Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng - 3 bài văn phân tích

Thiên nhiên luôn là một đề tài quen thuộc trong thi ca hội họa. “Tây Tiến” cũng là một tác phẩm có sử dụng chất liệu, hình ảnh thiên nhiên. Sau đây sẽ là bài hướng dẫn các bạn đề bài cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.

Từ cổ chí kim mỗi hình ảnh thiên nhiên: nhành cây, bông hoa, giọt mưa, ánh nắng... đều được sử dụng chất liệu cho mỗi tác phẩm văn học. Những hình ảnh thiên nhiên có khi được sử dụng một cách trực tiếp, có khi lại được mượn hình ảnh ẩn ý để làm biểu tượng. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã phác họa bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến” làm một bức phông nền khắc họa hình tượng người lính một cách sinh động. Để cảm nhận bức tranh thiên nhiên các bạn có thể kết hợp việc phân tích bức tranh thiên nhiên với các phương thức như miêu tả giúp bài viết trở nên thuyết phục hơn. Ngoài ra các bạn có thể sử dụng biện pháp nhân hóa, biểu cảm để có thể thuật dựng bức tranh thiên nhiên sống động hơn. Nhưng các bạn cũng cần phân tích việc bức tranh thiên nhiên giúp làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến, từ đó nhà thơ muốn gửi gắm điều gì qua tác phẩm và việc xây dựng bức tranh thiên nhiên. Mỗi nhà thơ đều có những cách khác nhau trong việc miêu tả bức tranh thiên nhiên, vì vậy các bạn cũng cần chỉ ra nét riêng độc đáo của nhà thơ Quang Dũng. Sau đây là bài văn giúp các bạn có thêm tư liệu để viết đề bài cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng. Chúc các bạn làm bài thật tốt!

buc-tranh-thien-nhien-trong-tay-tien.jpg

Thiên nhiên trong bài thơ dù thực tế ẩn chưa khá nhiều khó khăn gian khổ thậm chí ảnh hưởng tới tính mạng của người lính nhưng tác giả đã khắc họa lên 1 cách rất nên thơ làm cho tính chất đó giảm đi đáng kể, càng tô thêm vẻ lãng mạng bi tráng của người lính

BÀI VĂN MẪU SỐ 1 CẢM NHẬN BỨC TRANH THIÊN NHIÊN TRONG BÀI THƠ “TÂY TIẾN” CỦA QUANG DŨNG
  • “ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
  • Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
  • (Chế Lan Viên)
Trong cuộc đời mỗi người đã từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều trở thành những kỉ niệm những dấu ấn khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã từng trải qua cảm xúc ấy. Thiên nhiên miền Tây Bắc đã để lại trong nhà thơ những cảm xúc riêng để rồi bức tranh ấy đã được tạc lại đầy hào hùng và thơ mộng trong bài thơ “Tây Tiến”.

“Tây Tiến” được nhà thơ sáng tác cuối năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi Quang Dũng rời Tây Tiến đi làm nhiệm vụ khác. Cả bài thơ là một nỗi nhớ dài của những kỉ niệm “ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” . Trong nỗi nhớ “ chơi vơi” ấy người đọc được khám phá và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên Tây Bắc.

Nếu ai đến với Tây Bắc sẽ không thể nào quên vẻ hùng vĩ và dữ dội của núi rừng nơi đây. Vẻ đẹp ấy đã được nhà thơ Quang Dũng dựng lại trong những hình ảnh thơ đầy độc đáo . Trước hết là thế hun hút của thế đèo cao dốc ngược:
  • “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
  • Heo hút cồn mây súng ngửi trời
  • Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Với cách sử dụng điệp từ “dốc” cùng nhịp 4/3 và các láy từ “ khúc khuỷu, thăm thẳm” , Quang Dũng như đang đưa từng nét vẽ rắn rỏi và chắc khỏe và hình ảnh của những con dốc tiếp nối nhau đầy gập ghềnh hiểm trở và ẩn chứa nhiều bất trắc. Cùng với dốc là những “ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Câu thơ được tạo thành từ hai vế tiểu đối , hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng được đặc tả: một bên thì lên cao chót vót, một bên xuống sâu thăm thẳm. Không gian thơ được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi,chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng. Ba dòng thơ giàu tính tạo hình nhiều thanh trắc đã gợi mở bao hùng vĩ dữ dội của thiên nhiên nơi đây. Hiểm nguy của núi rừng còn được đẩy cao qua hình ảnh:
  • “Chiều chiều oai linh thác gầm thét
  • Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Núi rừng tây Bắc hiện lên với bao âm u, hoang dã với thời gian buổi chiều , về đêm càng nhấn mạnh vẻ hoang sơ của chốn “ sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa , từ láy được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về về một vùng núi hoang vu dữ dội. Cảm tưởng như người đọc có thể nghe được từng bước chân, từng tiếng gầm gừ của chúa sơn lâm, mối đe dọa với những người chiến sĩ. Không chỉ vậy cái dữ dội, hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc còn được cụ thể qua hình ảnh của con sông Mã:
  • “ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nội lực của câu thơ dồn vào động từ “gầm”. chỉ một chữ ấy thôi cũng đủ thấy cái bi tráng hùng vĩ của con sông đang gầm gào dữ dội, ẩn chứa một sức mạnh to lớn.

