. BƯỚC THỨ HAI VƯƠN TỚI CỦA CẢI: NIỀM TIN Niềm tin - chất xúc tác của mọi khả năng trí tuệ. Nếu nó được quyện kết với ý nghĩ, thì ngay lập tức tiềm thức sẽ nắm bắt, chuyển thành tương đương tinh thần và truyền cho Trí tuệ siêu nhiên, giống như khi ta cầu nguyện. Trong số tất cả các loại tình cảm tích cực thì mạnh mẽ nhất là niềm tin, tình yêu và tình dục. Kết hợp với nhau, chúng tạo nên hiệu ứng nổi. Tại đây, tiềm thức vận động và thôi thúc Trí tuệ siêu nhiên trả lời câu hỏi đặt ra. Cần biết cách nắm bắt hình tượng cao siêu mà đồng dạng của nó là những ý nghĩ của bạn.
 
Chương III : 2. HÃY TÌM KIẾM - VÀ BẠN SẼ TÌM THẤY : Như vậy, chúng ta đã tiếp cận quan điểm cho phép hiểu rõ hơn ý nghĩa to lớn của tự kỷ ám thị trong việc vật chất hoá ước mơ, cụ thể là: niềm tin - đó là trạng thái của trí tuệ. Trạng thái này có thể tạo ra bằng cách dùng tự kỷ ám thị để tác động nhiều lần đến tiềm thức. Để minh họa, ta xem xét mục đích bạn đọc cuốn sách này: biết cách biến xung lượng ước muốn không sờ mó được thành tương đương vật chất của nó là tiền bạc. Theo các chỉ dẫn về tự kỷ ám thị và tiềm thức tổng kết trong chương này, bạn sẽ thấy rằng nếu bạn tin, bạn sẽ nhận được cái bạn mong muốn. Niềm tin vào thắng lợi này đã nằm sẵn trong tiềm thức của bạn trước khi thực hiện kế hoạch vật chất hóa ước mơ. Niềm tin là trạng thái của trí tuệ. Có thể phát triển nó thành ý chí nhờ mười ba nguyên tắc, bởi vì khi áp dụng những nguyên tắc này, niềm tin được hoàn thiện một cách có ý thức.Phương pháp duy nhất được biết về việc hoàn thiện niềm tin một cách có ý thức - là liên tục đưa vào tiềm thức như các cha cố vẫn thường làm. Cũng có thể ý này sẽ trở nên dễ hiểu hơn nếu ta so sánh với bản chất của tội ác. Các nhà hình sự học nổi tiếng đã đi đến kết luận rằng khi con người lần đầu tiên va chạm với tội ác, họ cảm thấy ghê tởm. Sau một thời gian tiếp xúc với tội ác, họ trở thành quen. Liên hệ nhiều với thế giới tội phạm sẽ làm cho con người tiêm nhiễm tội ác. Tương tự như vậy có thể nói rằng xung lượng của ý nghĩ cuối cùng cũng sẽ ngấm vào nhận thức, biến nó thành tương đương vật chất - là tiền bạc. Nhân đây tôi khuyên bạn nên suy ngẫm lại công thức: tất cả những ý nghĩ có thể hình dung ở mức cảm giác, với điều kiện chúng được đặt trên niềm tin, sẽ dần dần được vật chất hóa. Tình cảm, cảm xúc cội nguồn của ý nghĩ - đó là những thứ làm cho ý nghĩ có sức sống, hiệu lực và sức mạnh. Lòng tin, tình yêu và tình dục kết hợp với ý nghĩ trào dâng sẽ làm cho những cảm giác này có sức sống hơn nhiều so với bản thân chúng tự có.Nhưng muốn đạt tới độ sâu của tiềm thức và tác động đến nó, không những cần có ý nghĩ kết hợp với lòng tin, mà còn cần đến ý nghĩ xen lẫn những tình cảm tích cực và cả tiêu cực nữa! .
 
Ðề: Bữa cơm của Khổng Tử

Chương III : 3. KHÔNG MAY À? VỚ VẨN! Đến đây chúng ta đã gần như hiểu rằng tiềm thức vật chất hóa các ý nghĩ mang tính xây dựng cũng như các ý nghĩ phá hoại. Nó giải thích hiện tượng kỳ lạ mà hàng triệu người gọi là không may hay bất thành. Họ cho rằng họ là người không thoát khỏi nghèo đói và lay lắt vất vưởng. Họ có cảm giác rằng có một lực lượng lạ lùng nào đó xô đẩy họ đến kết cục này, và họ không thể làm gì khác được. Những người như vậy là tác giả ôsự bất hạnhằ của mình, bởi vì việc họ không tin vào chính bản thân mình đã xây tổ trong tiềm thức và đã vật chất hóa. Ở đây cũng cần nhắc lại rằng bạn có khả năng vật chất hóa ước muốn bất kỳ khi nó đã nằm trong tiềm thức. ở đây trạng thái trông đợi và tin rằng sự biến đổi diệu kỳ nhất định sẽ xảy ra là hết sức tự nhiên. Niềm tin của bạn hoặc chỉ đơn thuần là sự tự tin - chính là nhân tố đảm bảo hoạt động của tiềm thức, nếu bạn giao nhiệm vụ cho nó bằng cách tự kỷ ám thị. Tôi đã đánh lừa tiềm thức con trai mình như vậy.Tự đánh lừaằ mình như vậy rất đơn giản, nếu như bạn đã có được những đối tượng vật chất mà bạn cần khi đi vào tiềm thức. Tiềm thức biến thành tương đương vật chất của nó bằng tất cả các phương tiện thực tế có được. Dựa vào những điều đã nói ở trên, bằng cách làm thử và sửa sai, bạn có thể học được cách đưa niềm tin vào những chỉ thị cho tiềm thức. Sự hoàn thiện sẽ đến sau. Tự nó không thể nào có được, mà chỉ nảy sinh khi được hướng dẫn. Ngoài ra, bạn phải khuyến khích những tình cảm tích cực, để chúng chiếm ưu thế trong nhận thức và tiềm thức, và giảm bớt hoặc triệt tiêu những tình cảm tiêu cực. Nếu tình cảm tích cực chiếm ưu thế trong nhận thức, thì nhận thức sẽ tạo ra được mái nhà che chở cho niềm tin của mình. Trong trường hợp đó, nhận thức sẽ có những chỉ thị cho tiềm thức để tiềm thức có thể tiếp nhận và trực tiếp xử lý. .
