Sách Hay Mỗi Ngày

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 6



PHẦN 2



CON TRỜI CÓ KHÁC



Nói về Quốc Sư Thục Lục dạy Thái Tử chưa đầy một năm Quốc sư Thục Lục phải chịu hết tài để mà dạy, để mà truyền Thái Tử học một biết mười biết trăm, thường làm cho Quốc sư phải nhiều phen sửng sốt, Quốc sư nghĩ con Trời có khác.



Hôm nay là một ngày đẹp trời, nhìn cảnh vật muôn hoa đua nở, Quốc sư nhìn Thái Tử rồi nói:

Năm cũ sắp qua năm mới lại về, thời gian chẳng chờ đợi ai cứ lặng lẽ trôi qua nhanh chóng, con người chẳng mấy chốc rồi già, cuộc đời sống gỡi thát về, còn về đâu Thiên Đàng hay Địa Ngục thời chưa rõ. Thế mà lòng tham con người càng lúc càng bùng lớn lên, những nước lân ban chúng có ý dồm ngó mãi nước ta, có cơ hội là xâm lược.



Quốc sư nhìn Thái Tử rồi hỏi:

Khi nước mất nhà tan Thái Tử làm sao để giành lại.



Thái Tử hết sức ngạc nhiên với câu hỏi kỳ lạ đó nhưng cũng trả lời:

Quốc sư hỏi cho vui chứ làm gì có chuyện đó.



Quốc sư nói:

Thái Tử thử nhìn xung quanh nước Xích Quỷ ta, các nước lân ban họ đang làm gì trước con mồi béo bở chúng không xâm lược nước ta được sao ?



Thái Tử đáp:

Tuy đất nước Xích Quỷ ta là một đất nước giàu có, binh lực hùng mạnh nếu riêng lẻ từng nước thời không có đất nước nào đánh bại được đất nước ta. Nhưng nếu các Vương Quốc lân cận thống nhất với nhau thành một khối liên ban xâm lược nước ta, thời nước Xích Quỷ chúng ta sẽ không đỡ nổi. Nhưng không bao giờ có chuyện đó xảy ra, nếu có xảy ra cũng phải hàng nghìn năm nữa và chỉ có một cách, cá lớn nuốt cá bé, các Vương Quốc thôn tính lẫn nhau, rồi trở thành Cường Quốc thời nước Xích Quỷ ta chính là con mồi béo bở cho chúng nuốt.



Quốc sư nhìn Thái Tử lập luận phân tích vô cùng thám phục nhưng có chỗ chưa hiểu hỏi:

Sao phải hàng nghìn năm tới các Vương Quốc mới liên minh nhau, sao không phải là hôm nay hoặc hàng chục năm tới?



Thái Tử đáp:

Hiện nay trình độ dân trí còn quá lạc hậu, các Vương Quốc đang sống trong giáo điều và điều lệ, do Quốc Vương nước đó tự đặc ra để cai quản thống trị độc quyền độc tài khó mà liên minh cùng các nước chỉ còn cách là thôn tính lẫn nhau, mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, rồi trở thành một cường quốc.



Không thể có chuyện các Vương Quốc vào giai đoạn hiện nay liên minh với nhau thống nhất cùng nhau, trở thành một thế lực Cường Quốc mà phải đến hàng nghìn năm nữa, trình độ dân trí lên cao, không phải sống theo giáo điều và điều lệ do Quốc Vương đặc ra để thống trị. Mà sống theo căn bản Quyền Con Người trở thành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Lý công bằng bình đẳng, thời mới liên minh liên kết các nước được Hợp Chủng Tộc Tiến Lên Hợp Chủng Quốc. Với sức mạnh ấy thời không có một đất nước nào chống trả nổi, dù cho đó là một cường quốc. Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Lý Chân Chính không phải do Quốc Vương tự đặc ra mà do Công Lý Xã Hội dựa trên nền tản Quyền Con Người công bằng xã hội mà ra, tầng lớp trí thức nhân sĩ soạn ra, được đúc kết tinh hoa nhân loại hàng nghìn nghìn năm.



Nhưng cũng có Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý trá hình do chế độ Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị lập ra cũng cố địa vị cho mình trói buộc dân chúng hết sức hà khắc biến dân chúng sống trong nhà tù xã hội. Những thức Hiến Pháp, Luật Pháp giả hiệu nầy không mấy hiệu quả cho công suộc trị quốc an dân vì tính bất công quá lớn. Lại tước đoạt hết quyền con người của mỗi người dân do thể chế độc tài độc trị tạo ra. Vì vậy đối kháng của nước Xích Quỷ chúng ta trong tương lai vài mươi năm nữa, không phải đối kháng Cường Quốc liên minh mà là đối kháng Cường Quốc tàn bạo độc tài độc trị. Chúng thôn tính đất nước ta bằng mọi thủ đoạn, gian manh xão trá và bạo lực.



Quốc sư với vẻ mặt sáng tỏ nói:

Nếu bị chúng xâm lược thì ta phải làm sao?



Thái Tử suy nghỉ rồi trả lời:

Với tình thế hiện nay, phương Bắc nước Xích Quỷ ta có nhiều Vương Quốc nhưng phải kể ba Vương Quốc đang lớn dần và hùng mạnh, đó là Vương Quốc Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh con cháu nhiều đời của Phục Hi, Hiên Viên.



Thái Tử nói:

Muốn đối kháng hay đánh bại ngoại xâm việc lường trước là việc cần phải làm, phải nói làm thường xuyên lên kế sách nữa là khác, những đường đi nước bước âm mưu của các thế lực ngoại xâm. Phải nói là đừng để mắc mưu chúng, nhất là mưu trong kế sách ngoại giao lâu dài, những cái lợi bao giờ cũng có cái hại. Nếu không tinh ý thời khó phát hiện có thể cả hàng trăm năm sau mới phát hiện được. Thế lực cũng như danh và lợi là ba miếng mồi ngon để câu nhử ta, chúng có thể tôn ta lên rồi hại ta, luồn cúi ta rồi trăm phương nghìn kế để hạ gục ta, chúng khéo léo vơ vét tài nguyên béo bở mà lâu nay chúng mơ ước cũng không bao giờ có. Chúng là những con Sói ngày đêm rình rập con mồi hể có cơ hội là xơi.



Trước hết chúng ta phải tìm hiểu rõ chúng là Cáo, là Sói, là Beo cho rõ. Nếu chúng là con quái vật vừa là Cáo, vừa lá Sói, vừa là Beo thời chúng ta mới có kế sách để đối kháng về lâu về dài. Biết người biết ta là nền tản cơ sở ưu khuyết của ta, ưu khuyết của địch, để rồi tìm ra kế sách đối kháng, định hướng chiến lược sách lược. Chỉ có Ánh Sáng Chính Nghĩa truyền thống luôn luôn sáng tỏ đến tận hang cùng ngỏ hẻm, một ý tưởng xấu nỗi dậy là phát hiện ngay, ánh sáng Chính Nghĩa Văn Hóa truyền thống được trao cho mỗi người dân, dù chỉ là một phần nhỏ, dân chúng cũng phát hiện ra âm mưu của giặc. Loại Chồn, Cáo, Beo, Sói ẩn núp bất chính mưu đồ chiếm đoạt nước ta.



Chúng ta chỉ sợ các thế lực ngoại xâm có nội ứng bên trong, còn thế lực không có nội gián bên trong nội ứng chỉ đường cho giặc, đó chỉ là xâm lược mưa rào không có gì đáng sợ. Nếu kẻ thù mạnh hơn ta về vũ lực, thời ta mạnh hơn họ về dân vận chính trị, đoàn kết muôn người như một. Toàn dân kháng chiến, sức mạnh toàn dân là sức mạnh vô địch. Phải biết chờ thời cơ, cướp lấy thời cơ tiêu diệt chúng, tính cách khôn khéo nhẩn nhịn, nhẩn nhục, nhẩn nại, có tam nhẩn chính là Mật Tạng của Hùng, Bi, Trí, Dũng vượt qua bao chướng ngại khó khăn đưa đến thành công.



Nếu ánh sáng Chính Nghĩa đó chính là ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo dân tộc thời các thế lực ngoại xâm, xâm lược ấy coi như đã bước chân vào chỗ chết, có đi mà không có trở về tất cả đều bỏ mạng. Nếu ngoại xâm kẻ thù mạnh hơn ta về vũ lực cả chính trị lẫn nội ứng. Thời ta phải mạnh về truyền thống anh linh Ông Cha, phát huy tinh thần Quốc Đạo Dân Tộc, quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, mỗi người dân là một anh hùng dân tộc. Mỗi chiến sĩ dũng cảm. Mỗi vị tướng tài năng đủ khôn khéo chuyển xây tình thế biến nguy thành an, biến bất lợi thành đại lợi Lòng yêu nước là tường thành kiên cố, ngoại xâm khó mà vượt qua tường thành yêu nước toàn dân nổi. Hơn nữa tà không thắng được chánh. Sức mạnh Chính Nghĩa là sức mạnh bất tử vô địch, bản sắc dân tộc Văn Hóa Cội Nguồn, truyền thống anh linh Ông Cha, truyền thống kế thừa tự hào giữ vững nền độc lập. Mỗi người dân ai cũng vì non vì nước, toàn dân là chủ của đất nước, đồng tâm quét sạch quân thù, sức mạnh nội lực truyền thống dân tộc, là sức mạnh Chính Nghĩa dời non lấp bể. Sức mạnh nội lực ấy đứng vững trên nền tản Quốc Đạo Dân Tộc, sức mạnh của lòng trung hiếu đối với Cha Ông đối vơi Non Sông Tổ Quốc. Dù cho ngoại ban họ có mạnh tới đâu cũng bị đánh bật ra khỏi đất nước, thất bại nhục nhã. Những thứ rác rưởi nhơ nhớp xâm lược của chúng đã bị chúng ta quét sạch, và vùi chúng xuống hố rác nhục nhã nhơ bẩn để mùi hôi thối của chúng đến mấy nghìn năm vẫn chưa hết.



Quốc sư lại hỏi:

Thế lực ngoại xâm mạnh quá chúng đè bẹp chúng ta thời làm sao?



Thái Tử đáp:

Nếu thế lực mạnh hơn ta gấp trăm nghìn lần, thế lực ngoại xâm là đá, còn thế lực của ta là trứng. Thái Tử nói nếu có trường hợp đó, chúng ta biến đất nước ta thành đất nước trống không, dân chúng sẽ được dời đến nơi hiểm địa, núi rừng hiểm trở tạo ra thế nước chảy đá mòn, chiến tranh du kích lâu dài, nung nấu thời cơ chờ đợi. Chúng ta thắng giặc phải thắng trên đất nước của họ, tạo ra chiêu pháp làm cho đất nước họ rơi vào kể bẫy tiêu diệt lẫn nhau ngay nơi triều đại của chúng, gậy ông đập lưng ông. Đánh Rắn phải đánh dập đầu, làm cho đất nước họ đảo lộn, tranh giành quyền lực với nhau dẫn đến thôn tính nhau lật đổ nhau, đó chính là thời cơ chúng ta quật khởi, từ thế lực của trứng nước, chuyển thành thế lực di sơn đảo hải ập tới như cơn bão lốc xóa sổ chúng. Chỉ có Văn Hóa anh linh Truyền Thống ung đúc lên sức mạnh tinh thần dân tộc. Nhất quyết không để mất nước, nhất quyết không làm nô lệ, noi gương khí phách Ông Cha xông lên quét sạch quân thù. Một dân tộc luôn luôn ôm ấp Chính Nghĩa ôm ấp lòng yêu nước thời không sợ một thế lực ngoại xâm nào cả. Khi thế lực ngoại xâm mạnh hơn ta, tạm thời ta tạo ra thế vườn không nhà trống mà thôi làm cho ngoại xâm không biết đâu mà lường. Bổng chốc nở ra thế lực Đại Bàng, mang dòng máu anh hùng, nanh vuốt hận thù, bất khuất, quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, đồng loạt khởi nghĩa, chắc chắn phần thắng lợi sẽ thuộc về mình. Vì lúc ấy con Mãng Xà hung dữ đã mất sức mạnh từ đất nước của chúng, lại thêm chúng không hiểu về thực lực của ta, sức mạnh của chúng đã bị lung lay, vì đất nước của chúng đã đi vào hổn loạn. Thời cơ đã chín mùi, chính là lúc chúng ta quét sạch quân thù ra khỏi non sông Tổ Quốc.



Dân là nguồn tài nguyên vô giá của Quốc Gia, vì vậy ta phải chăm lo cho dân thật tốt. Dân là tường đồng vách sắt, ngăn cản và vùi dập quân thù xâm lược. Vì thế ta phải để cho dân tự phát triển mưu cầu nuôi lớn trí huệ, nuôi lớn tài năng, phát huy nội lực dân tộc hùng mạnh. Dân là Gươm Thiên sông núi, bảo vệ gìn giữ non sông Tổ Quốc. Nên ta phải bảo vệ cái quyền của Dân, nhất là những Quyền Cơ Bản của mỗi con người. Quyền làm chủ xã hội làm chủ non sông Tổ Quốc. Cũng vận mệnh của một quốc gia Một đất nước Văn Minh là một đất nước dân trí phải được nân cao dân trí lên cao chính là nguồn tạo ra sự giàu sang xã hội cũng như sức mạnh của một dân tộc. Đem lại sự hùng mạnh của một Quốc Gia dân tộc. Nói tốm lại Dân là nguồn tài nguyên vô giá của non sông Tổ Quốc, không có một thứ quí giá nào sánh kịp, kể cả vàng ngọc Kim Cương Trân Châu. Vậy nên phải có chính sách lo cho dân chu đáo, để cho dân được tự do phát triển, thời không một đất nước nào xâm lược, hay đánh thắng được dân tộc đất nước chúng ta. Kể cả đất nước mạnh hơn đất nước ta gấp mười lần.



Dân là một nguồn tài nguyên đất nước vô giá như vậy, nhà nước lại không biết quan tâm, còn ra thể chế nầy thể chế nọ trói buột dân chúng tước hết Quyền Con Người thời đất nước đó mạnh về kinh tế giàu về tinh thần sao được, phải nói là lụn bại. Làm Quốc Vương mà ít quan tâm bỏ mặc dân chúng. Không những thế lại còn vơ vét bóc lột thậm tệ làm cho cạn kiệt lòng dân, nước cạn thời cá sống ở đâu ? Thuyền lấy nước đâu để mà vương ra xa. Nếu nói dân là nước còn Vương, Quan chính là cá, thời phải theo kế sách ao sâu béo cá, nước giàu dân mạnh thời cá yên, nước nghèo dân mạc thời cá cùng đường, Chồn, Cáo, Hổ, Báo ăn thịt sạch. Làm Quốc Vương phải kiên định.Thắng không kêu, bại không nản, dù tạm thời bị nô lệ hoặc bị nô lệ nhưng bản sắc Văn Hóa Anh LinhTruyền Thống không mất, đó la thế bất bại của một dân tộc Hổ phục Rồng nằm, chờ thờ cơ là quật khởi, một dân tộc bất khuất là dân tộc biết yêu truyền thống Văn Hóa của mình, từ thế bại vì quân giặc quá mạnh, nhưng sẽ chuyển thành thế thắng, sớm hay muộn mà thôi.



Thái Tử nói tiếp:

Xâm lược bạo lực không độc hại bằng xâm lược Văn Hóa, sở dĩ một dân tộc bị nô lệ hàng nghìn năm, chính dân tộc đó đã bị Văn Hóa ngoại xâm đè bẹp tinh thần dân tộc, ngóc đầu dậy không nổi, Văn Hóa ngoại xâm đã thống trị tinh thần dân tộc của họ, làm cho họ khiếp đến nổi phải tôn thờ Văn Hóa ngoại xâm nghe theo và làm theo.



Nước Xích Quỷ ta Tôn Thờ Thần Mặt Trời là vị Thần tối cao vũ trụ, trong khi ấy các nước lân ban các quốc vương Văn Hóa Tôn Thờ thấp hèn. Thờ Quỷ Thần, thờ Thần Cầm, Thần Thú, còn các nước Phương Tây thời Phù Thủy. Nên các nước Phương Đông cũng như Phương tây không nước nào đủ sức xâm nhập Văn Hóa đánh bại sự tôn thờ của dân tộc ta. Nên tinh thần dân tộc nước Xích Quỷ luôn đứng vững. Độc Lập vì thế mà kéo dài không một đất nước nào sánh kịp. Nhưng tình hình hiện nay đã đổi khác các nước lân ban nổi lên mạnh về bạo lực gươm đao giáo mác, mạnh được yếu thua. Mạnh tồn tại yếu xóa sổ. Nên nước Xích Quỷ Ta phải có chiều hướng đổi mới, mới mong giữ vững nền độc lập thái bình an lạc.



Quốc sư lại hỏi:

Thưa Thái Tử giả sử có trường hợp, giặc ngoại xâm đã đuổi, giặc Tham Quan sanh ra làm hại dân hại nước thời làm cách nào để loại bỏ ?



Thái Tử nghe Quốc sư hỏi thế thời lấy làm khó nghĩ mà cũng khó trả lời nhưng rồi Thái Tử cũng phải trả lời. Thái Tử nói:

Thắng giặc ngoại xâm đã khó, nhưng dẹp loạn quan tham lại càng khó hơn. Nhưng không phải khó mà làm không được, biết cách lèo lái chính sách cũng như xóa bỏ Độc Tài Độc Trị, Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nghiêm minh. Tam quyền phân lập kiểm soát nhau hổ trợ nhau. Giữ vững kỷ cương đất nước giáo dục đạo đức Dân, Quan, Vua đều theo một Đạo Luật Minh Chính, ai ai cũng là chủ của xã hội, chủ của non sông Tổ Quốc. Và ai ai cũng có quyền Ngôn Luận góp tiếng nói vào Công Lý xã hội chống giặc nội xâm đó là giặc Tham Quan làm hại dân hại nước.



Quốc Sư Thục Lục lại hỏi:

Đã là quan thời có quyền sanh sát trong tay ai mà dám tố Quan tham ô, móc ngoặc, hối lộ. Quyền lực của quan có thể che được Mặt Trời.



Thái Tử đáp:

Sanh ra quan tham nhiều phần lớn là do thể chế độc tài độc trị mà ra. Không Hiến Pháp Trị, Luật Pháp Trị, Đạo Pháp Công Lý trị, nên tham quan mới lộng hành như vậy. Dân làm sao trị được Quan tham, mà dân phản ảnh lên Hiến Pháp Trị, Luật Pháp Trị, Đạo Pháp Công Lý trị. Công Minh Bình Đẳng không thiên vị một ai, Quan, Dân có tội đều xử như nhau. Thứ Gặc Tham Nầy không chỉ ở Quan mà ngay ở Dân cũng có, Quan tham theo kiểu Quan, Dân tham theo kiểu Dân. Thứ giặc khó trị vô cùng giặc tham quan sanh ra từ nội tâm con người, ăn sâu vào gốc rẽ linh hồn con người. Nhất là Vương, Quan có điều kiện lòng tham khởi lên mạnh hơn sự tham nào cũng dám làm, lòng tham được che đậy đưới quyền lực. Nếu không có Văn Hóa Chính Nghĩa Nhân Quyền Dân Chủ thời khó mà đẩy lùi được. Chúng mãi tồn tại ẩn núp dưới Thể Chế Độc Tài Độc Trị. Không có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp minh chính Công Lý hạn chế thời coi như Quốc nạn tham ô tham nhũng không sao tránh khỏi. Dưới thể chế Độc Tài Độc Trị việc lợi dụng sơ hở của thể chế để làm bậy, đã là Vương, Quan làm bậy thời còn sợ ai nữa. Nếu không có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp minh chính triệt phá. Giặc tham Quan rất nhiều dạng nhưng động cơ sanh ra chúng, đó là Dục Vọng bất chính tà tâm, dựa trên tham lam mưu cầu danh lợi riêng mà ra. Cũng bỡi gì không kìm hảm được lòng tham háo danh, háo lợi bất chính mà biết bao người phản Quốc hại dân, phản Tổ, phản Tiên, làm tổn hại Non Sông Tổ Quốc, tổn hại Đồng Bào dân tộc. Tội ác chi cũng dám làm, kể cả người thân của họ cũng bị loại bỏ. Tánh tham lam trục lợi bất chính khó ai mà diệt tận chúng nổi, vì chúng ẩn núp trong linh hồn con người. Linh Hồn con người luôn luôn bảo thủ bao che cho chúng, nhất là tần lớp Vương Quan hủ hóa lại còn bao che thói hư tật xấu hơn nữa.



Muốn có một xã hội trong sạch công bằng văn minh ít tham quan, thời xã hội đó phải gieo trồng Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp minh chính quả ngọt hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm, đi theo hai con đường, một là con đường Giáo Dục trong các trường học. Hai là con đường Đạo Pháp Văn Hóa Chính Nghĩa truyền thống truyền dạy nơi các thờ tự. Với chính sách lấy Dân làm gốc, dân là chủ của đất nước, chủ của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Lý. Quyền con người cũng như quyền của mỗi người dân phải được tôn trọng và bảo vệ, bất khả xâm phạm dù cho đó là Vương Quan. Tạo Hóa sinh ra đều bình đẳng, những quyền Tạo Hóa ban cho đều được thực thi. Nhà nước chính quyền lúc nào cũng làm hết trách nhiệm thực thi Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp minh chính bảo vệ quyền những quyền cơ bản của dân. Chính quyền là đầy tớ trung thành của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, nhân quyền, Dân Chủ. Một đất nước bình đẳng. Một đất nước mà Đế, Vương, Vua, Chúa không phải là tối cao trên hết mà là Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Lý Công Bằng, Bình Đẳng trên hết. Thời nhà nước đó không lo về quốc nạn tham nhũng, tham ô. Dân chúng Vương, Quan sống trong môi trường lành mạnh.



Mỗi người dân là mỗi dũng sĩ diệt gian, diệt thói hư tật xấu của chính mình và tệ nạm xã hội, phê bình và tự phê bình, tự mình xóa bỏ điều quấy, không ai thay thế xóa bỏ thói hư tật xấu cho mình, nếu không xóa bỏ thời tự mình hại mình không sớm thì muộn cũng bị sa đọa, trước là sa đọa cuộc đời, sau là linh hồn sa đọa âm phủ. Một đất nước đi vào Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, xóa bỏ độc tài độc trị, thời đất nước đó có trình độ dân trí cao, giác ngộ Đạo Đức Chính Nghĩa lớn, làm chủ mình, làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc cho đến làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Bằng xã hội. Muốn có xã hội ít tham quan làm hại dân hại nước là tất cả đi trên con đường Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng Thiên Ý Cha Trời, Thiên Luật vũ trụ, thực thi rốt ráo quyền con người. Nhân Quyền Dân Chủ Công Bằng Bình Đẳng xã hội tiến tới dân giàu nước mạnh tự do ấm no hạnh phúc.



Quốc sư Thục Lục càng nghe Thái Tử thuyết giáo phép trị quốc mới lạ chưa từng nghe thấy bao giờ, nhưng xem đi xét lại thời câu nào cũng có lý, có cơ sở để mà thành công Thục Lục nghĩ không lẽ lời biện minh của Thái Tử là phép trị quốc trên trời Thái Tử muốn áp dụng vào chốn nhân gian.
 

shopoga

✩✩
Quốc Sư Thục Lục lại hỏi:

Thưa Thái Tử từ xưa tới nay khắp các nước nhỏ lớn, dù xưng Đế, xưng Vương, xưng Vua, xưng Chúa thời cách cai quản đất nước na ná như nhau, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, giai cấp thống trị chính là Vương, Quan của đất nước đó, còn giài cấp bị trị chính là dân. Nay lại nghe Thái Tử nói trên Vương, Quan có Đạo Đức trị, Hiến Pháp trị, Luật Pháp trị, nhà nước chỉ là hiện thân, thực thi Công Lý Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, đem lại sự Công bằng, Bình Đẳng xã hội. Giai cấp Vương, Quan chỉ là đầy tớ trung thành, bảo vệ Hiến Pháp, Luật Pháp. Đạo Pháp. Thi hành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp không thiên vị một ai, quan cũng như dân hể có tội liền bị xử như nhau, việc này có thể làm được sao? Hay chỉ là một giả thuyết mơ tưởng.



Thái Tử nói:

Không phải giả thuyết mơ tưởng đâu đó là xã hội Thần Thánh, xã hội Công Bằng văn minh nhân loại.



Thái Tử nói:

Đạo Đức trị, Hiến Pháp trị, Luật Pháp trị hay hơn điều lệ trị, giáo điều trị, chế độ trị. Độc tài trị. Nhất là bạo lực trị. Chỉ làm cho cuộc sống khốn khổ, dân khốn khổ thời Vương, Quan cũng chẳng được yên. Chế độ độc tài độc trị dùng bạo lực trấn áp cai trị dân chúng thời nhà tù mở rộng ra, Đạo Đức trị thời nhà tù khép lại.



Thế nào là Văn Hóa Đạo Đức trị ?

Đạo Đức trị chính là dùng Văn Hóa Đạo pháp Chính Nghĩa giáo dục con người giảm bớt tội lỗi cũng như tội phạm, thay thế cho thể chế độc tài độc trị bạo lực đàn áp cai trị con người. đưa xã hội đi lên Văn Minh vật chất lẫn tinh thần, cái hay ở Văn Hóa Đạo Pháp Trị là ở chỗ đó.



Văn Hóa Đạo Pháp Trị không những giảm hận thù mà còn đoàn kết dân tộc. Văn Hóa Đạo pháp trị có ánh sáng Chính Nghĩa có công năng làm cho con người bỏ ác hành thiện, giác ngộ thấy cái sai của mình, tự sửa chữa những hành vi thói hư tật xấu hình thành nhân cách tư cách con người, đối nhân xử thế văn minh mẫu mực.



Trình độ dân trí được nâng cao. Là nhờ có Văn Hóa Chính Nghĩa cải hóa tư duy ngăn chặn được vô lượng tội lỗi, do tà tâm sanh ra làm hại cho bản thân cho xã hội, cho non sông Tổ Quốc. Văn Hóa Đạo Đức Chính Nghĩa ăn sâu vào lòng dân, thời đem lại thái bình an lạc tận hang cùng ngõ hẻm nhân loại đi đến chân thiện hoàn mĩ, vừa xua đuổi tà ma và ác quỉ, tiến tới dân giàu nước mạnh tự do an vui hạnh phúc.



Thế nào là Văn Hóa Hiến Pháp trị ?

Văn Hóa Hiến Pháp trị là Văn Hóa khuôn mẫu. Văn Hóa Tinh hoa Cội Nguồn khai dựng lập lên đất nước. Tổ quốc. Dân Tộc. Văn Hóa Hiến Pháp Trị chính là Văn Hóa chính nghĩa Cội Nguồn. Văn Hóa truyền thống anh linh dân tộc. (hay còn gọi là Văn Hóa Nền Quốc Đạo) Văn Hóa khuôn mẫu của đường hướng Luật Pháp, Đạo Pháp, Chính Trị. Nói chung là Văn Hóa Cội Nguồn cốt lõi nòng cốt của kim chỉ nam truyền thống anh linh dân tộc.



Văn Hóa Hiến pháp trị là Văn Hóa truyền thống anh linhTrị. Văn Hóa Hiến Pháp trị, Luật Pháp Trị, Đạo Pháp Trị không phải là Văn Hóa Chế Độ, hay Văn Hóa truyền thống lâu đời của một Bộ Lạc, hay là Văn Hóa của Tôn Giáo Đạo giáo. Mà là Văn Hóa Hiến Pháp Thống Nhất của Đời lẫn Đạo, Văn Hóa Thống Nhất cả trăm Bộ Lạc, Văn Hóa Bách Việt văn Lang, Văn Hóa đỉnh cao của cái Chung trong đó gắng liền cái Riêng của mỗi Bộ Lạc. Văn Hóa Chủ Nghĩa Đại Đồng của đại Dân Tộc.



Văn Hóa Hiến Pháp Trị dựa trên nền tản Quyền con người. Nhân Quyền. Văn Hóa của sự lấy Dân làm gốc Dân Chủ.



Văn Hóa Hiến Pháp Trị là Văn Hóa Chủ Nghĩa của sự công bằng, bình đẳng văn minh, khác xa với Văn Hóa thể chế độc tài độc trị.



Văn Hóa Hiếp Pháp Trị không phải là Văn Hóa phong tục tập quán lạc hậu. Mà là Hiến Pháp khuôn mẫu nền tản của Luật Pháp. Đạo Luật kim chỉ nam cho mọi hoạt động xã hội.



Hiến Pháp Trị chính là Văn Hóa truyền thống anh linh trị, có công năng cải đổi tư duy con người đưa con người vào một quỷ đạo chung nề nép trật tự xã hội. Hiến Pháp Trị luôn soi sáng tinh thần yêu nước thương dân, tinh thần trách nhiệm xã hội, Tổ Quốc thiêng liêng trên cá nhân của mỗi con người, gia đình, họ tộc. Hiến Pháp Anh Linh Đại Truyền Thống Dân Tộc chính là Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Ánh sáng Hiến Pháp Văn Hóa Cội Nguồn Trị là ánh sáng soi đường cho toàn dân tộc. Nhận thức rõ Chính Nghĩa, Phi Nghĩa. (Hiến Pháp là Vua của Nhà Nước Pháp Quyền, Nhà nước lấy Quyền con người làm Nền Tản, Nhân Quyền. Lấy dân làm Gốc, Dân Chủ. Trở thành nền Quốc Đạo anh linh dân tộc).



Vì thế Hiến Pháp, truyền bá rộng rãi đến mỗi người dân soi rọi tới mỗi người dân, để dân hiểu, dân bàn, dân làm chủ, dân làm theo. Dân tôn thờ, chính quyền các cấp phải có nhiệm khai sáng và truyền đạt đến tận người dân cho dân hiểu dân làm chủ dân kiểm tra, dân làm chủ, dân tôn thờ.



Thế nào là Luật Pháp trị ?

Luật pháp trị, là Luật Pháp bảo vệ Công Lý Công Bằng Bình Đẳng xã hội của Hiến Pháp, Đạo Pháp. Luật Pháp Trị là những điều luật khuôn phép đi vào đời sống xã hội giữ vững kỷ cương, ngăn cấm mọi hoạt động đi ngược lại Hiến Pháp, Đạo Pháp.



Luật Pháp Trị là thừa hành những gì Hiến Pháp có, thi hành những gì Hiến Pháp cho phép những chi tiết Văn Từ, Ngôn Từ Văn Pháp trong Hiến Pháp.



Luật Pháp Trị là những điều khoản. Luật lệ khuôn mẫu. Trở thành những Điều Lệnh, Điều Luật, Điều Lệ, đi vào trật tự khuôn phép xã hội Theo Văn Pháp Hiến Pháp Đạo Pháp.



Luật Pháp Trị là những điều khoản của Luật Pháp. Trở thành Điều Chế, Điều Chỉnh, Điều Độ, Điều Khiển, bảo vệ Hiến Pháp, cũng như trừng trị những người vi phạm Hiến Pháp. Vi Phạm Pháp luật.



Luật Pháp Trị khác với Chế Độ trị, Luật Pháp trị khỡi nguồn sanh ra từ Hiến Pháp, dựa trên nguyên tắc Nền Tản quyền con người Nhân Quyền, dựa trên nguyên tắc Dân là Gốc, Dân Chủ Hiến Pháp Đạo Pháp Chính Nghĩa, Nhân Quyền, Dân Chủ công bằng xã hội.



Luật Pháp Trị, là Luật Phá bảo vệ anh linh truyền thống, bảo vệ quyền con người, cũng như thực thi mệnh lệnh của Hiến Pháp.



Luật Pháp Trị là hiện thân quyền lực tối cao của Hiến Pháp hiện thân Độc Lập, không lệ thuộc bất kỳ ai hay một Tổ Chức, Cơ quan nào. Hể có tội liền bị xử phạt, ngay cả người đang thi hành pháp luật. Ánh sáng pháp luật có công năng giữ vững kỷ cương đất nước, kỷ cương trật tự xã hội, ngăn chặn mọi hành vi tội lỗi của con người, làm hại xã hội làm hại non sông Tổ Quốc thái bình an lạc.



Luật Pháp Trị là Luật Pháp kỷ cương bảo vệ Nhà Nước Pháp Quyền, Nhà Nước Hiến Pháp, Luật pháp, Đạo Pháp trên hết. Nhà Nước Công Bằng Bình Đẳng Nhân Quyền Dân Chủ. Cao hơn nữa Thiên Quyền Nhân Chủ, Nhà Nước của Dân do dân và vì Dân.



Vì thế Ánh sáng pháp luật phải đến tận tay mỗi người dân, dân làm chủ, dân thực thi pháp luật phát hiện tố giác những hành vi phạm tội đi ngược lại Hiến Pháp, Luật Pháp, dù đó bất cứ là ai, dân có đủ quyền quyết định những trọng đại của đất nước, bác bỏ những gì Chính Quyền làm sai không theo đúng Hiến Pháp, Đạo Pháp. Có đủ quyền hạn yêu cầu nhà nước bải bỏ những điều luật phi lý không nằm trong Hiến Pháp Đạo Pháp.



Vì vậy muốn có một đất nước dân giàu nước mạnh, Độc Lập giữ vững lâu dài, thời mỗi người dân là chủ của Hiến Pháp, Đạo Pháp, Luật Pháp toàn dân thi hành công lý xã hội, công bằng văn minh, loại bỏ Chế Độ Độc Tài Độc Trị. Không phù hợp với truyền thống hợp chủng nhiều dân tộc trên 50 dân tộc. Chỉ có Nhà Nước Pháp Quyền. Nhà Nước Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp trên hết. Nhà Nước Của Dân, Do Dân vì Dân. Nhà Nước Bảo vệ Quyền con người, Nhân Quyền. Lấy dân làm gốc Dân Chủ, tất cả Vua, Quan, Dân, đều sống dưới ngôi nhà chung, ngôi nhà Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Thời đời sống muôn dân, cũng như sự ổn định xã hội mới được thịnh trị tự do ấm no hạnh phúc, bền vững lâu dài.



Một nhà nước độc tài thời sống theo khuôn khổ Chế Độ. Không có Dân Chủ, Nhân Quyền, tự do.



Một nhà nước pháp quyền thời sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp Đạo pháp dân tộc. Vương, Quan, Chính, Quyền là đầy tớ trung thành cho Đạo pháp dân tộc, Hiến pháp dân tộc, Luật pháp dân tộc, sống trong môi trường lành mạnh xã hội công bằng văn minh. Non sông Tổ Quốc Độc Lập lâu dài, không có sự âm mưu lật đổ Nhà Nước cũng như Chính Quyền mà chỉ có sự thừa kế Chính Quyền đi trước, thắp sáng Đạo pháp dân tộc, Hiến pháp truyền thống Cội Nguồn dân tộc, Luật pháp Đạo Luật dân tộc nối tiếp đời đời thế hệ nầy sang thế hệ khác cho đến tận mai sau.



Quốc sư Thục Lục càng nghe Thái Tử nói tưởng như mình đang sống trong xã hội Thiên Đàng Cực Lạc, Quyền sống, Quyền tự do, Quyền bình đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhân quyền được bảo vệ tôn trọng. Cuộc sống an vui hạnh phúc.



Trong khi hiện nay không một đất nước nào, Vương Quốc nào có nền Văn Minh ấy. Mà chỉ theo Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị. Vương, Đế, Chúa, trên hết.



Những gì Thái Tử thuyết ra có phải đây chính là Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng được nghe trong truyền thuyết nhân gian kể, xã hội Thần Thánh. Xã hội Thiên Đàng Cực Lạc Quốc. Một xã hội có danh có lợi, có cạnh tranh. Nhưng danh lợi, cũng như sự cạnh tranh đều theo một khuôn phép nhất định không ngoài cạnh tranh Công Bằng Bình Đẳng. Tất cả mọi hoạt động xã hội. Theo Kim chỉ nam Hiến Pháp, được Luật pháp công nhận, Đạo Luật cho phép, đó là Chánh Danh, Chánh Lợi, Chánh Cạnh Tranh. Xã Hội Tiến Hóa đi lên tiến tới dân giàu nước mạnh.



Tốm Lại : Những thứ danh, lợi. Cạnh tranh bất chính đi ngược lại Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp Chính Nghĩa đó là Tà Danh và Ác Lợi. Tà Danh và Ác Lợi luôn luôn tồn tại trong tân thức ác tánh, lớn mạnh trong các Chế Độ xã hội chuyên quyền Độc Tài Độc trị. Phát nguồn từ Phong Kiến Thần Giáo. Tôn thờ chủ nghĩa cá nhân tồn tại cho tới ngay nay. Và sẽ chấm dứt Không tồn tại trong Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Quyền Nhân Chủ, chủ nghĩa tối cao nhân loại con người. Cũng như chủ Nghĩa Nhân Quyền Đa Nguyên Dân Chủ. Vì trình độ dân trí xã hội nhân loại con người đã lên cao, chủ nghĩa Cá Nhân độc tài độc trị không còn phù hợp nữa. Tiến tới xã hội Văn Minh công bằng bình đẳng. Xã hội Đạo Luật nhà nước pháp quyền, Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp trên hết.