Thiên nhiên Tây Bắc đã lầm nền cảnh làm nổi bật vẻ hào hùng bi tráng của những người lính trên đường hành quân phải trải qua biết bao hiểm nguy thử thách đến từ thiên nhiên.

Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc không chỉ mang vẻ đẹp hùng vĩ , dữ dội mà còn thơ mộng trữ tình với những đường nét mềm mại:
  • “ Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Không phải hoa nở mà là “hoa về”, không phải đêm khuya mà là “đêm hơi”. Bằng cách sử dụng những thanh bằng , câu thơ không tả mà chỉ thiên về gợi qua những đường nét ấn tượng đã ghi lại những nét riêng của cảnh trí nơi này vừa mộng mơ ảo huyền vừa thực vừa hư , như sương như khói. Bao phủ lên thiên nhiên Tây Bắc không chỉ có cái huyền ảo của đêm mà còn có cái êm dịu tươi mát của mưa rừng Tây Bắc:
  • “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Đối lập với những câu thơ miêu tả sự hùng vĩ dữ dội , ở đây vẻ đẹp của thiên nhiên đã được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn. Câu thơ được dệt bằng đa phần thanh bằng gợi mở những hình ảnh nếp nhà ẩn hiện trong màn mưa nơi thung lũng Pha Luông. Không gian được đẩy xa,cái nhìn trở nên mờ ảo sương khói. Có mưa nhưng không lạnh lẽo, hoang vắng mà toát lên cái bình yên, thơ mộng. Làm nên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình cho bức tranh thiên nhiên Tây Bắc còn phải kể đến một chiều sương trên sông nước Châu Mộc:
  • “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
  • Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
  • Có nhớ dáng người trên độc mộc
  • Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Núi cao không còn trước mắt mà chỉ là một chiều sương với hồn lau, bến lách, dáng người trên con thuyền độc mộc, dáng hoa đong đưa. Ba chữ “chiều sương ấy”với đại từ phiếm chỉ , không xác định , gói trọn cả không gian thời gian. Âm điệu câu thơ như trùng xuống chậm lại được kéo dãn ra . Cảnh thơ trở nên hữu tình với những ý thơ “ hồn lau, hoa đong đưa”. “Hoa” ở đây có thể là hình ảnh thực của xứ Tây Bắc ngàn hoa cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ cho người con gái đang soi mình dưới dòng nước lũ. Hồn lau và hồn hoa hài hòa với tâm hồn người lính làm nên hồn thơ rất riêng. Một chất thơ chất nhạc bàng bạc trong hình ảnh thơ. Những câu thơ trở nên thật đẹp vì nó được vẽ nên bởi tâm hồn nhạy cảm tinh tế của những chàng trai Hà Nội trước mảnh đất xứ lạ. Qua đó vẻ đẹp hào hoa lãng mạn của người lính Tây Tiến được gián tiếp thể hiện một cách đầy thi vị.

Thiên nhiên trong cái nhìn của người chiến sĩ Tây Tiến giống như một tác phẩm hội hoạ tuyệt vời. Những nét vẽ táo bạo khoẻ khoắn, ngôn ngữ gân guốc ở đoạn đầu khi phác hoạ núi cao rừng thẳm dữ dội kết hợp với những nét vẽ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ mềm mại, nhịp thơ êm ả thơ mộng khi tả cảnh sông nước miền Tây. Và trên hết, thiên nhiên Tây Bắc chính là phông nền để người lính Tây Tiến hiện lên như những người anh hùng phi thường của sử thi thời chống Pháp. Đó chính là cái tài hoa của ngòi bút Quang Dũng.