 
Chương III : 4. Ý NGHĨ KHÔNG CÓ NIỀM TIN COI NHƯ ĐÃ CHẾT RỒI Đã nhiều thế kỷ, những người đáng kính trong tôn giáo răn bảo mọi người tin vào những giáo điều này khác, nhưng không bảo mọi người làm thế nào để có được niềm tin đó. Và vẫn chưa ai định nghĩa được ý nghĩ như sau: Niềm tin - đó là trạng thái của nhận thức có thể dùng tự kỷ ám thị để tạo ra. Bằng ngôn ngữ dễ hiểu đối với mọi người, chúng tôi tổng kết tất cả những gì được biết về các nguyên tắc hoàn thiện niềm tin ngay cả ở những nơi dường như không thể có được niềm tin. Hãy tin vào bản thân: niềm tin - trong sự Bất tận. Niềm tin - đó là ôvị thuốc trường sinhằ cung cấp sức sống và hiệu lực cho ý nghĩ! Niềm tin - đó là điểm tựa để tích luỹ của cải! Niềm tin - đó là cơ sở của những điều kỳ diệu và những bí mật mà khoa học không thể khám phá ra được.Niềm tin - đó là thuốc giải độc duy nhất cho mọi bất thành! Niềm tin - đó là ônguyên tố hóa họcằ khi kết hợp với cầu nguyện sẽ tạo mối liên hệ trực tiếp với Trí tuệ siêu nhiên. Niềm tin - đó là yếu tố biến sự vận động thông thường của ý nghĩ trong nhận thức hạn chế của một người bình thường thành tương đương tinh thần, thành xúc cảm cầu nguyện của nhận thức. Niềm tin - đó là sự môi giới duy nhất cho ta khả năng sử dụng sức mạnh vĩ đại của Trí tuệ siêu nhiên. .
 
Chương III : 5. NHỮNG Ý NGHĨ ĐỘC TÀI Tất cả những điều này chứng minh rất dễ và đơn giản. Do việc chứng minh quy về nguyên tắc tự kỷ ám thị, ta sẽ chú ý làm rõ vấn đề này. Ta sẽ làm rõ thế nào là tự kỷ ám thị và làm thế nào để biết cách sử dụng nó. Tất cả mọi người đều biết rằng nếu cứ nhắc đi nhắc lại một khẳng định nào đó, ta bắt đầu tin vào nó, không phụ thuộc vào việc nó đúng hay không đúng. Bởi vì lời nói dối được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, sẽ được hiểu là một chân lý đúng đắn nhất. Hơn thế nữa, có thể tin vào nó. Mỗi một người là chính bản thân anh ta vì nhận thức của anh ta do những ý nghĩ độc tài chiếm hữu. Dĩ nhiên, những ý nghĩ có thể trở thành như vậy được là do chúng ta cho phép chúng chiếm hữu chúng ta. Những ý nghĩ mà con người hiến thân một cách sẵn sàng và vui sướng, những ý nghĩ mà anh ta khuyến khích và nuôi dưỡng những cảm xúc nào đó, tạo ra sức mạnh thức tỉnh, điều khiển mọi chuyển động, kiểm soát mọi hành vi của anh ta! Ý nghĩ, kết hợp với một cảm giác rung động nào đó, sẽ là một kiểu ônam châmằ có khả năng lôi cuốn các ý nghĩ cùng loại.Ý nghĩ được lôi cuốn như vậy có thể so sánh với hạt giống rơi trên một mảnh đất màu mỡ: nó sẽ nảy mầm, đâm chồi và tái tạo nhiều lần cho đến khi cái hạt giống nhỏ bé ban đầu trở thành vô số hạt trên nhành! Ý nghĩ hay tư tưởng, kế hoạch hoặc dự định bất kỳ nào tồn tại trong nhận thức của ai đó, dường như kêu gọi các ý nghĩ cùng loại đến với mình, nhờ chúng mà bản thân trở nên hùng mạnh, và tất cả những ý nghĩ đó cùng nhau chiếm hữu trí tuệ mạnh mẽ đến mức chúng trở thành chủ nhân của tình hình. Còn bây giờ ta quay trở lại điểm xuất phát, điểm tựa mà ta đã nói đến, để hiểu - bằng cách nào hạt giống tư tưởng, kế hoạch hoặc dự định ban đầu có thể rơi lên mảnh đất nhận thức. Thật đơn giản: nó rơi vào nhận thức do ý nghĩ được nhắc đi nhắc lại. Đó là lý do tại sao bạn nên tự mình vạch ra dự định chính trong đời mình, cụ thể và rõ ràng, học thuộc lòng và hàng ngày nhắc đi nhắc lại cẩn thận, nâng niu, tôn trọng cho đến khi âm thanh giọng nói của bạn đến được với tiềm thức.Bạn phải kiên quyết xem xét lại những hành vi của mình, chấn chỉnh phong cách sống và loại bỏ ảnh hưởng có hại của những người và của môi trường xung quanh. Kiểm điểm lại sức mạnh nội tâm và các khiếm khuyết của mình, bạn sẽ phát hiện ra rằng điểm yếu nhất của bạn là thiếu tự tin vào bản thân. Có thể khắc phục được trở ngại này bằng nguyên tắc tự kỷ ám thị. Rất dễ thực hiện. Hãy tách ra tất cả những ý nghĩ tích cực, những cảm xúc trào dâng của tâm hồn. Sau đó chỉ cần ghi lại, học thuộc và nhắc đi nhắc lại cho đến khi chúng trở thành động lực của tiềm thức.