*********



Hết phần 2 chương 6 mời xem tiếp phần 3 chương 6 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng là Bộ Kinh Văn Hóa Tinh Hoa Rồng Tiên. Cội Nguồn dân tộc Bách Việt Văn Lang, nay là dân tộc Việt Nam. Một dân tộc anh linh Văn Minh tột đỉnh ở thời Quốc Tổ Hùng Vương khai dựng lập quốc. Có thể nói Văn Hóa mẫu mực trị quốc an dân có một không hai trên nhân loại con người. Những triết lý sâu xa, văn từ thậm thâm vi diệu, chỉ cần hiểu một câu, một chữ cho thông suốt, cũng đặng phước báo vô biên. Hồn Thiêng Dân Tộc che chở. Khí Thiêng Sông Núi Phù Trì. Huống chi truyền bá in ấn biên chép, đọc tụng, thời phải nói là cầu chi đặng nấy, từ nghèo chuyển lên giàu, từ giàu chuyển lên Thánh. linh ứng vô cùng. Khi mạng chung thời siêu sanh về các cõi trời hưởng phước.
 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 6



PHẦN 3



ĐỜI SỐNG KHOA HỌC



Quốc sư Thục Lục thấy Thái Tử trí huệ vô biên như vậy liền nghĩ đến lời nói của vị Đạo Sĩ đón mộng, cũng như xem tướng Thái Tử thời tin chắc rằng Thái Tử chính là Chí Tôn Thiên Đế đầu thai. Vị Chí Tôn thừa kế di chí Cha Trời. Chuyển xây vận mệnh nhân loại. Quốc Sư lại nghĩ đã hỏi thời hỏi cho hết những gì khó giải quyết nhất những vấn đề nan giải của xã hội.



Quốc Sư hỏi:

Giặc ngoại xâm đã trừ, giặc tệ nạn xã hội đã diệt nhưng dân chúng thời nghèo đói, ốm đau bệnh tật, thời ta phải làm sao đẩy lùi chúng?



Lại thêm một sự ngạc nhiên nữa đối với Thái Tử, với lối hỏi hóc búa của Quốc sư. Thái Tử nói:

Thưa Quốc sư đây là câu hỏi khó, không dễ gì trả lời được. Quốc sư mỉm cười nếu khó quá thời thôi vậy. Thái Tử nói, đây là câu hỏi khó, phạm vi rộng lớn, không dễ gì trả lời cho hết được, từ một xã hội vô cùng lạc hậu, trình độ dân trí kém, lại bị dưới quyền thống trị của Chế Độ phong kiến, như nước Xích Quỉ ta đây còn khá, còn thống trị theo kiểu độc tài độc trị cai ngục thời miển bàn tới.



Thái Tử nói:

Lạc Hậu, Đói Nghèo, bịnh tật là một thứ giặc, thứ giặc này khó đánh đuổi chúng ra khỏi đời sống con người, phải nói là quá khó. Muốn đánh đuổi chúng, phải có hai đội quân chủ lực.

1: Là đội quân trí thức khoa học.

2: Là đội quân máy móc khoa học.




Phải chờ nền văn minh Địa Tiên ra đời phải có một sự cải cách xã hội lớn lao, không phải ai cũng làm được. Nhất là thời kỳ ngày nay thời kỳ sơ khai khoa học vật chất ở các Cường Quốc hùng mạnh như chúng ta cũng chỉ ở giai đoạn sơ khai văn minh vật chất, dù biết rằng Nước Xích Quỷ ta nổi tiếng là văn minh lúa nước, văn minh kim loại đồng thau. Tuy ở trong thời đại Phong Kiến Thần Giáo nhưng cũng hình thành Chế Độ Quân Chủ Lập Hiến. Còn ở các Vương Quốc khác chỉ có một hai Vương Quốc gần theo kịp ta còn tất cả thời lạc hậu còn xa lắm, nếu họ theo kịp thời đại Kinh Dương Ta, thời phải mấy trăm năm nữa.



Con đường giải thoát đói nghèo, ốm đau, lạc hậu không còn con đường nào khác hơn là con đường tiến tới làm chủ khoa học, làm chủ thiên nhiên, từng bước từng bước phát minh sáng kiến khoa học trong thế giới vật chất. Lần mò hiểu chúng, kết cấu chúng, làm chủ chúng, áp dụng chúng, biến hóa chúng thành những thứ mình cần, đa dạng hóa công cụ, sản phẩm, khoa học kĩ thuật, khoa học kiến tạo, khoa học chế tạo luôn luôn bổ sung chỉnh sửa, tiến tới mỗi ngày mỗi hoàn hảo. Liên kết Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tạo ra máy móc khai thác điện năng, tạo ra máy móc, thay thế sức lực con người phục vụ cho xã hội, nhất là phục vụ trong nông nghiệp, trong công nghiệp. Khai Thác cho hết công dụng của thể hơi, thể lỏng, thể đặc, thể lực, thời chế tạo ra máy móc mới có hiệu quả cao, tiến xa hơn nữa là khám phá công dụng của thể lực, thể khí vũ trụ, mẹ đẻ của nền văn minh khoa học thế giới vật chất.



Xưa kia con người ở thời Hồng Đế đào đất, đốn cây bằng cuốc đá, rìu đá, lấy lửa chỉ dựa vào sấm sét. Nhưng hôm nay con người đã biết đào đất, đốn cây, lấy lửa khác xa hoàn toàn như nước Xích Quỷ của chúng ta đây, đào đất, chặt cây bằng cuốc đồng cuốc thau, rìu đồng rìu thau, lấy lửa không cần chờ sấm sét mà dùng đá cứng ma sát mạnh vào nhau để lấy lửa, còn các bộ lạc lạc hậu thời chưa có trình độ ở mức này, chỉ có ở các Vương Quốc hùng mạnh mà thôi.



Ở thời Hồng Đế con người chỉ biết hái, lượm để sống, săn thú, cầm, bò sát để tồn tại, lấy da che ấm nhưng hôm nay nước Xích Quỉ ta đã biết trồng trọt, chăn nuôi để sống, hái lượm săn Thú, Cầm, bò sát chỉ là phụ thuộc mà thôi, che ấm bằng tơ tằm dệt vãi. Thời đại ở hang, ở động đã qua, thời đại ở nhà, ở lều thịnh hành và đang tiến tới cảnh lầu đài cung điện.



Thế giới ấm no hạnh phúc giàu sang không ở đâu xa mà ở ngay trước mắt, chúng ta muốn có ấm no hạnh phúc lâu dài thời ít lệ thuộc vào Thiên Nhiên như thời Hồng Đế lấy lửa nhờ sấm sét. Thờ Lửa. Còn thời nay ta là chủ nhân của lửa, muốn có lửa là có lửa, chúng ta muốn có xã hội ấm no hạnh phúc thời chúng ta là Đấng Tạo Hóa thứ hai, kế theo thừa kế Tạo Hóa Tổ Tiên. Tổ Tiên tạo lập vũ trụ, thế giới vật chất, còn ta tạo lập cuộc sống, cấu kết vật chất kiến tạo lên cuộc sống ấm no, xây dựng xã hội Thiên Đàng Cực Lạc. Để làm được thế chúng ta cần hiểu rõ căn Cội của thế giới vật chất, công dụng công năng của chúng làm chủ chúng, như ta làm chủ tìm lấy lửa, biến cái chung mà chúng ta cần dùng.



Như thời ông Cha ta VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG. VIÊM ĐẾ SÙNG LÃM với nền văn minh lúa nước, văn minh hội họa giao tiếp, làm thông điệp xã giao, ngoại giao. Chúng ta muốn giải trừ đói nghèo, lạc hậu, bệnh tật thời chúng ta phải giải trừ sự ngu dốt, tiến tới làm chủ khoa học kỷ thuật, tiến tới làm chủ Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp, làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc, sống trong xã hội công bằng văn minh, mang tính cách phục vụ cao.



Nhà nước phải có chính sách thông thoáng, không gò bó sự phát triển, cá nhân tập thể ưu đãi người có tài, ưu đãi sở hửu trí tuệ, khuyến khích phát minh bảo vệ giúp đỡ họ. Nắm bắt thời cơ hội nhập kinh tế, làm trung gian Cung Cầu, cho mọi tầng lớp phát triển. Dân phát triển theo kiếu khả năng của dân, nhà nước phát triển theo kiểu qui mô của nhà nước, những cái mà dân không đủ sức làm được. Như khai thác quản lý tài nguyên Quốc Gia, xuất nhập dung hòa sản phẩm, khai mở huyết mạch giao thông, trọng yếu Đường biển, Đường sông, Đường bộ, Liên thôn, Liên xã, Liên Quận, Liên Huyện, Liên Châu, Liên Bộ, Liên Miền thông thương dọc ngang như bàn cờ, biển thông lên núi.



Chính sách ngoại giao, giáo dục được coi như đưa lên hàng đầu. Quan quyền thời bình, thời trở thành các nhà kinh tế lãnh đạo khoa học kĩ thuật, lãnh đạo ngoại giao, làm mối giềng chổ tựa cho các thế lực trong nước, ngoài nước trao đổi kinh tế. Bảo vệ tốt, trọng tài tốt. Nhà nước, nhân dân, các thế lực kinh tế đồng có lợi. Một nhà nước không sợ các thế lực, Quân sự, kinh tế, chính trị lật đổ, là một nhà nước pháp quyền, có nền Quốc Đạo vững chắc. Truyền thống dân tộc vững vàng, như dãy núi cao mà các thế lực với không tới, vược qua không nổi.



Với tài nguyên phong phú của từng vùng, từng quốc gia, từng đất nước. Gạo đổi lấy muối, cá đổi lấy ngô. Vải bô đổi lấy Voi Ngựa. Nhờ trao đổi sản phẩm, kiến thức khoa học nhờ đó mà tăng lên rất nhanh.



Tôn trọng quyền phát minh, sáng kiến của mỗi người dân. Luật pháp bảo vệ họ, nhà nước khen thưởng họ, giúp đở họ. Coi họ như là chiến sĩ có công với xã hội. Đó chính là phát huy tìm năng nội lực quí báu của dân tộc. Nội lực tri thức khoa học. Nhờ nội lực tri thức nầy, đưa đất nước tới xóa đói giảm nghèo. Đẩy lùi lạc hậu. Tôm gốp tinh hoa phát minh sáng kiến, khoa học nhân loại. Truyền bá rộng rãi trong đời sống con người. Đó là thế mạnh đưa đất nước tiến lên văn minh hiện đại. Khuyến khích dân làm giàu, thời nhà nước phải hổ trợ sự phát triển đa năng của dân. Làm trọng tài cho sân chơi cạnh tranh bình đẳng. Có làm được như vậy thời đời sống ấm no hạnh phúc sẽ đến với xã hội con người. Đời sống thăng hoa giải trừ lạc hậu nghèo đói khốn khổ.



Quốc Sư Thục Lục càng nghe Thái Tử giải trình. Như mình đang lạc vào một thế giới văn minh đỉnh cao nhân loại con người thế giới thiên đàng cực lạc trần gian. Nhờ sức thông minh hiếm có của Thục Lục. Quốc Sư Thục Lục Không những thông suốt giải đáp mọi thắc mắt xưa nay của mình. Mà còn làm cho mình thấy được chân trời mới. Chân trời của sự giãi thoát đói nghèo, lạc hậu.



Thái Tử tuy còn nhỏ. Nhưng có tầm nhìn rộng lớn, Của bật đại giác ngộ. Bậc Tôn Sư lãnh đạo đất nước. Hiểu rõ sự tồn vong, của một đất nước cũng như cuộc sống đi lên xã hội. Và thật vậy con người đứng vững được là nhờ bộ xương. Tổ Quốc đứng vững mãi là nhờ rường cột, cốt lõi của đạo đức anh linh truyền thống. Dân giàu nước mạnh là nhờ đường lối thông thoáng. Làm chỗ dựa vững chắc cho dân phát triển. Việc dân nghèo dân đói, chỉ có dân vươn lên mới giải quyết được.



Quốc Sư lại hỏi:

Muốn độc lập kéo dài, ngoài từ bỏ con đường gia đình trị, chế độ độc tài độc trị, phong kiến thống trị, tiến tới Nhà Nước Pháp Quyền, xã hội công bằng bình đẳng. Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp trên hết. Trở thành Nền Quốc Đạo truyền thống của dân tộc tối cao. Còn Vương, quan chỉ là đầy tớ trung thành của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp dân tộc. Ra sức bảo vệ và triệt để thi hành Hiến Pháp - Luật Pháp - Đạo Pháp dân tộc, giữ vững cán cân Công lý, Công bằng Xã Hội. Lấy Đạo trị dân, lấy Đức trị dân, lấy Công Bằng Xã Hội trị dân. Làm cho dân phát triển dân trí, chấn hưng dân khí, thấm nhuần đạo lý truyền thống, Ông Cha, thấm nhuần Đạo Đức, thấm nhuần Hiến Pháp - Luật Pháp - Đạo Pháp. Đặc quyền lợi xã hội trên quyền lợi cá nhân. Sống vì Tổ Quốc, sống vì Đồng Bào nhân loại anh em. Cái chung là thể xác, cái riêng là tế bào, tế bào chết thời thể xác tan rã cũng chẳng còn. Cái Chung cái Riêng luôn song hành hiện hửu tuy hai mà một, tuy một mà hai. Sự trường tồn của cái chung, cũng chính là sự trường tồn của cái riêng. Ngoài những mấu chốt căn bản kể trên còn có thêm điều gì nữa không?



Thái Tử đáp:

Quốc sư hiểu như thế là quá đủ lắm rồi nhưng có một vài điều làm sáng tỏ thêm cái chung và cái riêng.

*********


Hết phần 3 chương 6 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 4 chương 6.







CHƯƠNG 6



PHẦN 4



CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG



Thái Tử nói:

Văn Hóa Đạo pháp Chính Nghĩa truyền thống Anh Linh Dân Tộc. Văn Hóa Hiến pháp Chủ Nghĩa Đại Đồng đoàn kết dân tộc. Văn Hóa Luật pháp Bình Đẳng công bằng dân tộc là cái chung của toàn xã hội, không phải của riêng ai, cá nhân hay một tập thể nào, thuộc về Quốc Bảo Văn Hóa cái chung của toàn dân tộc, cũng như Non Sông Tổ Quốc, không của riêng ai là Tổ Quốc chung của toàn dân tộc. Chính quyền do dân bầu ra, không phải là để đàn áp cai trị dân mà là đại diện cho dân nắm vững cán cân công lý, thực thi cái chung công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi chung cho toàn xã hội trong đó có quyền lợi riêng của mỗi người. Quyền lợi chính đáng mà Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp cho phép.



Ở các thời phong kiến, phong kiến Thần giáo, phong kiến Địa Chủ, phong kiến Chế Độ độc tài độc trị. Dân có cái riêng nhưng chỉ là cái riêng để mà sống không những không làm chủ được cái riêng sự sống của chính bản thân mình, nói gì đến cái quyền làm chủ cái chung, không có cái quyền làm chủ non sông Tổ Quốc, không có quyền làm chủ xã hội, tất cả là của trẩm, thiên hạ Đồng Bào là của trẩm, non sông Tổ Quốc đều là của trẩm. Thử hỏi Đồng Bào nhân dân có cái gì là quyền riêng của mình đâu, vì tất cả là của Vương, của Vua, của Chúa đương thời, Vua muốn cho là cho, muốn lấy là lấy. Thậm chí Quyền sống, Quyền được sống, Quyền ngôn luận, Quyền tự do, Quyền bình đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc, làm gì được có những thứ Quyền ấy, mà sống trong sự thống trị của Chế Độ Điều Lệ độc tài độc trị do Vương, Vua, Chúa phê duyệt ban ra theo ý Vương, Vua. Chúa. Nếu gặp thời may mắn Vương, Vua, Chúa có chút Đạo Đức nhân tính thời còn dễ thở. Bằng gặp phải Hôn Quân, Vương, Vua, Chúa vô Đạo thời dân chúng vô cùng khốn khổ, phải nói sống như một đầy tớ nô lệ mà thôi, Vua biểu chết là chết, Vua cho sống là sống vận mệnh của mỗi người dân đều nằm trong tay của Đế, Vương, Vua, Chúa đương thời, thử hỏi dân có cái quyền đâu mà để có được hạnh phúc, nói chi đến chuyện tự do, làm chủ.



Đã không có quyền, thời sống như nô lệ không được làm chủ bất cứ những gì. Người dân sống dưới các thời phong kiến Thần Giáo, Phong Kiến Độc Tài Độc Trị, người dân không những mất cả sở hửu cái riêng, cũng như cái chung, sống như một đầy tớ nô lệ, họ không có cái quyền chi cả, dân không bao giờ được làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc mà ngay cả bản thân, làm chủ quyền sống cũng không làm chủ được nói gì đến quyền làm chủ sở hửu tư riêng, quyền làm chủ sở hửu cái chung. Dân không có cái quyền thừa kế Truyền Thống Xã Hội. Non Sông Tổ Quốc mà bao thế hệ Ông Cha đã gầy dựng lên. Đây cũng là một sự thiệt thòi của mỗi người dân đầy bất công trong cuộc sống.



Tạo Hóa Tổ Tiên khi khai tạo ra loài người thời cũng đã ban cho mỗi con người nhiều thứ quyền, trong đó có Quyền sống, Quyền được sống, Quyền làm chủ, Quyền tự do, Quyền bình đẳng, Quyền ngôn luận, Quyền mưu cầu hạnh phúc, những thứ Quyền ấy dưới các triều đại Phong Kiến Thần Giáo, Phong Kiến độc tài độc trị, đã bị sự độc tài độc trị, cướp lấy đi, không cho người dân có những thứ quyền ấy. Đây là một thiệt thòi vô cùng lớn lao cho những người được sinh ra làm người và lớn lên trong xã hội. Sống trong sự sống đầy sự vô lý, và những bất công thời xã hội con người khó mà văn minh được. Các Vương, Vua, Chúa thời nay hầu hết là chưa nắm rõ và hiểu rõ Thiên Luật, Thiên Tạng vũ trụ, chưa hiệp theo Thiên Mệnh, vì thế Thể Chế Độc Tài Độc Trị Vương, Vua, Chúa sẽ dần dần loại bỏ, một khi xã hội phát triển tiến lên đến xã hội công bằng văn minh, một xã hội mà người dân có cả sở hửu cái chung mà cũng có cả sở hửu cái riêng. Sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Nhân Quyền Dân Chủ Công Bằng Bình Đẳng văn minh.

*********



Hết phần 4 chương 6 mời xem tiếp phần 5 chương 6 Long Hoa Mật Tạng. Thời chúng ta mới thấy như thế nào là tinh hoa cuộc sống của con người. Mà Quốc Tổ đã truyền dạy cho Bách Việt Văn Lang, một dân tộc văn minh tuyệt đỉnh ở vào thời đại đó. Dần dần đi vào thất truyền âu đó cũng là cơ vận của tọa hóa vậy. Đất nước Văn Lang kéo dài độc lập rất lâu 2701 năm tất cả đều nhờ vào nền Văn Minh Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Tôn trọng quyền con người Nhân Quyền, lấy Dân làm Gốc Dân Chủ. Nhà Nước Văn Lang là Nhà Nước Pháp Quyền. Nhà Nước của Dân, do Dân và vì Dân.

Truyền Thống Cha Ông thật diệu kỳ

Anh Linh Quốc Tổ sáng uy nghi

Gầy dựng non sông ngời tỏa sáng

Con cháu Tiên Rồng dậy mà đi.​
 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 6



PHẦN 5



XÃ HỘI CÔNG BẰNG VĂN MINH



Thái Tử nhìn Quốc Sư Thục Lục rồi nói thêm rằng:

Xã hội Công Bằng văn minh là xã hội có cả sở hữu cái chung và cũng có cả sở hữu cái riêng ai cũng như ai thuận theo Thiên Luật vũ trụ Thiên Ý Cha Trời, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc, cho đến làm chủ Đạo Pháp xã hội, Hiến Pháp xã hội, Luật pháp xã hội. Xã hội Công Bằng văn minh là xã hội cái chung và cái riêng không tách rời nhau, như tế bào và con người, con người và tế bào, tế bào tồn tại là con người tồn tại, tế bào hỹ hoại con người theo đó cũng đi đời, bảo vệ con người cũng chính là bảo vệ tế bào, bảo vệ tế bào cũng chính là bảo vệ con người.



Con người bảo vệ Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp. Bảo vệ cái chung có nghĩa là bảo vệ quyền lợi riêng cho chính mình, bảo vệ xã hội, bảo vệ non sông Tổ Quốc, bảo vệ Đạo pháp, Luật pháp, Hiến pháp là tự bảo vệ mình. Vì Hiến Pháp. Luật Pháp, Đạo Pháp. Là công cụ bảo vệ quyền con người cái chung, trong đó có cá nhân cho mỗi con người được thế hiện đầy đủ các quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho họ. Con người là tế bào tạo ra sự sống xã hội. Xã hội là lẽ sống của con người, lẽ sống tồn vong hạnh phúc thời con người xã hội trở nên văn minh.



Xã hội Công Bằng Bình Đẳng văn minh là xã hội không có sự thống trị của Chế Độ độc tài độc trị. Mà tất cả chỉ sống theo Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp công bằng bình đẳng. Giai cấp Vương, Quan chính quyền chỉ là giai cấp đầy tớ trung thành của Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp. Giữ vững đạo luật kỷ cương đất nước. Tiến lên thế giới Đại Đồng cũng có nghĩa là tiến sâu vào Đạo pháp công ước Quốc Tế làm sáng tỏ Quyền Con Người (Đạo Luật nhân quyền), bảo vệ tôn trọng nhân quyền là đi đúng Thiên Ý Cha Trời. Bảo vệ Cái quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho mỗi con người, những quyền bất khả xâm phạm. Bất cứ là ai cũng không có quyền cướp đoạt xâm phạm. Những kẻ tự cho mình cái quyền sanh sát thiên hạ, là những kẻ tự đào lỗ chôn mình. Những kẻ tôn trong Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp mới có đầy đủ các quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho họ. Còn những kẻ độc tài độc trị chính họ đã tự đánh mất những quyền mà Tạo Hóa đã ban cho họ. Những kẻ đi ngược lại Thiên Ý Cha Trời. Thiên Luật Vũ trụ. Không sớm thì chầy cũng bị đánh đổ. Những kẻ có tư tưởng thống trị thiên hạ bằng con đường độc tài độc trị. Là một điều sai lầm lớn dẫn đến đấu tranh giai cấp xung đột tàn sát lẩn nhau. Kết quả đều lưỡng bại câu thương không có kết quả tốt, đưa nhau xuống Địa Ngục.



Thái Tử nói:

Muốn cho dân giàu nước mạnh, xã hội Công Bằng văn minh, Độc Lập lâu dài chỉ có con đường duy nhất là Thuận Thiên, tôn trọng quyền con người, nhân quyền cho mỗi con người mỗi Quốc Gia, mỗi dân tộc. Chúng ta có cái chung nói rộng thời toàn cầu, nói hẹp thời đất nước Xích Quỷ chúng ta phải tôn trọng cái quyền chung là Quyền Con Người, bảo vệ cái chung quyền con người toàn cầu, cũng như đất nước Xích Quỷ chúng ta. Là chúng ta đi đúng hướng hiệp với Thiên Ý Cha Trời. Thiên Luật vũ trụ. Chúng ta bảo vệ quyền con cái chung cũng có nghĩa là bảo vệ sự sống cái riêng của mỗi chúng ta. Bảo vệ sự sống tự do quyền con người nhân quyền của chúng ta, cũng có nghĩa là bảo vệ Nhân Quyền cái chung nhân loại toàn cầu những quyền bất khả xâm phạm. Nếu làm được như vậy thời còn lo chi không tiến tới xã hội dân giàu nước mạnh thế giới thái bình an lạc.



Con đường tiến về Cội Nguồn, là con đường bảo tồn hạnh phúc lấy Đạo pháp truyền thống Chính Nghĩa dạy dân làm món ăn tinh thần trong đời sống hằng ngày, nuôi lớn trình độ dân trí, nuôi lớn tinh thần dân tộc chấn hưng dân khí. Thế hệ trước, thế hệ sau cùng đi chung một con đường truyền thống anh linh như vậy. Thời non sông Tổ Quốc không có một thế lực ngoại ban nào xâm lược nổi. Độc Lập kéo dài là đều tất nhiên.



Thái Tử luôn khẳng định:

Một đất nước phồn thịnh, phải đạt đến cảnh giới Văn Minh Tinh Thần, đi đôi với Văn Minh Vật Chất, Giáo dục là Quốc Sách. Muốn làm được như vậy phải có Văn Hóa Nghệ Thuật. Ca, Múa Nhạc, Kịch, Thể Dục, Thể Thao, Văn nghệ phong phú, võ thuật phát huy rèn luyện thân thể, đưa đẩy phong trào giáo dục văn hóa anh linh Truyền Thống lên cao. Không những đẩy lùi bệnh tật. Mà còn cho con người nhận thức Văn Hóa chính nghĩa lên một tầm cao.



Không có cuộc sống hạnh phúc nào hơn là lấy lễ đối đãi với nhau như anh em một nhà, đối nhân xử thế tôn trọng người khác chính là tôn trọng mình. Tinh thần sáng suốt minh mẩn, trong thể xác khỏe mạnh. Văn Hóa nghệ thuật, võ nghệ, Thể Dục, Thể Thao, ca nhạc, văn nghệ, phong trào lên cao không những làm cho tinh thần sản khoái yêu đời tuổi thọ nâng cao mà còn đẩy lùi được bệnh tật, đưa nhân loại xích lại gần nhau hiểu nhau tất cả đều là bạn, quan hệ giao lưu cùng nhau đôi bên cùng có lợi.



Thái Tử nhìn Quốc Sư như tự hỏi Quốc Sư có cần hỏi thêm gì nữa không ?



Quốc Sư Thục Lục thưa:

Thưa Thái Tử. Thái Tử đã vẽ lên một thế giới tương lai kỳ lạ, có thể nói là quá xa xăm xa lạ với cuộc sống nhân loại ngày nay, nhưng những gì Thái Tử thuyết giáo tất cả đều là hiện thực, không phải là ảo tưởng. Hôm nay tuy làm chưa được nhưng Thần tin tưởng ở tương lai, Thái Tử sẽ xây dựng lên đất nước mới, thế hệ mới do Thái Tử lập lên sau này.

*********



Hết Phần 5 chương 6 mời xem tiếp phần 1 chương 7 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Bộ Kinh tối cao có một không hai chốn nhân gian chỉ cần hiểu được thâm ý một câu, một chữ cũng đã thấy khó lắm rồi. Huống chi hiểu cả chương cả phần kinh. Những thâm ý trong kinh vô cùng rộng lớn thậm thâm vi diệu sâu xa, Chỉ cần giảng một câu một chữ cũng đặng phước đước vô biên rồi. Thái Tử Hùng Lan chính là Quốc Tổ Hùng Vương là vị tối cao Chí Tôn Thiên Đế đầu thai đem Thiên Ý Cha Trời truyền xuống nhân gian. Để cho Nhân Loại trần gian sống theo Thiên Ý mà về trời. Đọc qua Long Hoa Mật Tạng Kinh chúng ta không khỏi tự hào vì dân tộc Việt Nam có vì Quốc Tổ tối cao như thế. Quốc Tổ đã để lại cho chúng ta cho con cháu Việt Nam hai di sản quý hiếm. Một là Tổ Quốc Non Sông. Hai là Văn Hóa Cội Nguồn Truyền Thống Anh linh Dân Tộc. Với công ơn nầy chúng ta không gì đền đáp nổi.

Theo bước Cha Ông lập đỉnh trời

Cội Nguồn Truyền Thống rạng muôn nơi

Quốc Đạo bừng lên muôn sức sống

Việt Nam ngời sáng mãi đời đời.​
 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 7



PHẦN 1



CẢI CÁCH ĐỔI MỚI HƯỚNG ĐI



Để quyết định một vấn đề được coi như là nhạy cảm quan trọng Quốc sư hỏi:

Thưa Thái Tử, theo tình thế hiện nay, các Vương Quốc ở cận ta đang bành trướng dữ dội và hầu như chúng có âm mưu dòm ngó đất nước ta, trước tình thế nầy Thái Tử có mưu tính gì, kế sách gì đối phó chúng, hoặc gồm thâu chúng mở rộng đất nước ta chăng, thực hiện theo ý tưởng Văn Minh về Quyền Con Người cũng như lấy Dân làm gốc của Thái Tử?



Thái Tử đáp:

Ta cũng có mưu tính, dự tính mở rộng phạm vi nước Xích Quỉ ta, gồm thâu Thiên Hạ nhưng không phải ở thế xâm lược mà ở thế Liên Minh Liên Kết thành một cường quốc. Sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo dân tộc.



Nếu ở thế xâm lược như xưa nay các Vương Quốc đã từng làm, thắng là Vua thua là giặc, thắng thống trị, thua bị trị, kẻ theo ta thời sống, người chống ta thời chết. Đó là hạ sách ở thế gồm thâu thiên hạ. Dùng Tà Ý phi nghĩa gồm thâu thiên hạ tuy lập lên một cường quốc nhưng sớm tan rã độc lập khó mà kéo dài được.



Muốn lập lên một cường quốc mà ở thế xâm lược gồm thâu thiên hạ thời không ổn. Vì đổ quá nhiều xương máu. Chưa nói đến trở ngại các thế lực Quốc Vương chống trả, mà ngay cả những Bộ Lạc, sống rãi rác ở khắp nơi, dân tộc nào cũng có khí phách anh hùng, thậm chí có nhiều Bộ Lạc vốn yếu hơn các Bộ Lạc nhưng lòng bất khuất thà chết chứ không chịu đầu hàng làm nô lệ. Liều mạng bảo vệ Tổ Quốc, cũng như Bộ Lạc của họ.



Trước đây ông Cha ta mở mang đất đai bờ cõi, theo kiểu du canh du cư, vì thời đó là thời hoang vu con người chưa được khai hóa. Không thuộc quyền sở hửu của dân tộc nào, Bộ Lạc nào, Bộ Tộc nào. Nhân loại còn trên đường Du Canh, Du Cư tuy có người tới trước khai phá nhưng lại bỏ đi nơi khác, ý thức làm chủ đất đai chưa mấy, nhưng hôm nay con người đã có ý thức làm chủ đất đai, dẫn đến tranh giành thuộc địa, mở mang cho phong kiến Địa Chủ Thần Giáo ra đời, sự độc tài độc trị tranh giành đất đai càng ngày càng lớn máu nhượm địa cầu hận chồng lên hận, thù chồng lên thù, sự tàn bạo mỗi ngày một thêm dữ dội, oán thù cứ thế mà chồng chất lên nhau, cảnh cá lớn nuốt cá bé, chẳng khác nào Gà nuốt Dế, Chồn nuốt Gà, người ta săn Chồn xơi thịt. Nếu giả sử gồm thâu được thiên hạ lập lên cường quốc, nhưng tìm ẩn mối nguy lật đổ thôn tính lẫn nhau là rất lớn. Chẳng khác nào dã tràng xe cát biển đông.



Nếu chúng ta dùng bạo lực xâm chiếm đất đai đàn áp các Bộ Lạc, bắt các Bộ Lạc tùng phục mình lập lên một cường quốc hùng mạnh, dù đó là ý tưởng tốt có chí hướng vĩ đại nhưng không gọi đó là chính đáng được vì ta xâm lược thôn tính các Bộ Lạc ta đang ở thế tà mạnh được yếu thua thắng là Vua, thua trở thành các Bộ Lạc nô lệ chư hầu, Độc Lập khó mà được lâu dài.



Vì thế chỉ có con đường duy nhất là dùng gươm thiên trí huệ hàng phục các Bộ Lạc thậm chí hàng chục cho đến cả trăm Bộ lạc quy thuận ta liên minh xây dựng lên một cường quốc độc lập hưng thịnh lâu dài hàng nghìn năm. Nếu xây dựng lên một cường quốc dùng bạo lực thắng là Vua, thua buộc quy thuận làm nô lệ dưới sự cai trị Độc Tài Độc Trị của ta. Thời mối nguy tai họa rất lớn vì lòng căm hờn của các Bộ lạc đối với ta to như biển cao như núi, ở hậu lai họ chờ phước phần cũng như thế lực ta suy yếu, hay nội bộ chia rẽ lủng củng. Thời cả trăm Bộ Lạc ấy nổi lên đòi tự trị chống phá lật đổ thể chế độc tài độc trị của ta.



Vì thế muốn xây dựng lên một cường quốc không có một đất nước nào đụng đến hay xâm lược được. Thời con đường xây dựng khai sanh lên cường quốc đó. Phải đi theo một lộ trình Văn Hóa Chính Nghĩa liên kết liên minh sức mạnh cả trăm Bộ Lạc chung nhau bảo vệ Quyền Con Người Nhân Quyền. Lấy Dân Làm Gốc Dân Chủ. Nhà nước cường Quốc đó phải là Nhà Nước Pháp Quyền, nhà nước Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp trên hết. Nhà Nước của Dân do Dân vì Dân. Công Bằng Bình Đẳng. Cả trăm Bộ Lạc sống trong ngôi nhà chung Nền Quốc Đạo. Thời lo gì dân không giàu nước không mạnh độc lập lâu dài.



Nếu chúng ta xâm lược cả trăm Bộ Lạc. Thuận Ta thời sống chống ta thời chết tàn sát họ, thời chúng ta nào phải con người, mất hết lương tri lương tâm còn ác hơn loài Quỉ dữ. Nếu nhân từ để chúng sống sót, thời chúng ta tự nuôi tai họa về sau, chẳng khác nào chúng ta mài đao để đó chờ ngày con dao ấy giết mình, nội giặc là một thứ giặc khó trừ, khó đề phòng, khó lường. Nếu chính sách thông thoáng thời vô tình nuôi các thế lực phản động nhanh lớn, chúng sẽ lật đổ chúng ta. Còn chính sách, giáo điều, điều lệ hà khắc, cấm đón trói buộc dự sống con người dậm chân tại chỗ không những không phát triển được xã hội, lại còn dẫn tới đói nghèo lạc hậu, đời sống khốn khổ, trăm thứ giặc sanh ra. Giặc Dốt, Giặc Đói, nổi giặc khắp nơi thời Độc Lập kéo dài được sao.



Tổ Quốc non sông dù có lớn đến đâu, dân có đông đến đâu, cũng chỉ là bãi chiến trường, tranh giành quyền lực lật đổ nhau, chém giết nhau mà thôi máu đổ khắp nơi thây phơi chật đất. Xâm lược chiếm đoạt đất đai thôn tính các Bộ Lạc hay các nước nhỏ lập lên cường quốc, chiếm hữu nô lệ lập lên xã hội, thống trị cường hào ác bá, độc tài độc trị. trước mắt là có nhưng sau đó thời như không, vì dùng bạo lực lập lên cường quốc chiếm Thiên Hạ nhưng không được lòng Thiên Hạ, đó là mối tai họa biến loạn về sau Độc Lập khó mà lâu dài. Một lớp vỏ bạo lực bó buột Thiên Hạ về một mối, khác nào quả pháo chờ cơ hội là nổ, có Thiên Hạ trong tay nhưng lòng Thiên Hạ đã mất, Thái Bình Độc Lập ắt chẳng đặng bao lâu, non sông Tổ Quốc sẽ đổi ngôi thay chủ. Lập lên một Cường Quốc với bao tìm ẩn nguy cơ như thế, thời lập lên để mà làm gì. Mở màng cho hàng loạt tham quan ra đời làm lên bao chuyện xấu xa tội lỗi. Đục khoét của nhà nước, vơ vét của dân tệ nạn xã hội khắp nơi.



Cơ nghiệp lập lên bằng bạo lực, không chân chính, rốt cuộc rồi cũng bị các thế lực phản loạn, từ trong giai cấp bị trị, giai cấp nô lệ nổi lên đánh bại. Cả đời cực khổ chiến tranh gồm thâu thiên hạ nhưng rốt cuộc được những gì, mang tiếng ác cũng như gieo hậu quả về sau. Ngôi vị Quốc Vương dùng bạo lực chiến tranh cướp lấy tạo lập lên chỉ là con Cáo già đầu trộm đuôi cướp tham lam tàn bạo, có hay ho gì, không khéo sa đọa xuống Địa Ngục linh hồn khổ mãi nữa đằng khác.



Thái Tử nói:

Chỉ có một con đường duy nhất chinh phục Thiên Hạ, bằng con đường liên minh các Họ Tộc, Bộ Tộc, Bộ Lạc, liên minh các nước thành một khối thống nhất theo một con đường Văn Hóa chính nghĩa, không ngoài quyền con người và lấy dân làm gốc Nhân Quyền Dân Chủ lập lên một đất nước văn minh cường quốc Công Bằng Bình Đẳng ai ai cũng đươc sống trong Quyền Tạo Hóa ban cho. Tất cả chung trong một nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, quyền sở hửu cá nhân, quyền sở hửu tập thể được thể hiện đầy đủ.



Cuộc sống mà ai ai cũng có quyền làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc, làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp ,Đạo pháp truyền thống anh linh dựng nước và giữ nước. Và cũng chỉ có Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp mới thật sự đem lại cuộc sống tự do ấm no hạnh phúc.



Ở nhà nước Pháp Quyền: Nhân Quyền Dân Chủ. Vương, Quan chỉ là đầy tớ trung thành của Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp công bằng bình đẳng xã hội. Bảo vệ Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp. Thi hành Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp, thực thi Công Lý Bình Đẳng, bảo vệ ích lợi chung, cũng như lợi ích lợi riêng của mỗi người dân.



Xã hội Công Bằng văn minh, là xã hội Thần Thánh. Xã hội chân thiện tiến tới hoàn mĩ. Xã hội Thiên Đàng cực lạc trần gian.



Quốc sư Thục Lục càng lúc càng sáng mắt ra hội ngội được chân lý trị quốc an dân lập quốc Chính Nghĩa trong lòng vô cùng vui mừng. Nghĩ có thể Thái Tử sẽ làm nên nghiệp lớn và cũng chỉ có Bậc Đại giác ngộ mới tìm ra hướng đi Thần Thánh nầy.