-TTT-

buc-tranh-thien-nhien.jpg

Bức tranh thiên nhiên vùng Tây Bắc đã được Quang Dũng vẽ lên thành 1 bức tranh đầy nghệ thuật và thơ mộng làm chúng ta như muốn hòa mình vào đó, vào thiên nhiên cây cối hoa lá

BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH BỨC TRANH THIÊN NHIÊN TRONG BÀI THƠ “TÂY TIẾN” NGẮN GỌN HAY NHẤT
Thế giới được tạo lập không phải một lần nhưng mỗi lần người nghệ sĩ xuất hiện là một lần thế giới được tạo lập. Cỏ cây hoa lá vẫn ở đó, vẫn là cuộc sống thường ngày xung quanh ta nhưng sao khi vào những trang thơ, áng văn lại trở nên đẹp đến lạ kì! Hình ảnh thiên nhiên vùng Tây Bắc luôn làm chúng ta bất ngờ như thế qua từng câu chữ của “Tây Tiến”.

Quang Dũng thật hay viết và cũng viết thật hay về nỗi nhớ - nỗi nhớ dấy lên từ những nẻo đường tha hương, nẻo đường cách mạng và kháng chiến, hướng về “cố quận”, về “Xứ Đoài mây trắng lắm”, về một “ngọn Ba Vì mờ xa” và cả cái tên thân thương “Tây Tiến”. Bài thơ được viết năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ nồng nàn với Tây Tiến – đơn vị chiến đầu cũ – cũng là nỗi nhớ núi rừng rải về miền Tây Tổ quốc có vẻ tuyệt kì mà Quang Dũng một thời gắn bó. Không khí lãng mạn rất riêng của những ngày đầu kháng chiến, tư thế dấn thân đầy kiêu hùng, quả cảm của người con Hà Nội hào hoa, đa tình đã được thể hiện đậm nét ở từng câu thơ chưa đầy chất nhạc, chất họa, vừa trang trọng, cổ kính, vừa tươi tắn, trẻ trung.

Mạch thơ chủ yếu là sự đan dệt của kỉ niệm, của những sực nhớ miên man, của những vụt hiện bất ngờ mà ở đó các địa danh có khi chỉ thoáng một dòng tên, có khi chỉ là một điểm nhấn nào đó của kỉ niệm. Còn kỉ niệm bao giờ cũng chan hòa cảnh với người, cùng song hành và đan dệt cả hai mạch: vừa gian khổ vừa thơ mộng:
  • “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
  • Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bút pháp hiện thực đã miêu tả chân thực hình ảnh đoàn quân dãi dầu mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Và đêm sương ấy trở thành “đêm hơi” bồng bềnh qua cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Những ngọn đuốc soi đường như những đóa hoa chập chờn, lung linh, huyền hoặc. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên được cảm nhận một cách thật thú vị bởi hình ảnh lãng mạn, hào hoa.

Giống như “Tiến quân ca” và mọi khúc quân hành, trong “Tây Tiến”, ta thấy nổi lên hình tượng những con đường. Con đường được kết bằng những địa danh Việt – Lào, đọc lên trầm bổng như ca hát, xa lạ và hiện đại:
  • “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
  • Heo hút cồn mây súng ngửi trời
  • Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
  • Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” có 7 chữ mà tới 5 chữ là thanh trắc cùng điệp từ “dốc”, các từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” đã gợi tả hình ảnh con đường hành quân với những đèo dốc quanh co, gập ghềnh, lên cao mãi. Từ láy “heo hút” gợi về cảm giác xa xôi, hẻo lánh. Đặc biệt, nhà thơ không phải người sao chép cuộc sống vào trang thơ mà mỗi chữ đều là sự sôi sục “đãi quặng tìm vàng” (Maiacopxki), để “lượm lặt” trên luống cày đời sống, ấp ủ và gieo lên thành những đóa hoa thơ tuyệt đẹp. Những chữ lấp lánh ấy vừa khiến người ta bất ngờ lại vừa gây hứng thú: “cồn mây”. Không phải áng mây phiêu du hay chòm mây phiêu lãng mà lại là “cồn mây” mờ mịt nơi cửa ải xa: “mặt đất mây đùn cửa ải xa” (Đỗ Phủ). Hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” mới độc đáo và thú vị làm sao. Đến câu thơ tiếp theo lại được ngắt đột ngột làm đôi, vẽ ra hai chặng đường hành quân. Điệp ngữ “ngàn thước” cùng nghệ thuật đối lập “lên cao- xuống” đã gợi tả độ sâu của vực đầy dữ dội, hiểm trở. Thì ra đọc thơ Quang Dũng không chỉ như ngậm nhạc trong miệng mà còn như được thưởng tranh. “Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc” là vì thế. Nếu câu thơ trên trắc trở bao nhiêu thì câu thơ dưới lại mềm mại bất nhiêu, câu thơ trên cheo leo bao nhiêu thì dưới lại nhẹ nhàng bấy nhiêu, cảnh trên hiểm trở bao nhiêu thì cảnh hiện thời lại êm đềm bấy nhiêu: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Tâm hồn thảnh thơi được trải ra theo những âm bằng suốt cả câu thơ rồi.