 
Chương III : 6. NĂM BƯỚC TỰ KHẲNG ĐỊNH Tôi đã hiểu mục đích cuộc đời mình, và tôi có đủ mọi khả năng để đạt được. Vì thế tôi tự đòi hỏi mình tính kiên trì. Tôi tự đòi hỏi mình không ngừng nỗ lực. Không rời chỗ, không khất lần, tôi tự hứa với mình sẽ làm tất cả những gì trong khả năng mình có. Tôi biết rằng ý nghĩ - chủ nhân nhận thức của tôi - sẽ tái tạo mình trong hành vi của tôi. Vì thế mỗi ngày tôi sẽ tập trung ba mươi phút để đào tạo mình thành nhân cách mà tôi vẫn mong muốn trở thành, bằng cách vẽ ra trong óc một hình tượng rõ ràng cụ thể. Từ nguyên tắc tự kỷ ám thị tôi biết rằng bất cứ ước muốn nào, nếu tôi vun đắp nó trong nhận thức của mình với độ kiên trì cần thiết, rốt cuộc cũng sẽ làm nảy sinh những phương tiện thực tế để thực hiện. Vì thế mỗi ngày tôi sẽ dành mười phút để thực hiện nhiệm vụ tự khẳng định mình. Tôi hình dung rõ ràng mục đích chính của đời mình và không bao giờ ngừng cố gắng cho đến khi đạt được sự tự tin vào bản thân.Tôi nhận thức đầy đủ rằng của cải và địa vị trong xã hội không thể bền vững được nếu nó không dựa trên sự thật và bình đẳng. Vì thế lương tâm tôi sẽ không cho phép thực hiện những việc làm ăn không đem lại cái lợi cho tất cả các bên tham gia. Tôi sẽ đạt điều mình muốn nhờ sức mạnh mà tôi sử dụng được khi liên kết với những người khác. Tôi cố thuyết phục họ giúp tôi và thể hiện sự sẵn sàng giúp đỡ lại họ. Tôi nén trong mình sự căm thù, ghen tỵ, ngờ vực, nhẫn tâm, vô liêm sỉ và hoàn thiện tình yêu đối với mọi người, vì tôi biết cách sử xự xấu với những người xung quanh không bao giờ đem lại thành công. Tôi sẽ bắt mọi người phải tin vào tôi vì tôi tin vào bản thân và vào mọi người. Tôi ký tên dưới những lời này, học thuộc lòng và sẽ nhắc đi nhắc lại thành tiếng mỗi ngày vì tôi tuyệt đối tin rằng chúng sẽ tác động đến suy nghĩ và hành vi của tôi, và tôi sẽ may mắn và tự tin vào bản thân.Nguyên tắc này dựa trên một quy luật của thiên nhiên mà chưa ai giải thích nổi. Ai muốn đặt cho nó tên gọi thế nào thì cũng chẳng quan trọng gì. Quan trọng là quy luật này tác động có lợi và làm vinh quang cho nhân loại, với điều kiện nó được áp dụng một cách xây dựng. Nhưng nếu nó được áp dụng theo kiểu ngược lại, rất dễ phá vỡ tất cả những gì xây dựng trước đây. Từ đây có thể rút ra một ý nghĩ hữu ích, rằng những người hiện nghèo đói và bất hạnh, đã lâm vào tình cảnh bất lợi này do tự mình có những ý nghĩ và tình cảm tiêu cực, mà tất cả mọi ý nghĩ đều có khả năng vật chất hóa.