(Và thật vậy 79 năm dựng nước Văn Lang 2.622 năm thế hệ con cháu của Vương, Quan kế tục giữ nước, xây dựng lên cuộc sống mỗi ngày mỗi thêm phồn thịnh tự do ấm no hạnh phúc. Cả dựng nước và giữ nước thời Hùng Vương là 2.701 năm, trên khắp thế giới thời đó cũng như thời nay chưa có đất nước nào kéo dài Độc Lập dài đến thế). Chỉ có nền Văn Minh Hiếp Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, Quốc Đạo Văn Lang mới được như vậy).



Đây nói về vị Quốc sư tài năng Thục Lục, tự biết mình không còn đủ tài để dạy Thái Tử nữa nên nói với Quốc Vương Kinh Dương Vương rằng:

Khắp nước Xích Quỉ này không còn ai là đủ tài dạy Thái Tử nữa, và thật vậy thật ra tôi cũng chỉ là học trò của Thái Tử mà thôi, vì Thái Tử không phải người phàm hay Thánh Thần Đầu Thai mà là Chí Tôn Thiên Đế đầu thai. Đắng thừa hành di chí Cha Trời. Đấng Cứu Thế. Hàng triệu năm mới xuất hiện. Nghe Thái Tử thuyết giáo tôi đã ngộ ra một điều, con người có quả tim Nhân Loại, mới có đủ khả năng diều dắc Nhân Loại mà thôi. Còn quả tim vì quyền lực vì danh lợi vì cái riêng ta quá lớn, thời khó mà dìu dắt nhân loại đến bờ hạnh phúc. Cũng từ đây tên tuổi Thái Tử vang lừng hơn nữa, làm chấn động nước Xích Quỉ cùng các nước lân cận.



Kinh Dương Vương tuy tuổi đã cao nhưng Tiên phong Đạo Cốt vẩn trẻ trung uy nghi. Nay nghe Quốc sư luôn luôn miệng khen Thái Tử, đề cao tột bực, thời lấy làm vui vẻ sung sướng không gì bằng, cuộc đời Đế Vương coi như là thỏa mãn.



PHẦN THƯA HỎI



Hỏi: Thế nào là Họa, Phúc của xã hội?



Đáp: Con người là chủ của xã hội vì vậy họa hay phúc đều do con người, xã hội Thiên Đàng hay xã hội Địa Ngục, điều do con người quyết định. Nếu chúng ta biết hướng Thiện, kết tụ duyên lành, truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn, Đạo pháp truyền thống dân tộc, Hiến pháp Công Lý xã hội. Luật pháp xã hội nuôi dưỡng tinh thần Đạo Đức dân tộc, đến tận mỗi người dân, nân cao trình độ nhân thức Đạo Đức xã hội. Thời tương lai xã hội chúng ta mới có kết quả tốt đẹp, xã hội Chân Thiện Hoàn Mĩ. Còn nếu chúng ta tán tận lương tâm làm lên bao điều tội lỗi, xem thường Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp truyền thống anh linh xã hội. Phá hoại kỷ cương phép nước nhận giặc làm Cha. Thời chúng ta tự tạo ra cho xã hội chúng ta một xã hội đen tối, xã hội nhà tù, xã hội Địa Ngục. Sống chẳng yên mà chết cũng chẳng đặng yên.



Hỏi: Thế nào là nhận thức Bình Đẳng.



Đáp: Đến với Cội Nguồn, hòa mình vào dòng đời xã hội, tuân theo và lam theo Đạo pháp truyền thống dân tộc, Hiến pháp, Luật pháp xã hội thời nhận thức được ngay sự Bình Đẳng con người và sự Bình Đẳng xã hội. Nhân Loại ai ai cũng như nhau, từ một gốc mà ra, tất cả đều là Con Rồng Cháu Tiên, mỗi Tiểu Linh Hồn từ Đại Linh Hồn vũ trụ tạo ra, ví như nước sanh ra bọt nước, tất cả bọt nước đều Bình Đẳng vì tất cả bọt nước từ nước mà ra. Xã hội Bình Đẳng là xã hội Đạo pháp công bằng, Hiến pháp công bằng, Luật pháp công bằng, quả tim Công Lý xã hội, không thiên vị ai, không thân cận ai, chung cùng một nhịp đập Bình Đẳng, vì vậy quyền Bình Đẳng, nhân quyền của con người được bảo vệ, tôn trọng thể hiện đầy đủ, bất khả xâm phạm. Nếu xâm phạm là trái ý trời. Đối với kẻ chuyên quyền Độc Quyền Độc Tài tàn bạo, thời coi như chính họ đã đánh mất nhân quyền Bình Đẳng của chính họ sẽ bị Cộng Đồng xã hội nhân quyền lên án.



Hỏi: Thế nào là quan hệ tôn trọng Chủ Quyền Độc Lập?



Đáp: Không xâm phạm lẫn nhau về thuộc Địa cũng như về chính trị, đối đãi nhau trên phương diện Bình Đẳng, tôn trọng lẫn nhau, làm bạn đối tác kinh tế hai bên cùng có lợi. Tôn trọng bạn có nghĩa là tôn trọng mình, xâm phạm chủ quyền nước bạn là tự đánh đổ chủ quyền nước mình.



Hỏi: Sao gọi là Khôn? Sao gọi là Dại?



Đáp: Người khôn không bao giờ nghịch lại Thiên ý của Trời, không bao giờ chống phá Đạo pháp truyền thống dân tộc, chống phá Hiến pháp, Luật pháp công bằng xa hội, vì chống phá như vậy nhất định sẽ sa chân vào ác Đạo, Quỉ Đạo, súc sanh Đạo, Địa Ngục Đạo, thời coi như đã sa vào Thiên La Địa Võng trùng trùng tai họa. Những kẻ tự cho mình siêu đẳng nhưng lạc mất Cội Nguồn, khác nào con thơ Lạc Mẹ Lạc Cha, chơi vơi giữa chốn hồng trần lặng hụp trong bùn nhơ cặn bã xã hội.



Hỏi: Hiến pháp có mấy loại?



Đáp: Hiến pháp xã hội có nhiều loại nhưng có ba thứ Hiến pháp được thông dụng ở đời.

1: Là Hiến pháp dựa trên quân Chủ lập Hiến tạo ra.

2: Là Hiến pháp dựa trên Dân Chủ lập Hiến tạo lập ra.

3: Là Hiến pháp căn cứ theo Văn Hóa Cội Nguồn truyền thống dân tộc. Nhân quyền, Dân Chủ, Công Bằng Bình Đẳng. Công ước xã hội. Chủ quyền Độc Lập. Hiến pháp dựng nước và giữ nước nhà nước Văn Lang. Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Một Hiến pháp mà không một đất nước nào có, ngay cả thời văn minh hiện đại bây giờ. Hiến pháp của Chủ Nghĩa Đại Đồng Công Bằng Bình Đẳng. Tình nòi giống, nghĩa Đồng Bào chung nhau một Cộng Đồng xã hội.

*********


Hết Phần 1 chương 7 mời xem tiếp phần 2 chương 7 Long Hoa Mật Tạng Kinh.

Vinh thay Nam Việt, Việt Nam

Trổ hoa phồn thịnh đăng đàn công danh

Gió xuân tràn ngập quê hương

Non sông Tổ Quốc bình yên đời đời

Rồng Tiên tỏa sáng ngời ngời

Năm châu bốn biển hướng về Việt Nam.

CHƯƠNG 7



PHẦN 2



NỖI LO XA KINH DƯƠNG VƯƠNG



Một hôm Kinh Dương Vương cùng con trai là Thái Tử Hùng Lan dạo chơi nơi chốn hoa viên, để thử tài Thái Tử cũng như xem con có ý niệm gì tương lai non sông Tổ Quốc khi tình hình mỗi ngày mỗi thêm phức tạp diễn biến xấu.



KINH DƯƠNG VƯƠNG hỏi:

Này con. Con nhận xét thế nào về nước Xích Quỷ ta, mạnh yếu ra sao? Có phải là một đất nước Hùng Mạnh, rộng lớn, có đất nước nào hơn đất nước ta không? Cha muốn nghe ý kiến nhận xét của con.



Thái Tử thưa Cha:

Nước Xích Quỉ ta vốn nổi tiếng từ lâu. Một đất nước vừa giàu có vừa hùng mạnh, không có một Vương Quốc nào xa gần sánh kịp. Với nền văn minh lúa nước, văn minh thông Điệp Hội Họa. Đất đai rộng lớn màu mở phì nhiêu, dân đã đông, tướng đã giỏi, lại thêm ấm no Thịnh Trị hàng nghìn nghìn năm. Nước Xích Quỉ ta không những mạnh về tinh thần mà còn mạnh về vật chất. Hiện nay và trăm năm tới, chưa có đất nước nào hơn được đất nước ta đâu. Tuy rằng xung quanh nước Xích Quỷ ta chiến tranh, tranh giành thuộc địa đã nổ ra càng ngày càng dữ dội, cảnh cá lớn nuốt cá bé xảy ra thường xuyên ở các Bộ Lạc. Lại thêm ở bên kia bờ Bắc, Bắc sông Trường Giang đã hình thành lên nhiều Vương Quốc hùng mạnh, gần theo kịp Vương Quốc ta. Và nghe đâu các Vương Quốc hùng mạnh ấy có ý dòm ngó nước ta, đâu cũng là mối lo cho nước ta về sau.



Đất đai màu mở với hai nền văn minh độc bá thiên hạ, nền văn minh lúa nước, nền văn minh giao tiếp hội họa là miếng mồi ngon cho bao kẻ tham lam đầy dã tâm, tính mưu tính kế, có cơ hội là nuốt nước Xích Quỷ ta trong tương lai là điều không tránh khỏi.



Nước Xích Quỷ ta tuy rộng lớn nhưng không phải là tường đồng vách đá, khó mà ngăn chặn được lòng tham của con người, nhất là con người đã biến thành Lang Sói ác Quỉ.



Trước tình thế dù cho con Hổ to lớn mạnh đến đâu mà xung quanh con Hổ toàn là Cáo Sói, đầy mưu mô xảo quyệt. Một con chúng không làm gì được nhưng cả bầy háo chiến tấn công con Hổ làm cho con Hổ kiệt sức, cuối cùng con Hổ cũng bị hạ gục. Chúng giành nhau ăn thịt mỗi con mỗi miếng, thời còn gì nước Xích Quỷ ta. Miếng mồi hấp dẫn, họa phúc khó lường, một đất nước quá béo bở, không lo xa cũng không được và con cũng đã tính tới điều này, trong tương lai nhưng con vẫn chưa tìm ra cách đối phó.



KINH DƯƠNG VƯƠNG nhìn con đầy thương yêu hết lòng khen ngợi, con tuy còn trẻ nhưng đã biết lo xa, phòng bệnh hơn chữa bệnh, chủ động vẫn hơn là bị động. Không thể tới đâu hay tới đó, nước tới chân mới nhảy. Người giỏi cờ cũng phải tính trước vài ba nước đi. Nhà kinh tế, chính trị, quân sự tài, phải tính trước 10 năm 20 năm thậm chí cả 100, 1000 năm.

*********



Hết Phần 2 chương 7 mời xem tiếp phần 3 chương 7 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Bộ kinh thuộc hàng tối cao Đại Thừa. Bộ kinh không những tối cao của sự linh thiên. Mà còn là tối đạo luật xã hội cũng như đạo luật vũ trụ. Chỉ cần hiểu một câu một chữ trong kinh thời cũng đã trang bị cho mình đi tới con đường vinh quang. Huống chi khen ngợi yêu mến Long Hoa Mật Tạng. Thời coi như đã chuyển đổi số mạng, không khác gì cá Chép hóa Rồng, không bao lâu hiển Thánh ngay tại trần thế.
 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 7



PHẦN 3



DUY VẬT DUY TÂM



KINH DƯƠNG VƯƠNG vẫn giữ một thói quen là giữa tháng đến ngày rằm Trăng tròn đến lầu vọng Nguyệt để ngắm Trăng nghiền ngẫm Đạo Pháp tu thiền luyện khí. Lần này có khác Kinh Dương Vương dẫn theo Thái Tử, hai cha con Kinh Dương Vương vừa đi vừa nói chuyện. Thái Tử là người nhạy cảm, lại hay chú tâm quan sát cảnh vật. Thái Tử nghĩ mới trong nháy mắt, mọi cảnh vật hầu như thay đổi hoàn toàn. Mặt Trời vừa lặng, màn đêm buông xuống rất nhanh, Lâu đài Cung Điện, cảnh vật non sông ngập chìm trong màn đêm hết thảy.



Cảnh chiều tà nhìn quê hương Tổ Quốc xinh đẹp làm sao, còn giờ đây quê hương Tổ Quốc chỉ là màn đen u tối, sáng và tối hai cảnh giới khác biệt nhau. Cảnh Thiên Đàng và cảnh Địa Ngục. Một cảnh giới đầy sức sống muôn màu muôn sắc đẹp làm sao, người thi nhau thọ hưởng, chim thi nhau ca hát, Thú Cầm gầy tình gầy bạn, cỏ cây khoe trái, khoe hoa. Lũy tre, đồng ruộng mái lá nhà tranh rộn tiếng cười, cánh Cò trắng Lã lượng bay vui, đàn Bò, đàn Trâu vui ngúc ngoắt. Mục Đồng thổi sáo cánh Dều bay, cảnh quang vui đẹp tâm Hồn đầy sức sống.



Còn cảnh tối mê lầm lạc họa tai bay. Nhìn cảnh đêm đen Thái Tử cảm thấy nổi buồn xa xăm, cô đơn lạnh lẻo như đang ở cõi Âm Cung. Như ẩn chứa bao điều tai họa chẳng lành thầm bí. Phải chăng cõi nhân gian là cánh cửa để bước vao cõi Thiên Đàng, cũng như cõi Địa Ngục âm phủ. Phải chăng sáng và tối đã nói lên một điều. Ánh sáng Chính Nghĩa tắc đi không còn, thời u minh bóng tối trùm lấy nhân gian như báo hiệu chiến tranh sẽ xảy ra, mở rộng lan tràn khắp Địa Cầu. Ánh sáng Tâm linh Chính Nghĩa đã tắc, thời thế giới Cáo Sói Rắn Rít hiện ra, nhân loại đi vào đại nạn khốn khổ, cuộc sống đe dọa từng ngày.



Thái Tử chìm đắm trong suy nghĩ, thời ánh Trăng cũng đã lên từ lúc nào, ánh Trăng êm dịu hiền từ như người Mẹ quê hương ôm lấy những người con lạc lỏng trong đêm tối. Ánh Trăng chiếu xuống lầu đài Cung Điện sơn phết một màu bạc nhưng cũng để lại loan lổ những chỗ đen tạo ra do vật cản ánh sáng. Những cảnh tượng loan lổ chỗ đen ấy như nhắn nhủ với con người rằng. Thế lực đen tội ác ẩn mình sau lớp thiện, ánh Trăng không thể diệt nỗi chúng, và chúng cản mình che khuất ánh Trăng để bóng đen tồn tại hiện ra. Và chỉ có ánh Mặt Trời thời chúng mới chịu tan biến hoặc ẩn mình nơi hang cùng ngõ hẻm.



KINH DƯƠNG VƯƠNG nhìn Thái Tử lúc nào cũng trầm tư như vậy. Liền buông tiếng cười thở dài, tiếng thở dài của người Cha đã đánh động tư duy suy tưởng làm cho Thái Tử giật mình, mới hay mình đã đến lầu vọng Nguyệt từ lúc nào.



Kinh Dương Vương nắm tay Thái Tử như truyền hơi ấm nói lên rằng:

Có Cha đây, Cha sẽ là ngọn Thái Sơn che chở cho con lúc Đông về.



Thái Tử được Cha dắt lên lầu vọng Nguyệt, cặp ghế Rồng ghế Phụng như cũng đã biết mình có bổn phận nâng đở Cha con Kinh Dương Vương yên nghỉ hòa mình vào cảnh giới Đêm Trăng. Xa xa tận chân Trời vừng hào quang dịu mát phát ra từ vần Trăng tròn trịa nhô lên khỏi khóm tre già. Cảnh vật thi nhau im lặng tận hưởng ánh Trăng êm ã, sau một ngày vật vã với cái nắng chang chang. Ánh Trăng đến ánh Trăng đi không mang theo sự vui buồn của nhân gian, vô tư trong sáng chẳng nhiễm chút bụi trần nào cả.



Nhưng con người thì khác hẳn, sanh ra ở đời đắm chìm gian ác, tham lam ganh gét, hận thù làm tâm Hồn bẩn nhơ, làm hôi hám xã hội. Nhưng rốt cuộc thời được những gì, tất cả chỉ là con số 0.



Kinh Dương Vương lại nghe tiếng thở dài Thái Tử. Sự việc ở đời rốt cuộc rồi cũng thế, cuộc đời khác nào vần Trăng, lúc thời mờ lúc thời tỏ, khi tròn khi khuyết, khi đầy khi vơi. Thiên Nhiên vẩn còn chơi trò biến ảo, huống chi là cuộc sống con người luật tuần hoàn cứ lặp đi lặp lại, hết mưa rồi nắng, hết ngày tới đêm. Xuân Hạ Thu Đông cứ luân phiên chuyển hóa, hết xuân rồi lại tới xuân, xuân đi rồi xuân lại về. Chỉ có không gian lúc nào cũng rộng lớn vẩn thế, không đi không đến như như tự tại. Tuy ở sát người thế mà không mấy ai với tới cả.



Thái Tử nghĩ chốn nhân gian này khó tìm ra hạnh phúc vĩnh cửu vì trần gian chỉ là nơi cõi tạm. Những thứ hạnh phúc tạm thời, chóng đến rồi cũng chóng đi, chóng sum hợp rồi cũng chóng chia ly. Mọi sự ở đời hể có gieo thời có hưởng, họa hay phúc đều do con người triệu nó đến, tất cả đều có căn có cội.



Kinh Dương Vương nhìn con trầm tư suy nghĩ không hiểu con ta nghĩ những gì, sao lúc nào cũng trầm lặng suy tư như vậy, khổ cho con ta quá.



Thái Tử bổng lóe lên ý nghĩ liền hỏi Cha:

Cha có từng nghe đến Quả tim Nhân Loại chưa? Cha có từng nghe đến bất chiến tự nhiên thành chưa?



Kinh Dương Vương vô cùng kinh ngạc, vì đây là lần đầu tiên nghe câu hỏi lạ, lạ đến nổi Kinh Dương Vương phải ngớ người ra.



Kinh Dương Vương nói:

Con hỏi gì lạ vậy ở đời ai không có quả tim.



Thái Tử trả lời:

Thưa Cha! Không phải con hỏi Quả tim con người mà ai ai cũng có, mà con nuốm hỏi đến Quả Tim xã hội. Quả Tim truyền thống. Quả Tim chính nghĩa của chủ nghĩa.



Kinh Dương Vương nghe con nói như thế thời càng thêm kinh ngạc không biết trả lời sao.



Thái Tử nhìn Cha nói:

Quả Tim Nhân Loại là Quả tim vì người mà sống, không phải vì mình mà sống. Quả tim vì mình mà sống ai ai cũng có. Còn Quả Tim vì nhân loại mà sống thời rất hiếm. Quả tim xã hội là Quả tim của mọi người, của mọi tần lớp nhân dân, Quả Tim Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp khi quả tim ấy đập lên thời toàn xã hội như được hồi sinh trở lại, đời sống xã hội tươi vui, đâm chồi nẫy lộc đơm hoa kết trái. Thái bình Độc Lập tự do hạnh phúc. Quả tim ấy mang hơi thở truyền thống Cội Nguồn dòng máu Cha Ông làm cho Con Cháu hiện tại đoàn kết muôn người như một. Làm cho nhân loại đâm chồi Chính Nghĩa, nở hoa tự do, kết quả hạnh phúc. Nếu xã hội non sông Tổ Quốc nào toàn dân đều chung sống cùng một quả tim ấy. Quả Tim công bằng bình đẳng văn minh, thời còn lo gì không sống trong cảnh thái bình an lạc. Khi nhân loại có Quả Tim vì người không vì mình, mỗi nhịp đập của quả tim ấy là mỗi lần đem mùa xuân đến cho cuộc sống xã hội, đơm hoa kết trái sang giàu làm đẹp cho quê hương Tổ Quốc non sông.



Kinh Dương Vương nghe con nói như thế, thời kinh ngạc đến sửng sốt hỏi lại:

Có Quả tim đó thật sao.



Thái Tử nói:

Thưa Cha! Chỉ có Quả Tim vì Nhân Loại mới cứu nổi Nhân Loại. Quả tim của sự bất chiến tự nhiên thành. Quả tim Nhân Loại là quả tim công bằng bình đẳng không thuộc ở cá nhân riêng mình mà quả tim chung cho toàn xã hội. Nhân loại khổ là Quả tim ấy khổ, nhân loại vui là Quả tim ấy vui. Quả Tim luôn phục vụ cho cuộc sống nhân loại con người.



Kinh Dương Vương nhìn Thái Tử đầy vẻ thương yêu nói:

Không có Quả tim đó đâu con. Hiện nay trên toàn thế giới ngoài quả tim con người ra những bậc Vương Chúa họ còn có Quả Tim độc tài độc trị, làm gì có quả tim nhân loại.



Thái Tử nói:

Thưa Cha! Làm Quốc Vương mà chỉ biết về mình, gia đình mình, dòng Họ mình, Tổ Quốc của mình thời vị Quốc Vương ấy chưa có Quả tim Nhân loại xã hội. Lúc nào cũng nói vì dân vì nước, vì nhân loại thế giới nhưng thật ra tất cả cũng chỉ là cũng cố quyền lợi cho riêng của mình mà thôi.



Thái Tử lại nói:

Vị Quốc Vương có Quả tim Nhân Loại, thời dân chúng chính là máu thịt của người. Nhân loại là anh em một nhà Dân chúng bị tổn thương thời chính ngài tổn thương, nhân loại khốn khổ thời người khốn khổ. Người có Quả tim vĩ đại ấy cứ mỗi nhịp đập là mỗi công bằng văn minh đem lại cuộc sống yên bình cho nhân loại.



Kinh Dương Vương như chợt hiểu nói:

Con muốn nói đến Quả tim của Chuyển Luân Vương sao ? Chỉ là huyền thoại thôi con.



Thái Tử nói:

Không phải huyền thoại đâu Cha. Những ai hết lòng thương yêu nhân loại, thương yêu dân chúng như chính thương yêu bản thân mình người đó chính là Chuyển Luân Thánh Vương rồi. Muốn thế giới yên bình Cha ạ, chỉ có Quả tim Chuyển Luân Vương xuất hiện thời nhân loại mới được giải cứu thoát khổ.



Kinh Dương Vương nói:

Chuyển Luân Vương chỉ là truyền thuyết không có thật đâu con. Không có cảnh bất chiến tự nhiên thành. Lập lên đất nước Tổ Quốc mà không cần tranh giành Quyền lực, không cần đụng đến gươm Đao giáo mác, chỉ có nụ cười và lời nói thay cho máu đổ đầu rơi không đánh mà thắng Thái Bình mãi mãi là chuyện chỉ có trong mơ mà thôi.



Nếu quả thật có Chuyển Luân Vương xuất hiện thời bấy giờ, cái thời mà mạnh được yếu thua thắng làm Vua thua trở thành nô lệ thời Quả tim Nhân Loại Chuyển Luân xã hội ấy cũng đành bó tay không bao giờ dập được ngọn lửa tham lam tàn bạo đang bùng cháy dữ dội khắp Vương, Chúa đất nước, lại nữa vì trình độ dân trí hiện nay quá Lạc Hậu, lại bị các Quả tim ác Quỉ độc tài độc trị thống trị rồi, không có cảnh tự do mưu cầu hạnh phúc đâu.



Hiện nay vận mệnh Quốc gia, non sông Tổ Quốc phải hùng mạnh có người chèo lái vững vàng, vì tình thế nhân loại hiện nay đang nỗi cơn tham lam tàn bạo sóng bạo lực dữ dội, mình không đánh họ, thời họ cũng sẽ đánh mình.



Kinh Dương Vương lại nói:

Từ thời Hồng Đế tới thời Viêm Đế Thần Nông xuống tới thời Kinh Dương Vương Ta, kéo dài hàng triệu triệu năm với truyền thống lâu đời ấy, tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng không có một dân tộc nào sánh kịp nhưng không có gì là tuyệt đối mãi. Gần trăm năm nay, tình thế có phần chuyển đổi, từ môn phái độc tài Thần giáo chuyển sang phong kiến độc tài Thần giáo, giáo Điều và Điều lệ cũng theo đó vượt lên chặt chẽ hơn. Cùng lúc ấy phái Duy vật giáo cũng nổi lên làm chao đão tình thế sự của nhiều Vương Tộc trong đó có nước Xích Quỷ ta.



Duy vật giáo suy tôn khoa học Duy Vật, luận chứng họ ca ngợi nền văn minh lúa nước cũng như nền văn minh hội họa giao tiếp thông điệp của ta, đưa nhân loại chuyển sang giai đoạn mới cũng như ca ngợi nền văn minh Tơ Tằm dệt lụa ở bên kia bờ Bắc sông Trường Giang, đem lại thật sự hửu ích cho con người. Còn phái Thần giáo thời chủ thuyết Tôn thờ Thần Linh, vì Thần Linh là chủ của thế giới phàm trần và bùa chú là một minh chứng hửu hiệu. Những ai chống trả lại liền bị Thần Linh giết chết.



Hai giáo phái ấy mỗi ngày một lớn mạnh làm chao đảo tình hình phương Đông. Từ môn phái độc tài Thần giáo chuyển sang phong kiến độc tài Thần giáo, trường phái Duy vật bị phong kiến độc tài Thần giáo đánh bại. Nên Đại đa số học giả giáo sĩ phái Duy vật không còn trụ vững nơi phương Đông. Làm thuyết khách đi lần về phương Tây. Khi ấy phương Tây, trường phái phù thủy đang thịnh hành, là chủ nhân của giai cấp, chiến hữu nô lệ và tiến tới thời cực thịnh của chiến hửu nô lệ nguyên thỉ. Và nghe đâu trường phái Duy vật được các phù thủy trọng dụng và nổi lên ở phương Tây xưng hùng xưng bá. Giai cấp phong kiến độc tài duy vật Địa Chủ ra đời ở Phương Tây mỗi lúc một hùng mạnh và đã lan truyền xuống phương Đông, nhất là ở các Địa phận Trung Đông. Lúc bấy giờ ở Trung Đông từ phong kiến độc tài Thần giáo đột phá đi lên, có nơi đã chuyển sang phong kiến độc tài Vua, Chúa thống trị như các nước hùng mạnh xa gần nước Xích Quỷ Ta. Vì thế giáo điều, điều lệ cũng nâng lên một tầm cao mới.



Phong kiến độc tài Vua, Chúa, khác với Phong Kiến độc tài Thần Giáo. Phong Kiến độc tài Thần Giáo lấy giáo điều Thần Linh cai trị dân chúng. Có một số nước lạc hậu mê tín dị đoan.



Phong Kiến độc tài Vua, Chúa lấy ý kiến triều Thần làm căn bản đưa ra cách thức trị dân. Có nghĩa Vua Chúa nghe theo Triều Thần, không phải nghe theo giáo điều Thần Linh, như Phong Kiến độc tài Thần Giáo. Ở khu vực Trung Đông này đang lan tỏa rất nhanh, hình thành lên nhiều thế lực Phong Kiến độc tài Vua Chúa mở ra nhiều nền văn minh mới, xóa sổ lầm độc tài Thần Giáo, cạnh tranh với Phong Kiến độc tài Thần Giáo. Và chiến tranh tranh giành thuộc địa ở khu vực Đông Á này thảm khốc vô cùng, chiếm hửu nô lệ thảm khốc vô cùng.



Nghe Cha kể lại sự biến động xã hội, trải qua hàng trăm năm, hàng nghìn năm có thể còn lâu xa hơn nữa, kiến thức của Cha quả thật hơn người Thái Tử lấy làm khâm phục. Có lẽ từ nơi người Cha thông thái dày kinh nghiệm này mà mình tìm thấy cái mình muốn tìm cũng nên vì nghĩ thế nên.



Thái Tử hỏi:

Thưa Cha có phải con người ngày xưa họ thờ Cầm Thú như thờ Rắn, thờ Heo, thờ Trâu, thờ Bò, thờ Cọp, thờ Ngựa, thờ Cá, thờ Cây, thờ Đá có thật không?



Kinh Dương Vương đáp:

Cần gì thời xưa mà ngay cả thời bây giờ cũng còn nhiều. Ở thời tiền sử có một số dân tộc lạc hậu, họ thấy loài Cầm Thú có yêu thuật họ suy tôn là Thần, rồi tôn thờ cúng bái nghe theo và làm theo những gì Thần Thú, Thần Cầm truyền dạy. Trở thành cuồng tín dị đoan làm hại cho bản thân, gia đình con cái kéo dài hàng triệu triệu năm. Nhưng lần lần các dân tộc tiến bộ, nhận thức được con người là chủ của muôn loài Cầm Thú, không còn sợ các loài Cầm Thú nữa thậm chí còn giết chết Thần Thú, Thần Cầm, những Thần hung hăng háo sát, không những thế mà còn săn bắn loài cầm loài thú to lớn để lấy thịt lấy da phục vụ cho con người, đời sống con người vì đó tiến lên một mức cao hơn. Nhân Loại tiến bộ, loại bỏ lần tôn thờ Thần Thú, Thần Cầm, chuyển sang giai đoạn thờ Thần Linh con người khám phá ra các Thần Linh con người là do sự tiến bộ tu luyện của con người mà ra, Linh Hồn tiến hóa lên các vị Thần như Thần Thổ Địa, Thần Núi, Thần Sông, Thần Biển, Thần Mưa, Thần Gió, Thần Lửa. Có những Linh Hồn tu luyện đạt đến đỉnh cao trở thành Thần Mặt Trời làm con của Trời. Những dân tộc văn minh thờ Thần Mặt Trời như Vương Tộc Long Giao ngoại của con.



Không nói chi đến Vương Tộc Long Giao, mà ngay cả Vương Tộc Kinh Dương Vương ta cũng thờ Thần Mặt Trời. Thần hạnh phúc, Thần quyền năng những vị Thần có công hữu ích cho con người những nước lớn ở Phương Bắc như Đế Minh, Đế Lai, Đế Nghi thờ Thần Mặt Trời. Sự thờ cúng tế lễ của một số nước văn minh tiến bộ, đời sống con người vì thế phát triển. Các Triều Thần của nhiều nước cũng theo đó mà phát triển văn minh hơn. Sự tôn phong sùng kính lạy các Thần Linh con người cũng đi vào trật tự kiến lập lễ nghi, lễ nghĩa, lễ giáo, lễ vật đi vào đời sống xã hội con người. Nhân phẩm con người nhận thức theo đó ngày càng thiết thực phong phú hơn phân biệt trở thành Phong Kiến độc tài Thần Giáo, tiến tới Phong Kiến độc tài Vua Chúa. Đi vào trật tự, Quân, Dân, Cha Con, Chồng Vợ, Họ Tộc, xốm làng, xã hội Tổ Quốc vì thế nhân luân rõ ràng hơn cụ thể hơn. Có thể nói giai đoạn Phong Kiến độc tài Thần giáo đã đến thời cực thinh. Và chuyển sang Phong Kiến độc tài Vương, Vua, Chúa.



Trường phái Duy vật tuy ra đời sau Thần giáo hàng triệu năm, hiện Thân của chủ thuyết chính trị độc tài độc trị, đối lập lại giáo trị độc tài độc trị Thần giáo, nói chung trường phái duy tâm Thần giáo.Trường phái Duy vật biện chứng đều rất lợi hại vì có cái lý đứng vững của nó làm cho con người dễ bị thuyết phục nghe theo làm theo.



Có lần Cha cho mời hai trường phái đến để nghe thuyết giáo. Chủ thuyết Thần giáo phát triển xã hội theo hướng tinh thần, giáo dục con người theo giáo Đạo lời dạy của các Đấng Thần Linh.



Chủ thuyết Duy vật giáo, phát triển xã hội theo đường lối phát triển đường hướng khoa học, đất nước nào làm chủ khoa học nhiều, thời đất nước đó sẽ thống lĩnh thiên hạ.



Có một điều con nên hiểu, phái Duy vật là nhốm phái tôn thờ các nhà phát minh khoa học, Họ không phải là nhà khoa học mà họ chỉ là con chiên sùng kính khoa học mà thôi. Cũng như các phái Thần giáo, họ không phải là các vị Thần mà Họ chỉ là con chiên sùng kính các vị Thần mà thôi. Xét cho cùng hai trường phái này chỉ là hai trường phái Duy Tâm và Duy vật, họ chỉ là cái vỏ của Thần Linh và các nhà khoa học, cái lớp vỏ bọc phô trương vô cùng lợi hại của hai trường phái thi nhau ăn sâu vào xã hội con người. Cha là người cẩn thận vì quá hiểu rõ chúng vì chúng chưa phải là các Thần Linh, cũng như các nhà khoa học. Chỉ là trường phái Đấu Đá nhau cạnh tranh nhau mà thôi. Cha không tiếp nhận hai trường phái duy tâm, cũng như duy vật. Vì xưa nay truyền thống Anh Linh dân tộc ta chỉ tôn thờ Thần Mặt Trời con của Trời lấy Đạo Đức Nhơn Luân Hiếu Nghĩa, tôn thờ Ông, Bà, Cha, Mẹ, Tổ Tiên làm đầu, bảo vệ non sông Tổ Quốc làm trọng mà Ông Cha Ta hàng nghìn năm xây dựng nên.

*********



Hết phần 3 chương 7 mời xem tiếp phần 4 chương 7 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng là bộ kinh, kinh văn thậm thâm sâu xa vị diệu ẩn tàng không biết là bao nhiêu là đạo pháp Chính Nghĩa. Ngay thời đại bây giờ cũng khó mà hiểu cho thấu đáo được. Huống chi là cách đây năm nghìn năm, nếu không được Quốc Tổ truyền dạy giải thích thời khó có ai hiểu nỗi một câu. Long Hoa Mật Tạng Kinh là bộ kinh Vua các Bộ Kinh. Bộ kinh không những trị quốc an dân, mà còn trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Bộ Kinh không gì quý hơn nữa. Người nào có trong tay Bộ Kinh nầy, đọc tụng hiểu được kinh văn thời coi như người đó đã tu vô lượng vô biên khiếp. Chỉ vì một nhân duyên lớn sanh xuống chốn nhân gian. Cứu nhân độ thế làm cho nhân loại yên bình, cũng như siêu sanh về thượng giới.

Có duyên gặp đặng kinh nầy

Tiêu tan tai kiếp sống đời bình an

Huống chi đọc tụng truyền kinh

Cầu chi đặng nấy ứng linh vô cùng

Hay là biên chép ấn in

Cõi trời sống mãi trường sanh đời đời

Huống chi hiểu nghĩa kinh thời

Lo gì chẳng đặng Thánh, Thần, Phật, Tiên.



HẾT QUYỂN 1.
 

shopoga

✩✩
QUYỂN 2







CHƯƠNG 7



PHẦN 4



TRANH GIÀNH THUỘC ĐỊA.



Kinh Dương Vương nói:

Này con! Trường phái Duy vật bị trường phái Thần giáo đánh bại, mang hận thù đi về phương Tây. Còn nhắc nhở rằng sẽ đánh bại phái Thần giáo không xa khi xã hội Vua, Chúa phát triển.



Các Bộ Lạc Chúa Đất ở phương Tây, đón tiếp trường phái Duy vật biện chứng vào hàng thượng khách, làm tôn sư thay thế cho phù thủy. Mở ra đường hướng chính trị thôn tính Độc Bá Thiên Hạ, tiến tới công lệ thay cho giáo Điều phù thủy. Điều lệ của Chúa Đất trước đây. Đặc ra kế sách khai thác tài nguyên thiên nhiên như Vàng, Bạc, Đồng Thau, Lộ Thiên v.v… Rèn luyện lên Đao, Búa, Tên, Giáo v.v.. Từ nền phong kiến Chúa Đất chuyển sang giai đoạn sơ khai phong kiến độc tài Vua, Chúa. Các Chúa Đất lạc hậu liền bị thôn tính hoặc bị diệt trừ mở màn chiến tranh mỗi lúc một quy mô. Tranh giành nổi lên, tranh giành thuộc địa, thắng là Vua thua là giặc, thật ra mà nói giặc hay Vua cũng chẳng khác gì nhau. Những kẻ bị bắt làm tù binh với khẩu hiệu thuận ta thì sống, chống ta thì chết. Thây chất thành đống, máu nhuộm đỏ sông, từ chiến tranh, tranh giành thuộc Địa. Có chổ biến thành chiến tranh diệt chủng.



Có thể nói nền phong kiến độc tài Thần giáo ở phương Đông đã đến hồi cực Thịnh, trở thành phong kiến Đế, Vương, Vua, Chúa thịnh hành ra đời. Thôn tính các Bộ Lạc, các Bộ Tộc trở thành cường quốc thế lực lớn lên từng ngày. Thật ra mà nói các dân tộc các Bộ Lạc, các Vương Quốc đều phát nguồn từ Hồng Bàng, Hồng Đế mà ra. Sự xưng Đế, Xưng Vương đã có từ lâu lắm rồi. Nước Xích Quỉ thời Kinh Dương Vương ta theo dòng chảy lịch sử lâu đời từ thời Hồng Đế tới bấy giờ. Thời Đại Kinh Dương Ta cũng đã kéo dài gần hai nghìn năm, cũng đã đến thời cực thịnh khó mà tránh khỏi kiếp nạn.