Có những khi, thiên nhiên lại hiện lên thật hùng vĩ và dữ dôi:
  • “Chiều chiều oai linh thác gầm thét
  • Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
“Thác gầm thét, cọp trêu người” là những hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự hoang sơ, dữ dội, bí hiểm của núi rừng Tây Bắc. “Chiều chiều, đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng. Sức mạnh của thiên nhiên ngự trị nơi đây không phải chỉ có một chiều, một đêm mà là “chiều chiều, đêm đêm”. Nhưng đó cũng là thời gian của những cuộc hành quân Tây Tiến. Vì thế mà hai câu thơ miêu tả cái thâm u, bí ẩn của rừng núi miền Tây Bắc càng khiến chân dung người chiến sĩ thêm cao lớn, mạnh mẽ.

Những câu thơ tiếp theo là hình ảnh thiên nhiên miền sơn cước tuyệt đẹp:
  • “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
  • Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
  • Có thấy dáng người trên độc mộc
  • Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Một từ “chiều sương” thôi mà gợi được cả thời gian và không gian. Cổ thi mỗi khi nhắc đến chiều, đến sương là một nỗi buồn thiên cổ, là nỗi hoài cổ ngàn năm gợi về: “Dặm liễu sương sa khách bước dồn. (Bà Huyện Thanh Quan). Nhưng câu thơ của Quang Dũng lại cho ta một cảm giác rất nhẹ nhàng, bình yên. Một từ “ấy” vô danh nhưng lại hữu ý. Từ “ấy” vô danh vì nó gợi nhắc đến một thời gian nào đó, đôi khi cả chủ thể cũng không thể xác định được: là “Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn” (Xuân Diệu), là “Từ ấy”, “Mười lăm năm ấy” trong hồi ức của Tố Hữu. Nhưng đó cùng là ngày không thể lẫn vào đâu trong muôn vàn buổi chiều vô danh khác trong đời: buổi chiều mang tên kỉ niệm, mang theo nỗi nhớ. Nhà thơ chỉ mất một ít rõ ràng nhưng nhận lại bao la những ý nghĩa. Không phải là “cây lau”, “ngọn lau” hay “phận lau” như TS Chu Văn Sơn dùng trong bài tùy bút: “Phận hoa bên lề” mà là “hồn lau”. Cái “hồn” xưa mà Bà Huyện Thanh Quan đã viết: “hồn thu thảo” làm cho câu thơ không chủ đích tả mà gợi, không chủ ý vẽ mà khơi. Không thấy được hình dáng của ngọn lau nhưng có thể cảm nhận được linh hồn riêng của đại ngàn Tây Bắc. Cảnh theo lời thơ mà tan ra. Một chút rõ ràng mất đi mà thêm rất nhiều thơ mộng. Câu thơ cuối làm hiện ra bóng dáng duyên dáng, uyển chuyển của người con gái Thái giữa cảnh thiên nhiên mộng mơ, yên bình. Hình ảnh “hoa” không chỉ gợi về hình ảnh xứ sở Tây Bắc ngàn hoa mà còn là hình ảnh của cái đẹp. “Hoa đong đưa” là đang làm duyên với gió, với nước khi đã nở trọn đời hoa để buông mình? Hay đó là hình ảnh ẩn dụ của cái đẹp, của người con gái đang tình tứ mà kín đáo làm duyên. Câu thơ có cái duyên của cảnh, duyên dáng của người và phải chăng còn là đôi mắt tình tứ của người ngắm cảnh nữa?