 
Chương III : 7. ĐỪNG SUY NGHĨ GỞ : Tiềm thức không phân biệt được ý nghĩ xây dựng với ý nghĩ phá hoại. Tiềm thức làm việc với loại nguyên liệu mà chúng ta cung cấp. Tiềm thức vật chất hóa ý nghĩ gắn với cảm giác sợ hãi cũng dễ dàng như ý nghĩ táo bạo hoặc ý nghĩ do trạng thái cầu nguyện trong sáng sinh ra. Tác động của quy luật tự kỷ ám thị cũng giống như tác động của dòng điện, khi sử dụng đúng thì trung thành phục vụ con người, khi tiếp xúc thiếu cẩn thận thì có thể giết chết. Quy luật tự kỷ ám thị có khả năng đưa bạn đến giàu sang thịnh vượng, nhưng cũng dễ dàng đẩy bạn vào cõi đớn đau, bất hạnh và chết chóc, tuỳ thuộc vào trình độ bạn hiểu và áp dụng nó. Nếu bạn cung cấp cho nhận thức toàn sự sợ hãi, hoài nghi không tin vào khả năng bạn có thể tiếp xúc với Trí tuệ siêu nhiên và sử dụng năng lượng của Trí tuệ siêu nhiên, - quy luật tự kỷ ám thị sẽ làm tăng sự thiếu tự tin và bạn sẽ phải cúi đầu thuần phục ngẫu tượng này, và tiềm thức thì biến sự tồn tại của nó thành hiện thực.hướng Đông, quy luật tự kỷ ám thị có thể dâng bạn lên cao hoặc nhấn chìm bạn xuống, phụ thuộc vào việc bạn dương buồm suy nghĩ của mình như thế nào. Quy luật tự kỷ ám thị có khả năng nâng bạn lên tầm cao chóng mặt, làm trí tưởng tượng phải ngạc nhiên, - được mô tả trong những câu thơ sau:Nếu bạn nghĩ: trận đã thua, Tức là có lẽ đã thua thật rồi. Nếu bạn không tin cái tôi, Tím bầm trên mặt - ai thoi vào mình? Nếu bạn nghĩ: hết rồi vĩnh viễn Chẳng còn ta trong trí mọi người? Tất cả ở tại bạn thôi - Thành đạt có đến trong đời hay không. Nếu bạn nghĩ: bạn thành công,Phải tin tưởng thật, trong lòng thẳm sâu. Ai biết tin ở bản thân, Chiến thắng sẽ đến trong tầm nay mai. Cũng có thể chẳng cần chiến đấu, Với số phận - rồi sẽ bình thường. Hỏi người: Bạn có khả năng? Trả lời ngang ngạnh, thưa rằng: Tất nhiên! Hãy suy ngẫm những từ in nghiêng, và bạn sẽ thấy hết ý nghĩa sâu sắc mà thi sỹ đã đặt vào những dòng này.
 
Chương III : 8. KINH NGHIỆM VĨ ĐẠI CỦA TÌNH YÊU Trong tính cách của chúng ta, ở tận nơi sâu thẳm, có một hạt giống hành động đang ngủ yên. Nếu thức tỉnh và nảy mầm, nó có thể đưa ta lên một tầm cao mà chưa bao giờ ta hy vọng sẽ đạt tới. Như nhạc công vĩ cầm bắt âm nhạc tuyệt vời tuôn ra từ dây đàn, bạn cũng có thể đánh thức thiên tài đang ngủ yên trong khả năng trí tuệ của bạn, và bắt nó đưa bạn đến với mục tiêu mà bạn đã nhắm cho mình từ xa. Abraham Lincoln là người luôn không gặp may trong bất cứ việc gì ông bắt tay vào. Mọi việc cứ thế tiếp diễn cho đến năm ông bốn mươi tuổi. Ông đã là ngài Không ai cả và Không từ đâu đến, cho tới khi nỗi dằn vặt vĩ đại chen vào đời ông. Nó đánh thức thiên tài trí tuệ và trái tim đang ngủ trong ông, tặng thế giới một con người thật sự vĩ đại. Nỗi dằn vặt - kinh nghiệm sống đó gắn liền với tình yêu và nỗi buồn mà Ann Ratlege đã mang lại cho ông, và cả tình yêu lẫn nỗi buồn đều là chân chính.Ai cũng biết rằng tình yêu rất gần với trạng thái cầu nguyện của tâm hồn mà ta thường gọi là niềm tin. Vì thế tình yêu cũng ảnh hưởng đến quá trình chuyển ý nghĩ của con người thành tương đương vật chất. Nhiều năm viết sách, tìm hiểu cách hàng trăm người đạt được những thành tích lỗi lạc, tác giả đã đi đến kết luận rằng tất cả những người này đều chịu tác động của tình yêu đối với phụ nữ. Nếu bạn muốn chứng minh những khả năng khổng lồ của niềm tin, hãy xem kinh nghiệm của những người thật sự có lòng tin. Đứng đầu danh sách này là Giê-su. Và cơ sở của Thiên chúa giáo, muốn nói gì thì nói, vẫn là niềm tin, và việc bao nhiêu người xuyên tạc hay hiểu theo cách riêng của mình cũng chẳng có nghĩa gì. Bây giờ hãy xem xét sức mạnh của niềm tin mà Mahatma Gandi đã thể hiện cho ta thấy. Ông đã cho thế giới một tấm gương sáng về khả năng và sức mạnh của niềm tin. Gandi có thế năng lớn hơn tất cả những người cùng thời, mặc dầu ông không có bất kỳ phương tiện tiến hành chiến tranh nào - không tàu chiến, không lính, không khí tài quân sự. Gandi không có tiền, thậm chí không có cả quần áo tử tế, nhưng ông có sức mạnh. Làm thế nào mà ông có được nó?Ông đã tạo ra nó từ cách hiểu của mình về nguyên tắc niềm tin, sử dụng năng lực của mình để truyền lòng tin đó vào nhận thức của hai trăm triệu con người. Ông đã lập nên một chiến công lỗi lạc, tác động đến khối óc của hai trăm triệu con người, khiến họ liên kết và hành động nhất trí tựa như từ một nhận thức thống nhất. Sức mạnh nào, nếu không phải là sức mạnh của niềm tin, đã giúp đạt được chiến công lớn lao đến như vậy?