Với hàng chục Bộ Tộc, Bộ Lạc, Vương Quốc lớn, Vương Quốc nhỏ, bao bọc xung quanh nước Xích Quỷ ta. Đáng ngại nhất là phương Bắc, bên kia bờ sông Trường Giang, các Vương Quốc lớn đã có mưu đồ từ lâu, thôn tính nước ta. Tuy việc chưa xảy ra nhưng cũng cần tính trước chuẩn bị khi cần. Nếu chúng ta tới đâu hay tới đó, một khi chiến tranh xảy ra, thời bị động khó đối phó kịp. Cảnh chết chóc, nhà tan cửa nát, quê hương làng xốm tiêu điều, chiến tranh, tranh giành thuộc địa là chiến tranh mạnh được yếu thua, chiến tranh diệt chủng. Địa ngục, nô lệ, tù đày đến với con người nhanh hơn tên bắn. Xã hội nhân loại đại loạn không luật lệ gì cả, giải quyết với nhau bằng gươm, đao, giáo, mác mà thôi.



Cha đã xem kĩ Phong Thủy Địa Mộc nước Xích Quỷ ta. Chỉ có lợi cho mặt chăn nuôi, trồng trọt, đánh bắt cấy lúa. Nói chung là thuận lợi cho mặt làm giàu, đất đai phần nhiều là bằng phẳng, ít hiểm trở, sông ngòi kinh rạch chằn chịt, thông ra biển. Nước ta tuy lớn nhưng nằm ở thế bao vây, thế lực từ các dãy núi cao đánh xuống, Lĩnh Nam yêu quái đánh ra, ngoài biển đánh vào, các thế lực phương Bắc đánh vô, thời nước Xích Quỉ ta dần thu hẹp lại. Nhưng Cha vẩn chưa tìm ra giải pháp ứng phó, về lâu về dài. Theo Cha nghĩ chỉ có một cách duy nhất, muốn giữ được non sông màu mở nầy, thời phải có hai loại vũ khí, không phải là loại vũ khí Đồng Thau tầm thường mà là thứ vũ khí Bảo Bối hiện đại vũ trụ, có thể một nhác Đao nhác Búa tiêu diệt cả Đại Quân xâm lược. thứ Bảo Bối thứ hai là Bảo Bối Binh Pháp Trí Tuệ, điều khiển Thiên Hạ muôn người như một. Tập hợp sức mạnh toàn dân tộc thành một khối thống nhất, nhất hô bá ứng. Mỗi người dân là một Dũng sĩ diệt giặc, nước Xích Quỷ như một bó đủa khổng lồ không ai địch nổi nữa. Ngoại xâm kéo đến chỉ có đi mà không có về. Nước Xích Quỷ ta từ lâu lúc nào cũng phòng thủ chuẩn bị cho tình huống xấu nhất xảy ra.



Kinh Dương Vương nói:

Phái Thần giáo thuộc Dương sẽ có lợi cho dân tộc về mặt tinh thần nhưng có hại cho dân tộc về mặt phát triển vì xu thế mê tín nô lệ Thần Quyền, đời sống vật chất, lệ thuộc Thần Linh nhiều quá. Trước bối cảnh thiên nhiên như nắng hạn, Lụt Bão, ốm đau dịch bịnh, không lo tìm ra phương pháp cứu chữa, chỉ lo cầu cạnh lễ cúng tế Thần Linh mà quên đời sống có làm mới có hưởng. Chiến đấu với bệnh tật, không ngoài tìm ra phương thuốc trị bệnh. Chiến đấu với cái đói cái nghèo, không ngoài tìm toài phát minh khoa học biết vận dụng sức mạnh thiên nhiên làm lợi cho cuộc sống con người. Đẩy lùi lạc hậu con người không ngoài nâng cao trình độ nhận thức. Lệ thuộc nô lệ vào Thần Linh nhiều quá, không tự bảo vệ được mình, thời bảo vệ xã hội sao nổi, nói gì đến non sông Tổ Quốc. Nếu không tìm tài phát minh sáng kiến tiêu diệt đẩy lùi bệnh tật, đói nghèo, lạc hậu là mối lo chung cho toàn xã hội. Nếu không hạn chế lệ thuộc thiên nhiên cũng thời tiết, thời tai họa ập đến khó mà lường, những năm xảy ra đầy khắc nghiệt, hạn chế thất thu, dân tình đói khổ. Làm Vương một đất nước mà không giữ vững được đời sống ấm no cho muôn dân. Thời không đánh giặc, giặc cũng đánh ta.



Một khi chiến tranh đã nổ ra. Thời Thần Linh cũng vô phương cứu chữa, không ngăn nổi chiến tranh. Thờ phụng Thần Linh là một điều tốt, hể có cảm thời có ứng. Nhưng Thần Linh không phải là Đấng tối cao Quyền Năng Vô Hạn nên Thần Linh cũng bất lực trước thiên nhiên, trước xung đột chiến tranh. Vì vậy phái Thần giáo cũng không giải quyết được gì lớn lao cho con người cho non sông Tổ Quốc nước Xích Quỷ Ta về sau. Nhất là các thế lực đang trên đà hùng mạnh dồm ngó đến đất nước ta.



Nhưng nước Xích Quỷ ta chỉ biết lao theo quyền lực lạm dụng độc tài độc trị, làm cho ai cũng phải khiếp sợ. Theo xu hướng phái Duy vật, chỉ biết tôn thờ cái lợi trước mắt mà quên đi cái hại về sau. Đẩy tình thế vào cuộc tranh giành quyền lực thảm khốc như các thế lực tranh giành thuộc địa ở phương Tây. Có nơi đi đến cảnh diệt chủng. Theo Quốc Sư Thục Lục nước Xích Quỷ Ta, ngựa chiến nhiều quân lực phải mạnh, lương thực đầy đủ, Vũ khí sắc bén nhất là cung tên đao giáo kiếm. Phát huy giáo dục tinh thần yêu nước thời khó nước nào đánh bại được nước Ta.



Thái Tử nói:

Thưa Cha! Quốc Sư Thục Lục là người biết lo xa các nước hùng mạnh khác chưa dám tấn công xâm lược nước ta. Là vì chúng thấy Quốc Vương nước Xích Quỷ không tửu sắc, không tham tàn bạo ác rất được lòng dân hơn hẳn những các Quốc Vương khác, lại có một vị Quốc Sư lắm tài ba khó có ai hơn được. Nhưng đó chỉ là hiện nay mà thôi còn về lâu về dài khó mà nói trước. Cuộc thế chuyển xây thay đổi bất thường.



Theo như con nghĩ:

Một Quốc gia hùng mạnh ấm no hạnh phúc trên hẳn các Vương Quốc khác, xã hội đó có đủ hai yếu tố, văn minh tinh thần, văn minh vật chất. Văn minh vật chất là yếu tố tiến lên dân giàu nước mạnh, giàu về kinh tế, mạnh về quân lực. Văn minh tinh thần là văn minh Chính Nghĩa, nâng cao trình độ dân trí chấn hưng dân khí. Văn Minh tinh thần là Văn Minh Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp phục vụ công bằng văn minh xã hội, thời đất nước đó mới thật sự hùng mạnh, thật sự dân giàu nước mạnh, thời coi như đánh bại hơn một nữa ý chí xâm lược của các thế lực ngoại xâm. Ngăn chặng được ngoại xâm mà không cần động đến gươm đao giáo mác.



Muốn có được xã hội như vậy không thể tìm thấy ở trường phái Thần giáo hay ở các vị Thần Linh. Cũng không thể tìm thấy ở trường phái Duy vật tôn thờ khoa học hay ở nhà khoa học mà là ở vị Quốc Vương sáng suốt, thực hiện đường lối đúng đắng thông thoáng rộng mở, lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh sẳn có nơi dân. Làm tiền đồ cho non sông Tổ Quốc, tận dụng Tinh Hoa trường phái Thần giáo cũng như trường phái Duy vật giáo làm lợi cho xã hội cho Tổ Quốc. Như con ong chăm chỉ, chỉ lấy mật không lấy hoa. Chỉ vận dụng tinh hoa Duy Tâm Thần Giáo, Duy Vật Biện Chứng. Mà không cần dùng đến phái Duy Vật, hay phái Duy Tâm. Hai trường phái nầy đều cản trở cho việc phát triển văn minh xã hội.



Nói cho cùng Văn Minh vật chất đưa xã hội đến no cơm ấm áo, binh hùng cường mạnh, xã hội giàu sang, Tổ Quốc giàu mạnh, không sợ đói nghèo.



Văn minh tinh thần là văn minh Văn Hóa Chính Nghĩa là rường cột trật tự xã hội, cốt lõi tạo lên nội lực non sông Tổ Quốc. Tạo lên khí thế tinh thần yêu nước, tạo lên sức mạnh đoàn kết muôn người như một sức mạnh dời non lấp biển. Cũng như con người đứng vững là nhờ cốt lõi bộ xương cứng cỏi vững vàng của con người. Tinh Thần đứng vững là nhờ cốt lõi của văn hóa truyền thống. Nếu biết vận dụng tinh hoa hai trường phái Duy tâm lẫn Duy vật thời đất nước đó là đất nước bất bại, khó đất nước nào đánh bại được. Dù cho đó là cường quốc lớn hơn gấp năm bảy lần.

*********



Hết phần 4 chương 7 mời xem tiếp phần 5 chương 7 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng Kinh là Văn Kinh tối thượng thừa, chỉ cần nhớ một câu một chữ không quên, lại hiểu rõ ý nghĩa câu kinh ấy thời coi như không còn sa đọa xuống địa ngục. Vì sao lại có hiệu lực như vậy. Vì kinh văn Long Hoa Mật Tạng Kinh, là Kinh Văn Mật Tạng, Kinh Văn Thượng Thừa của các loại Kinh, không những tối đại linh thiên mà còn thậm thâm vi diệu. Nơi nào có Kinh Long Hoa Mật Tạng. Thời nơi đó có Hồn Thiên Dân Tộc phò trì, Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, che chở. Vượt qua tất cả kiếp nạn.

Nơi nào có Kinh

Nơi đó có Quốc Tổ Vua Hùng

Hồn Thiêng Dân Tộc trùng trùng

Phò trì hộ giá, Thánh, Thần chở che.​
 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 7



PHẦN 5



CHỦ NGHĨA THỨ BA



Kinh Dương Vương nói:

Tinh hoa của hai trường phái đó là gì. Nếu xử dụng cả hai trường phái đó thời khó mà hòa hợp được. Vì hai trường phái ấy như nước và lửa, như âm và Dương, khó mà dung hòa hai trường phái lại với nhau. Ở phương Đông ta chưa có vị nào đủ sức kết hợp hai trường phái ấy thành một, làm lợi ích cho quốc gia xã hội.



Thái Tử nói:

Thưa Cha! Sự sống con người là sự sống Tâm Linh và Thể xác luôn song hành, cuộc sống xã hội con người là cuộc sống tinh thần lẫn vật chất. Thần Linh và các nhà Bác Học, khoa học không thể thiếu trong đời sống xã hội, cũng như con người. Vì thế duy vật cũng như duy tâm đều quý cả nếu biết tận dụng lấy nó.



Ở đây con muốn nói là:

Cha có thể vận dụng cái hay Tinh Hoa của hai trường phái. Trường phái Duy Tâm Thần Giáo cái hay ở đây là sự tín ngưỡng Giáo dục, giáo điều chân chính của duy tâm Thần Giáo. Kết dính nhân loại lại với nhau, đồng chung sự tôn thờ, cũng như sự tôn nghiêm trong cuộc sống. Ổn định xã hội về mặt Tinh Thần. Giáo điều của các đấng Thần Linh bao giờ cũng có hiệu quả hơn là Vương Quan truyền dạy.



Cái lợi của Trường Phái Duy Vật là làm cho con người nhận thức về khoa học chuyên sâu về vật chất và sự đấu tranh tồn tại, mình muống sống vững thời đứng lên từ đôi chân tự bảo vệ mình, tin vào chính mình và luôn hướng tới đạt được mục đích những gì mình muốn. Sức mạnh kết hợp tinh hoa giữa Duy Tâm cùng Duy Vật làm lợi cho xã hội. Văn Minh vật chất lẫn Tinh Thần.



Mọi vạn vật sống trên đời, sự sống bao giờ cũng song hành cả Âm lẫn Dương ở cảnh giới Trung Hòa, hòa hợp lẫn nhau đồng tiến hóa. Nếu chỉ Âm không, hay Dương không, khi đã đến thời kỳ quá độ không những khó phát triển, mà tự nó trở lại xung đột lẫn nhau hủy diệt nhau. Sự ở đời cũng cho ta thấy Âm Dương tượng hiệp vạn vật hóa sanh. Nam Nữ trao trinh sanh con cháu lưu truyền.



Để nhận thức được rõ hơn về tinh hoa của hai trường phái, thời phải lắng nghe hai trường phái thuyết giáo, lọc lừa những tinh hoa những mặt có lợi an dân trị quốc. Cha chính là con ong chăm chỉ, tận tị lắng nghe, khi nào nào hai đóa hoa Duy Tâm lẫn Duy vật không còn mật để hút nữa thời thưởng vàng bạc châu báu cho họ, không xài họ, lấy kiến thức của người, không lấy người. Lấy cái hay của trường phái không xử dụng trường phái. Cũng như con ong chỉ lấy mật không lấy hoa.



Các loài hoa tuy khác nhau về màu sắc, về hình dạng nhưng Tinh của các loài hoa đồng cùng vị ngọt, không xung khắc nhau. Không những dùng mật ong trị bịnh mà còn bỗ dưỡng nữa. Không những trường phái Duy Tâm, Duy vật, còn nhiều trường phái nữa. Chúng đều có tinh hoa của chúng, ta cần nhiều trường phái, không phải dùng họ mà tôm gốp tinh hoa của họ, dung hòa thành một. Mở ra một hướng đi mới. Hướng đi trong lòng người, trong lòng nhân loại, đưa xã hội tiến lên một tầm cao. Chủ Nghĩa Đại Đồng. Chủ Nghĩa nhân quyền, Dân Chủ. Chủ Nghĩa Công Bằng Bình Đẳng xã hội.



Kinh Dương Vương càng nghe càng sáng mắt ra, hết kinh ngạc nầy đến kinh ngạc khác.



Kinh Dương nói:

Xưa nay, Cha chưa từng nghe nói một chủ nghĩa lạ lùng như vậy. Không hiểu chủ nghĩa ấy có thực hiện được không? đưa đến dân giàu nước mạnh không? Có chống đở nổi các thế lực ngoại xâm không?



Thái Tử Nói:

Chủ nghĩa Đại Đồng là chủ nghĩa lấy Quyền con người làm nền tản Nhân Quyền. Chủ nghĩa lấy Dân làm Gốc Dân Chủ. Đất nước Xích Quỷ Ta không chỉ một dân tộc mà đa dân tộc (đa sắc tộc) có trên mấy mươi Bộ Lạc, mỗi Bộ Lạc điều có phong tục tập tập quán bản sắc riêng. Dân Tộc Đa Nguyên như nước Xích Quỷ ta. Không phù hợp thể chế độc tài độc trị. Mà chỉ phù hợp thể chế Đa Nguyên.



MỘT ĐẤT NƯỚC CHUNG CÙNG ĐA BỘ LẠC, ĐA SẮC TỘC NHƯ THẾ THỜI PHẢI SỐNG DƯỚI NGÔI NHÀ CHUNG HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. ĐƯỢC THIẾT LẬP TRÊN NỀN TẢN CHUNG ĐA NGUYÊN, NHÂN QUYỀN, DÂN CHỦ.




Chủ Nghĩa Đại Đồng là chủ nghĩa Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ. Tiến tới Chủ Nghĩa Đa Nguyên Thiên Quyên Nhân Chủ. Chủ Nghĩa bao hàm cả cái Chung lẫn cái Riêng là một. Thống nhất cùng chung quyền lợi, giữa cá nhân cũng như tập thể, giữa Tư Hữu và Công Hữu. Xã hội vừa khoa học vật chất vừa truyền thống Tâm Linh, xã hội Thần Thánh, xã hội Công Bằng văn minh. Tất cả đều sống theo Đạo Pháp Truyền Thống. Sống theo Hiến pháp Nhân quyền Dân Chủ. Sống theo Luật pháp Công Bằng Bình Đẳng. Vương, Quan là đầy tớ trung thành của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, phải nói là tuyệt đối trung thành, truyền thống Đạo Pháp dân tộc, trung thành Hiến pháp, Luật pháp mà Quốc Vương là vị tối cao Đại Diện cho mọi tần lớp nhân dân thể hiện sự Trung Thành đó.



Nắm vững Cán Cân Công Lý. Thi Hành Đạo Pháp truyền thống dân tộc, thi hành nhân quyền con người, thi hành Luật pháp Công Bằng xã hội. Các cấp Chính Quyền, Vương Quan các cấp cầm cân nẫy mực, làm trọng tài cho cạnh tranh bình đẳng, đưa xã hội lên một tầm cao. Không những giữ vững Độc Lập mà còn làm khiếp đảm các thế lực ngoại xâm, một đất nước toàn dân đều là làm chủ đất nước đó. Thử hỏi nước nào mạnh hơn để mà xâm lược.



Một đất nước mà toàn dân đều có bổn phận đối với xã hội đối với non sông Tổ Quốc, đối với truyền thông anh linh dân tộc. Tuân thủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, thời không nói cũng biết đất nước đó hùng mạnh tới mức độ nào. Một đất nước mà có Tam Bảo Chí Tôn, chính là Nền Quốc Đạo dân tộc. Dân đã có gốc thời dân mạnh vô cùng, Chủ Nghĩa Đại Đồng đa nguyên Nhân Quyền Dân Chủ là Chủ Nghĩa thật sự của dân, do dân và vì dân. Nhà nước lấy Quyền con người làm nền tản lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh Dân Chủ toàn dân, thời khó khăn nào cũng vượt qua kẻ thù nào cũng đánh thắng, kinh tế, chính trị, quân sự vững như núi như non.



Sự hưng thịnh của nền Phong Kiến Thần Giáo đã tới hồi cực thịnh suy vong, nhất là ở phương Đông chúng ta. Phía bên kia bờ Bắc thượng nguồn sông dương tử trường giang. Có Vương Quốc đã chuyển sang Phong Kiến Chế Độ Vua Chúa, kiến lập lên nhiều giáo điều, quân lực, xã hội, chính trị càng ngày càng thêm cũng cố. Muốn chuyển xây tình thế chúng ta vượt lên trên phong kiến Chế Độ Vương, Vua, Chúa. Tiến tới xã hội mạnh về Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp truyền thống Chính Nghĩa, mạnh về khoa học đời sống, đưa giáo dục Văn Hóa lên hàng Quốc Sách, vượt lên trên Thần Giáo. Xóa bỏ mê tính tiến lên chánh tín khoa học, Đạo Đức đời sống Tâm Linh. Thời không còn lo sợ gì nữa.



Thái Tử Hùng Lan thấy Cha có vẽ lo lắng về tương lai luận thuyết của mình, liền nói thêm rằng:

Thưa Cha con đã có cách và tìm ra hướng đi mới. Kinh Dương Vương nghe con nói thế liền phấn khởi tin tưởng những gì tương lai của con mình. Kinh Dương Vương khen con không những có chí lớn, mà còn biết lèo lái con thuyền vận mệnh dân tộc, tài lắm, tài lắm.



Kinh Dương Vương bất ngờ hỏi:

Con đã tìm ra Căn Cội, Chủ Nghĩa thứ ba Chủ Nghĩa Đại Đồng Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ rồi sao?



Thái Tử nói:

Thưa Cha đúng vậy. Không đánh mà thắng, gồm thâu thiên hạ về một mối, đó là thượng sách. Bất chiến tự nhiên thành. Nhưng làm được điều này rất khó, phải thật sự làm chủ Tâm Linh của mình.

Thông đạt chứng ngộ đến tận cùng vũ trụ.

Tận cùng nguồn gốc của thế giới vật chất.

Tận cùng nguồn gốc nhân loại con người.

Tận cùng nguồn gốc Tâm Linh con người.




Tạo ra Chủ Nghĩa thứ ba. Chủ Nghĩa thật sự Công Bằng Bình Đẳng văn minh. Chủ Nghĩa của Nhân Loại, do Nhân Loại, vì Nhân Loại. Chủ Nghĩa của sự đoàn kết, chủ nghĩa của sự hùng mạnh văn minh vật chất, văn minh tinh thần. Chủ Nghĩa của sự Độc Lập vĩnh cửu. Chủ Nghĩa Thần Thánh. Chủ Nghĩa của sự giàu sang, tự do hạnh phúc.



Dùng vũ lực, bạo lực, gươm đao, giáo mác, cung tên, ngựa hay voi tốt, mưu mô xảo quyệt, biết người biết ta, giành lấy thiên hạ chỉ là hạ sách mà thôi. Xây dựng cơ nghiệp hoặc bảo vệ cơ nghiệp trên đường lối, đường hướng Tà Đạo như vậy. Thời Độc Lập lâu dài không bền vững. Thời gian sẽ vùi lấp tất cả.



Kinh Dương Vương nghe nói đến bốn chữ không đánh mà thắng gồm thâu thiên hạ về một mối, bất chiến tự nhiên thành, thời hỏi:

Điều này có thật không?



Thái Tử đáp:

Thưa Cha có ạ; Đó là Thiên Đạo vũ trụ Văn Hóa Cội Nguồn. Chỉ có Đạo Trời mới gồm thâu muôn vật, mà chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn mới gồm thâu được nhân loại thiên hạ. Văn Hóa Cội Nguồn là đỉnh cao Tinh Hoa của nhiều trường phái Chủ Nghĩa thứ 3. Chính là Chủ Nghĩa Đại Đồng Văn Hóa Cội Nguồn. Chủ Nghĩa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ thật sự Công Bằng văn minh.



Nếu tìm đến tận cùng nguồn Cội vũ trụ, thời tất cả sẽ được chứng minh về Nguồn Cội Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ. Tìm cho ra sự sống đều phát nguồn từ bản thể Đại Đồng. Bản Thể Tối Cao Vũ Trụ. Và cũng tìm thấy sức mạnh vũ trụ. Sức Mạnh Cái Chung Toàn Hoàn Vũ, Vũ Trụ. Chứng minh cho được Đại Linh Hồn vũ trụ. Đại Thần Lực vũ trụ tiến hóa tạo ra thế giới vật chất vũ trụ. Đại Linh Hồn vũ trụ khởi tạo ra Tiểu Linh Hồn con người. Có làm được như vậy mới tìm ra được chủ nghĩa thứ ba. Chủ Nghĩa Tinh Hoa cả Duy Tâm lẫn Duy Vật. Chủ Nghĩa của sự bất chiến tự nhiên thành.



Kinh Vương Dương hỏi:

Bằng cách nào con tìm ra Cội Nguồn vũ trụ? Để tìm ra Chủ Nghĩa thứ 3. Nguồn Cội của Chủ Nghĩa Đa Nguyên, Nhân Quyền Dân Chủ Đại Đồng?



Thái Tử đáp:

Thưa Cha! Nếu không tìm ra Cội Nguồn của Chủ Nghĩa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ. Mà chỉ thực hiện Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ. Thời không thành Chủ Nghĩa Đại Đồng, rơi vào Tư Bản Chủ Nghĩa mà thôi. Chủ Nghĩa chưa rốt ráo Công Bằng Bình Đẳng văn minh.



Để tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn. Trước hết ta phải nắm bắt Linh Hồn của chính mình, thu phục tâm viên, ý mã hàng phục vô lượng thức tánh trong tâm, kể cả thiện tánh, trí tánh, ác tánh, trở về tánh không, tánh không tánh, chính là tự nhiên tánh, làm chủ Tự Nhiên Tánh chân như hư không vũ trụ, như như tự tại thời hàng phục tất cả Ma Tánh, Quỉ Tánh, Phàm Tánh trong tâm linh của mỗi con người. Sự hàng phục này phải có thời gian lâu hay mau là do nổ lực quyết tâm của mình. Như người diễn xiếc hàng phục Thú Cầm, người biểu sao thời Thú Cầm làm theo vậy, khi làm chủ được vô lượng thức tánh Linh Hồn của chính mình, thời coi như chiếc chìa khóa vạn năng mở tung bí mật vũ trụ đã ở trong tay.



Cũng như bọt nước nó đã làm chủ được nó và tự điều khiển nó xâm nhập vào bản thể của nước, tìm hiểu nước vì nước là Cội Nguồn của tất cả bọt nước, và từ nơi bản thể của nước, bọt nước sẽ tìm ra cái Văn Hóa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ Cội Nguồn mình cần. Khi tiểu Linh Hồn con người hòa nhập vào Đại Linh Hồn vũ trụ, bước vào kho tàng tri thức vũ trụ và chọn nơi đây những tri thức bổ ích xây dựng lên Chủ Nghĩa tri thức, Chủ Nghĩa văn minh bậc nhất thiên hạ.



Chủ Nghĩa mùa xuân, đồng vị ngọt của các loại hoa. Chủ Nghĩa ở đỉnh cao. Chủ Nghĩa của xã hội đỉnh cao tri thức, trên hẳn Chủ Nghĩa tư hữu và công hữu.



Chủ Nghĩa Đại Đồng là chủ nghĩa kết hợp lợi ích giữa cái Công và cái Tư. Chủ Nghĩa Thần Thánh. Thiên Đạo vũ trụ Văn Hóa Cội Nguồn là con đường Thần Thánh rộng lớn, xuyên suốt không gian thời gian, xuyên suốt quá khứ vị lai sẽ trở thành Nền Quốc Đạo sau này. Đệ nhất Gươm Thiên Trấn Quốc.



Kinh Dương Vương mừng rỡ hỏi:

Con đã tìm ra Chủ Nghĩa tri thức đỉnh cao nhân loại chưa?



Thưa Cha đúng vậy. Chỉ cần kiểm chứng lại nữa mà thôi. Sự kiểm chứng ấy Thái Tử Hùng Lan phải mất sáu năm gian khổ, mới thật sự tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn. Con đường chủ nghĩa tri thức đỉnh cao xã hội, mở ra giai đoạn lịch sử mới đưa xã hội nhà nước Văn Lang lên một tầm cao kéo dài Độc Lập 2701 nghìn năm. Thời Văn Hóa Cội Nguồn, chủ nghĩa đỉnh cao tri thức đi vào thất truyền.

*********



Hết phần 5 chương 7 mời xem tiếp phần 1 chương 8 Long Hoa Mật Tạng. Bộ Kinh tối cao có một không hai trên đời.
 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 8



PHẦN 1



GIAI ĐOẠN KHÓ KHĂN MỞ MÀN TIÊN ĐẠO



Theo yêu cầu của Thái Tử. Kinh Dương Vương cho xây dựng tại khu vườn cấm một ngôi nhà khang trang, ba phòng rộng rãi thoáng mát, đầy đủ tiện nghi. Cách cung Đình không xa về hướng Tây Nam khoảng hơn năm dặm. Khu vườn cấm là khu vườn được xây dựng từ lâu, từ thời Kinh Dương Vương đời thứ năm, kiến tạo hơn 10 năm mới xong. Phải nói khu vườn cấm là khu vườn cấp cao, đa dạng thực vật hiếm lạ. Nơi đây được trồng nhiều loại gỗ quí, nhiều loại hoa quí, nhiều loài cây ăn trái quí hiến cho quả thơm ngon bổ dưỡng. Có hơn trăm loài Chim thường bay tới đây nhất là mùa quả chín, trong đó có cả Chim Phụng Hoàng.



Khu vườn rộng chừng hơn 3 dặm tư vuông được kiến trúc tạo lập, sông, suối, ao hồ, non bộ đường đi ngan dọc lắm công phu. Khu vườn cấm là khu vườn đặc biệt không ai được đến, chỉ trừ Quốc vương, vương Hậu, vương phi hoặc Thái Tử, Công Chúa mà thôi. Vì kiến trúc nơi đây Châu báu, ngọc ngà, vàng bạc, châu báu nhiều vô số kể.



Hàng năm được tu bổ sửa sang nên quang cảnh nơi đây ví như Tiên Cảnh Bồng Lai thượng giới, nhất là những độ xuân về. Hương Hoa ngào ngạc. Đức Vương cùng gia đình đến đây du ngoạn thưởng thức vẻ đẹp phong cảnh, nghe chim hót, nghe chim ca, xem hoa nở, nghe thát reo, ăn quả ngọt, dạo chơi cả ngày cũng không thấy cháng. Quả đúng nơi đây vừa thanh tịnh, vắng vẻ, vừa không sợ đói khác rất phù hợp cho con người chân tu đạt đến cảnh giới tối cao vũ trụ. Mở ra Chân Trời mới.



Từ khi Thái Tử đến khu vườn này để tu luyện, hầu tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Thái Tử là người văn hay giỏi võ, giỏi kế thừa chân truyền Cha mẹ. Kinh Dương Vương và Thần Long Nữ. Võ nghệ pháp thuật cao cường đi trên mặt nước như đi trên đất liền, phi thân trên ngọn cây như đi trên đường lộ. Tuy còn trẻ tuổi nhưng khó có người địch lại. Với sự thừa kế Văn Võ của Cha Mẹ Thái Tử đủ sức bảo vệ lấy mình không sợ bất cứ đối thủ nào, dù cho đó là yêu tinh quỉ dữ.



Tuy Thái Tử đã đến khu vườn cấm, nhưng Thái Tử chưa một lần dạo chơi, suốt ngày ở trong thiền phòng, tập trung tư tưởng tham thiền quán tưởng. Hầu mong nắm bắt được Linh Hồn của chính mình, sự bao hàm ý nghĩ tràng lan, không biết đâu là đầu mối, nắm bắt chỗ nào. Cũng không biết khởi đầu từ đâu. Đã hơn một tháng trôi qua mà chẳng nắm bắt được gì. Càng suy luận càng rơi vào đâu đâu, càng thêm mờ mịt, bế tắc. Thái Tử kiên nhẫn chuyển đổi tư duy quán tưởng những đối tượng cần tìm. Trước hết là Thần giáo.



Thái Tử liền tập trung quán nghiệm các giáo điều của các giáo phái Thần giáo. Không thấy chỗ nào là nắm bắt Linh Hồn, làm chủ Linh Hồn của mình cả, mà chỉ là một giáo lý nô lệ. Nô lệ Thần Linh, nô lệ Thần quyền, nô lệ cho thói hư tật xấu đầy tham vọng của mình. Rơi vào tà kiến, thờ cúng Thần Linh cũng chỉ vì sơ sệt, cầu tài được lợi, cầu quyền cầu lực, cầu vô bịnh, cầu bớt bịnh, nhờ Thần Linh ban phúc cho mình. Theo sự phán xét của Thần Linh tự trói buộc mình vào cảnh mê tín nô lệ. Theo các trường phái Thần giáo Linh Hồn không bao giờ tự chủ, làm chủ được mình, mãi mãi là con chiên nô lệ của các Thần Linh. Mà Thần Linh nào phải Đấng tối cao vũ trụ, quyền năng có hạng, có những điều Thần Linh cũng đành bó tay như chiến tranh xung đột xảy ra Thần Linh không ngăn cản được. Đói nghèo lạc hậu Thần Linh không giải quyết được. Thói hư tật xấu trong người làm hại bản thân, gia đình, xã hội, Thần Linh đành bó tay và còn nhiều thứ Thần Linh bất lực chỉ biết đứng nhìn không làm nổi.



Thái Tử càng nghĩ càng thấy chán, vì các trường phái Thần giáo còn ở đâu xa cái mà Thái Tử cần. Đó là Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng. Cội Nguồn của Chủ Nghĩa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ giải thoát đói nghèo giải thoát nô lệ, tiến tới giải thoát sanh tử. Làm Chủ Linh Hồn làm chủ vận mệnh của chính mình. Chủ Nghĩa của sự Công Bằng văn minh, dân giàu nước mạnh, làm khiếp đảm các thế lực ngoại xâm. Giữ vững nền Độc Lập dân tộc lâu dài.



Thái Tử thấy rõ các trường phái Thần giáo chỉ là những giáo phái tôn thờ các Đấng Thần Linh. Nhờ tu thiền luyện khí có chút ít pháp thuật thần thông, nhưng pháp thuật thần thông không làm cho xã hội Công Bằng Bình Đẳng. Cũng như nân cao trình độ nhận thức con người hiểu biết về nhân cách đạo đức. Lại đặc ra những giáo điều bó buộc con người quá lớn. Xu hướng lệ thuộc vào Thần Linh, ỷ lại vào các Đấng Thần Linh, phó mặt cho nghèo đói, chiến tranh và lạc hậu, phó mặt cho thói hư tật xấu do con người gây ra, làm bẩn dơ xã hội.



Thái Tử nhàm chán Trường Phái Thần Giáo chuyển sang mục tiêu khác, mục tiêu pháp chú Thần quyền. Nghiên cứu tất cả Ma thuật, yêu thuật, pháp chú Thần Quyền. Thái Tử càng thấy mù xa những gì mà mình đang tìm. Càng chuyên sâu về Thần Quyền càng rơi vào Mê Tín không phải Chánh Tín. Cái Tin hướng ngoại không phải cái tin nội tâm. Vì thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa từ nội tậm mà ra, không phải vọng cầu mà có. Huống chi là làm chủ linh hồn hàng phục vô lượng vô biên duy thức trong tâm, tiến tới an định tự nhiên hội khập vào Cội Nguồn Vũ Trụ.



Mục đích tu luyện Yêu thuật Ma thuật phục vụ cho lòng tham vọng của mình, phục vụ cho sự tranh bá, tranh quyền điều khiển âm linh tứ tượng, ngũ hành bát quái. Triệu Quỉ gọi Thần dùng tâm lực, luyện bùa, luyện chú, luyện pháp thuật như đi mây về gió, sái đậu thành binh. Tuy có công năng chữa bệnh trừ tà nhưng chỉ là thứ bệnh tầm thường, còn những chứng bệnh nan y tạo ra thời bất lực vô phương cứu chữa. Nhất là những thứ bệnh tâm như thói hư tật xấu lại càng vô phương cứu chữa hơn. Dù cho có tu luyện Yêu Thuật Ma Thuật tu luyện đỉnh cao. Cũng không có tác dụng cho việc trị quốc an dân xây dựng lên xã hội công bằng văn minh, xã hội đỉnh cao tri thức của Nhân Loại, xã hội dân giàu nước mạnh thiên đàng trần gian, xã hội văn minh Tinh Thần, văn minh vật chất.



Thái Tử nghĩ chuyên sâu về pháp chú Thần Quyền, không những không đưa linh hồn đến đỉnh Chân Như Chánh Đẳng Chánh Giác mà còn làm cho linh hồn rơi vào Tà Kiến, không mong gì làm cho nhân loại yên bình được.



Xã hội văn minh là xã hội lấy Văn Hóa Chính Nghĩa làm đầu. Không phải lấy Ma Thuật. Yêu Thuật. Pháp Thuật làm đầu. Nếu dùng bạo lực cường bạo trị dân thời làm cho xã hội thêm trì trệ. Duy trì cuộc sống mạnh được yếu thua càng lạc hậu chậm phát triển. Đây chính là mối họa về sau dẫn đến mất nước bị các thế lực xâm lược thôn tính. Quá nhàm chán Thần Quyền. Thái Tứ loại bỏ các trường phái Thần Giáo tôn thờ Thần Linh, lẫn các trường phái pháp thuật, Ma Thuật, Yêu Thuật thần quyền, chuyển sang nghiên cứu tìm trong các trường phái Duy vật. Duy vật Thần Quyền. Duy vật luận chứng.



Duy vật Thần Quyền là trường phái Phù Thủy hưng thịnh ở phương Tây. Duy vật giáo song song với Duy Tâm Thần giáo ở phương Đông, rất dễ lạc vào tà ma ngoại Đạo.



Duy vật Thần giáo chuyên sâu vào lảnh vực vật chất, lảnh vực Cầm Thú như Đá Thiên, Ngọc Thiên, Chồn Thiên, Cáo Thiên, Rắn Thiên, Hổ Thiên, Lửa Thiên v.v…



Duy vật luận chứng là tôn phong các nhà khoa học, các nhà luận chứng vật chất đề cao vật chất. Đề cao phát minh khoa học. Nếu khám phá nắm bắt được quy luật vật chất. Kết hợp chúng sẽ trở thành Đấng tối cao vũ trụ, Phái Biện Chứng Duy Vật cho rằng làm bá chủ Vật Chất cũng có nghĩa là làm chủ thiên hạ. Thái Tử phải mất nhiều tháng quán tưởng lần mò tìm kiếm vật chất, theo chủ thuyết trường phái Duy vật biện chứng.



Thái Tử tự sắp xếp phân chia thế giới vật chất ra làm 5 phần.

1: Thể Lực

2: Thể Hơi

3: Thể Lỏng

4: Thể Đặc

5: Thể Lửa




Để hiểu rõ hơn 5 thể nói trên của thế giới vật chất vũ trụ và tìm hiểu chúng.



Thái Tử bắt đầu quáng tưởng Thể Đặc, nói chung Thể Đặc là Đất Đá bụi bặm. Thể lỏng là nước. Thể hơi là khí. Thể lực là điện lực. Thể lửa là do ma sát bốn thể tạo ra. Thể Lửa hâm nóng làm cho bốn thể kết tinh. Tạo ra rong rêu Thảo Mộc. Tinh của rong rêu Thảo Mộc , hình thành lên sự sống từ đơn bào, tiến hóa lên đa bào, hình thành lên thế giới sơ căn động vật.