Thiên nhiên còn là nơi bao bọc, yêu thương, nơi để trở về của con người:
  • “Áo bào thay chiếu anh về đất
  • Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Câu thơ sử dụng những từ Hán Việt: “áo bào”, “khúc độc hành” làm cho không khí trở nên trang trọng. Những người lính mong manh áo vải khi chiến đấu, đến khi ngã xuống cũng chẳng thể có một tấm chiếu để che mình. Hiện thực là khốc liệt, là đau thương như thế. Nhưng vào trong nhưng câu thơ Quang Dũng, nó tìm được nét nghiêm trang và sự kính trọng cần có. Những chiếc áo vải chiến đấu thành “áo bào” bởi những người lính ấy xứng đáng là những chiến binh, những chiến sĩ kiên cường và đnág kính nhất. Một từ “áo bào” thôi như sự ghi nhận, trân trọng đối với những con người đã dành cả tuổi thanh xuân vì dân tộc, hi sinh cả cuộc đời vì Tổ quốc và những câu thơ thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ đã bỏ mình vì nghĩa lớn. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc hành” của sông Mã đầy uy nghiêm và trang trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ.

Phần “vĩ thanh” của “hành” “Tây Tiến” gồm bốn câu muốn tiếp tục cuộc hành trình của kí ức vượt lên theo dấu chân đoàn quân lừng tiếng:
  • “Tây Tiến người đi không hẹn ước
  • Đường lên thăm thẳm một chia phôi
  • Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
  • Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Hai câu trên nhắc lại lời hẹn ước của đoàn quân Tây Tiến thuở lên đường: “Chí lớn chưa về bàn tay không”. Hai câu sau vừa là lời tự nhắc nhở vừa là sự duyệt lại của kí ức để đi đến khẳng định: không thể quên những chặng đường đã qua, người dù có đi nơi đâu vẫn gửi hồn về Sầm Nứa. Bởi vì chặng đường đã qua là kỉ niệm, là đồng đội, là sự hiến dâng, là cuộc đời riêng có dịp phát sáng trong cuộc đời chung của dân tộc, cách mạng.

Thiên nhiên trong thơ “Tây Tiến” có nét đẹp của những bức tranh sơn thủy trong thi ca xưa, trong những khúc ngâm cổ lại có nét gần gụi, chân thực của cuộc sống hôm nay, có nét phong vị khoáng đạt mà hào hoa rất riêng đậm chất “Quang Dũng”. Đặc biệt bài thơ còn sử dụng thể loại “Cổ phong trường thiên” (một thể loại hành) để những tình cảm, cảm xúc không bị bó buộc mà có thể trải dài theo đầu ngọn bút, hình ảnh thiên nhiên cũng như thế mà trở nên rộng lớn, vô tận. Hình ảnh thơ giản dị, quen thuộc nhưng khi được ứng hiện vào nhau trong sự sắp xếp của Quang Dũng lại đem đến hiệu quả không ngờ. Nếu nói “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc” thì “Tây Tiến” là một dẫn chứng tiêu biểu. Với sự tài hoa trong cách sử dụng và sáng tạo từ ngữ, Quang Dũng khiến người đọc như “ngậm nhạc trong miệng”, như thưởng tranh trong chữ. Bút pháp hiện thực đi liền với lãng mạn đã làm nên vẻ đẹp hào hùng, bi tráng cho những câu thơ. Đó chính là phong vị rất riêng của thơ Quang Dũng: vừa dung dị, vừa bay bổng, không đẽo gọt cầu kì mà mới lạ đến đáng ngạc nhiên!

Thiên nhiên ở đâu cũng đẹp, thơ về trăng-hoa-tuyết-núi-sông thời nào chẳng có. Nhưng sao hình ảnh thiên nhiên trong “Tây Tiến” lại làm ta xao xuyến, khắc ghi vậy? Vì nó là cảnh của tình, của người, của một thời đại hào hùng và vĩ đại...

-Bỉ Ngạn-
 
  • Chủ đề
    bức tranh thiên nhiên quang dung tây tiến
  • Top