 
Chương III : 9. HẠNH PHÚC LÀ NGƯỜI CHO Trong doanh nghiệp tích cực không thể thiếu được lòng tin, sự vững tâm và tín nhiệm. Và việc phân tích những sự kiện cho phép ta hiểu được một trong những nguyên tắc mà các nhà công nghiệp và doanh nhân thường vận dụng, vừa hay vừa có ích. Đó là: muốn nhận, trước hết hãy cho. Trường hợp được chọn để minh họa cho nguyên tắc này diễn ra vào năm 1900, vào thời điểm thành lập Nghiệp đoàn Thép Mỹ. Khi đọc, hãy nhớ trong đầu các sự việc để có thể hiểu - những tư tưởng gì được sử dụng có lợi cho công việc và đem lại của cải không kể xiết. Lịch sử thành lập Liên đoàn mang tính chất giáo huấn đối với những người hay ngạc nhiên về những tài sản lớn. Nếu bạn vẫn còn hoài nghi về khẳng định rằng nếu biết suy nghĩ, con người sớm hay muộn cũng sẽ thành đạt, thì câu chuyện này sẽ xua tan những hoài nghi đó. Bạn sẽ thấy phần lớn những nguyên tắc trong quyển sách này được thực hiện như thế nào.Sức mạnh của tư tưởng được John Loem mô tả trong tờ New york World Telegram như sau: .
 
Chương III : 10.
BÀI DIỄN VĂN TUYỆT VỜI VỀ NHỮNG TỶ ĐÔ LA TRONG BUỔI TIỆC CHIÊU ĐÃI Chiều tối ngày 12.12.1900, gần tám mươi ông trùm tài phiệt của nước Mỹ tập trung tại Câu lạc bộ Đại học tổng hợp trên đường số 5 để dự buổi dạ hội mừng một người trai trẻ từ miền Tây về, chắc chẳng mấy ai trong số đó đoán được họ sẽ là người chứng kiến một trong những sự kiện nổi tiếng nhất trong lịch sử công nghiệp nước Mỹ. J.Edward Simmons và Charles Stuart Smith, cảm kích vì lòng hiếu khách của Charles M.Shwab trong thời gian họ đến thăm Pittburg, đã tổ chức tiệc chiêu đãi nhằm mục đích giới thiệu chuyên gia thép ba mươi tám tuổi với hội các nhà băng nhóm miền Đông. Họ không ngờ rằng anh sẽ làm náo động cả buổi dạ hội. Thật ra thì ai đó cũng đã cảnh báo trước rằng những kẻ khệnh khạng New York vốn không thích tài hùng biện, và nếu như ngài Shwab không muốn làm cho các ông Thép, ông Xây dựng và vân vân này buồn tẻ, thì hãy hạn chế ở một bài nói ngắn phải phép hai mươi, mà tốt nhất là mười lăm phút, và họ cũng sẽ chẳng để ý gì lắm đâu.Ngài John Pierpont Morgan, nhân vật thân cận với triều đình, dự định chỉ ban cho buổi tiệc một hân hạnh được chiêm ngưỡng sự có mặt của ông trong một thời gian ngắn. Đối với báo chí và dư luận xã hội, sự kiện này không đáng chú ý và ngày hôm sau cũng chẳng có sự nhắc nhở gì trên báo. Thế là, hai chủ nhân và những người khách trứ danh của họ, như thường lệ, ăn buổi tiệc bảy-tám món. Họ nói chuyện gì đó, nhưng cũng không ai hiểu chuyện gì. Trước đây, ít ai trong số các ông chủ nhà băng và các brocker gặp ngài Shwab, người làm doanh nghiệp trên bờ Mononghahill, và chưa ai biết tường tận về ông. Nhưng buổi tiệc chưa kịp kết thúc thì tất cả đã sôi động và Nghiệp đoàn Thép Mỹ (dự án nhiều tỷ đôla) đã có hình hài. Lịch sử tất nhiên đã bị thiệt hại rất nhiều vì không ai nghĩ đến việc ghi lại bài diễn văn của ngài Charles M.Shwab tại buổi chiêu đãi này.diễn văn và mọi người còn đang chịu ấn tượng mạnh, - mặc dầu ông chỉ nói tất cả có mười chín phút - J.P.Morgan đã kéo diễn giả ra một góc cạnh cửa sổ. Tại đó, ngồi trong một tư thế bất tiện, họ còn nói chuyện với nhau thêm một tiếng nữa. Lực hấp dẫn của cá nhân ông Shwab phát huy hết công suất, nhưng quan trọng hơn cả là ông đã triển khai được một chương trình tăng cường sản xuất thép đầy đủ, đường nét rõ ràng. Nhiều tay làm ăn đã cố khêu gợi ngài Morgan ý tưởng thành lập Liên hợp độc quyền (tơ-rớt) Thép theo kiểu các liên hiệp xí nghiệp sản xuất bánh bích quy, dây thép gai, đai thùng, đường, cao-su, rượu whisky, bơ và kẹo cao-su. John U.Gates, một người nổi tiếng về các vụ áp-phe ám muội, theo riết ngài Morgan, nhưng không được ông tin tưởng. Anh em nhà Moor, nhân viên thị trường chứng khoán Chicago, những người đã từng hình thành tơ-rớt diêm và Liên đoàn sản xuất bánh bích quy, cũng rất bám ngài