Thái Tử nghĩ Hình thành lên một sự sống. Ngoài linh căn linh thức cọng với tứ đại giả hợp Tinh Hoa của Đất, Nước, Khí, Lửa thành một sự sống. Như vậy một sự sống có hai phần Linh Căn và xác Thể (hay nói cho dễ hiểu một sự sống có cả linh hồn và thể xác). Thái Tử nghĩ nếu tách riêng từng thể ra thành một thể Độc Lập không có một sự tác động nào nữa, thời các Thể ấy chỉ là thể chết bất động mà thôi. Như vậy các Thể, Khí, Nước, Đất, Lửa không phải là ông chủ của sự sống, chỉ là thể thụ động của thể khác tác động vào làm cho nó động theo. Thể tác động vào chính là Linh Căn Linh Thức Linh Hồn. Chính vì sự tác động của Linh Căn linh thức chuyển động tam thể Khí, Đất, Nước, tạo ra hơi ấm truyền miên duy trì sự sống. Nếu không có Linh Căn Linh thức tác động duy trì tứ đại thời nó tự tan rã.



Thái Tử lại nghĩ: Thể Lỏng, Thể Hơi, Thể Đặc nói chung là các thể. Cũng như thể xác con người. Thể Đặc là xương thịt gân cốt. Thể Lỏng là máu huyết. Thể hơi là khí thở con người. Linh Căn Linh Hồn con người tác động vào ba thể nầy tạo ra hơi ấm giọi là tứ đại. Đất, Nước, Gió, Lửa. Xét cho cùng tứ đại giai không. Đủ nhân duyên thời nhốm hợp, hết nhân duyên thời tan rã. Vì thế sự sanh tử của con người cũng không có chi là lạ. Tất cả chỉ là giả tạm sanh diệt, diệt sanh. Dù cho đó là Địa Cầu, hay càn khôn vũ trụ cũng thế mà thôi.



Thái Tử thông suốt Thể Hơi không chủ sự sống, Thể Lỏng không chủ sự sống. Thể Đặc không chủ sự sống. Thể Lửa không chủ sự sống. hợp tan, tan hợp theo nhân duyên tứ đại giai không. Tứ đại không phải chủ của sự sống. Mà chủ của sự sống là ai? Thái Tử lại tìm hiểu thêm một lần nữa. Các thể tách riêng thành thể Độc Lập, không có sự tác động nào nữa, thời các Thể cũng chỉ là thể chết bất động mà thôi.



Sanh là Linh Căn Linh Hồn nhốm hợp duy trì tứ đại nôi lớn thân thể. Tử là tứ đại tan rã Linh Căn Linh Hồn bỏ thể xác mà đi. Thể xác phàm tục chỉ là thể thụ động khi bị tác động không phải là chủ động của sự sống. Mà chủ của sự sống chính là Linh Căn Linh Hồn. Sự sống bất diệt không bao giờ chết. Theo nghiệp ác nghiệp thiện luân hồi mà thôi.



Vậy chủ sự sống là ai, tứ đại hay Linh Hồn. Nếu nói Linh Hồn là chủ của sự sống. Nhưng Linh Hồn là Vô Vi làm sao tác động vào tứ đại được ? Thái Tử nghĩ Linh Hồn phải tác động qua Thể Lực. Thể Lực là trung gian nối liền sự sống Linh Hồn cùng thể xác. Nói chung là tất cả tần lớp Thể Lực. Thể Lực con người. Thể Lực tứ đại. Tất cả đồng nhất của một thể lực Vũ Trụ. Thể lực tứ đại, thể lực con người, thể lực vũ trụ khi bị tác động thời chuyển hóa thành điện năng. Tác động vào tinh hoa Thể Khí đã cấu tạo thành hệ Thần Kinh. Năng Lượng Điện Năng là tinh hoa tinh thể tối cao của khí chất không mùi, không vị, không sắc, không hình, không tướng, nó xuyên qua tất cả không để lại dấu vết. Nó tác động vào hệ Thần Kinh làm cho Tứ Đại chuyển động theo sự sống của Linh Căn Linh Hồn. Thái Tử nghĩ ai làm chủ được Linh Căn Linh Hồn thời người đó sẽ là Đấng tối cao, Quyền năng vô hạn. Nhưng nắm bắt được Thể Lực hiểu rõ thể lực sanh ra từ đâu là cả một vấn đề. Linh Hồn và Thể Lực một hay là hai. Đỉnh tối cao của Duy Tâm cùng Duy vật đều nằm tại đây.



Thái Tử nghĩ, từ Thể Đặc lên Thể Hơi, từ Thể Hơi xuống Thể Đặc. Tuy chúng không là chủ thể, chủ động sự sống nhưng chúng chuyển thể từ dạng này sang dạng khác, theo quy luật tự nhiên. Quy luật Sanh, Trụ, Dị, Diệt, hể có sanh thời có tử. Chuyển đổi theo quy luật tuần hoàn.



Thể Hơi chuyển thành Thể Lỏng, Thể Lỏng chuyển thành Thể Đặc, sự chuyển đổi ấy phải trải qua hàng triệu triệu năm, trí huệ phàm tục khó mà nhận thấy được. Thái Tử rà đi kiếm lại, thế giới vật chất bắt đầu từ Thần Lực cho đến Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc và chúng ma sát tạo thành thể lửa Tứ Đại vũ trụ. Đất, Nước, Gió, Lửa.



Tuy Thái Tử tìm ra Nguồn Cội của Tứ Đại là Thể Lực. Thế mà vẩn chưa tìm ra cách nắm bắt Linh Hồn làm chủ Linh Hồn. Dù cho thông suốt hết thảy thế giới vật chất Vũ Trụ, cũng không thể tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn. Nguồn Cội của tất cả vạn vật tam thiên đại thiên thế giới cũng như con người. Chủ Nghĩa Đại Đồng Nguồn Cội vũ trụ Thái Tử thấy còn rất xa chưa thể với tới được. Khi nào hội nhập Cội Nguồn. Hội nhập vào kho tàn tri kiến vũ trụ, rồi từ ấy rút ra những Tinh Hoa mở đường cho nhân loại đi đến chân trời hạnh phúc, đi đến xã hội Công Bằng Bình Đẳng văn minh, xã hội Thiên Đàng Cực Lạc Quốc. Vì nổ lực tham thiền quán tưởng dài ngày nên Thái Tử Mệt lăng đùng ra và đi vào giấc ngủ ngon.

*********



Hết phần 1 chương 8 mời xem tiếp phần 2 chương 8 Long Hoa Mật Tạng. Nếu không phải đại căn đã từng làm Vua làm Chúa làm Phật, làm Thánh, làm Tiên trong vô lượng kiếp thời không thể nào thấu hiểu nỗi Kinh Văn trong Long Hoa Mật Tạng.
 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 8



PHẦN 2



CĂNG THẲNG



Nhìn những món ăn toàn là cao lương mỹ vị. Thái Tử nghĩ những thứ này chỉ làm cho cơ thể béo phì, ăn sung mặc đẹp chỉ để phuc vụ cho đời sống thể xác, còn việc tìm cầu nắm bắt Linh Hồn thời khác nào mò kim đáy biển. Linh Hồn do đâu mà có ? ai sanh ra, Linh Căn Linh Hồn. Tất cả đều còn nằm trong huyền bí phức tạp vô cùng. Theo Thái Tử nghĩ, Linh Hồn là mấu chốt, để tìm ra Cội Nguồn vũ trụ, chìa khóa vạn năng để mở cánh của Cội Nguồn vũ trụ. Cánh của Cội Nguồn vũ trụ không mở được, thời Văn Hóa Cội Nguồn sẽ không bao giờ xuất hiện ở chốn nhân gian.



Nhân loại sẽ chìm trong u minh, đưa xã hội nhân loại đến chiến tranh diệt chủng, không còn cứu vãn được. Với bao nỗi suy nghĩ làm Thái Tử quên luôn cả ăn lẫn uống. Thái Tử càng ngày càng gầy đi thấy rõ, thời gian cứ thế trôi qua hơn sáu mươi ngày. Để bớt đi sự căn thẳng Thái Tử liền tản bộ dạo chơi khu vườn cấm, có lẽ đây là lần đầu tiên từ khi Thái Tử đến đây để tu luyện. Nơi đây thật vắng vẻ không một bóng người nhưng thay vào đó là sự vui đùa của những chú Chim chúng ca hát líu lo thật tự nhiên, trong sáng vô tư. Hình như chúng không mang lấy ưu phiền, không cần tính toán những gì xa xôi, nghe tiếng Chim hót như truyền cảm một tâm hồn vô tư. Thái Tử nghe tiếng Chim hót, liền tan bao nổi ưu phiền, tâm hồn sảng khoái thành một con người khác hẳn con người của sự tự do vô tư thanh nhàn thoát tục. Đi một khoảng đường, Thái Tử đã lạc vào thế giới non bộ, trùng điệp núi non, Chim kêu Vượn hú, suối lượn uốn quanh, muôn hoa rực thắm, lấn đá chen cây, Lan, Huệ thi nhau nhìn suối, Đào, Mai ngoảnh mặt nhìn mây, Tùng Bách thi nhau đua tàng khoe dáng, mặt Hồ lóng lánh. Sen đùa giỡn lá xòe ra mởn mởn xanh. Cá lượng từng đàn. Bướm nghe nhạc rừng, suối reo không ngừng, gió tìm vào Động. Nước luồng qua khe. Cảnh Quang tuyệt đẹp. Xuân vầy thêm xinh.

Tâm Hồn thanh thoảng biết bao nhiêu

Nhìn nước nhìn non ánh nắng chiều

Lung linh cành biếc xuân nẩy lộc

Hoa nhìn mây nước Chim nhẹ kêu

Cá lội tung tăng nghe nhạc suối

Tùng, Trúc, Đào Mai sắc dáng thêu

Bồng Lai Tiên cảnh nơi trần thế

Thanh thảng tự nhiên rõ mọi điều.


Nhìn cảnh quang đẹp lạ lùng không mất vẻ tự nhiên chẳng khác nào bồng lai Thiên giới, tuy do con người kiến tạo lập lên. Nhưng ẩn tàng không biết bao nhiêu là huyền cơ đạo pháp. Thái Tử xuất thần nghĩ con người là Tạo Hóa Con, sau Tạo Hóa Cha. Thái Tử lại nghĩ con người là Tạo Hóa Con, con của Tạo Hóa Cha. Tạo Hóa Cha Tạo lập lên vũ trụ. Tạo Hóa Con, tạo lập lên Thiên Đàng Cực Lạc. Tạo Hóa Cha lập lên con người. Tạo Hóa Con tạo lập lên xã hội con người. Và làm chủ những gì Tạo Hóa Cha đã lập lên. Sự thừa kế làm chủ giang sang vũ trụ ấy, con người phải trở về với Cội với Nguồn đến với đấng Cha Ông.



Muốn cứu vớt thiên hạ tìm ra con đường hạnh phúc. Nhứt là hạnh phúc xã hội văn minh, xã hội Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ, Công Bằng Bình Đẳng tự do. Xã hội của sự tự giác ý thức nhận thức cao. Muốn có xã hội như thế, không phải tự nhiên mà có được, phải có con đường Chân Chính đi lên. Con đường dưới hợp lòng Dân trên thuận Lòng Trời. Chỉ có con đường như thế mới tiến tới xã hội văn minh.



Thái Tử nhìn những hòn non bộ thật mà giả, giả mà thật, cảnh quang nơi đây không phải tự nhiên mà có, mà do con người sáng tạo lập nên, giả mà thật, thật mà giả, cũng như hình và bóng, bóng của hình. Nhìn sự liên kết hòn non bộ tạo thành một dãy núi nhưng lại là những dãy núi giả. Nhìn những dãy núi giả thật, thật giả ở đây so sánh các dãy núi ở các Châu lục. Thời là những dãy núi thu nhỏ. Tuy nhỏ mà lớn, cái nhỏ không khác gì cái lớn. Thái Tử ngộ ra một điều, tiểu Linh Hồn nào khác chi Đại Linh Hồn. Bọt Nước đồng bản thể của Nước. Tuy một mà hai tuy hai mà một.



Thái Tử xuất Thần quan sát suy xét so sánh tìm ra chân tướng của sự thật và bổng nhiên hội ngộ. Thái Tử nghĩ các dãy núi của các Châu lục hùng vĩ xinh đẹp là do bàn tay Tạo Hóa Cha Trời chuyển xây Tứ Đại. Đất Nước Gió Lửa theo định luật tự nhiên tạo lập ra, giả lập lên. Cũng như các hòn non bộ giả sơn ở đây vừa xinh đẹp vừa hùng vĩ là do Tạo Hóa Con bàn tay con người, tôm gốp đất đá để tạo lập ra, giã lập tạo lên theo ý tưởng con người. Con người duy trì thời nó còn, con người không duy trì nữa theo thời gian sẽ biến mất. Sự giả lập không thật. Theo nhân duyên hiện ra hết nhân duyên tan biến trở về hư không. Trở về Thể tướng không tướng Cội Nguồn của thế giới vật chất.



Thái Tử lại nghỉ, chân tướng của Tứ Đại vốn không tướng, chỉ là nhốm hợp theo nhân duyên hiện ra. Với lớp bụi vi trần theo bàn tay Tạo Hóa Cha Trời nhốm lại, tạo lập lên Đất Đá vũ trụ, chuyển xây Tứ Đại, Đất Nước Gió Lửa giả lập tạo lên núi non sông hồ biển cả, giả lập tạo lên cảnh giới Địa Cầu vũ trụ. Và con người cũng vậy, do Địa Mẫu Âu Cơ tốm thâu Tinh Hoa khí ngũ Địa, Đất Nước Gió Lửa tạo lập lên thể xác con người và thật tướng của con người cũng chỉ là Tinh Hoa vi trần cát bụi Tứ Đại, đủ duyên thì nhốm, hợp, hết duyên thì tan rã.



Lại thêm một tia sáng lóe lên trong đầu Thái Tử.Trường Phái Duy Tâm. Trường Phái Duy Vật không thể nào vượt qua Thiên Thể chân tướng hư không. Chân Tướng hư không, không thể dùng mắt thường mà thấy được. Chỉ khi nào người ấy có được thanh tịnh Huệ Nhãn, thanh tịnh Pháp Nhãn. Phái Biện Chứng Duy Vật chỉ dựa vào Nhục Nhãn con mắt thường. Nên cho rằng trong hư không chỉ là sự trống không, Vạn vật sanh ra ở đời chỉ là một sự tự nhiên mà thôi. Và sự ngẫu nhiên của sự trùng lặp. Phái duy Vật biện chứng chỉ lẫn quẩn trong vòng Duy Thức cái thấy biết phân biệt chấp tướng, chấp pháp luân chuyển trong cảnh giới Vô Thường khó mà thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi. Khó mà thấy rõ Cội Nguồn của thế giới vật chất.



Phái Duy Vật không bao giờ nhận ra Cội Nguồn của thế giới Vật chất vốn không tướng, mọi hình tướng đều là giả lập, giả tướng mà thôi, cho đến thể xác cũng thế. Có lẽ thế giới Linh Hồn hay chính Linh Hồn ta cũng vậy. Thật Tướng, Thật Tánh của Linh Hồn cũng chỉ là không tướng, không tánh, bản thể linh minh Diệu giác trong sạch vô vi, không ý, không thức. Nguồn Cội bản thể Linh Hồn không tánh, không tướng, không ý, không thức, thời làm gì có thói hư tật xấu, tham lam tật đố kêu căng ngạo mạn làm hại nước hại dân, những thứ tánh rác rưởi ấy làm bẩn dơ xã hội, hôi hám và đầy dẫy tội ác. Thật Tánh của Linh Hồn là Không Tánh làm gì có những thứ tánh ấy. Nếu Có cũng do Linh Hồn mê muội khởi tưởng tạo ra gieo mầm tội ác, gieo nghiệp hung dữ tạo ra những thứ tánh nhơ bẩn đó mà thôi. Những thứ tánh không tật có trong căn Cội của mỗi Linh Hồn.



Những người mê muội họ mãi duy trì những tánh xấu xa đó. Còn những người giác ngộ họ loại bỏ ngay những tánh hư tật xấu ra khỏi Linh Hồn của họ. Để khỏi bị những tánh hư tật xấu ấy làm hại bản thân, làm hại gia đình, làm hại non sông Tổ Quốc cuối cùng đọa sa xuống Địa Ngục khốn khổ mãi.



Cuối cùng Thái Tử cũng đã nhận ra chân tướng, chân tánh, bộ mặt thật của Linh Hồn (hội ngộ bổn lai diện mục, minh tâm kiến tánh) Chân Tánh Linh Căn Linh Hồn. Lòng tràng đầy niềm tin tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng tối cao vũ trụ không còn xa nữa.



Thái Tử nhìn thác nước, những bọt nước do nước sanh ra, sau đó liền tan biến trở về là nước, như đánh thức Thái Tử một điều quan trọng. Tiểu Linh Hồn con người muốn hội nhập vào Đại Linh Hồn vũ trụ, thời cũng phải giống như bọt nước kia. Tự nó tan về là nước. Linh Căn Linh Thức Linh Hồn cũng thế. Tự nó tan biến hệ ý thức trí thức phân biệt lặng yên Vô Thức Tự Nhiên. Linh Hồn không khởi ý niệm vắng lặng như như đại định thẳng đó vô tâm, vô niệm, vô ý, vô trí là phải, một niệm khởi lên là trái không thành. Tự nhiên không một niệm nào cả là đúng. Thời không bao lâu sẽ Đại Ngộ chân tâm chân tánh của mình. Tánh không là chân tánh. Tướng không là chân tướng. Ý không là chân ý. Trí không là chân trí. Tự nhiên như hư không, không phải tu chứng đắc gì cả, giống như viên Ngọc dính bẩn rửa sạch bẩn viên Ngọc sáng ra. Viên Ngọc vẩn là viên Ngọc trước sau vẫn như vậy trôi lăn vô lượng kiếp không bớt, khi thành đấng tôi cao cũng chẳng có gì thêm, trước sao sau vậy. Linh Thức bọt nước tự nó trở về bản thể Linh Giác là nước, không còn là Linh Thức bọt nước nữa. Cũng như thức tánh trở về chân tánh, và luôn an trụ nơi Chân Tánh tức là Vô Trụ (vô sở trụ sanh kỳ tâm).



Cũng như không phải dính bụi mà viên Ngọc thêm, không phải rửa bụi mà viên Ngọc bớt, viên Ngọc trước sau vẫn là viên Ngọc, Vốn tự nó không nhiểm bẩn, những thứ tánh nhơ bẩn chỉ là giả tánh, không phải chân tánh.



Thế là Thái Tử đã tìm thấy Bổn Lai Diện Mục của chính mình, đạt đến cảnh giới Minh Tâm Kiến Tánh.



Muốn hàng phục Tâm Viên Ý Mã ví như người mất Ngựa đi tìm ngựa và đã tìm thấy con ngựa của mình ở phía trước và đang tìm cách nắm bắt chúng để con ngựa Ý Mã Tâm Viên theo mình trở về Cội Nguồn vũ trụ. Muốn làm được như thế phải hiểu ngựa mới hàng phục được ngựa, phải hiểu khỉ mới hàng phục được khỉ. Và sợi dây trói ngựa chính là Giới và sợi giây trói khỉ chính là Định, thay đổi món ăn của chúng là Tự Nhiên, tự nhiên là món ăn thường xuyên, để cho Ý Ngựa Tâm Khỉ thuần thục, vì thế phải nổ lực siêng năng là điều không thể thiếu. Thái Tử nghe trong tâm hồn lân lân nhẹ nhổm.



Để hàng phục Tâm Viên Y Mã, Thái Tử dùng sợi dây Giới, Định tối cao, ngăn chặn thấy nghe hay biết phân biệt ngoại cảnh lục trần. Lục trần tức là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Thấy nghe hay biết tự nhiên khác với thấy nghe hay biết phân biệt.



Thấy nghe hay biết tự nhiên là thấy nghe hay biết không khởi tâm khởi ý phân biệt. Thấy nghe hay biết, khởi tưởng phân biệt là thấy nghe hay biết bọt nước tạo ra vô lượng ý thức. Thấy - Nghe - Hay - Biết không khởi tưởng phân biệt. Thời chính Linh Thức Tánh Thức chuyển hóa thành vô lượng thể tánh Như Lai. Người muốn đạt đến cảnh giới tối tuyệt đối không được khởi tưởng nhận thức phân biệt.



Thái tử loại bỏ cái, thấy nghe hay biết khởi tưởng phân biệt nhận thức của bọt nước, tức là ý tưởng nhận thức huân tập chủng nghiệp của tâm viên ý mã, xưa nay rong ruổi chạy theo lục trần, bám lấy lục trần trôi lăng mãi trong vòng sanh tử. Thái Tử buộc Tâm Viên Ý Mã phải đi theo Thiên ý tự nhiên của ông chủ. Thấy nghe hay biết tự nhiên không cho khởi tưởng, nhận thức, phân biệt Lục trần, tức là nhận thức khởi tưởng phân biệt, sắc, thịnh, Hương, vị, xúc, pháp. Nhờ cắt đứt nhân duyên Lục trần, Lục căn lần lần thanh tịnh, Lục thức lần lần trong sáng, không còn mê muội u tối nữa, theo ông Chủ trở lại Cội Nguồn.

*********



Hết phần 2 chương 8 mời xem tiếp phần 3 chương 8 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng là những bí Mật Tạo Hóa không dễ gì nhận biết được. Chỉ cần nhận biết một câu một chữ trong kinh thời coi như đã vượt qua ức kiếp tu luyện. Thành tựu công đức vô biên.

Kinh văn vô thượng thậm thâm

Chỉ cần đọc tụng cũng lên thiên đàng

Huống chi đọc tụng nhiều lần

Coi như thành Phật, Thánh, Thần khó chi.​
 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 8



PHẦN 3



MƯỜI TÁM GIỚI



Lục Trần: Sắc - Thinh - Hương - Vị - Xúc - Pháp.

Lục Căn: Nhãn - Nhĩ - Tỷ - Thiệt - Thân - Ý.

Lục Thức: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức.



Như vậy Thái Tử tạm thời không cho Lục Thức khởi tưởng phân biệt bám theo Lục Trần. Bằng phương pháp Đại Giới. Cắt đức nhân duyên không cho Lục Thức phân biệt Lục Trần, Đại Định. Chỉ an trụ vào Thấy - Nghe - Hay - Biết tự nhiên.



Nói một cách dễ hiểu hơn, là Thái Tử tạm thời không cho Lục Thức bọt nước Tiểu Linh Hồn của mình. Khởi tưởng phân biệt Lục Trần, bám theo Lục Trần huân tập ái dục. Lục Thức bị Đại giới tự nhiên trói chặt, Đại Định. Lục Thức đã an định. Thời lục căn thanh tịnh lần lần trong sạch, Lục căn càng thanh tịnh trong sạch bao nhiêu thời cảnh giới Thần Thông tự hiện ra bấy nhiêu. Cũng như mặt kính đã lau sạch bụi thời cảnh giới bí mật vũ trụ tự hiện ra dần. Cũng như mặt Hồ yên lặng thời trăng sao trời đất điều hiện rõ.



Từ Lục Thức phàm phu mê muội chuyển thành Lục Huệ của Bậc Đại Giác Ngộ. Trong Lục Huệ. Tự nhiên thanh tịnh pháp Huệ là cao nhất. Chính là cái thấy, nghe, hay, biết Toàn Năng Toàn Giác Cái thấy, nghe, hay, biết của bọt nước trở thành cái thấy, nghe, hay, biết của nước. Cái thấy, nghe, hay, biết tự nhiên không chấp trước, cái Thấy - Nghe - Hay - Biết của Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Sự chấp trước cái tôi cái ta không còn nữa. Trở thành Đáng Đại Từ Bị, Đại Trí, Đại Dũng. Cái thấy, nghe, hay, biết tự nhiên vũ trụ là mình, mình là vũ trụ, không phân biệt gì cả.

*********



Hết phần 3 chương 8 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 4 chương 8.







CHƯƠNG 8



PHẦN 4



GIÁC NGỘ



Nhìn núi non trùng điệp, Chim kêu vượn hú, suối lượng uốn quanh. Hoa chen lá, đá ẩn tàng chen cây Cánh hoa lấp lánh đua nhau thi màu thi sắc. Tùng Bách thi nhau xanh mướt đua tàng, khoe tán. Đào Mai đua dáng đua xuân. Gió reo cửa Động, nước luồn qua khe, lá cành rung nhẹ, bướm nghe nhạc rừng, nước non cảnh đẹp, cảnh vật tưng bừng.



Nhưng Thái Tử có nghe như không nghe, có thấy như không thấy, có hay như không hay, có biết như không biết, Thái Tử giờ đây thấy, nghe, hay, biết tự nhiên không khởi một niệm phân biệt.



Thái Tử xuất thần liên tưởng quan sát càng thêm Đại Ngộ. Chân giả, giả chân, trong chân có giả, trong giả có chân. Trong bọt nước có bản thể của nước, trong Tiểu Linh Hồn có bản thể của Đại Linh Hồn.



Bản thể Linh giác trong sạch vô vi, vô vi mà thường vi, không tánh, không tướng, không ý không thức. Nhưng Khi bản thể Linh giác tiếp xúc với cảnh giới Lục Trần, biến sanh sáu thức, sáu thức này sanh ra dựa trên ngũ uẩn. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, rồi huân tập nghiệp lực thông qua thập nhị nhân duyên. Hình thành hành trình sanh tử. Có thể nói tốm tắc khái niệm như sau: Chỉ cần phá vỡ cắt đứt nhân duyên của chúng, thời chân tánh thanh tịnh ngay.



Chân Tánh mê không làm chủ được mình luôn chạy theo Tánh thấy, nghe, hay, biết của mình khởi ý phân biệt Lục Trần, khởi ra vô lượng nghiệp thức. Nhất là những nghiệp thức ác làm cho chân tâm chân tánh không thanh tịnh được, lao theo trần cảnh huân tập nghiệp quả luân hồi sanh tử. Chân Tánh mê không làm chủ được mình gọi đó là Vô Minh (1) không làm chủ thấy, nghe, hay, biết của mình khởi tâm phân biệt vô minh sanh Hành (2) vì mê bám lấy Lục Trần khởi ý gieo nghiệp sanh ra Lục Thức (3). Như vậy Chân Tánh là bản thể nước. Vì không làm chủ được bản thể khởi ý phân biệt sanh ra thức bọt nước ý thức, bọt nước ý thức dựa trên ngũ uẩn, sắc, thọ, tưởng huân tập quả nghiệp hành, thức thông qua thập nhị nhân duyên, luân hồi sanh tử.



Sáu thức do vô minh, tánh mê tạo ra, nên sáu thức u mê không khác nào tánh mê cả. Sáu thức từ ý thức phản tỉnh nhận thức phân biệt cảnh giới sắc chất, vì thế Danh Sắc sanh ra (4) Danh Sắc là danh từ. Danh từ Lục Trần sanh ra liền xâm nhập vào ý thức, nhận thức, Lục Nhập (5). Đã có Lục Nhập thời sự tiếp xúc liên tục xảy ra, Xúc (6) đã tiếp xúc liên tục cảm thụ rồi trở thành thói quen Thụ (7) đã trở thành thói quen trì niếu ưa thích ưu ái. Ái (8) cái gì ưu ái ưa thích, thời bảo thủ giữ chặc không buôn ra Thủ (9). Thủ là quả nghiệp của ý thức, nhận thức, quả nghiệp đã có thời nó tiếp tục khởi sanh, dù cho đó là nghiệp dữ hay nghiệp lành, quả nghiệp đã có, Hữu (10) đã kết quả ý thức, nhận thức đủ nhân duyên, thời liền khởi sanh, Sanh (11) đã có sanh thời theo quy luật tự nhiên, thành, trụ, hoại, không. Sanh, lão, bệnh tử. Tử (12) đó là chuổi nhân duyên tạo lên vòng sanh tử theo định luật tiến hóa tự nhiên không có chi là lạ. Muốn thoát khỏi sanh tử ra khỏi cảnh giới luân hồi thoát ra cảnh giới Mê cảnh giới ác thời cắt đức nhân duyên. Cũng như người tạo vật tạo ra cảnh giới nầy chán chê thời bỏ đi, hoặc tạo ra cảnh giới khác chơi vậy. Chán chê cảnh giới ác thời bỏ đi, tạo ra nhân duyên cảnh giới Thiện để vui chơi.



Thái Tử đã nhận ra sự huyền diệu của bộ máy huyền cơ vũ trụ, nhờ làm chủ được Linh Căn Linh Hồn của chính mình, hàng phục Tâm Viên Ý Mã đi vào cảnh tối cao Đại Định phải nói là không thể luận bàn cho hết được sự diệu dụng của nó và đây chính là chìa khóa vũ trụ mà ai ai cũng có, dùng nó để đạt đến mục đích cuối cùng. Thái Tử đã thật sự làm chủ Linh Hồn của mình, tiến đến mở cánh của Cội Nguồn. Bước vào nhà vũ trụ, làm chủ vũ trụ.



Thái Tử bỏ cái thấy, nghe, hay, biết, phân biệt của thức, bọt nước. Trở về cái thấy, nghe, hay, biết tự nhiên, phản tỉnh ra vô lượng ý giác ngộ, ý thức giác ngộ khởi sanh ra khế hiệp với Chân Tâm Chân Tánh. Liền khởi dụng như Lai Tạng Tánh vũ trụ. Phải nói là bất khả tự nghì không thể luận bàn được nữa. Sự thấy, nghe, hay, biết tự nhiên của Thái Tử, đưa Thái Tử đến lần lần khám phá hết bí mật sự huyền vi cũng như huyền cơ của vũ trụ.



Chỉ trong chốc lác Thái Tử đã đạt đến đỉnh cao của thiền tâm, an trụ vào Chánh Định, Chánh Tư Duy, Chánh Kiến, Chánh Niệm, Chánh Nghiệp, Chánh Tuệ hay còn gọi là Chánh Giác.



Đây nói về Đức Cha Trời Long Hoa Cửu Huyền, ẤN Quang Tối Thắng Như Lai, Lạc Long Quân, Đấng tối cao hiện thân của Đức Tổ Tiên, Đấng chủ quản Linh Hồn, Đấng điều hành bộ máy Huyền Cơ vũ trụ, thấy rõ người con Cả Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần, đang dùng con mắt Huệ Nhãn thanh tịnh cùng Đại Nguyện lực phá vở vô minh che khuất Chân Tâm Chân Tánh, làm chủ bản thể Linh giác của mình, thời khen ngợi. Thế mới xứng là con Cả của Cha Trời.



Nói về Thái Tử đã đạt đến Chánh giác dùng con mắt thanh tịnh Huệ Nhãn. Hay còn gọi là thanh tinh Pháp Nhãn. Cái thấy, cái nghe, cái hay, cái biết bản thể linh giác của nước, không phải cái thấy, nghe, hay, biết phân biệt của thức bọt nước, phen lần bí mật vũ trụ tìm ra Cội Nguồn và mỗi lúc Thái Tử càng tiến xa tiến xâu vào bí mật vũ trụ. Từ đây về sau tất cả mọi biến động. Dù chỉ là chiếc lá rơi, cũng làm tăng thêm sự chứng ngộ Nhìn rõ sự thật huyền ẩn của chúng, bộ mặt thật của nhân duyên và vô thường.



Mỗi bước chân của Thái Tử là mỗi bước giác ngộ. Có lẽ cảnh quang nơi đây cũng hiểu Đấng Đại giác ra đời, Đấng Cứu Thế. Nên thi nhau tỏa hương ngào ngạc. Khu rừng cấm bổng chốc rực rỡ như cảnh Bồng Lai. Trước mặt Thái Tử là chiếc Ngai Rồng bằng vàng và chiếc Ngai Phụng chạm ngọc. Nơi đây Kinh Dương Vương cùng Vương Hậu thường ngồi để ngắm cảnh xem hoa, nghe Chim hót hòa mình vào Đất Trời cảnh giới thiên nhiên.



Thái Tử ngồi lên Ngai vàng nghĩ! Có lẽ Vua Cha xem cảnh quang sắc thắm nơi đây bằng con mắt phân biệt, nhận thức cảnh quang bằng con mất hiểu biết để làm vui. Còn Thái Tử thì khác. Xem cảnh quan bằng con mắt thanh tịnh không phân biệt chi cả. Điều kỳ lạ ở đây Lục Căn, Lục Thức Thái Tử thanh tịnh đến lạ lùng. Không phân biệt. Thế mà nhận ra tất cả hương vị của mỗi loài hoa. Của mỗi âm thanh dù là âm thanh nhỏ nhất của côn trùng Thảo Mộc, xa đến mười dặm.



Điều kỳ lạ này đã đánh thức Thái Tử nhận rõ thêm, Tánh thấy, nghe, hay, biết của nước và tánh thấy, nghe, hay, biết phân biệt của bọt nước, có thể nói sự thấy, nghe, hay, biết thanh tịnh của Chân Tánh, nước, như ánh sáng Mặt Trời, còn sự thấy, nghe, hay, biết phân biệt của ý thức bọt nước ví như ánh sáng con đôm đốm mà thôi. Ánh sáng trí huệ Mặt Trời đã xuất hiện, ánh sáng Bình Đẳng trong sáng vô vi, hàng triệu hàng nghìn năm mới xuất hiện một lần.



Thái Tử Hùng Lan hầu như đã nhận ra bản thể Linh giác Chân Tánh vốn trong sạch vô vi, mà thường vi, bất tăng bất giảm, không cấu nhiểm, không mùi vị, không danh sắc, không thọ tưởng hành thức, vì bản thể không cấu nhiểm của Chân Tâm trong sạch vô vi, không cấu nhiễm nên phản tỉnh đo lường phân biệt nhận biết tất cả Gọi Đó Là Bản Thể Minh Tâm. Thể Tánh Chân tâm trong sáng Vô Vi Vô Sắc thu nhiếp tất cả. Nên gọi đó là Kiến Tánh. Nhận rõ Bổn lai diện mục, minh tâm kiến tánh của chính mình, thời coi như đã trở thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Thái Tử hiểu rõ mỗi Linh Căn Linh Hồn dù trôi lăng trong sanh tử Lục Trần vẩn trong sạch không cấu nhiểm, giống như Hoa sen gần bùn mà chẳng nhiểm bùn. Nhưng vì chấp trước chạy theo cái biết phân biệt hướng ngoại của chính mình, hướng ngoại chính là chạy theo lục trần lặng hụp trong thế giới vật chất huân tập thành nghiệp lực kết quả nghiệp thức, vì thế mà luân hồi khắp ba đường sáu nẻo.



Ánh sáng trí tuệ Mặt Trời của Thái Tử đã phá tan dần từng lớp vô minh đã từ lâu bao phủ lấy Linh Hồn. Với hành trình hướng tìm về Cội Nguồn bọt nước tan biến trở lại là nước. Linh Thức trở về Linh Giác, tánh thức trở thành Tánh Giác.



Có thể nói Thái Từ cảnh giới mê, trở về cảnh giới giác. Làm chủ Linh Căn Linh Hồn của chính mình. Từ Giả Tánh trở về Chân Tánh.



Thời chiếc chìa khóa vạn năng đã có trong tay. Chỉ còn nổ lực Chánh Định, chánh Tư Duy, chánh niệm tức là Vô Niệm thời sẽ mở tung cánh cửa Cội Nguồn vào nhà vũ trụ. Tìm ra Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ Đại Đồng. Cứu nhân loại thế gian đang lặng hụp trong khổ đau.



Đói nghèo, lạc hậu, chiến tranh, hận thù, sanh, lão, bệnh, tử. là Nguồn Cội của sự khổ. Phải nhổ tận gốc Nguồn Cội của chúng.



Nhưng có một điều đáng nói ở đây là Thái Tử như Mặt Trời xuất hiện ở mùa Đông. Thiên Ấn dù ra đời nhưng trình độ dân trí còn quá lạc hậu, lại còn truyền khẩu, không phải truyền bằng Văn Kinh, vì giấy, bút, chữ viết khi ấy chưa ra đời nên không hấp thụ được bao nhiêu lời dạy của Thái Tử sau nầy.



Khi nhân gian còn chìm trong u minh. Những cơn bão lạc hậu. Cơn bão Mê tín dị đoan, lại mê muội quyền năng tri giác tối tăm không tiếp nhận được ánh sáng Mặt Trời. Ví như người mù dù ánh sáng Mặt Trời có rọi trúng đỉnh đầu cũng không nhận thấy được. Tuy người mù không thấy ánh sáng Mặt Trời chiếu đến nhưng không vì thế mà ánh sáng Mặt Trời không cứu họ mà còn đem lại cho họ sự sống. Đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết quả nhận thức về Chính Nghĩa sống hòa bình, tự do hạnh phúc. Văn Hóa Cội Nguồn ra đời cách đây năm nghìn năm mở màn cho Thiên Ấn ra đời nên không có Kinh luân truyền lại. Chỉ lấy tâm ấn tâm truyền khẩu cho nhau, rồi đi vào thất truyền. Thiên Ấn thất truyền. Thiên Bút xuất hiện sau năm nghìn năm. Sau Công Nguyên 2 nghìn năm kể từ khi Chúa Giê Xu ra đời Thiên Ấn, Thiên Bút xuất hiện.

*********



Hết phần 4 chương 8 mời xem tiếp phần 5 chương 8 Long Hoa Mật Tạng. Bộ Kinh Thượng Thừa tối cao vũ trụ. Không có sự làm lành cầu phước báo nào hơn. Là In Ấn, biên chép truyền bá bộ kinh nầy. Dù là một câu một chữ cũng tiêu tan vô lượng tội ác cầu chi đặng nấy không sai. Huống chi là giảng dạy cho người khác nghe. Thời phước đức dù cho hưởng trăm nghìn ức kiếp cũng không hết.

Chỉ cần nghĩ đến Mật Kinh thôi

Cũng đã tiêu tan ức tội rồi

Huống chi đọc tụng hay biên chép

Vua Trời không khó, Chúa an ngôi.​
 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 8



PHẦN 5



PHÁT HIỆN NHỮNG CƠ BẢN



Vào thiền phòng đã hơn một tháng, lần này khác hơn lần trước Thái Tử chỉ ngồi yên lặng. Mình là vũ trụ. Vũ trụ cũng chính là mình. Thấy, nghe, hay, biết thanh tịnh, không một niệm khởi dù cho đó là một niệm không. Như như vắng lặng. Đây là một bí pháp Mật Tạng của thiền, định lực phát sanh từ đại định nầy, Mặt Trời Trí Huệ lần lần xuất hiện soi rọi khắp hư không vũ trụ, phát hiện lần những huyền bí mà trí thường, mắt thường không thể nào khám phá ra được.



Nhân loại phàm trần bị vô minh che mất Chân Tánh, phiền não nhiễu hại nghiệp lực xoay chuyển, luôn luôn lặng hụp trong biển khổ. Chiến tranh, nghèo đói, lạc hậu, ốm đau bịnh tật bám lấy không yên, chưa hết cái khổ này chồng lên cái khổ khác. Nên Đức Chí Tôn mới đầu thai xuống thế gian mở ra Thiên Ấn Cội Nguồn. Thái Tử Hùng Lan chính là Đức Chí Tôn Thiên Đế đầu thai. Đấng Cứu Thế ra đời. Nên ý chí trí lực có một không hai trong nhân thế không ai có thể bì kịp sánh nỗi.



Thái Tử mỗi lúc mỗi khám phá bí mật của bộ máy Tâm Linh, hàng phục Tâm Viên Ý Mã làm cho Linh Hồn, biển lặng, sóng yên Minh Tâm Kiến Tánh những gì bí mật vũ trụ mỗi lúc một rõ ràng. Huệ tâm sáng suốt tột cùng, phen lần Huyền Cơ Tạo Hóa, cũng như về mặt Tinh Thần lẫn Vật Chất vũ trụ. Bổng có cơn gió thổi mạnh làm cơ thể như muốn chao đảo. Hầu như cơn gió đánh thức Thái Tử một điều quan trọng.



Đã là con người không chỉ về mặt Tâm Linh không mà còn có cả thể xác. Muốn cứu nhân loại đưa nhân loại đến văn minh vật chất lẫn văn minh tinh thần. Không những mở ra con đường đạo đức mà còn cả con đường khoa học. Vật chất nuôi dưỡng thể xác. Đạo lý dưỡng nuôi Linh Hồn. Thái Tử nghĩ vật chất ư, có vai trò gì trong cuộc hành trình giải thoát. Thái Tử liền chuyển hướng huệ quang khám phá vật chất. Thái Tử nghĩ, thế giới vật chất vũ trụ vô tận vô biên nhưng thật ra chỉ có năm thể mà thôi.

1: Là Thể Lực vũ trụ.

2: Là Thể Hơi Khí vũ trụ.

3: Là Thể Lỏng Nước vũ trụ.

4: Là Thể Đặc Đất vũ trụ.

5: Là Thể Lửa hơi ấm vũ trụ




Và cũng chính Thể Lửa hơi ấm nầy làm cho 4 thể lực, khí, nước, đất kết tinh tạo ra sự sống Động vật, Thực vật, trong đó có thể xác con người.



Thể Hơi Chân Khí là thể trung gian giữa vô hình Linh Căn Linh Thức Thần Lực với hửu hình vật chất. Giữa vô sắc với hửu sắc. Vì thế sự sống của vũ trụ vật chất cũng như sự sống của con người. Chân Khí Thể Hơi luôn luôn đóng vai trò rất quan trọng trong sự sống con người, sự sống Trái Đất, sự sống vũ trụ.



Thái Tử phân tích sự quan trọng Chân Khí Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc đối với sự sống như sau.



Người ta có thể nhịn đói cả tháng cũng không chết. Nhưng nhịn uống một tuần là chết ngay. Nhưng điều đáng nói ở đây chỉ cần nín thở vài hơi là ngủm cuộc đời. Như vậy Thể Hơi Chân Khí đối với sự sống vô cùng quan trọng. Thể hơi chân khí không những rất quan trọng trong sự sống mà còn đóng vai trò chủ lực trung gian giữa Linh Hồn và Thể Xác cũng như sức khỏe và trường thọ.



Thái Tử nhìn thấy nhân loại xem chân khí rất thường. Vì chân khí đâu đâu cũng có, không cần tìm kiếm chi cả đây là một sự sai lầm lớn, trên đời nầy không có cái gì quý hơn chân khí, kể cả vàng bạc châu báu.



Sự sống con người chỉ cần một lượng chân khí hít thở không gián đoạn là đủ nên con người nào có thấy chân khí quý hiếm gì đâu.



Còn Thiên Tiên, Địa Thiên thời khác hẳn. Tu Thiền luyện khí hít thở thu nạp tinh hoa chân khí tích lũy vào cơ thể con người càng nhiều càng tốt, không những trường thọ vô bịnh tật mà còn tích tụ được nhị xác thân. Thậm chí hiển hiện pháp thuật Thần Thông tự tại. Nhân loại phàm tục không thấu rõ được điều nầy nên xem thường tinh hoa chân khí. Chỉ hít thở theo quán tính tự nhiên duy trì sự sống. Một liều lượng chân khí vừa đủ để cơ thể sống mà thôi. Còn tập trung tư tưởng để hít thở thu nạp tinh hoa chân khí là một chuyện khác.



Thái Tử dùng huệ nhãn quan sát chân khí thấy rõ tinh hoa ngũ khí, tinh hoa kim khí, tinh hoa mộc khí, tinh hoa thủy khí, tinh hoa hỏa khí, tinh hoa thổ khí lưu chuyển cùng khắp hu không theo thể lực, thể hơi, thể lỏng, thể đặc đầy khắp không gian chỗ nào cũng có. Thái Tử nghĩ rất tiếc càng về sau con người càng làm ô nhiễm tinh hoa ngũ khí này. Chính con người làm hại con người, làm hại sức khỏe, làm hại lục phủ ngũ Tạng của họ, bệnh tật dữ dội.



Tinh Hoa Chân khí vũ trụ nếu đem phân tích thời vô số kể nhưng cốt lại thời hai vế mà thôi. Thanh khí và trược khí. Thanh khí là thể khí không bị ô nhiễm độc hại còn trược khí là khí ô nhiễm độc hại.



Thái Tử nhìn thấy các Thiên Tiên, Địa Tiên tu luyện tinh hoa chân khí không những giảm đi sự đói khác bệnh tật. Lại thêm trường thọ, trí huệ khai mở, đã thông kinh mạch mà còn làm giảm đi sức ép của vũ trụ. Giảm luôn lực hút Trái Đất, thân thể nhẹ nhàng, thân hình cân đối xinh đẹp mịn màng. Nhất là đối với Tiên Nữ.



Thái Tử nghĩ một đất nước luôn gìn giữ môi trường trong sạch chân khí không bị ô nhiễm, toàn dân ai ai cũng tu thiền luyện khí, thời làm giảm đi gánh nặng xã hội, về bệnh tật, ngu si, lạc hậu. Đất nước ấy sẽ trở thành đất nước Thần Thánh. Luyện chân khí tích tụ vào cơ thể không những chịu đựng được nhiệt độ cao, cái lạnh cũng không làm hại được. Nếu tu luyện chân khí đỉnh cao thời khỏi hẳn bệnh tật. Làm cơ bản cho mọi sự Thần Thông biến hóa và Thái Tử đã nhớ lại vì Thiên Sứ Thiên Thần Trí Huệ đã thể hiện thần thông tự tại trước Thái Tử.



Thái Tử lại dùng thanh tịnh Huệ Nhãn quan sát vũ trụ. Thời thấy rõ vô hình điều khiển hửu hình. Vô sắc điều khiển hửu sắc. Muốn khám phá sự bí mật huyền vi vũ trụ. Không có con đường nào khác hơn là phải tu thiền luyện khí. Thu hút Tinh Hoa chân khí vũ trụ tạo lập nhị xác thân. Xác thân tinh khí và thần lực. Nhờ nhị xác thân, thời Chân Tánh mới hiển lộ thần thông trí huệ như ý được. Tiến tới toàn năng toàn giác. Mở ra Thiên Ấn Cội Nguồn.



Thái Tử lại dùng Huệ Nhãn quan sát trên thể hơi chân khí vũ trụ, Thể Lực vũ trụ không đâu là không có, Thể Lực vũ trụ cũng chính là Thần Lực vũ trụ, trên Thể Lực vũ trụ là Linh giác vũ trụ, Linh giác vũ trụ gồm 2 vế, Chân Tánh và Thức Tánh, Chân Tánh ví như nước, Thức Tánh ví như bọt nước.



Một khi thể lực vũ trụ bị khuấy động thời chuyển hóa thành điện năng, khi điện năng ma sát chạm nhau, thời tạo ra chân hỏa Tam Muội không có thứ gì dập tắc được. Thứ lửa tam muội nầy thiêu rụi thế giới vật chất. Biến tinh thể Thảo Mộc thành tinh thể mặn.



Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần không phải là để tu luyện chứng Đạo làm Phật Tổ hay vì danh lợi. Mà là Đấng cứu thế, truyền lời dạy Cha Trời xuống chốn nhân gian. Thiên Ấn vũ trụ. Muốn làm được điều này Thái Tử phải vượt qua bao khó khăn, thử thách sáng suốt phen lần từng mối huyền vi vũ trụ. Tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ấn truyền xuống thế.



Muốn làm được việc đó Thái Tử không thể không có nhị xác thân Tinh Khí Thần, do tu thiền luyện khí mà ra. Nhị xác thân là xác thân trung thân giữa vô sắc thân và phàm thân. Vô sắc thân là Thân Thức, Thức Thân, Thần Lực, với thức thân Thần Lực này các vị Đại Bồ Tát đi xuyên qua sắt thép, sành sứ, Kính, Đá xuyên qua quả Địa Cầu không để lại dấu vết, còn nhị xác thân không làm được điều đó, xác thân của Thiên Tiên, Địa Tiên nhị xác thân như trên Kinh đã nói, là xác thân do tu thiền luyện khí mà ra. Lâu hay mau đều do người tu luyện mà thành.



Để hiểu rõ hơn Thái Tử phân tích: trên xác thân phàm tục là nhị xác thân Tinh Khí Thần, Thần ở đây không phải là Chơn Thần mà là Thần Lực. Trên nhị xác thân Tinh Khí Thần, là căn thân Thần Thức Huệ Mạng Linh Hồn. Với Căn Thân Linh Căn Thần Thức Huệ Mạng Linh Hồn. Các vị Đại Bồ Tát đi xuyên qua tất cả. Sắt, thép, sành sứ, kính, kiến, thậm chí đi xuyên qua quả địa cầu, mà không để lại dấu vết. Vì thế mất xác thân phàm tục, chẳng khác nào lột bỏ một vỏ bọc linh hồn, lớp võ bọc già cỗi. Không ảnh hưởng gì tới linh hồn cả. Thậm chí cả nhị Xác Thân, Tinh Khí Thần cũng thế. Chỉ có Căn Thân Huệ Mạng Linh Hồn là vô cùng quan trọng.

*********



Hết phần 5 chương 8 mời xem tiếp phần 1 chương 9 Long Hoa Mật Tạng. Có thể nói trong tam thiên đại thiên thế giới không có gì quý hơn bộ kinh nầy. Những ai ca ngợi Bộ Kinh Nầy thời những người nầy trong vô lượng kiếp, thường đứng đầu đại chúng, lời nói ai cũng muốn nghe. Huống chi là yêu quý gần gủi đọc tụng tìm hiểu ý nghĩa của kinh.

 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 9



PHẦN 1



NẤT THANG ĐẦU TIÊN CHINH PHỤC VŨ TRỤ



Để tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ấn vũ trụ, Thái Tử bước lên nất thang đầu tiên tập trung ý chí cho cuộc mở màn tu thiền luyện khí tiến sâu vào bí mật vũ trụ, cảnh giới tối cao của trí huệ. Theo sự nhân biết của Thái Tử, con người là Tiểu Thiên vũ trụ, vũ trụ thu nhỏ mà thôi. Có thể nói một cách dễ hiểu hơn, con người là Tinh Hoa vũ trụ do Tổ Tiên tạo ra bao hàm cả Âm lẫn Dương. Luyện nhị xác thân cũng thế phải biết kết hợp Tinh Hoa Âm Dương của chân khí. Âm Dương giao hóa, kỳ tích phát sanh, nhị xác thân phát triển hình thành. Ẩn tàng trong thi thể xác thịt phàm tục.



Theo tính toán nhận thấy của Thái Tử. ÂM và DƯƠNG ngày đêm, phải có thời điểm giao hợp kết tinh giao nhau sanh sanh hóa hóa.



Thời điểm kết tinh của ÂM DƯƠNG là Tý - Ngọ thời điểm giao hóa của ÂM DƯƠNG là Mẹo - Dậu.



Để tâm ý thanh tinh là nền tản làm phát sanh Thần Lực. Ý trí trở nên mạnh mẽ thu hút chân khí vũ trụ. Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu đưa sâu vào lục phủ ngũ Tạng tích tụ tại Đan Điền. Mỗi lần hít thở theo ý tưởng đưa chân khí vào Đan Điền là mỗi lần tích góp Tinh Khí Thần, làm tăng thể lực trong người giảm đi sự đói khác và mỏi mệt.



Để tu luyện nhị xác thân mau đạt kết quả Thái Tử tự vẽ hình người. Chấm các huyệt đạo trên người một cách thuần thục. Từ huyệt đạo trọng yếu chủ lực cho đến các huyệt đạo bình thường, 365 huyệt. Gần tương ứng với 365 ngày.



Với tư thế ngồi xếp bằng lưng thẳng đầu hơi cúi, mắt mở hí hí nhìn chót mũi. Hai chân tréo lên nhau, hai lòng bàn chân ngữa lên trời Có lúc Thái Tử ngồi xếp bằng hai chân chồng lên nhau mà thôi, hai lòng bàn tay cũng thế, với tư thế ngồi như thế. Thái Tử hướng tiểu thiên vũ trụ về Đại Thiên vũ trụ. 360 huyệt đạo thông theo hai lòng bàn chân, hai lòng bàn tay và đỉnh đầu. Ngũ thông năm cửa lớn thông thiên, thông địa của con người.



Có khi Thái Tử đan tréo các ngón tay chồng lên nhau, với tư thế ngồi tu thiền luyện khí của Thái Tử với bao ẩn tàng triết lý mầu nhiệm. Những bước đi cơ bản để rồi tiến sâu hơn trên con đường hội nhập chinh phục vũ trụ. Nhờ ý chí cương quyết hơn một tháng đầu Thái Tử dốc hết tâm trí, mọi tạp niệm đều dứt sạch, ngồi kiết già tập trung luyện khí, chỉ thấy cơ thể khỏe hơn. Còn tất cả thời không phát hiện được gì.



Thái Tử đâm lo suy nghĩ, không lẽ ta thấy sai, nên suy luận cũng sai. Phương pháp tu thiền luyện khí còn có chỗ chưa hợp lý nên tu luyện cả tháng mà chưa thấy hiệu quả. Thái Tử để hết tâm trí suy luận lại từ đầu. Không lẽ tu thiền luyện khí đến cả trăm năm mới thành thời hết đời người mất còn gì, còn đâu mở ra hướng đi mới cứu nhân độ thế.



Không lẽ phương pháp tu thiền luyện khí ta cũng như các Đạo sĩ tu thiền luyện khí của các Thần giáo. Thái Tử tự nghĩ Không thể được, sự tu luyện của các Đạo sĩ Thần giáo là sự tu luyện lần mò không nắm bắc được bí quyết tu thiền luyện khí. Cũng như sự huyền vi của tu thiền luyện khí.



Các giáo chủ Thần Giáo không làm chủ được Linh Hồn, không làm chủ được lục Căn lục Thức, cũng như thức tánh, Chân tánh của mình. Vô minh luôn luôn xoay chuyển, khó mà tiến sâu vào bí mật tu thiền luyện khí đỉnh cao của Tạo Hóa. Không đủ trí tuệ phen lần nhân duyên bí mật đó.



Trong lúc Thái Tử để hết tâm suy luận lại từ đầu, hầu tìm ra giải pháp những chỗ chưa hợp lý. Vô tình Thái Tử nhìn thấy một chồi cây xanh mới mọc ngoài khung cửa, chồi xanh ấy rất lạ hầu như cuốn hút Thái Tử. Thái Tử tò mò tập trung tư tưởng khám phá, cả hàng giờ nào có thấy chi lạ đâu, không có gì thay đổi. Chồi cây vẫn là chồi cây.



Lúc ấy Thái Tử mới thôi tập trung khám phá chồi cây. Tiếp tục luyện tập tu thiền luyện khí, thời gian trôi qua lại thêm 1 tuần nữa, lần này Thái Tử cảm thấy cơ thể hầu như có điềm khác lạ nhưng chưa được rõ ràng lắm.



Vô tình Thái Tử nhìn ra chồi cây xanh, thời vô cùng kinh ngạc, chồi cây xanh thêm nhiều lá sum sê. Thái Tử tự hỏi chồi xanh ra lá hôm qua, hay bữa nay? Hay là sự phát triển không dừng rất chậm. Thái Tử như bừng lên giác ngộ phải rồi, sự phát triển của chồi cây rất chậm. Trong một giờ khó nhìn thấy sự phát triển của nó mà phải nhìn hàng tuần, thời mới thấy sự phát triển của nó. Tu thiền luyện khí khác nào phải nhìn hàng tháng hàng năm mới thấy kết quả. Thái Tử nhìn chồi cây sum sê như cảm ơn sự nhắc nhở đánh thức của người.



Đúng lúc ấy có một người xuất hiện, Thái Tử vô cùng ngạc nhiên. Thái Tử hỏi:

Ngươi đến đây tìm ai?



Người ấy lễ phép nói:

Tôi tìm Thái Tử.



Thái Tử nghe người ấy nói vô cùng kinh ngạc và hỏi:

Ngươi tìm ta có chuyện gì?



Người ấy lễ phép thưa:

Nghe Thái Tử là người thông thái, trí huệ vô biên, Cha Tiểu Thần qua đời để lại cho Tiểu Thần vật gia bảo quí hiếm, bảo vật Thần Lửa, khi nào cần thời lấy lửa, nhưng Tiểu Thần tìm mãi không tìm thấy lửa, có người bảo Tiểu Thần thử ma sát vào nhau, Tiểu Thần ma sát mãi chỉ thấy hơi nóng bốc ra mà thôi, cọ qua cọ lại cả năm cũng không thấy lửa, vật lấy lửa coi như là vật Thiên. Người nào làm chủ vật đánh lửa coi như người đó là con của Thần Mặt Trời.



Ở vào thời kỳ ấy lửa vô cùng quan trọng đối với con người và có nhiều Thần giáo thờ lửa.



Nghe chuyện lạ Thái Tử tò mò hỏi:

Ngươi có đem theo vật chí bảo đó không?



Người ấy nói:

Dạ có nó rén cứng vô cùng.



Người ấy nói xong đưa cho Thái Tử. Thái Tử cầm lấy quan sát một hồi rồi ma sát vào nhau mỗi lúc một mạnh, sự ma sát liên tục của hai thỏi đá đã bốc khói. Thái Tử vận lực lên hai bàn tay ma sát hai thỏi đá tốc độ nhanh hơn mạnh hơn, thời ánh sáng lóc lên tia lửa phát ra dữ dội. Thái Tử đưa chúng vào mồi để cháy, tức thì ngọn lửa bốc lên, nếu sơ ý không cẩn thận sẽ gây ra hỏa hoạn, tàn phá thiêu rụi núi rừng, nhà cửa sự sống của con người và vạn vật. Đốm lửa cháy rừng.



Người xuất hiện la lên:

Có lửa rồi, thế mà tôi cọ xác chúng cả năm không có, Tôi hiểu rồi.



Người ấy nhận lại vật đánh lửa rồi biến mất. Thái Tử vô cùng kinh ngạc người ấy là Thiên Thần sao ?



Lửa Âm Dương. Lửa Lòng. Lửa Công Lý, Chân Lý. Những thứ lửa mà Thái Tử cần phải biết cách tạo ra nó, dùng nó để làm lợi ích cho cuộc sống con người, thứ ánh sáng đem về cho nhân loại bao sự sống yên vui hạnh phúc. Thái Tử là nhà khoa học vĩ đại. Luôn luôn khám phá quy luật bí mật sẳn có nơi vũ trụ làm lợi ích phục vụ cho đời sống con người. Thái Tử lấy lửa theo phương thức tự nhiên. Không có sự bí mật Thần Lửa nào cả mà chỉ áp dụng theo phương thức khoa học, khi ngọn lửa đã bốc cháy, Thái Tử nhìn lên không gian theo hướng biến mất của người xa lạ bổng nghe trên không có giọng hát vọng xuống.

Lửa Lòng, Lửa Huệ, Lửa Âm Dương

Quy luật xưa nay vốn sự thường

Huyền cơ bí mật nào xa lắm

Quanh ta đầy dẫy bí pháp vương.


Thái Tử như người tỉnh mộng, trí huệ bừng khai mở lên một đỉnh cao mới. Thái Tử giờ đây nhìn vào cái gì vật gì, cảnh quang đều nhìn thấy ẩn tàng lời dạy của Đức Cha Trời. Đấng tạo vật Đấng lập lên tất cả, vũ trụ sự sống chết cùng con người. Đấng toàn năng, toàn giác. Đấng sáng tạo và lập lên tất cả. Sự phát triển của cỏ cây, cũng như cách lấy lửa, làm tăng thêm sự giác ngộ, hiểu rõ về thành quả trên bước đường mình đi.



Niềm tin và sự quyết đoán dẫn Thái Tử đến mục đích cuối cùng. Thái Tử siêng năng tu tập không dừng nghỉ. Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu, 4 thời 8 giờ không bỏ sót. Ý chí Thọ tưởng thu nạp chân khí đều đặng đưa sâu tận Đan Điền. Còn những giờ khác Thái Tử luôn trụ tâm thức tại Đan Điền, thở ra hít vào bằng Đan Điền, cứ thế ngày qua tháng lại hơn một năm. Hôm nay Thái Tử kiểm chứng sự thành công hơn một năm đã qua. Thời thấy rõ sự thay đổi trong cơ thể, cũng như các giác quan, nếu đem so sánh với lúc chưa tu thiền luyện khí, thời hai trạng thái khác xa như hai người ở hai cảnh giới khác nhau. Như người ốm nặng và người khỏe mạnh hay nói một cách khác một phàm một Thánh. Sự hít thở Thái Tử giờ đây khác với người thường, không phải do phổi làm chủ mà do Đan Điền làm chủ, phổi chỉ là giai phụ. Mỗi lần tham thiền luyện khí, thời nơi Đan Điền tỏa ra luồn khí nóng lan tỏa ra các huyệt Đạo xung quanh như. Hoang Du, Thủy Phân, Thiên Khu, Đại Cự, Khí Hải Quan Nguyên, rồi lan tỏa rộng ra Phúc Kết, Thương Đạo, xuống Cực Trung lên Trung Quản, Cự Huyết, Cửu Vĩ, lan tỏa ra Thủy Đạo, Xung Môn, Đại Hách, Kỳ Môn, Khí Xung lan xuống Khúc Cốt, Hội Âm, lan ra Đới Mạch, Lương Môn, Cự Liêu, Bất Dung, Chương Môn, Nhật Nguyệt, Ngũ Khu. Làm cho toàn phần bụng nóng rang. Rồi lan tỏa khắp châu thân, làm cho thân người nhẹ bổng, tuy hôm nay trời giá rét xuống đến không độ, nước như đóng băng, thế mà Thái Tử không thấy lạnh lẽo chi cả, khi Thái Tử chỉ mặc một chiếc áo mỏng. Thái Tử không cho mặc áo mỏng dễ cảm lạnh là vì Thái Tử hiểu rõ thể lực của mình giờ đây đã khác hẳn hơn trước kia, có thể chịu đựng sự nóng lạnh mà người thường không thể nào chịu nổi.



Đồ ăn thức uống được đưa đến những món cao lương mỹ vị hàm lượng bổ dưỡng cao. Nếu không luyện tập thời rất dễ bị bệnh béo phì, làm tổn thương đến các kinh mạch, nhưng lần lần Thái Tử càng phát hiện là mình không thấy đói khác. Nhất là những món ăn Động Vật dần dần không thích hợp với khẩu vị của Thái Tử. Vì các giác quan đã dần dần trong sạch. Nhất là cơ quan vị giác, khứu giác. Cũng như cơ thể lục phủ ngũ Tạng phản tỉnh khó chịu khi ăn chất Động Vật có lúc dẫn đến nôn mửa, gây khó chịu cho cơ thể. Có thể nói đây là sự phản ứng của nhị xác thân mới hình thành trong cơ thể của Thái Tử. Nếu nhị xác thân của Thái Tử hình thành lớn mạnh thời Thái Tử trở thành người ăn chay, chỉ ăn toàn Thực Vật. Điều này đã làm cho Kinh Dương Vương và Thần Long Nữ lo lắng cho sức khỏe Thái Tử vì sợ Thái Tử ốm gầy rồi mất mạng, theo quan niệm của nhân gian thường tình. Trường Trai chính là khổ hạnh, nhưng họ có hiểu đâu Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đều coi trọng việc ăn chay, vì ăn chay ẩn tàng nhiều lợi ích. Về mặt tâm linh thời Đại Từ Đại Bi, còn về mặt thể xác không những đẩy lùi bệnh tật mà còn tích tụ Chánh Khí phát Đại Dương Quang, tu luyện mau thành chánh quả. Đó là một trong trăm nghìn lợi ích, còn nhiều lợi ích nữa kể không hết. Sự dư thừa các món ăn hằng bữa của Thái Tử đã làm cho Phụ Vương cùng Mẫu Hậu lo lắng. Sao con lúc này ít ăn như thế hay có bệnh hoạn gì không ? Nhưng vì có lời dặn của Thái Tử, không ai được gặp vì gặp như thế không những làm cho Thái Tử mất mạng trong lúc nhập thiền vận hành chân khí mà còn làm cho Thái Tử Động Tâm, tu luyện khó thành chánh quả.



Kinh Dương Vương và Thần Long Nữ không dấu nổi lo lắng trong lòng, liền kêu xão Nữ thị Tỳ hỏi:

Người thấy sức khỏe Thái Tử dạo này ra sao ? Thị Nữ ngươi thấy Thái Tử dạo này ra sao?



Nhìn nét mặt lo lắng Quốc Vương, Vương Hậu lo cho Thái Tử không phải là lo cho mình. Nhưng Thị Nữ cảm thấy lòng ấm áp như có cái gì cảm động nghèn nghẹn trong lòng.



Thị Nữ lễ phép trả lời:

Muôn tâu Quốc Vương, Vương Hậu. Con chỉ được phép đem đồ ăn thức uống đến phòng ăn, chừng nào có hiệu lịnh Thái Tử mới được vào dọn dẹp, gần 2 năm nay tiểu Nữ chưa một lần nhìn thấy Thái Tử, thời làm sao tiểu Nữ biết Thái Tử mập ốm thế nào mà kể.



Quốc Vương và Vương Hậu Phi nghe xão Nữ thị tỳ nói thế, thời chỉ biết thở dài mà thôi. Quốc vương nghĩ vì tương lai của non sông Tổ Quốc mà con ta phải chịu bao khổ sở, Cha con xa cách, tuy ở gần mà cách nhau như hàng vạn dặm. Với bao nỗi nhớ thương. Sợ con đau ốm vì dốc sức tu luyện, tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Thiên ẤN vũ trụ, Bình Định Thiên Hạ về một mối. Đẩy lùi chiến tranh, đẩy lùi Lạc Hậu, đói nghèo, mở ra trang sử mới, trang sử công bằng văn minh, bảo tồn độc lập lâu dài, đây là một việc làm vô cùng khó khăn mà từ xưa tới nay chưa có ai làm nỗi.



Kinh Dương Vương nghĩ phía trước còn quá khó khăn, đầy dẫy gian nan kham khổ mơ hồ không chút hy vọng. Không biết giờ này đã gần 2 năm con đã lần ra manh mối nào chưa? Để cho con có đầy đủ sức khỏe, thay thế cao lương mỹ vị nem Rồng chả Phụng bằng những Thực Vật quí hiếm, trên núi tuyết, nơi hang sâu, ngoài hang Đảo, dưới biển sâu, để tăng thêm sức khỏe. Mật ong, sữa bò, tổ yến nấu với gạo nếp, uống nước sâm nghìn năm, cọng với Linh Chi, tuyết quả, phải nói đây là những món ăn thức uống quí hiếm trong đời, trợ duyên cho người tu thiền luyện khí mau Đắc Đạo.



Nhờ trợ duyên những món ăn quí hiếm Thái Tử thể lực Chân Khí tăng tiến thần tốc. Mỗi khi tham thiền luyện khí, Chân Khí cuồn cuộn tăng lên như nước biển triều dân, cơ thể nhẹ nhỏm, tưởng chừng như bay bổng khỏi mặt đất, không thấy mệt mỏi chi cả dù thức suốt ngày suốt đêm hàng tháng.



Trải qua một thời gian ngắn chỉ hơn 3 năm Thái Tử đã đạt đến cảnh giới, tam hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều dâng. Hiếm thấy trong thế giới tu thiền luyện khí, trong nhân loại từ xưa tới nay. Kinh Dương Vương Cha của Thái Tử là người tu thiền khí rất siêng có hơn 70 năm cũng không hơn được Thái Tử bây giờ.



Đạt đến cảnh giới tam hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều dâng. Không phải ngẫu nhiên mà thành tựu mau chóng đến thế mà do cơ thể Thái Tử có nhiều tướng tốt, lại thêm thông minh xuất chúng trí huệ thượng thừa, tu theo phương pháp thượng thừa, cọng với nhiều nhân duyên tốt đẹp khác nữa. Nên mới có kết quả thành tựu nhanh đến nỗi ai nghe qua cũng khâm phục, trong thế giới tu thiền luyện khí.



Thái Tử hiểu rõ, con người là Tinh Hoa vũ trụ thu nhỏ cả một sự huyền bí, khám phá bí mật con người là nền tản chỗ tựa tiến dần khám phá vũ trụ. Linh giác vũ trụ, vật thể vũ trụ. Linh Hồn con người, thể xác con người, sợi móc xích trung gian để tồn tại, chính là vô cực Chân Nguyên Thần Lực vũ trụ, Thần lực con người. Thế giới vật chất cũng như thể xác con người tồn tại hay tan rã đều liên quan đến Lực này, Vô Cực Chân Nguyên Thần Lực. Vô Cực Chân Nguyên là thể lực vô vi xuyên qua tất cả không để lại dấu vết là đầu dây mối nhợ chuyển hóa hình thành ra thế giới vật chất.



Vô Cực Chân Nguyên, Thần Lực vũ trụ là trung gian nối liền giữa bản thể Linh giác vũ trụ và vật thể vũ trụ, tức là bản thể Linh giác Tổ Tiên và thế giới vật chất, vật thể vũ trụ, mà thế giới vật chất có ba thể, từ bán vô vi đến hửu vi, từ thể hơi đến thể lỏng, thể đặc, có thể nói một cách dễ hiểu, Vô Cực Chân Nguyên, Thần Lực vũ trụ là trung gian nối liền giữa bản thể Linh giác vũ trụ và Chân Khí vũ trụ, siêu vô vi và hửu vô vi. Siêu vô vi là Linh giác vũ trụ. Hửu vô vi là Chân Khí vũ trụ.



Hửu vô vi Chân Khí chuyển hóa thành thể hơi vũ trụ, là trung gian giữa Vô Cực Chân Nguyên Thần Lực vũ trụ và vật chất hửu sắc Thể Lỏng.



Rồi từ vật chất hửu sắc, Thể Lỏng chuyển hóa thành nước, làm trung gian giữa Hửu vô vi Chân Khí thể hơi và hửu sắc thể Đặc. Sự liên quan móc xích, từ vô hình đến hửu hình, từ vô vi đến hửu vi, từ vô sắc đến hửu sắc. Từ Thể Lực đến Thể Hơi đến Thể Lỏng đến Thể Đặc. Sự liên quan tồn tại hay tan rã của bốn thể trên, qua liên kết tiến hóa, chuyển hóa tồn tại hay hủy diệt Thái Tử thấy biết rõ ràng.



Thái Tử hiểu rõ, con người là Tinh Hoa vũ trụ, vũ trụ thu nhỏ, tiểu Thiên vũ trụ. Hiểu Tiểu Thiên vũ trụ là hiểu Đại Thiên vũ trụ, hiểu con người là hiểu vũ trụ, hiểu vũ trụ là hiểu bí mật của con người, hiểu bí mật của con người chính là chiếc chìa khóa vạn năng để mở tung vũ trụ, kho tàng tri thức nhân loại mà Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa thành tâm bảo vệ và gìn giử. Đó chính là Văn Hóa Cội Nguồn, Thiên Ấn vũ trụ.



Thái Tử tốm thâu Tinh Hoa vũ trụ, bổ sung bồi đắp cho Tinh Hoa con người, đưa con người tiến đến giai đoạn mới, giai đoạn tiến về vũ trụ, hiểu vũ trụ và làm chủ vũ trụ. Tu Thiền luyện khí, tốm thâu Chân Khí vũ trụ, cũng có nghĩa tốm thâu vũ trụ, từ vô vi Thần Lực vũ trụ đến hửu vi hửu sắc vũ trụ cọng thêm sự ăn uống của Thái Tử, đã đầy đủ nhân duyên kết hợp bốn thể, Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc, đưa Thái Tử đến thành tựu nhị xác thân nhanh chóng, Tinh khí Thần hợp nhất chuyển hóa. Nhị xác thân đã hình thành, thời những bí mật vũ trụ, bí mật con người lần lần hiển lộ. Dẫn con người từ bất ngờ này sang bất ngờ khác, hiểu con người mới làm chủ được con người. Hiểu tâm Linh mới làm chủ được Tâm Linh. Hiểu xã hội mới làm chủ được xã hội. Hiểu vũ trụ mới làm chủ được vũ trụ. Hiểu công năng của tu thiền luyện khí, thời người tu thiền luyện khí mới thu lượm gặt hái thành quả mau chóng được.



Điều đáng nói ở đây muốn tu thiền luyện khí có hiệu quả cao, thời phải làm chủ được tâm của mình, được ý của mình. Tức là hàng phục Tâm viên, ý Mã, Thân Tâm thanh tịnh, chăm chỉ tốm thâu Chân Khí và giữ Chân Khí tại Đan Điền. Tâm Điền - Khí Điền - Đan Điền. Là mật tạng vũ trụ. Ý thức làm chủ tam điền này. Thời tu thiền luyện khí thành tựu mau chóng. Nhờ thành tựu nhị xác thân mau chóng. Vì thế con người cũng tiến tới đỉnh cao mau chóng, tiến lần tới những nất thang làm chủ vũ trụ. Thái Tử hiểu rõ trong thế giới Động Vật có đến 8 muôn 4 nghìn loài, chỉ có loài người là Động vật cao cấp mà cũng chỉ có loài người mới có khả năng làm chủ vũ trụ. Trở về với Đấng Ông Cha. Đấng tạo lập lên vũ trụ. Tạo lập lên con người. Tốm thâu Tinh Hoa Chân Khí vũ trụ, được rót vào cơ thể con người. Tức thời làm tăng thêm sức mạnh, kể cả sức mạnh Thần Lực, Thể Lực, Ý Chí, mọi hiện tượng bắt đầu thay đổi, đẩy lùi đói khác, bệnh tật, nóng lạnh của thời tiết, càng lúc càng rõ rệt. Khi tu thiền luyện khí kết quả thành tựu lên cao. Không những thế người tu thiền luyện khí làm cho huyệt Đạo càng ngày càng thông suốt, da dẽ hồng hào tăng tuổi thọ, tráng kiện về thể xác, minh mẩn về tâm hồn, phán đoán chính xác, giải quyết mau lẹ. Đó là ưu điểm của người tu thiền luyện khí. Thái Tử nghĩ một dân tộc văn minh, thời dân tộc đó văn minh vật chất phải đi đôi với văn minh tinh thần, thời dân tộc đó mới thật sự văn minh. Con người muốn có hạnh phúc trọn vẹn, phải biết tu dưỡng thể xác, cũng như tu dưỡng tinh thần, nếu không phải thế thời khó mà tìm thấy hạnh phúc trọn vẹn.
 

shopoga

✩✩
PHẦN HỎI ĐÁP.


Hỏi: Đấu tranh giải phóng Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. trả lại quyền tự do, Quyền Bình Đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc. Mà Tạo Hóa đã ban mỗi con người, những quyền bất khả xâm phạm có phải là Đại Từ Đại Bi không?


Đáp: Nếu làm được như vậy đúng là Đại Từ Đại Bi. Còn nếu giải phóng dân tộc ra khỏi áp bức Độc Quyền Độc Tài Độc Trị tàn bạo, rồi lên cầm quyền cai trị không những không trả lại quyền tự do, Quyền Bình Đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc, những quyền cơ bản mà Tạo Hóa đã ban cho mỗi con người. Tiếp tục con đường cũ Độc Tài Độc Trị thời cuộc giải phóng đó đối với dân mà nói là cuộc chiến tranh phi nghĩa, được là Vua, thua là giặc, dân vừa thoát ra khỏi họng cọp, liền rơi vào miệng sói và sự việc này cứ lặp đi lặp lại hai nghìn năm rồi. Một dân tộc mà mang hai chữ Đồng Bào thời dân tộc đó là dân tộc Đa Nguyên, Dân Tộc kết hợp nhiều chủng Tộc. Dân Tộc Bách Việt Văn Lang, hay 54 dân tộc anh em Việt Nam. Đã là Dân Tộc Đa Nguyên kết hợp nhiều chủng tộc như vậy. Thời không phù hợp chế độ độc tài độc trị. Mà chỉ phù hợp sống theo Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo dân tộc truyền thống giữ nước và dựng nước mà thôi. Sống theo Hiến Pháp, Luật pháp,Đạo Pháp là sống Công Bằng Bình Đẳng, Quyền Tự Do, Quyền Ngôn Luận, Quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc mới thật sự thể hiện đầy đủ đi vào đời sống con người.