Morgan, nhưng vẫn thất bại. Elbert H.Hary, luật sư đạo đức giả tỉnh lẻ, cố chắp nối công cuộc làm ăn này, nhưng không có đủ sức thuyết phục và gây một ấn tượng nào đối với nhà tài chính. Và nếu Shwab không đủ sức hùng biện để nâng ngài Morgan lên tầm cao cần thiết để ngài có thể thấy cái lợi từ việc đảm bảo tài chính cho dự án, chắc chắn ngài sẽ coi đó là lời lảm nhảm của kẻ điên đáng giá không hơn một bao diêm.Nam châm tài chính mà những thế hệ trước đây đã thu hút hàng ngàn xí nghiệp nhỏ và kém hiệu quả lập thành chuỗi xích dài tổ hợp những công ty có khả năng cạnh tranh, đã trở nên phổ biến trong lĩnh vực sản xuất thép nhờ kế hoạch của John U.Gates - gã kẻ cướp vui tính của doanh nghiệp này. Hắn đã tổ chức công ty American Steel and Wire từ một chuỗi các hãng nhỏ và cùng ngài Morgan lập nên công ty Federal Steel. Nhưng nếu so sánh với tơ-rớt khổng lồ mà ông Andrew Carneghi tổ chức theo ngành dọc, với sự tham gia của 53 bạn hàng, thì tất cả những tổ hợp còn lại cũng chỉ là hạng vặt vãnh. Thích thì cứ việc liên kết kiểu gì cũng được, những nó chẳng mảy may ảnh hưởng đến các xí nghiệp của Carneghi, và ngài Morgan rất hiểu điều đó.Ông già Scotland kỳ quặc (Carneghi) từ tầm cao lâu đài Skibo lộng lẫy của mình ngắm nhìn các công ty nhỏ của Morgan đang mưu toan leo vào doanh nghiệp của ông, lúc đầu còn thích thú, về sau trở nên tức giận. Khi những mưu toan đó trở nên trắng trợn, ông già bắt đầu thiên về việc trả thù. Ông dự định thiết lập một mạng lưới công nghiệp tương tự như mạng lưới của kẻ cạnh tranh. Trước đây, ông chẳng quan tâm gì đến dây thép gai, ống, đai, hay thép lá. Ngược lại. Ông muốn bán thép chưa xử lý cho những công ty này và để cho họ thích làm gì thì làm. Giờ đây, khi Ch.Shwab trở thành Phó thứ nhất của ông, ông muốn dồn bọn cạnh tranh vào chân tường. . . . Trong bài diễn văn của Charles M.Shwab, ngài Morgan nhận ra đáp số bài toán tổ hợp của mình. Tơ-rớt - cái lớn nhất trong tất cả những thứ cùng loại - không có Carneghi, thì chẳng còn là tơ-rớt, mà, như một nhà văn mô tả, không khác nào chiếc bánh kem mà lại thiếu kem.Trong bài diễn văn đêm 12.12.1900, Charles M.Shwab xuất phát từ giả thuyết, nhưng không có đảm bảo, rằng sự nhạy bén lớn lao của Carneghi có thể được sử dụng dưới mái nhà của Morgan. Ông nói về tương lai của ngành sản xuất thép trên thế giới, về việc tổ chức lại và lợi nhuận, về việc bỏ những nhà máy làm việc kém hiệu quả, tập trung sức lực cho những nhà máy đang phát triển tốt, tiết kiệm chi phí vận chuyển kim loại, về bộ máy quản trị và hành chính, và về việc chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ quốc tế. Nhưng lớn hơn tất cả, Charles M.Shwab phân tích cho hội kẻ cướp trong doanh nghiệp rõ, đâu là sai lầm chính trong hoạt động ăn cướp của họ. Ông rút ra kết luận rằng mục đích chính của họ - thiết lập độc quyền, nâng giá và kiếm lợi nhuận tối đa - là rất thiển cận. Bởi vì chính sách như vậy sẽ hạn chế thị trường và chỉ thích hợp với thời kỳ công nghiệp bành trướng theo chiều rộng. Ông khẳng định rằng thép với giá thành rẻ sẽ hình thành được thị trường mà họ hằng mong muốn, rằng sẽ phát hiện ra những lĩnh vực ứng dụng thép mới và điều đó cho phép chiếm lĩnh được một phần đáng kể thị trường quốc tế. Mặc dù ông không hề biết, thực tế Ch. M.Shwab đã là ôthánh tông đồằ của việc sản xuất sản phẩm đại trà.Bữa tiệc chiêu đãi ở Câu lạc bộ Đại học tổng hợp kết thúc như vậy. Ngài J.P.Morgan ra về, ngẫm nghĩ về những dự đoán lạc quan của Ch. M.Shwab. Shwab trở về Pittsburg để cứu ngành công nghiệp thép thoát khỏi ông già khả ái Carneghi, trong khi Hary và những người khác quay về bên các thiết bị của thị trường định giá các loại chứng khoán, và chờ đợi những bước tiếp theo. Và những bước này đã xuất hiện không chậm trễ. Ngài J.P.Morgan cần đến một tuần để tiêu hóa những đề nghị ngon lành của Shwab. Một bữa tiệc thật sự! Khi