Hỏi: Thế nào là Đạo Lớn?


Đáp: Đạo là con đường để đi, nếu đó là con đường Văn Hóa Cội Nguồn, Văn Hóa Đại Đồng. Thời đó chính là con đường lớn, Đại Đạo ra đời. Không phân biệt Đảng phái, Đạo giáo, Tôn giáo, màu da chủng tộc, giàu nghèo, Tà Chánh, dốt ngu, Thiện ác đều đi được cả. Mỗi bước chân là mỗi bông hoa mùa xuân nở theo chân của họ.


Hỏi: Thế nào là Đức Lớn?


Đáp: Suốt đời vì nhân loại nhưng không cầu bổng lộc gì cả. Phi ân bất cầu báo, chỉ sống theo lòng từ bi bác ái, thương nhân loại khốn khổ, luôn ở ngôi Chánh Đẳng, Chánh Giác trong sạch Vô Vi. Những kẻ bỏ sức ra một đồng, muốn thâu vào bạc tỉ. Lúc nào cũng vì ngôi cao bổng lộc. Quyền thế và Địa vị, lối sống như vậy chỉ vì danh vì lợi vì chức vì quyền. Sống trên mồ hôi, nước mắt xương máu của dân, những kẻ như vậy dù giàu có đến đâu, quyền lực đến đâu cũng chỉ là kẻ thất Đức mà thôi.


Hỏi: Thế nào là người biết?


Đáp: Người hiểu biết là người thấy thiện nên theo, thấy ác nên bỏ. Tôn thờ Chính Nghĩa, tôn thờ non sông Tổ Quốc, tôn thờ Văn Hóa Cội Nguồn. Tôn trọng người chính là tôn trọng mình, sống Bình Đẳng, thường làm lợi ích cho Tổ Quốc trên lợi ích cá nhân. Hạnh phúc thiên hạ cũng chính là hạnh phúc của mình, người có ý tưởng vì nhân loại, thời lúc nào cũng làm cho nhân loại vui. Lối sống giản dị dù ở địa vị cao hay giàu sang phú quí. Cũng không phô thanh thế của mình. Người như thế chính là người Đại hiểu biết.


Hỏi: Như thế nào là người giác ngộ?


Đáp: Hòa mình tất cả hết thảy các tầng lớp xã hội nhưng trụ vững lòng thanh tịnh sống vì Chính Nghĩa không sống theo danh lợi chạy theo danh lợi. Không vì thế mà danh lợi đánh mất mà càng ngày càng lớn, ví như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, sống trong danh lợi mà không nhiễm danh lợi. Những người nào vì nhân loại, không vì mình và cụ thể nhất là xem qua hành động của họ như Quốc Tổ Vua Hùng, như Phật, như Chúa chẳng hạn. Đó là những người Đại giác ngộ.


Hỏi: Thế nào là người ngu?


Đáp: Những kẻ thường cho mình có trí nhưng làm hại non sông Tổ Quốc, làm hại Đồng Bào anh em, làm trái lại lương tâm. Không rõ sau khi chết Linh Hồn mất hay còn, cứ làm bừa, mãi sa chân vào con đường tội lỗi, để rồi nhận lấy hậu quả thê thảm, người như thế khác nào người mù, trí mù. Không trở thành kẻ ngu mới là chuyện lạ.


Hỏi: Thế nào là tư tưởng lớn?


Đáp: Những người phát Đại Nguyện đều là những người có tư tưởng lớn, Quốc Tổ Vua Hùng là người có tư tưởng lớn, Quốc Tổ Vua Hùng phát nguyện rằng. Ta nguyện giải thoát tất cả sự thống khổ, khổ nô lệ, nô lệ bạo lực cửa quyền, nô lệ kiến thức, khổ đói nghèo, khổ lạc hậu, khổ sanh, lão, bệnh, tử, làm cho nhân loại thật sự tự do thật sự hạnh phúc. Đại Đồng Bình Đẳng ai ai cũng thể hiện đầy đủ những quyền mà Tổ Tiên Đức Cha Trời đã ban cho họ, đầy đủ trí tuệ, không có sự bí mật nào mà không biết, không có sự huyền bí nào mà không thông. Dù cho đó là sự huyền bí quá khứ lúc chưa sanh vũ trụ hoặc suốt vị lai vũ trụ bị hủy diệt và sanh vũ trụ mới và mỗi Linh Hồn tự làm chủ lấy mình. Làm chủ vũ trụ an vui tự tại. Nếu ta không đưa nhân loại tới cảnh giới đỉnh cao như vậy, thời ta chưa hội nhập vào ngôi vị Chánh Đẳng, Chánh Giác, vẩn còn tiếp tục là Đấng Cứu Thế. Tùy nhân duyên mà hiện thân hoặc đầu thai ra, ta lúc nào cũng theo sát nhân loại, lập ra nhiều phương tiện để cứu khổ cứu nạn, đưa nhân loại đến bở giải thoát, trở thành Chánh Đẳng, Chánh Giác, ngôi vị Chí Tôn. Ngôi Vị Thế Tôn. Bắt chước Quốc Tổ làm theo Quốc Tổ là người có chí lớn. Tư tưởng lớn trong Chính Nghĩa không phải là tư tưởng xưng hùng xưng bá, đưa nhau vào con đường máu đổ đầu rơi, oan oan tương báo, nợ nợ đáo đầu, hận thù chồng chất như non như núi. Đó chỉ là tư tưởng của con người cuồng vọng háo danh, háo lợi, lợi dụng Chính Nghĩa phục vụ cho lòng tham vọng của mình, lòng tham vô đáy, vơ vét của cải, vơ vét quyền lực bao nhiêu cũng không đủ, trở thành kẻ Độc ác, Độc quyền, Độc tài, Độc trị mà nhân loại là nạn nhân của những con người này.

*********

Hết phần 1 chương 9 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 2 chương 9. Long Hoa Mật Tạng Kinh, được coi như là Bộ Kinh đại giải thoát. Giải thoát đói nghèo, giải thoát tội lỗi, giải thoát nô lệ, giải thoát ngu si, giải thoát hận thù, giải thoát địa ngục, giải thoát sanh tử luân hồi.
 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 9



PHẦN 2



TU THIỀN



Tu Thiền là gì?

Nói một cách ngắn gọn dễ hiểu. Tu Thiền là làm cho tâm trí lắng yên, bình an, nhẹ nhàng thoải mái, hiệu quả của sự lắng yên tâm trí là làm phát sanh trí huệ, giống như ngọn lửa đang cháy hoặc lụn tàn, đổ thêm ngụm dầu làm cho ngọn lửa bừng sáng bốc lên cao.



Tu Thiền có hai cách: ĐỊNH sanh THIỀN và THIỀN sanh ĐỊNH.



Định: là tập trung tư tưởng vào một điểm cố định. Chú tâm lắng suy nghĩ, làm cho tâm trí yên lặng đó là Thiền.



Sơ Thiền:
là thư giản buông thả tất cả, không vướng bận chi hết, lắng yên tâm thức bình an nhẹ nhàng, sự lắng yên Tâm Thức ấy gọi là Thiền sanh Định, cũng giống như ăn để sống, sống là do ăn Thiền sanh Định. Định sanh Thiền cũng vậy mà thôi, hể có Thiền thời sanh Định, hể có Định thời sanh Thiền. Như vậy Thiền Định là một phương pháp mật tạng vũ trụ, làm cho tâm trí bình an, nhẹ nhàng, tỉnh lặng, xóa tan đi những năm tháng lao tâm, lao trí mệt mõi. Cũng như dừng nghĩ không cho phát sanh nghiệp quả, nhất là nghiệp quả ác.



Nói về Thiền, thời có từng bật cao thấp khác nhau, thư giản dứt căng thẳng lo âu đó cũng là Thiền. Tiến sâu hơn nữa là buôn thả tất cả tâm hồn tỉnh lặng, Đạo Thiền. Tiến sâu hơn nữa, giác ngộ Chân Tâm, Chân Tánh, an trụ Chân Tâm Chân Tánh, Chánh Đẳng Chánh Giác, tối thượng Thiền, Chánh Định, Tâm Hồn đã an trụ Chánh Định, thời coi như đã vào cảnh giới Cực Lạc.



Nói về tu thiền luyện khí, luyện Đạo, luyện Quyền, luyện pháp, không phải bây giờ mới có mà đã có từ khi con người ra đời, nếu nói con người ra đời đầu Tiên vũ trụ thời xa xưa lắm, không có số lượng nào ví dụ được, vô số vô biên. Còn nói gần thời con người ra đời trên quả Địa Cầu nầy, thời cách đây 75 triệu 600 nghìn năm, trải qua gần 5 tiểu kiếp. Còn nói gần hơn nữa, tức là đầu tiểu kiếp thứ 9 người Hồng Hoang nguyên thủy, những người sống sót cuối tiểu kiếp thứ 8. Sống qua tiểu kiếp thứ 9.



Cách đây năm nghìn năm, Quốc Tổ Hùng Vương ra đời. Ở vào thời kỳ nhân loại đã tiến hóa trên đà văn minh ý tưởng khắp đó đây, khắp vùng phương Đông đã có trên 60 giáo phái, mỗi giáo phái đều có sở trường khác nhau, nhưng nói chung mục đích là đưa con người đạt đến đỉnh cao, xưng hùng xưng bá thống trị Thiên Hạ.



Nói đến Thiền Định, thời mỗi giáo phái đều có cách tu thiền luyện Định, ở bước đầu khác nhau như phái Thần Lửa. Định sanh Thiền. Ngồi xếp bằng nhìn vào ngọn nến cách đó không xa, tập trung tinh thần, chăm chú nhìn ngọn nến không chớp mắt, sau đó nhắm mắt lại và hình dung ngọn nến ở ngay điểm chính giữa hai chân mày, với phương pháp này, phái Thần Lửa Định tâm nhờ an trụ vào ngọn nến, nhờ định Tâm mà sanh Thiền. Thiền đã sanh thời Định tâm càng thêm kiến cố, tiến sâu hơn các tu sĩ, Đạo sĩ phái Thần Lửa này vận hành ngọn lửa Tâm Linh chạy khắp Châu thân, gọi đó là luyện Đạo, rồi ứng dụng ra quyền pháp, quyền thuật và đỉnh cao của giáo phái này là ngũ thông, lẩn quẩn trong cảnh giới của Địa Tiên.



Ở vào thời kỳ này có tới hơn 60 giáo phái như phái Thần Quyền, phái Luyện Chú, phái Tuyệt Thực, phái Hít Thở, phái Luyện Đan v.v… Đỉnh cao của các giáo phái này cũng không hơn được giáo phái Thần Lửa, cũng chỉ ở cảnh giới ngũ thông cảnh giới của Địa Tiên mà thôi. Nói chung các giáo phái ở vào thời kỳ ấy hầu hết là theo phương pháp, chú tâm vào một điểm nào đó để sanh thiền. Các giáo phái này còn mãi dò dẩm trong đêm tối, lẩn quẩn trong sanh tử, khó mà thoát khỏi luân hồi lục Đạo. Bị cái thấy, nghe, hay, biết của chính mình xây chuyển, khởi tâm chấp trước phân biệt khởi nghiệp liên miên.



Còn tu thiền sanh Định là lối tu khó hơn, như phái Du già sau này thành phái Tăng già, là do quán tưởng sanh Định. Sơ căn của tu Thiền là thư giãn buôn thả từ từ, cho đến buôn thả hoàn toàn, không vướng bận chi cả, giãi tỏa cảm giác căng thẳng bận bịu vướng víu Tiến xa hơn nữa là dứt lần dục niệm, cội căn gốc rễ của mọi tội lỗi lầm cho tâm hồn trở nên trong sáng an lạc. Nhờ vào ý thức giác ngộ định tâm trở lại gọi đó là Thiền.



Nói tốm lại sơ căn của tu Thiền là thư giãn buôn thả từ từ, cho đến lúc buôn thả hoàn toàn giãi tỏa cảm giác căn thẳng yên tỉnh sâu lắng thanh thỏa tâm hồn. Đó là Thiền, nhờ công năng của Thiền. Định tâm trở lại, Thiền sanh Định. Tiến xa hơn nữa. Nhờ định tâm trở lại phát hiện những cái mà xưa nay mình không nghĩ tới. Có thể nói là lầm đường lạc lối sanh tâm nhàm chán, mãi chạy theo vô thường biển khổ lúc nào cũng căn thẳng mệt mõi và kết quả cũng chỉ là con số không. Tâm hồn sa đọa, tương lai mờ mịt. Nhìn cảnh xô bồ vật lộn với đời. Đấu đá nhau dẫn đến lưỡng bại câu thương. Chạy theo dục vọng thấp hèn xa rời Đạo Đức, làm suy thoái truyền thống Đạo Đức Cha ông đúng là khổ, càng nghĩ càng sanh nhàm chán, sự nhàm chán ấy gọi là Thiền. Nhàm chán càng mãnh liệt, thời Định Tâm càng kiên cố bấy nhiêu. Và cứ thế Định Tâm càng lớn thời trí huệ càng tăng. Trí Huệ càng tăng, thời giác ngộ càng cao. Giác ngộ càng cao, thời Thiền trở nên kiên cố. Thiền trở nên kiên cố, thời Định Tâm vững như núi như non. Trí huệ trở nên Thánh Thiện. Tối cao của trường phái này là đạt đến cảnh giới Thiên Tiên chứng lục thông đang đà đi trên con đường giải thoát. Nhưng đối với Văn Hóa Cội Nguồn thời còn xa lắm đối với các trường phái này, huống chi các trường phái Thần giáo. Bà La Môn giáo thời còn xa vời vợi Văn Hóa Cội Nguồn hơn nữa.



Còn tu Thiền của Thái Tử là sự tu Thiền của Đấng Đại giác ngộ, không có một phái nào sánh kịp. Tu Thiền luyện khí của phương pháp tối thượng Thừa, của bật Chánh Đẳng Chánh Giác Đấng cứu thế. Theo nguyên lý sự sống con người vật chất nuôi thể xác. Đạo lý nuôi Linh Hồn. Theo quan niệm cuộc sống những lý luận xa vời thực tế thiếu khoa học, sẽ làm cho Linh Hồn lụn bại ngu xuẩn làm hại mình hại người. Ở đời ai cũng biết vật chất nuôi thế xác, nhưng vật chất đó tạp nhiểm chất độc hoặc ít hàm lượng chất bổ, thời kết quả sẽ ra sao khi ta ăn hoặc uống những vật chất tạp nhiểm chất Độc đó. Có phải những vật chất độc hại ấy làm cho cơ thể ta nhiểm Độc theo phát sinh bịnh tật gầy yếu mất sức. Còn ngược lại vật chất trong sạch, không nhiểm Độc, lại dồi dào chất bổ. Sẽ làm cho cơ thể ta khỏe mạnh lạc quan yêu đời.



Như ta đã biết vật chất dưỡng nuôi thể xác Đạo lý dưỡng nuôi Linh Hồn. Chúng ta tiếp thu Đạo lý trong sáng, sẽ làm cho Tâm Hồn trong sáng Thánh Thiện. Vì Đạo là món ăn tinh Thần của Linh Hồn. Đạo Lý nói ra thì nhiều nhưng tốm lại thì có hai mà thôi. Ác và Thiện, Phi Nghĩa và Chính Nghĩa. Người tu thiền luyện khí càng lên cao thời Tâm Hồn càng hướng về Chính Nghĩa, xa cuồng loạn, thời hợp lẽ trời thuận Thiên mệnh. Nhờ thuận Thiên mệnh, muôn phước vạn lành theo cuộc sống hiện ra và tiến tới tu Thiền luyện khí của bậc đại giác ngộ.



Bằng ngược lại tu Thiền luyện khí lên cao tham cầu dục vọng xa rời Chính Nghĩa. Cuồng loạn tà Tâm, thời hậu họa không biết đâu mà lường. Theo lẽ người tu Thiền luyện khí kéo dài tuổi thọ nhưng vì Tâm Hồn hướng về nẻo ác phi Nghĩa. Cơ thể không dung hòa được Thủy, Hỏa, Phong, trong nội thể. Nặng thời tẩu hỏa nhập Ma, Tâm Hồn trở nên điên loạn ác độc tàn bạo vô cùng, đi lần đến sự hủy diệt. Nhẹ thời suy tim, suy gan, suy thận, giảm đi tuổi thọ.



Thường tu Thiền luyện khí, thời phải nương theo cảnh quang trong lành, thanh vắng yên tỉnh, sẽ làm cho tâm hồn dễ định tỉnh hơn, chỉ trường hợp những bật Đại giác ngộ đã chứng quả Ba La Mật. Hội ngộ Chân Tánh, Thật Tánh, Thật Tướng, Thật Pháp, Thiên Tạng, Luật Tạng, Pháp Tạng vũ trụ như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Thời dù ở chỗ nào Thân Tâm vẩn thường thanh tịnh không tu không chứng không đắc gì cả, tùy nhân duyên sanh ra đời cứu thế mà thôi. Như Quốc Tổ Vua Hùng chẳng hạn, và còn không biết bao nhiêu vị đã xuống thế, hộ trì giữ gìn Văn Hóa Thiên Ấn, Thiên Bút Cội Nguồn.



Tu Thiền luyện khí là mật Tạng vũ trụ, đưa Hành giã trở lại Cội Nguồn. Quả của tu Thiền là an lạc tâm hồn trí huệ sáng soi. Quả của luyện khí là sức khỏe dồi dào tăng thêm tuổi thọ. Tu Thiền luyện khí là Mật Tạng linh hồn, làm cho các giác quan khai mở linh hoạt nhậy bén, thông minh kỳ lạ, Thấu suốt quá khứ vị lai, khám phá ra nhiều điều kỳ thú, tiến tới cảnh làm chủ bản thân, làm chủ Tâm Linh, làm chủ vũ trụ.



Đỉnh cao của tu Thiền là nhận ra bộ mặt thật của Linh Hồn. Minh Tâm Kiến tánh làm chủ Chân Tánh, làm chủ giác Tánh, tiến tới ngôi vị Chánh Đẳng Chánh Giác, vào cảnh giới vi Diệu thậm thâm, không thể suy nghĩ hay luận bàn được nữa.



Sự tu Thiền luyện khí của Thái Tử, không giống các Đạo sĩ, Tu sĩ của các giáo phái thời đó. Dò dẫm từng bước và mỗi bước tu Thiền luyện khí, xuất hiện nhiều sự lạ cho rằng chứng Đạo hay đắc Đạo.



Thái Tử vượt qua những chứng đắc chấp trước này của các Đạo sĩ, Tu sĩ của các giáo phái, tiểu thừa, trung thừa. Thái Tử nói. Mỗi tâm Linh từ bản thể Linh giác vũ trụ đi ra, khi trở về bản thể mỗi đoạn đường là mỗi mùa xuân. Do mật Tạng tâm Linh hiện ra mà thôi, không có gì mới mẻ cả.



Các giáo sĩ, Đạo sĩ, Tu sĩ của các giáo phái, vì không hiểu Mật Tạng Tâm Linh, Thức tánh, Chân tánh của mình, có những công năng diệu dụng như vậy, chẳng khác nào kính được lau chùi sáng ra mà thôi. Cũng giống như người lực sĩ bị trói, làm giảm đi sức mạnh cũng như tài năng của mình. Tu Thiền luyện khí chính là phương pháp mở trói, khi trói đã được mở thời người lực sĩ tung bay thể hiện tài năng thấy, nghe, hay, biết của mình. Mỗi nất thiền là mỗi lớp mở trói, mở trói cho đến khi không còn trói buộc bất cứ điều gì, thật sự tự do, thật sự giải thoát, thời liền nhận ra chân Tánh bộ mặt thật bí mật của Tâm Linh. Ông Tổ của muôn loại Thần Thông. Quyền năng vô hạn, ra khỏi sanh tử ở mãi ngôi Chánh Đẳng, Chánh Giác, tùy nhân duyên trở lại phàm trần cứu đời độ thế mà thôi.



Các Đấng Đại Giác này từ Cội Nguồn đi ra rồi trở về Cội Nguồn một cách an toàn. Nói chung tất cả Tâm Linh cũng từ Cội Nguồn đi ra nhưng vì bị trói trong nghiệp lực. Lại quên mất đường về, bị vô minh che lấp Chân Tánh của họ. Nhìn thấy cảnh bị trói trong nghiệp lực, lại quên mất đường về Cội Nguồn, thọ lảnh đủ quả khổ, vì thương nhân loại Đức Chí Tôn mới xuống trần, mở đường chỉ đường cho nhân loại, trở về Cội Nguồn vào ngôi Chánh Đẳng Chánh giác ngôi nhà chung vũ trụ. Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần sanh ra từ bụng mẹ như bao nhiêu người khác. Nhưng ý chí, trí huệ, lòng từ bi thời khác hẳn người phàm, rồi trở thành Đấng Cứu Thế.



Trên bước đường trở về vũ trụ. Thái Tử không đi trên con đường tiểu thừa mà đi trên con đường Đại Thừa, Thượng Thừa, tối Thượng thừa. Không đi trên con đường Tiểu Đạo mà đi trên con đường Đại Đạo. Con đường Tự Do Đại Đồng Bình Đẳng. Chủ Nghĩa Đại Đồng chính là Văn Hóa Cội Nguồn. Không phân biệt Tôn giáo, Đảng phái, Chủng tộc, màu da, sang hèn, thiện ác. Ai đi trên con đường Đại Đạo Đại Đồng thượng thừa này, cứ mỗi bước chân là mỗi bông Hoa hạnh phúc, mỗi nấc thang là mỗi tầng mùa xuân.



Sự tu Thiền luyện khí của Thái Tử là phương pháp tối thượng thừa, phá vở nhân duyên nghiệp lực, cỡi bỏ phiền não nhanh chóng. Làm chủ ý thức, làm chủ Chân Tánh, tiến tới làm chủ vũ trụ, để rồi trở thành Đấng Cứu Thế, đưa nhân loại tới bến bờ giải thoát. Phát huy Chân Tánh an trụ vào cảnh giới Đại Đồng, muôn ý thành một ý, muôn Tánh thành một Tánh, sức mạnh Tâm Linh, ý chí Tâm Linh, ánh sáng Tâm Linh bộc phát dữ dội, phá vỡ vô minh nhanh chóng. Chúng ta nên lưu ý, mỗi tâm Linh con người là cả một thế giới Tánh Linh trong đó, có thể nói có tới 8 muôn 4 nghìn Tánh Linh, mỗi Tánh Linh có vô lượng Tánh Linh đồng chủng của nó. Ví dụ Tánh Tham, không phải chỉ có một tánh tham mà có vô lượng vô biên tánh tham đồng chủng tánh của nó. Tánh sân hận, Tánh ngu si, Tánh ngạo mạn, Tánh Đa nghi, Tánh bảo thủ, Tánh ganh ghét, mỗi Tánh đều có vô lượng vô biên tánh đồng chủng tánh với nó. Mỗi tâm Linh con người là cả một Vương Quốc Tánh Linh và chỉ có Chân Tánh mới có đủ khả năng làm chủ Vương Quốc Tâm Linh đó mà thôi. Còn 8 muôn 4 nghìn tánh do ý thức phân biệt khởi tạo ra đều là giã tánh, nên mỗi sở tánh trong tâm, không đủ quyền lực thống nhất Vương Quốc Tâm Linh mà chỉ có Chân Tánh mới đủ khả năng đó.



Mỗi Vương Quốc Tâm Linh của mỗi con người khi Chân Tánh chưa xuất hiện, thời Vương Quốc Tâm Linh đó thường hay đảo lộn, lúc thế này, lúc thế kia vì không có Tánh chủ Tánh. Cũng như một đất nước không Vua, thế lực nào mạnh tạm thời thế lực đó làm Vua mà thôi, hết phước hết lực, thời thế mạnh hơn, khác tánh lên thay vậy, cứ thế lặp đi lặp lại mãi điên đảo. đảo điên luân hồi vạn nẽo.



Kết luận Vương Tánh chính là Chân Tánh mà Chân Tánh là chủ của 8 muôn 4 nghìn chủng Tánh, chủng Tánh chính là sở Tánh, sở Tánh sanh ra do Chân Tánh, lúc còn mê gọi là vô minh, Chân Tánh vọng chấp phân biệt tạo khởi ra vô lượng thức tánh vô minh, ví như nước khởi tạo ra bọt nước, nước thời chỉ có một nhưng bọt nước thời nhiều. Dứt mê chấp gọi đó là Ngộ. Chủng tánh, sở tánh biến mất, trở về Chân Tánh, bọt nước tan biến trở về là nước. Vương Tánh, Chân Tánh xuất hiện liền làm chủ Vương Quốc Tánh Linh của mình. Mỗi Niệm của Vương Tánh, Chân Tánh là mỗi Niệm giác tha, giác hạnh làm cho Vương Quốc Tánh Linh Chủng Tánh. Hội Ngộ hội nhập thống nhất thành một khối tự do, Độc Lập, Bình Đẳng. Đại Đồng.



Nhờ sự thống nhất muôn vạn thức tánh trở về một tánh chính là Chân Tánh, muôn ý trở về một ý. Nhờ thống nhất vương quốc Tâm Linh, nên Tâm Linh của Thái Tử trở nên mạnh mẽ phi thường dồn hết sức lực vào cảnh giới tu Thiền luyện khí nên tốc độ thành tựu nhị xác thân mau chóng không có mấy người tu hành theo kịp.
 

shopoga

✩✩
Hỏi: Niệm Chân Tánh có quyền lực đến thế sao?



Đáp: Đó là niệm của Chánh Đẳng Chánh giác do Chân Tánh phát ra, không những mỗi niệm có hiệu lực diệt vô lượng phiền não tội ác, còn có sức mạnh phá vỡ Địa Ngục sanh tử, hàng chục vô lượng vô biên chủng tánh sở tánh trong tâm. Chân Tánh là tánh tự nhiên. Tánh không Tánh, cũng là một thứ Tánh trong sạch vô vi mỗi niệm tánh này. Là mỗi niệm Chánh giác, diệt vô lượng vô biên phiền não, vô lượng vô biên tội ác, làm cho thế giới tâm Linh trong tâm trở nên trong sáng, phát sanh Công Đức không thể nghỉ bàn. Tánh thanh tịnh, ý thanh tịnh, trí thanh tịnh, cảnh giới tu Thiền trong tâm thức đã bước sang giai đoạn Đại Đồng, giai đoạn Tâm Tánh, ý thức, trí thức hợp nhất, liền hiển lộ Thần Thông. Giống như người lực sĩ tự mở sạch trói liền phát huy tác dụng sẵn có của mình. Như kính lau sạch bụi thời tất cả điều hiện rõ trong đó. (Minh Tâm Kiến Tánh).



Linh Hồn con người đã trải qua vô lượng ức kiếp, mỗi kiếp ví như mỗi gon tàu nối dài vô tận, thành một chuỗi nhân duyên, từ quá khứ đến hiện tại, kiếp hiện tại là Đầu Tàu. Một phần tác động bởi nghiệp lực quá khứ, một phần do dục vọng ý thức trì níu cảnh giới hiện tại lao thẳng về trước, gieo mầm Thiện, ác kết quả nhân duyên nghiệp lực, luân chuyển trong ba đường sáu nẽo. Lên thiên Đàng hay xuống Địa ngục đều kết tập nhân duyên ở kiếp hiện tại này.



Thái Tử vì quá hiểu rõ như vậy, nên mở đường cho nhân loại trở về Cội Nguồn, sống trên Thiên Đàng Cực Lạc. Nhờ hội Ngộ Chân Tánh sớm. Mặt Trời trí huệ của Thái Tử sáng soi, nên tu Thiền luyện khí thành tựu nhanh chóng. Các giác quan phát huy tác dụng hiển lộ Thần Thông. Tai, mắt, nghe, thấy khắp Địa Cầu, lần lần đến các Cung Trời.



Theo như các Đạo sĩ, Tu sĩ, giáo sĩ cho đây là chứng Đạo, thành Đạo, Đắc Đạo. Thái Tử thời lại khác, đây là chuyện bình thường không có gì lạ cả. Nên Thái Tử thấy cũng như không thấy, nghe cũng như không nghe, không khỡi ý tưởng phân biệt Thân tâm luôn luôn thanh tịnh. Vì Thái Tử hiểu rõ thật Tướng vũ trụ là không tướng, thật Tánh vũ trụ là không Tánh, thật sắc vũ trụ là không sắc. Những cảnh giới Thiên Đàng. Trần gian, Địa Ngục là do Âm Dương phân định, nhân duyên kết tập, Thiện, Ác, Mê, Ngộ phân ngôi phước họa luân phiên quả, không có chi là lạ cả, còn duyên thì nhóm hết duyên thì tan. Còn phước thì giàu sang, Quyền thế, hết phước thời nghèo khó, nói chẳng ai nghe, vô thường chuyển đổi có gì mới mẻ đâu, làm chủ ý thức, làm chủ Chân Tánh, làm chủ vũ trụ đó là việc nên làm.



Tìm ra con đường cứu thế đáng quan tâm. Thái Tử hiểu rõ, con đường cứu thế không ở cõi trời, không ở nhân gian, không ở Địa Ngục mà ở ngay tâm Hồn của chính mình, Chân Tánh của mình tiến tới làm chủ vũ trụ, sống tự do Bình Đẳng, trong cảnh giới Đại Đồng an lạc hạnh phúc không còn sanh tử nữa. Cảnh quan vũ trụ đã hiện ra trước mắt nhưng Thái Tử không chú ý mà chỉ chú tâm tu Thiền luyện khí mà thôi. Càng tu Thiền luyện khí càng thấy cơ thể nhẹ nhàng như muốn bay bổng lên không, điều này cũng không có gì là khó hiểu. Theo Nguyên lý vũ trụ. Lực ép Khí, Khí ép Nước, Nước ép đất. Hay nói một cách khác. Thể Lực ép Thể Hơi, Thể Hơi ép Thể Lỏng, Thể Lỏng ép Thể Đặc, cũng vì theo nguyên lý tự nhiên trên, Trái Đất không dễ gì nổ tung được. Khi nào lực vũ trụ yếu đi, thời Trái Đất sẽ nổ.



Thân thể con người là Tứ Đại giả hợp Đất, nước, gió, lửa mà phần hơi ấm của con người, Thể Đặc là chính nên con người dù đang sống trên mặt Địa Cầu, không bị tung bay ra không gian với tốc độ quay của nó. Biết rằng với tốc độ quay của nó đã tạo ra lực hút nhưng không đáng kể so với lực ép vũ trụ. Thể Đặc bị Thể Lỏng ép, Thể Lỏng bị Thể Hơi ép, Thể Hơi bị Thể Lực ép. Mà con người là một khối Thể Đặc, thời không cách gì bay ra khỏi mặt Địa Cầu, muốn bay ra khỏi địa cầu phải hiểu bộ máy huyền vi của vũ trụ, điều khiển chúng và làm chủ chúng.



Hay nói ngược lại, Thể Lực hút Thể Hơi, Thể Hơi hút Thể Lỏng, Thể Lỏng hút Thể Đặc, sự hút, ép đó không phải do Thể Lực tự chủ mà do Thể Chủ của Thể Lực. Nói về Thể Chủ của Thể Lực vũ trụ chính là bản thể Linh giác của Tổ Tiên. Bản thể rộng lớn khắp hư không tác Động thành lập vũ trụ. Duy trì sự sống vũ trụ.



Nói về sự sống con người là do sự phản tỉnh máy động Căn Thân Huệ Mạng Linh Hồn, Linh Hồn con người, duy trì sự sống con người qua trung gian thể lực và chân khí. Căn Thân Linh Hồn theo sự nhận biết thu hút vật chất tác động qua Thần Lực. Như Thái Tử tu Thiền luyện khí là do Linh giác Thái Tử chủ trì. Tốm thâu vô cực. Thái Cực Chân nguyên vũ trụ. Chân Khí - Tinh Khí Thể Hơi - Thể Lỏng vũ trụ tích tụ vào cơ thể. Sức mạnh Thần Thông cứ thế tăng lần lên. Đạt đến cảnh giới, Di sơn Đão Hải. Từ sức mạnh con người trở thành sức mạnh vũ trụ. Không những Thái Tử hiểu rõ sự hình thành của Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc mà còn hiểu rõ sự tiến hóa, cũng như móc xích liên hoàn ép, hút của nó. Mà các thể trung gian luôn luôn đóng vai trò quan trọng. Chẳng hạn như Thể Hơi Chân Khí vũ trụ không những là trung gian của Thể Lực và Thể Lỏng bao bọc xung quanh Trái Đất, bảo tồn sự sống cho quả Địa Cầu. Mà còn rất quan trọng trong thể xác con người, luyện khí càng nhiều sức lực càng mạnh, luyện khí càng cao thi thể càng nhẹ nhàng, làm giảm đi sức ép vũ trụ, tự nổi lần lần giống như bong bóng sắt chìm mãi ở đáy nước, bổng được bơm hơi vào tự nổi lần lên. Bong bóng tự thấy mình càng lúc càng nhẹ nhàng vì không khí bơm càng lúc càng nhiều vào cơ thể bong bóng.



Nói tốm lại. Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc đều có sự co giãn của nóng lạnh, ép, hút, lực vũ trụ, nhất là Thể Lỏng Thể Hơi có Lực đẩy phản hồi rất mạnh, chống lại Lực ép vũ trụ, không những thế, Thể Hơi Thể Lỏng tự phân định nổi chìm, nặng nhẹ khác nhau.



Giữa các tiểu kiếp, lớp Chân Khí bao bọc trái Đất dâng cao 8 muôn 4 nghìn lớp chia làm 3 phần, Thượng, Trung, Hạ. Thượng có 3 phần, Thượng Thượng - Thượng Trung - Thượng Hạ, Trung Thượng - Trung Trung - Trung Hạ, Hạ Thượng - Hạ Trung - Hạ Hạ.



Nói chung Thể Hơi gồm 3 phần, chín Địa Khí như thế, tự do phân định thứ lớp, non nhẹ thời nổi lên trên tiếp giáp với chân không vũ trụ, còn khí già thì bị ép chìm xuống tiếp giáp mặt đất. Lớp khí già là lớp khí chuyển sang Thể Lỏng Hơi Nước rồi từ hơi nước chuyển thành nước. Ba muôn lớp khí già tiếp giáp với mặt Địa Cầu, khí nóng là hơi, khí lạnh là nước. Nhất là mười nghìn lớp khí già, bị lực vũ trụ ép chìm xuống mặt Địa Cầu, khi nóng bốc hơi tạo thành cả nghìn lớp mây, khi lạnh liền chuyển thành nước rơi xuống mặt Đất gây ra lụt lội. Nhất là gần cuối tiểu kiếp gây ra các trận Đại Hồng Thủy, gây kiếp nạn cho nhân loại con người.



Thái Tử khi thành Chánh quả thuyết giáo nói rằng. Nhân Loại hiện nay ở vào giai đoạn gần cuối tiểu kiếp, chỉ còn 10 nghìn năm nữa là hết tiểu kiếp thứ 9, chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, ba tần chín địa lớp khí già này càng về sau càng thái chuyển thành nước, làm cho nước biển càng về sau càng dâng cao, gây ra những trận Đại Hồng Thủy diệt vong sự sống con người, nhất là những thế kỷ gần cuối tiểu kiếp, không chỉ là nước biển dâng cao và các trận Đại Hồng Thủy không đâu. Mà còn có cả Hỏa, phong, nhiệt độ nóng lạnh tăng cao bão lớn mà còn có cả Động Đất liên miên, hủy diệt nhân loại con người. Những ai còn sống sót chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, trở thành người Hồng Hoang Bàng Cổ sơ khai.



Ở vào thời kỳ Thái Tử ra đời, ba muôn lớp khí non, hầu như cạn kiệt biến mất, chỉ còn lại mờ nhạc rất hiếm. Ở vào thời kỳ con người dần dần nặng nề, con người tu thiền luyện khí, kết tụ nhị xác thân tinh khí thần, hầu như không đạt được đỉnh cao thường thường là chỉ ở vào cảnh giới của Địa Tiên ít ai đạt đến cảnh giới của Thiên Tiên. Lớp khí non là Thái Lực Chân Nguyên, Tiên Thiên Chân Khí, lớp khí này hầu như biến đi cạn kiệt gần hết, chỉ còn lớp khí già dày đặc Hậu Thiên Chân Khí.



Hậu Thiên Chân Khí hay còn gọi là Địa Thiên Chân Khí. Ở vào thời kỳ này người tu thiền luyện khí khó có người tu luyện thành nhị xác thân Tiên Thiên mà chỉ tu luyện thành nhị xác thân Hậu Thiên, Địa Thiên mà thôi. Nên khó đạt đến cảnh giới thượng thừa, ngang tầm với Thiên Tiên được. Nhưng Thái Tử thời lại khác, vì Thái Tử chính là Đức Chí Tôn đầu thai, đã trải qua vô lượng kiếp tu hành thanh tịnh, khí Tiên Thiên lúc nào cũng tích tụ nơi tâm Hồn Thái Tử.



Căn Thân Huệ Linh Hồn Thái Tử là Căn Thân Huệ Mạng Chánh Đẳng Chánh Giác Nên hào quang nơi Tâm Thái Tử lúc nào cũng sáng soi khắp cùng Trái Đất. Hay nói một cách dễ hiểu, Tâm Hồn Thái Tử lúc nào cũng tràng đầy tìm lực, ẩn tàng khí Tiên Thiên mà không phải người nào cũng có.