đã tin chắc rằng không thể có sự bội thực tài chính, ngài liền cho người đi tìm chàng trẻ tuổi, và phát hiện ra rằng người này cũng tương đối rụt rè. Ch. M.Shwab báo trước rằng ngài Carneghi có thể sẽ rất không thích việc Ch. M.Shwab, chủ tịch tơ-rớt của ông, lại đi chơi trò chim chuột với Ông vua của Wall-street mà ông đã quyết định không bao giờ đặt chân tới. Lúc đó, John U.Gates - kẻ môi giới - đề nghị Ch. M.Shwab tình cờ có mặt tại khách sạn Belview (Philadelphia) vào một thời điểm nào đó, để ngài Morgan cũng có thể tình cờ có mặt tại đó. Nhưng khi Shwab đến Philadelphia, ngài Morgan đột nhiên bị ốm và buộc phải nằm nhà tại New-york. Vì vậy Ch. M.Shwab quay về New-york và sau đó xuất hiện trong thư viện danh tiếng của nhà tài phiệt.Các nhà lịch sử kinh tế trịnh trọng khẳng định rằng toàn bộ vở kịch này từ đầu đến cuối là do chính ngài Carneghi dựng nên: cả buổi dạ hội chào mừng Ch. M.Shwab, cả bài diễn văn tuyệt vời, cả câu chuyện bàn ban đêm với J.P.Morgan - tất cả đều do lão già Scotland quỷ quyệt dựng cảnh. Nhưng thực tế hoàn toàn ngược lại. Khi Ch. M.Shwab được mời đến gặp J.P.Morgan để bàn công việc, ông còn chưa biết được ôông chủ nhỏ béằ của mình (họ gọi Andrew Carneghi như vậy) sẽ đánh giá đề nghị bán công ty như thế nào. Đặc biệt là bán công ty cho nhóm những nhà doanh nghiệp mà ông nhìn nhận giống như cha cố nhìn nhận bọn bất chính. Song khi câu chuyện đến hồi quyết định, ngài Shwab đã trình bày những cột chữ số in đẹp trên sáu trang giấy, và rốt cuộc chứng minh cho ngài Carneghi thấy tính hiện thực trong việc có những thu nhập khổng lồ do bán các công ty sản xuất thép.Và chẳng có gì phải sửng sốt! Bởi vì những con số đó đã được bốn người vắt óc suốt đêm nghĩ ra. Chủ tọa cuộc họp tất nhiên là ngài Morgan với niềm tin sắt đá vào sức mạnh thần diệu của tiền bạc. Bên cạnh ông là Robert Bacon, người bạn hàng vương giả và học thức. Người thứ ba là John U.Gates mà ngài Morgan khinh bỉ như một kẻ gian lận, nhưng vẫn sử dụng làm công cụ để đạt mục tiêu. Và cuối cùng là Ch. M.Shwab, người biết về quá trình thành lập và bán các công ty sản xuất thép nhiều hơn bất cứ ai trên đời. Những con số từ Pittsburg chưa bao giờ bị nghi ngờ. Nếu ông Shwab nói rằng một công ty nào đó đáng giá bao nhiêu đó thì nó đúng chừng đó, không hơn không kém. Ông còn cả quyết rằng Liên hiệp sẽ chỉ bao gồm những xí nghiệp ông sẽ nêu tên. Ông nghĩ đến một Liên hiệp trong đó không có sự trùng lắp, nhưng hoàn toàn không để phá sự ngon miệng của những người bạn mới đang muốn đẩy toàn bộ gánh nặng tài chính sang đôi vai vạm vỡ của ông J.P.Morgan. Khi bình minh hé rạng, ngài Morgan đứng đậy vươn vai. Chỉ còn lại một vấn đề chưa thảo luận. Ông nghĩ ông có khả năng thuyết phục Andrew Carneghi bán công ty không? - ngài hỏi.- Tôi sẽ cố gắng, - Ch. M.Shwab trả lời. Nếu ông thuyết phục được, tôi sẽ đảm bảo tất cả phần còn lại, - J.P.Morgan khẳng định. Nói - là làm. Nhưng Andrew Carneghi có cắn câu vụ này không? Và lão sẽ đòi bao nhiêu? (Ngài Shwab cho là gần 320 000 000 đôla). Và ông ta sẽ đòi trả bằng gì? Văn tự? Tiền mặt? Chẳng ai có thể thu thập được lấy 1/3 tỷ đôla bằng tiền mặt. Vào một ngày giá lạnh đẹp trời tháng giêng, trên sân golf ở West-Chester, Andrew, ăn mặc kín cổng cao tường, và Charle, như thường lệ huyên thuyên liên tục để nâng tinh thần, gặp nhau để chơi. Trước khi về đến biệt thự riêng ấm áp và tiện nghi của ngài Carneghi, không ai hé một lời nào về công việc. Khi Andrew Carneghi đã ấm áp và thư giãn, Ch. Shwab, với tính thuyết phục đã từng thôi miên 80 triệu phú Nữu-ước, từ tốn trình bày về triển vọng hứa hẹn của việc thoải mái ra đi, rời bỏ doanh nghiệp lớn để về hưu, về những của cải chưa từng thấy, có khả năng thoả mãn mọi ý muốn kỳ quặc thất thường nhất của một người già. Và A. Carneghi đã đầu hàng! Ông viết một con số trên trang giấy, đưa cho Shwab và bảo: Được! Đây là giá ta sẽ bán!Con số đó là 400 000 000 đôla, gần với con số Shwab đã nêu với ngài Morgan. Thật ra thì khoản chênh lệch 80 000 000 đôla là tính đến việc tăng giá bất động sản trong hai năm cuối. Sau đó ít lâu, trên boong con tàu xuyên đại dương, ông già Scotland tiếc rẻ phàn nàn với J.P.Morgan, rằng lẽ ra ông phải đòi thêm 100 000 000 đôla nữa mới phải. Và người này trả lời vui vẻ: Lúc ấy ngài mà đòi, chắc ngài đã nhận được rồi. Dĩ nhiên, về sự kiện này đã có một tiếng đồn lớn. Phóng viên Anh đánh giá rằng cả thế giới doanh nghiệp liên quan đến sản xuất và bán thép đã khiếp sợ cái Liên hiệp khổng lồ. Giám đốc Đại học tổng hợp Yel, ngài Hardly, đã tuyên bố rằng mặc dù có chính sách chống tơ-rớt, trong hai mươi lăm năm nữa sẽ xuất hiện một ông vua mới trong nước. Và tay chứng khoán nổi tiếng, ngài Kin, đã làm nên cả sự nghiệp nhờ đưa ra thị trường chứng khoán những cổ phiếu mới trị giá gần 600 000 000 đôla. Và tất cả những chàng trai đó, từ ngài Gates đến ngài Hary, không ai thiếu phần. Charles Shwab, 38 tuổi, đã thôi nhà băng của mình. Ông trở thành chủ tịch Liên hiệp mới và điều hành nó cho đến năm 1930. .
 
Chương III : 11. CỦA CẢI SINH RA TỪ BÊN TRONG :Câu chuyện trong lĩnh vực doanh nghiệp lớn mà các bạn vừa chứng kiến trên đây - là minh họa tốt nhất cho phương pháp mà chúng tôi đã nói. Phương pháp biến mong muốn thành hiện thực. Tổ chức khổng lồ ban đầu ra đời trong trí tưởng tượng của một người. Kế hoạch tài trợ - thu hút các nhà máy sản xuất thép - chín muồi cũng trong đầu óc của chính người ấy. Tin tưởng vào thành công, mong ước to lớn, trí tưởng tượng phong phú, và cuối cùng là sự kiên định quyết đạt mục tiêu đã đặt ra - đó là những bộ phận cấu thành thật sự của thành công, cho phép tạo ra Thép Mỹ. Nhà máy, thiết bị - tất cả những thứ mà chúng ta vẫn gọi là công cụ sản xuất, những thứ trở nên rất quan trọng sau khi mọi việc đã hoàn thành, thật ra đã không đóng một vai trò nào trong quá trình đàm phán. Nhưng phân tích kỹ cho thấy giá trị của tài sản cuối cùng do một người điều khiển là 600 000 000 đôla.Nói cách khác, tư tưởng của Charles M.Shwab, gắn với lòng tin, và được ông chia sẻ với J.P.Morgan và những người khác, đã được bán ra vói giá cao - 600 000 000 đôla. Giá của một tư tưởng - thật không tồi! Liên hiệp Thép Mỹ trong tương lai đã chứng tỏ rằng số triệu mà ngài Shwab đã bán tư tưởng của mình, chưa phải là tất cả! Bởi vì nó đã trở thành một trong những công ty giàu nhất thế giới, tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn người, hoàn thiện các phương pháp sử dụng thép và mở ra những thị trường tiêu thụ mới. Có nghĩa là công ty đã trở nên thịnh vượng! Của cải ban đầu đến với thế giới này dưới dạng ý nghĩ! Tổng số của cải mà một người thu được chỉ hạn chế bởi chính tầm cỡ của người đó. Niềm tin xoá bỏ mọi hạn chế. Hãy nhớ đến điều đó khi bạn sẵn sàng ký với cuộc đời bản hợp đồng với trị giá bạn mong muốn. Suy nghĩ cần ghi chép Muốn thành công cần có niềm tin. Niềm tin có thể tạo ra và củng cố bằng cách đưa vào tiềm thức những ý nghĩ cần thiết.Để tự khẳng định cần qua 5 bước. Năm bước này thuần phục sức mạnh nội tâm trong con người bạn khá dễ dàng. Bây giờ thì bạn đã rõ: mọi việc dường như đã kết thúc, song nếu ý nghĩ định hướng chiến thắng, thì hạnh phúc và thành công mai sau chính là kết quả của tình huống hôm nay. Tấm gương những người như A.Lincoln và M.Gandi cho thấy ý nghĩ cũng giống như ônam châmằ, có khả năng hút những ý nghĩ có tinh thần gần giống mình, làm cho hàng triệu khối óc cùng làm việc nhất trí. Một điểm rất quan trọng: trước khi muốn nhận, cần phải cho. Khi các nhà triệu phú hiểu ra điều đó, doanh nghiệp ăn cướp biến thành kinh doanh chân chính, làm việc phục vụ xã hội và cùng với xã hội. Và việc kinh doanh như vậy đến nay vẫn là có lợi nhất. CẢ NGHÈO ĐÓI LẪN GIÀU SANG - ĐỀU LÀ CON ĐẺ CỦA NIỀM TIN! .
 
Top