Thái Tử thu nạp Chân Khí vũ trụ, hội tụ ở Đan Điền, để cho Âm khí Dương khí giao hòa với nhau kết sanh nhị xác thân. Nhị xác thân hình thành tới đâu, thời ngũ thông hiển lộ tới đó, Thái Tử càng lúc càng thấy những thứ, người thường không thể nào thấy được, tai Thái Tử nghe những tiếng mà người thường không thể nào nghe được, Thái Tử cảm nhận sự biến đổi trong đời sống xã hội mà người thường không thể nào cảm nhận được.



Thái Tử giờ đây đã thấy rõ nhân loại, nhân gian phàm trần, đang sống trên biển nước loãng, tức là phần khí già bao bọc xung quanh quả đất. Còn nước biển Đại Dương hay ở sông hồ, đó chẳng qua là do biến động của Âm Dương, nóng, lạnh, làm cho Thể Lỏng ở dạng lúc là nước, lúc là khí. Không những thế Thái Tử còn thấy rõ, ngoài quả Địa Cầu này ra còn 4 quả Địa Cầu khác, có nhân loại phàm trần đang sanh sống đông đúc, nhưng sự thấy này không phải là mục đích, mục tiêu mà Thái Tử đang tìm.



Thái Tử đang tìm là tìm Văn Hóa Cội Nguồn, Thiên Đạo vũ trụ Chủ Nghĩa Đại Đồng, mở đường cứu thoát nhân loại. Đây mới chính là mục tiêu, mục đích của Thái Tử, vì vậy Thái Tử cần phải nổ lực nhiều hơn nữa đạt đến đỉnh Quả trí huệ cao nhất, mới đủ khả năng mở ra Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo Thiên Ấn vũ trụ. Vì thế Thái Tử vẩn tiếp tục tu thiền luyện khí, kết hợp với ăn Chay, hầu mau đạt đến kết quả, nhìn Thái Tử hiện giờ da thịt mịn màng hồng hào phát sáng làm tăng thêm vẻ uy nghi tuấn tú. Đạt đến cảnh giới này, Thái Tử như hiểu ra một điều, không có sự nổ lực nào mà vô ích, nhất là sự nổ lực vì Nhân Loại lại càng cao quí hơn nữa, làm cho sức mạnh tinh thần trở nên Đại Hùng Đại Lực, Đại Từ Bi, Đại ý chí đạt đến cảnh giới phi thường. Mỗi niệm của Thái Tử là mỗi niệm chuyển Thiên Hạ về Trời.



Mọi vạn vật sanh tạo ra đều có nguồn gốc nhân duyên nghịch, thuận của nó, cũng như đất - nước - gió - lửa, Thể Lực - Thể Hơi - Thể Lỏng - Thể Đặc, nguồn gốc nhân duyên sanh ra nó. Theo nguyên lý vũ trụ hể cái gì có sanh, thời phải chuyển hóa, từ dạng này sang dạng khác và cuối cùng bị hủy diệt trở về chân không.



Nơi vũ trụ có một bản thể không sanh diệt đó là bản thể Linh giác vũ trụ hay còn gọi là bản thể Linh giác tối thượng Tổ Tiên, bất tăng, bất giảm. Không cấu nhiễm, trong sạch vô vi, thường còn mãi mãi, không sanh ra cũng không diệt đi, trước sau như một, như như thường còn, không có sự khởi đầu nên không có sự chấm dứt. Vô lượng thọ.



Chính bản thể Linh giác vũ trụ vô lượng thọ này, Tịnh thời sanh Lực, Động niệm thời sanh thức, đây là một quy luật không thay đổi, Linh giác vũ trụ an trụ Đại Định, thời sanh ra Thần Lực vũ trụ. Thần Lực sanh ra một thời gian liền chuyển đổi, trẻ, trung, già, tử. Tử là chuyển đổi qua dạng khác. Chẳng hạn, lực già chuyển ra khí, khí già chuyển ra nước, nước già chuyển ra lớp bụi phù sa vũ trụ rồi trở thành Đất, làm tăng thêm sự sống cho thế giới Thực Vật cũng như thế giới Động Vật.



Người tu Thiền luyện khí, thời phải hiểu rõ chu kỳ kết tinh, chu kỳ giao hợp chuyển hóa của Trời, Đất. Nói về ngày, đêm. Ngày là Dương, Đêm là Âm, theo quy luật của Tạo Hóa. Dương non, dương già không kết tinh mà chỉ kết tinh ở giai đoạn trung Dương mà thôi. Thời điểm kết tinh hoàn hảo nhất trong ngày là giờ Ngọ. Âm cũng thế, âm non, âm già không kết Dịch mà Kết Dịch vào giai đoạn trung âm, đỉnh cao của sự kết Dịch đó là vào giờ Tý. Còn Mẹo - Dậu là giờ chuyển giao âm Dương, vạn vật sanh sôi nẩy nở tiến hóa từ đây. ÂM - DƯƠNG kết tụ Tinh - Dịch rồi giao nhau tiến hóa, bồi đắp sự sống sinh sôi sự sống, cả nghịch lẫn thuận, cả sinh lẫn tử. Tinh, Dịch vũ trụ của thể hơi, khí, thể lỏng, nước, thể đặc, đất. Phần lớn là do hơi ấm vũ trụ tác động mà thành.



Sự kết Tinh - Kết Dịch ba thể như sau.

1: Thể Đặc: kết tụ Tinh - Dịch ở Tý - Ngọ, giao hóa chuyển hóa ở Mẹo - Dậu giao thời giữa ngày đêm.

2: Thể Lỏng: kết tụ Tinh - Dịch ở Tý - Ngọ, giao hóa chuyển hóa ở Mẹo - Dậu ở tháng.

3: Thể Hơi, khí già: kết tụ Tinh - Dịch ở Tý - Ngọ, giao hóa chuyển hóa ở Mẹo - Dậu ở năm.



Cứ 3 năm tu thiền luyện khí là một nất thang tiến hóa lên. Tu thiền luyện khí đến 9 năm thời nhị xác thân bắt đầu hình thành, luyện tới 12 năm 1 giáp thì thành nhị xác thân. Nếu tu thiền luyện khí nửa Hoa giáp 30 năm, thời sẽ đạt đến Ngũ Khí Triều Nguyên, thêm 30 năm nữa đúng một Hoa giáp 60 năm, thời sẽ đạt đến Tam Hoa Tụ Đỉnh, nhị xác thân theo ý tưởng biến hóa vô cùng. Nói thời nói thế, như Kinh Dương Vương tu thiền luyện khí hơn 70 năm vẫn chưa thành còn ở giới pháp thuật thần thông hạn hẹp, đi trên mặt nước như đi trên đất liền, phi thân như tên bắn, Thần Lực theo ý tuôn ra thành chưởng lực. Nhưng Thái Tử thì lại khác, vì Thái Tử hiểu rõ quy luật tu Thiền luyện khí, cũng giống như người bơi rành, người mới tập bơi sự tu Thiền luyện khí ở cấp thượng thừa. Thái Tử là Ông Tổ của tu Thiền, chỉ trong vòng hơn 3 năm đã đạt đến cảnh giới Tam Hoa Tụ Đỉnh, Ngũ Khí Triều Nguyên, tiến lần đến cảnh giới Thần Thông Quảng Đại.

*********



Hết Phần 2 chương 9 mời xem tiếp phần 3 chương 9 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng Kinh là bộ kinh tối mật hàng triệu triệu năm mới xuất hiện, nếu không phải đã tu vô lượng kiếp thờ Trời thời không dễ gì gặp được bộ kinh nầy. Bộ Kinh tối cao của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Là báu vật Vũ Trụ quý hiếm đến nỗi luận bàn trăm nghìn kiếp cũng không thể nào hết được.

Ngâm nga vài chữ kệ kinh

Siêu sanh thượng giới đăng trình cung mây

Kinh nào hơn được kinh đây

Mật Kinh vũ trụ tối cao đất trời

Chỉ cần ca ngợi một lời

Giàu sang phú quí, cõi Trời khó chi.​
 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 9



PHẦN 3



GIẢI TỎA CHƯỚNG NGẠI



Đạt đến cảnh giới này, Thái Tử mới hiểu rõ thêm, sự tồn tại vũ trụ có động có tịnh tuần hoàn tiến hóa, để hòa hợp nhị xác thân cùng xác thân là một, thời phải luyện tập thể chất. Quyền pháp, thể dục, thể thao, thời kinh mạch huyệt Đạo lưu thông, thân thể cường tráng, cơ bắp rén cứng, sức lực bền bỉ, đẩy lùi tất cả bệnh tật dù cho đó là những bệnh nan y khó chữa trị.



Thái tử nhớ lại 108 động tác với những tư thế rất khó tập, dùng để rèn luyện thể lực cơ bắp, khai thông huyệt Đạo, lưu thông khí huyết, tôi luyện ý chí, đối diện quân thù.



Kinh Dương Vương thường dạy Thái Tử, con muốn đạt đến đỉnh cao của bật Tôn sư thời con phải tu luyện Quyền pháp, thập bát môn võ nghệ, còn phải siêng năng luyện tập 108 thế thức thần công, nhờ vào những thể thức khó tập này sẽ làm cho con cơ thể rén chắc dẽo dai và sức chịu đựng cao, nhanh nhẹn, Động - Tịnh vững vàng. Muốn đạt đến đỉnh cao của Thần Quyền, thời con phải tu tập đến đỉnh cao của 108 thế thức Thần Công. Muốn tu tập đỉnh cao 108 thế thức Thần Thông, thời con phải biết tu Thiền luyện khí, có tu Thiền luyện khí, thời khi luyện Thần Quyền, Đạo thuật, Kiếm thuật, Quyền thuật, chưởng pháp, kinh công, mới đạt đến cảnh giới Thân - Pháp - Ý hợp nhất, xuất thần nhập hóa, thời con đối mặt với kẻ thù, không còn lo sợ gì nữa, con như những đỉnh núi cao mà kẻ thù nhìn thấy phải khiếp sợ. Ngay như cha đây hơn 70 năm tu luyện cũng không đạt đến cảnh giới ấy.



Nhưng Kinh Dương Vương nào có hiểu, nếu tâm ý chưa rốt ráo thanh tịnh, thời dù có tu luyện đến trăm năm, nghìn năm cũng ở mức hạn nào đó mà thôi, khó mà tiến xa hơn được nữa, cũng như con người thường tục sanh ra biết ngồi, rồi đến biết đi, biết chạy. Nhưng biết bay phải mọc ra đôi cánh, tu Thiền luyện khí cũng vậy, muốn đạt đến đỉnh cao phải hội ngộ Chân Tâm Chân Tánh.



Thái Tử nghĩ, muốn đưa xã hội đến đỉnh cao Dân Giàu Nước Mạnh, Thời phải thấu hiểu căn cội vật chất (văn minh vật chất) làm chủ tinh thần đi vào tinh hoa Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ, Công Bằng Bình Đẳng văn minh. Và cũng không còn con đường nào khác hơn là toàn dân biết tu dưỡng Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Đức (văn minh tinh thần).



Muốn cho cơ thể ít bệnh tật khỏe mạnh, không còn con đường nào khác hơn là cần phải lựa chọn chế độ ăn uống, siêng năng lao động, siêng năng luyện tập thể chất, thể lực, Quyền pháp, thể dục, thể thao, tu Thiền luyện khí. Muốn cho Đất Nước Tổ Quốc mãi mãi Thái Bình thịnh vượng không còn con đường nào khác hơn là phải xem Quyền con người làm trọng Nhân Quyền. Phải lấy dân làm gốc Dân Chủ và phát huy cái gốc của dân làm phát sanh Nội Lực, sức mạnh của toàn dân tộc Tinh Thần Lẫn Vật Chất. Và nòng cốt phát huy sức mạnh toàn dân tộc chính là phát huy truyền thống dân tộc, Văn Hóa Tối Cao Cội Nguồn. Văn Hóa Tối Cao Cội Nguồn chính là Hiến pháp, Luật pháp, Đạo pháp. Hiến Pháp,Luật Pháp. Đạo Pháp Chính Nghĩa là Hiến Pháp dựng nước, giữ nước, mở màn nhà nước Văn Lang, đi vào truyền thống anh linh dân tộc năm nghìn năm chủ quyền Độc Lập.



Lại thêm một năm nữa trôi qua, trừ các giờ luyện tập. Quyền pháp. Thân pháp cho máu huyết lưu thông, nội lực hùng hậu, còn các giờ khác, Thái Tử luôn luôn làm chủ phong bế giác quan, tu Thiền luyện khí. Thái Tử chuyên tâm thu nạp Chân Khí, những gì xung quanh, cũng không cần để ý đến, dù tai có nghe lên tận các tần trời, có nghe tận các tần Địa Ngục. Mắt có thể nhìn thấy những vật nhỏ nhất như vi khuẩn như thể không màu sắc như gió Điện lực vũ trụ, nhìn thấy Linh Hồn nhân loại chuyển kiếp đầu thai.



Sự thấy nghe hay biết ấy đã không giải quyết được gì tương lai cho đất nước hoặc giải thoát sự khốn khổ cho nhân loại con người. Nếu chìm đắm trong cảnh ngũ thông sanh tâm chấp trước phân biệt, vui buồn theo phân biệt, Thiên Đàng, Trần Gian, Địa Ngục, thời rơi vào Ma chướng ngay. Không thể nào đạt đến cảnh giới tối cao Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì chính mình bị cái Thấy, Nghe, Hay, Biết, Phân Biệt của chính mình xây chuyển, mất phương hướng làm chủ Chân Tâm Chân Tánh rơi vào Ma Chướng ngay.



Thái Tử chuyển tâm thu nạp dưỡng khí, thấy nghe hay biết khắp khắp cùng vũ trụ nhưng không khởi tưởng phân biệt chi cả, luôn luôn làm chủ, thấy, nghe, hay, biết, của mình.



Thấy nghe hay biết khắp cùng vũ trụ, khởi tâm nhận định phân biệt lúc này. Chỉ làm hại cho cuộc tiến xa hơn nữa, thấy, nghe, hay biết, khởi tưởng nhận định phân biệt lúc này, đã không giải quyết được gì. Lại rơi vào cảnh tối tăm biến hóa vô thường vũ trụ, chấp giả làm chân, thấy Rắn tưởng Rồng, thấy Ma tưởng Phật thời tai hại biết bao.



Thiên Đạo Cội Nguồn vũ trụ đâu không thấy mà chỉ thấy Ma Đạo, Quỉ Đạo, Thần Đạo mà thôi, vì các Đạo này bị cái thấy, nghe, hay, biết, phân biệt xây chuyển chưa ra khỏi kiến chấp bảo thủ, còn nằm trong nghiệp quả luân hồi, đau khổ chồng chất như biển cả núi non, chỉ khi nào hội nhập Cội Nguồn vào ngôi Chánh Đẳng, Chánh Giác. Hiểu rõ đi đến mục đích cuối cùng nhất định phải làm chủ chân tâm chân tánh, làm chủ thấy, nghe, hay, biết của mình. Mỗi Niệm Vô Niệm Tự Nhiên.



Những gì Đấng tạo lập lên tất cả, lập lên vũ trụ cùng con người và những định luật bất di bất dịch của Đấng ấy. Người tu Thiền Luyện Khí đạt đến đỉnh cao cần phải hiểu rõ. Truyền bá lại cho hậu thế, để cho hậu thế gặt hái, tiến tới làm chủ ý thức, làm chủ Linh Hồn, làm chủ vũ trụ. Làm Chủ Sanh Tử. Muốn sanh thời sanh, muốn tử thời tử tự tại.



Những lần luyện khí gần đây, Thái Tử nhận thấy trong cơ thể như có gì không ổn, hai dòng máu Nóng, Lạnh chống chỏi nhau mỗi ngày mỗi hiện rõ trong nội thể của mình. Hiện tượng này đã đánh thức Thái Tử thêm lần nữa, tu Thiền luyện khí chưa đủ để cho cơ thể tiến đến đỉnh cao mà còn phải làm cho Âm Dương hợp nhất, lưu chuyển thông suốt trong cơ thể con người.



Một xã hội tiến hóa cao, thời xã hội đó có nhiều cạnh tranh quyết liệt, những mâu thuẩn tiếp tục xảy ra trong xã hội, nếu không có cách giải quyết thời sẽ bùng nổ ra chiến tranh làm đảo lộn sự sống, cũng như thân thể. Thể xác Thái Tử đã đạt đến cảnh giới, Tam Hoa tụ đỉnh, Ngũ khí triều dân, thời tiết bất xâm, bách Độc khó hại. Thần Lực - Khí Lực - Tinh Lực dồi dào, đáng lý ra thời không có chuyện gì xảy ra nữa nhưng không phải thế, trong nội thể tìm ẩn nóng lạnh xung đột lẫn nhau.



Điều nầy cho thấy rằng một đất nước đạt đến cảnh giới Văn Minh tối cao không phải là hết xung đột. Nếu mỗi người dân tự tách rời không đi vào quy luật chung xa rời Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Tự mình phá hủy cái chung nghiêng về cái riêng thời sự xung đột lẫn nhau khó mà tránh khỏi.



Để giải quyết bài toán khó trong nội thể, làm bài học rút ra từ đây, sau này điều hành đất nước, tháo gỡ tìm ẩn xung đột cạnh tranh dung hòa một mối, tăng thêm sự hùng mạnh của đất nước. Thái Tử để hết tâm trí tập trung suy nghĩ quán nghiệm lại từ đầu đến cuối, vì sao có hiện tượng này xảy ra như vậy, nếu không tìm ra giải pháp hóa giải cứ theo đà này tu luyện, thời chính mình làm hại cho chính mình có khi còn nguy hiểm cho tánh mạng. Còn dừng lại không tu luyện nữa, thời Thiên Đạo Cội Nguồn sẽ không tìm ra, nhân loại mãi mãi ở trong cảnh tối tăm, chiến tranh sẽ bao trùm lấy họ, Tứ Nạn, Tam Tai sẽ diệt lấy họ.



Tứ Nạn: là Đói Nghèo lạc hậu, là Binh Đao máu lửa, chiến tranh loạn lạc, là Ôn Tai Dịch họa bệnh tật xâm hại, là thời tiết khắc nghiệt Động đất liên miên hết chỗ này sang chỗ khác.



Tam Tai: là Thủy - Hỏa - Phong.



Loài người khó tránh khỏi 7 tai họa này, nếu không có cách tránh nó. Lượn theo nó, làm chủ nó thời khó mà tránh khỏi hậu họa.



Thái Tử là Đấng cứu thế, không những Thái Tử sẽ tìm ra giải pháp cứu thế mà còn hóa giải sự xung đột của các thế lực đang bành trướng trong cơ thể của Ngài. Cũng như các thế lực xung đột bành trướng nơi địa cầu.



Thái Tử nghĩ, thể xác con người là bộ máy tuần hoàn Tiểu Thiên vũ trụ, có cả Âm lẫn Dương, có cả Thượng lẫn Hạ, có hàng cả mấy trăm huyệt Đạo, mỗi huyệt Đạo là mỗi cửa ải giao thương các kinh mạch, mỗi kinh mạch là sự sống của hàng vạn tế bào, sự sống của hàng vạn tế bào thông ra mỗi đầu Lông. Hơn nữa Chân khí vũ trụ mà Thái Tử thu nạp bấy lâu nay, mỗi lúc mỗi dâng trào cuồn cuộn trong nội thể Thái Tử, tự nó phân định Âm Dương không chịu dung hòa với nhau, xung đột với nhau mỗi ngày mỗi thêm dữ dội lúc tu Thiền luyện khí. Thái Tử hầu như khám ra những điều hửu ích nữa đó là tuần hoàn. Tuần hoàn chính là tiến hóa của sự sống, con người vì xã hội, xã hội vì con người, con người vì cái chung, cái chung bảo vệ cái riêng, bảo vệ tuần hoàn chính là bảo vệ sự sống, bảo vệ sự sống cũng chính là biết vận dụng tuần hoàn Vận dụng Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp đi vào cuộc sống Dân bảo vệ Hiến Pháp. Hiến Pháp bảo vệ Dân. Cũng như người nông dân bảo vệ sự sống cây lúa, và chính sự sống cây lúa bảo vệ sự sống của người nông dân. tiến hóa xã hội đến dân giàu nước mạnh cũng chính là sự nhận thức về Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Pháp Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Thiên Tạng vũ trụ. (Xem Long Hoa Thiên Tạng sẽ hiểu rõ hơn)

*********



Hết phần 3 chương 9 mời xem tiếp phần 4 chương 9 Long Hoa Mật Tạng.
 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 9



PHẦN 4



PHĂNG LẦN GỠ RỐI.



Sự hình thành nóng lạnh trong nội thể mỗi ngày mỗi lớn để phăng lần từng mối, gỡ rối từng khúc, Thái Tử quán nghiệm lại bốn thể lớn của vũ trụ.

1. Thể Lực

2. Thể Hơi

3. Thể Lỏng

4. Thể Đặc




Rồi đưa ra luận chứng phân tích. Thái Tử nghĩ Thể Lực vô cực Chân nguyên là Thể Lực chưa phân định Âm Dương. Thể Lực vũ trụ này, xuyên qua sắc, thép, kim cương, vàng, đá, sành, kiến kính, không để lại dấu vết, chỗ nào cũng có khắp cùng vũ trụ, lực này bị khuấy Động liền tạo ra hai dòng từ trường Âm và Dương nóng - lạnh Động tịnh, khi nào từ trường Âm Dương va chạm vào nhau thời phát ra tiếng sấm và những tia lửa bắn ra gọi là sét. Thể Lực là Thể Chủ của ba thể kia, thể chưa phân định Âm Dương, thời làm gì tìm ẩn nóng lạnh dẫn đến sự xung đột nóng lạnh trong nội thể không phải do Thần lực tạo ra.



Dưới Vô Cực Chân nguyên, là Thái Cực Chân nguyên, tức là Thái Thanh Chân Khí, khí vừa mới tượng hình, do Lực già chuyển hóa sanh ra Thái Thanh Chân Khí là giai đoạn đầu phân định lưỡng nghi, Âm chưa thành Âm, Dương chưa thành Dương, cũng như một mầm cây bắt đầu nảy mầm hai nhánh, sự nẩy mầm này chỉ là giai đoạn đầu khởi điểm Âm Dương, thời làm sao xung khắc nhau được, nếu xung khắc đó mới chỉ là hiện tượng mà thôi.



Còn sự xung khắc trong nội thể thì quá rõ ràng, có thể xảy ra xung đột đến mất mạng. Thái Tử nghĩ hiện tượng này là do Âm Dương chân khí, cùng thái Âm thái Dương chân khí xung đột tạo ra mà thôi. Thái âm Thái Dương Chân Khí là do Thái Thanh Chân Khí đã già chuyển hóa sanh ra. Sự chuyển hóa này đã trờ thành quy luật, không những ở trong Chân Khí mà ngay cả xã hội cũng vậy, thời kỳ quá độ của chế độ sẽ tự nó đổi mới chuyển sang chế độ khác.



Trong vũ trụ tuổi thọ của Thể Lực, gấp 20 lần của thể khí, tuổi thọ của thể khí gấp 20 lần của thể lỏng, tuổi thọ của thể lỏng gấp 20 lần của thể đặc, tuổi thọ của thể đặc gấp 20 lần tăng giảm sẽ bị hủy hoại, cứ một lần tăng giảm trải qua 16 triệu 800 nghìn năm. Đạo pháp cũng thế đều có tuổi thọ an trụ của nó, chẳng hạn như Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ, an trụ tuổi thọ là năm tiểu kiếp, 84 triệu năm, thời chuyển đến Liên Hoa Hải Tạng.



Giải quyết sự nóng lạnh xung đột trong nội thể, Thái Tử tiến đến giải pháp, dùng ý tưởng lưu dẫn chúng làm cho chúng chuyển động theo luật tuần hoàn lưu chuyền khắp kinh mạch, dung hoàn Âm Dương tiến lên một tầm cao mới. Sự lưu dẫn chân khí theo luật tuần hoàn dung hòa Âm Dương khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch là một phương pháp vô cùng hửu hiệu. Sự xung đột nóng lạnh trong cơ thể biến mất, thay vào đó Thần Lực, Công Lực, Nội Lực tăng lên gấp 3 gấp 4 lần.



Thái Tử nghĩ dung hòa hàng trăm Bộ Lạc theo đường lối Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ, Công Bằng Bình Đẳng. Mà nền tản của sự dung hòa nầy là tôn trọng Quyền con người Nhân Quyền, phải lấy Dân làm Gốc Dân Chủ. Đi vào Công Bằng Bình Đẳng. Tuy thiên hạ có muôn ý khác nhau. Nhưng chung cùng lương tâm đồng nhất quyền con người, dân là gốc, công bằng bình đẳng tinh hoa sự sống con người. Và cũng chỉ có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính Đa Nguyên, Nhân Quyền Dân Chủ Công Bằng Bình Đẳng mới dung hòa hết thảy các tần lớp xã hội đi vào thống nhất. Tạo lên sức mạnh nội lực dân tộc.



Thái Tử dẫn khí từ Đan Điền xuống Khí Hải, Quan Nguyên, Trung Cực, Khúc Cốt, Hội Âm chót xương cụt, hết phần bụng dưới. Rồi từ chót xương cụt, phần lưng chạy lên đỉnh đầu, yêu Di Xương cùng Dương Quan, thắt lưng, rồi tới mệnh môn, Thần Đạo, Chí Dương, Chân Trụ, Đào Đạo, Đại Thùy, Á Môn, Phong Phủ, Hậu Đình, Bách Hội. Bách Hội là Hội đỉnh đầu.



Thái Tử tiếp tục dẫn chân khí chạy về phía trước đỉnh đầu xuống mặt, xuống ngực, xuống bụng trên, bụng dưới trở về Đan Điền. Bách Hội. Tiền Đình. Tinh Hội. Thần Đình. Ấn Đường. Tinh Minh. Hòa Liêu. Nhân Trung. Thừa Tương. Thái Tử vận chân khí tới đây hết phần mặt rồi tiếp tục xuống cổ xuống ngực. Thừa Tương, Liêm Tuyền, Trung Quản, Thủy Phân rồi hội tụ tại Đan Điền.



Cứ thế Thái Tử vận hành càng lúc càng trôi chảy, thể xác con người là thể xác tiểu Thiên vũ trụ, nay Thái Tử vận hành Chân Khí chuyển vận chạy từ trước ra sau, từ sau ra trước, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, tuần hoàn không dứt, làm cho các huyệt Đạo thông suốt, làm cho kinh mạch thông theo, một bí pháp vô cùng quan trọng đối với cơ thể con người tiểu Thiên vũ trụ. Thái Tử khai thông cơ thể, làm cơ thể bừng lên sức sống mãnh liệt. Thái Tử dần dần chinh phục tiểu Thiên vũ trụ, làm chủ tiểu Thiên vũ trụ, tiến lần đến làm chủ Đại Thiên vũ trụ.



Nhờ chăm chú vận hành chân khí khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch, sự vận hành ấy dần dần lưu chảy thông suốt. Từ Đan Điền xuống xương cụt, theo đường xương sống chạy lên đỉnh đầu, rồi xuống tráng, xuống mắt, xuống mũi, xuống miệng, xuống cổ, xuống ngực, xuống bụng rồi trở về Đan Điền, sự tuần hoàn ấy Thái Tử vận chuyển chân khí lặp đi lặp lại.



Mới vận chuyển chân khí, Thái Tử cảm nhận như dòng khe nước nhỏ. Nhưng giờ đây khác hẳn, Thái Tử cảm nhận như một con sông lớn lưu chuyển chảy cuồn cuồn từ ÂM sang DƯƠNG từ DƯƠNG sang ÂM. Từ Hạ Thiên đến Thiên Tiên. Từ Bách Hội xuống Hội Âm, Chân khí tràng chảy đến dâu, không những khai thông huyệt Đạo kinh mạch mà còn rộng mở huyệt Đạo kinh mạch.Sự xung đột Âm Dương không còn nữa. Thay vào đó một thân thể nhẹ bổng, trào dân sức sống Thể Lực thượng thừa.



Hình Ngồi Thiền 1.






Thái Tử từ khi tu Thiền luyện khí, tích tụ nơi Đan Điền. Huyệt ÂM GIAO. Chân khí tích tụ mỗi ngày mỗi lớn mạnh, lan tỏa rộng lớn khai thông các huyệt Đạo xung quanh, các kinh mạch theo đó cũng rộng mở cả bụng dưới lẫn bụng trên gần mấy chục huyệt Đạo nhưng ở đây chỉ kể một số huyệt Đạo chủ yếu mà thôi. Xung quanh xa gần huyệt Đan Điền như huyệt Khí Hải, Thủy Phân, Quan Nguyên, Trung Quản lên tận Cự Khuyết xuống Khúc Cốt rồi lan tỏa rộng ra hai bên khai thông một số các huyệt Đạo khác Phúc Kết, Thủy Đạo, Hoang Du, Thiên Khu, Đại Cự, Đại Hách, Kỳ Môn, Cự Huyết, Lương Môn, Bất Dung, Chương Môn, Nhật Nguyệt, Đới Mạch, Cự Liêu, Ngủ Khu, Xung Môn v.v..



Hình Ngồi Thiền 2.






Sự khai thông này cũng giống như các Biển Hồ Bể Khí tràng đầy Khí Lực thống suốt cùng nhau tạo lên sức lực khôn lường. Huyệt Đạo khai mở, kinh mạch thông suốt, sức lực sinh khí tràn đầy. Thái Tử mỗi lần tu Thiền luyện khí thời thấy có một luồn khí nóng từ Đan Điền tỏa ra xung quanh vùng bụng dưới rồi tỏa lên khắp châu thân và gần đây Thái Tử thấy hai luồn nóng lạnh chống chỏi nhau. Và Thái Tử đã nghỉ ra phương pháp vận hành lưu dẩn Chân khí khai thông toàn bộ các huyệt Đạo - Kinh mạch châu thân.



Thái Tử dẩn chân khí bắt đầu từ ĐAN ĐIỀN xuống KHÍ HẢI xuống QUAN NGUYÊN rồi đến TRUNG CỰC. KHÚC CỐT, HỘI ÂM. Thông qua xương cụt ra sau lưng, khai thống TRƯỜNG CƯỜNG chạy lên theo đường xương sống khai thông YÊU DI. Thuộc phạm vi vùng mông, xương cùng. Chân Khí lan tỏa ra hai bên vùng mông khai thông các huyệt Đạo như Hội Dương, ở xương cụt, Hạ Liêu, Trung Liêu, Thứ Liêu, Bàng Quang Du, Tiểu Tràng Du, Bàn Hoang, Quan Nguyên Du.



Thái Tử lại tiếp tục dẩn Chân Khí chạy lên vùng eo lưng, khai thông huyệt DƯƠNG QUAN của eo lưng, thông lên MỆNH MÔN xuống sống bụng, Chân Khí lan tỏa ra hai bên khai thông các huyệt chạy dọc theo hai bên xương sống như huyệt Thận Du, Tam Tiêu Du, Đại Tràng Du, Thương Liêu, Chí Thất, Vị Du. Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí khai thông lên huyệt CHÍ DƯƠNG. Đốt xương sống ngực thứ 7. Dưới đốt xương sống ngực thứ 7 thuộc Âm. Huyệt Chí Dương nằm ngay tại vùng giáp ranh đó.




Chân Khí chạy lên huyệt CHÍ DƯƠNG lan tỏa ra hai bên khai thông các huyệt Đạo như huyệt Đởm Du, Tỳ Du, Can Du, Cách Du, Cách Quan. Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí chạy lên vùng lưng khai thông huyệt THÂN TRỤ cùng các huyệt Đạo dọc theo hai bên vùng lưng xương sống ngực như các huyệt Đạo Phế Du, Quyết Âm Du, Tâm Du, Thần Đường, Cao Hoang, Phách Hộ, Phụ Phân.



Thái Tử lại tiếp tục dẫn chân khí thông lên ĐÀO ĐẠO, ĐẠI CHÙY. Chân Khí lan tỏa hai bên xương sống khai thông các huyệt Đạo vùng lưng cũng như vùng lưng bả vai như huyệt Đại Chữ, Kiên Trung Du, Đại Trứ, Khúc Viên, rồi thông qua các huyệt Đạo lưng hai bên xương vai như huyệt, Phụ Phân, Thiên Liêu, Kiên Ngoại Du, Kiên Tỉnh, Bình Phong, Kiên Liêu, Kiên Ngưng, Thiên Tông, Phong Môn. Tức thì khai thông ra toàn bộ vùng lưng, vùng eo, vùng mông. Đại Chùy, Đào Đạo, Thân Trụ, Thần Đao, Chí Dương, Trung Khu, Tích Trung, Đại Chữ, Kiên Tỉnh, Kiên Ngưng, Phong Môn, Bình Phong, Thiên Tông, Kiên Liêu, Kiên Ngoại Du, Phong Môn, Thiên Liêu. Phụ Phân. Quyết âm Du. Tâm Du. Đốc Du. Thiên Tông, Kiên Trinh, Đại Trứ, Phế Du, Cách Du, Cam Du, Đảm Du, Tỳ Du, Tam Tiêu Du, Vị Du, Chí Thất, Mệnh Môn, Thận Du, Đại Tràng Du, Quan Nguyên Du, Tiểu trường Du, Thượng Liêu, Thứ Liêu, Dương Quan, Trung Liêu, Hạ Liêu, Bàng Quang Du, Trung Lữ Du, Bạch Hoàng Du, Thừ Phù, Yêu Di, Trường Cường.






Chú ý ở đây chỉ nói đại khái những huyệt Đạo chủ yếu mà Thái Tử đã khai thông toàn bộ lưng, eo, mông. Huyệt Đạo khai mở kinh mạch theo đó cũng thông suốt. Thái Tử lại tiếp tục dẫn Chân Khí thông lên 7 đốt xương sống cổ, khai thông huyệt Đạo Á môn. PHONG PHỦ. Chân khí lan tỏa ra hai bên sống cổ khai thông các huyệt như Thiên Dũ, Phong Trì, Thiên Trụ, An Miên, Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí thông lên đầu, khai thông HẬU ĐÌNH rồi thông lên BÁCH HỘI đỉnh đầu, Thái Tử dừng nghỉ để cho Chân Khí hội tụ Đỉnh Đầu càng lúc càng mạnh, làm cho Huyệt BÁCH HỘI khai thông rộng mở. Bách Hội khai thông rộng mở, thời các kinh mạch chủ lực liền thông suốt, nhiệm mầu thay. Đầu óc Thái Tử trở nên minh mẩn lạ thường. Thái Tử lại tiếp tục dẩn Chân khí từ Bách Hội chạy về phía trước Đầu, khai thông TIỀN ĐÌNH, TINH HỘI rồi đến THẦN ĐÌNH. Chân khí lan tỏa rộng ra khai thông một số huyệt Đạo như Thông Thiên, Khúc Sai. Chân khí tuông xuống trán khai thông Tinh Minh, Dương Bạch xuống ẤN ĐƯỜNG. Chân khí lan tỏa khai thông Toản Túc, Ty Trúc Không, Ngư Yêu, Thái Dương. Thái Tử lại dẫn Chân khí xuống mắt xuống mũi. Khai thông huyệt Nhân Trung, chân khí lan tỏa rộng ra khai thông huyệt Thừa Khớp, Nghinh Hương, Cự Liêu, Hòa Liêu, Tứ Bạch, Khách Chủ Nhân, Hạ Quang. Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí chạy xuống miệng xuống càm khai thông huyệt Thừa Tương. Chân khí lan tỏa rộng ra khai thông huyệt Địa Thương, Quyền Liêu, Đại Nghinh. Thái Tử dẫn chân khí tới đây hầu hết khai thông các huyệt Đạo chủ yếu ở phần mặt Bách Hội, Tiền Đình, Tinh Hội, Thần Đình, Thông Thiên, Khúc Sai, Tinh Minh, Dương Bạch, Ấn Đường, Toản Trúc, Ti Trúc Không, Ngư Yêu, Thái Dương, Nhân Trung, Đồng Tử Liêu, Tứ Bạch, Địa Thương, Nghinh Hương, Cự Liêu, Hòa Liêu, Quyền Liêu, Thừa Tương. Thái Tử lại dẩn chân khí xuống cổ khai thông huyệt Liêm Truyền. Chân khí lan tỏa khai thông huyệt Nhân Nghinh, Thiên Đỉnh, Thủy Đột, Khuyết Bồn.






Thái Tử lại dẫn khí xuống khai thông THIÊN ĐỘT thông xuống phần ngực chân khí tỏa ra một vùng rộng lớn. Khai thông Khí Xá, Du Phủ, Trung Phủ v.v… Khuyết Bồn, Kiên Tỉnh, Vực Trung. Thái Tử lại tiếp tục dẫn Chân khí chạy xuống khai thông huyệt ĐẢN TRUNG rồi thông xuống khai thông Cưu Vĩ. Chân khí liền tỏa ra một vùng rộng lớn khắp vùng ngực, làm thông suốt một số huyệt Đạo như huyệt Thần Phong, Nhũ Trung, Nhũ Căn, Ưng Song, Thiên Khê v.v…



Khai thông xong các huyệt Đạo ở phần ngực, Thái Tử lại dẫn chân khí khai thông các huyệt Đạo ở phần bụng trên, từ huyệt Đạo Cưu Vĩ thông xuống CỰ KHUYẾT, TRUNG QUẢN, THỦY PHÂN. Chân khí liền lan tỏa khắp vùng bụng trên, khai thông một số huyệt Đạo như huyệt Bất Dung, Kỳ Môn, Nhật Nguyệt, Lương Môn, Đới Bạch. Rồi thông xuống ÂM GIAO tức là huyệt ĐAN ĐIỀN, trở về bể nguồn nơi xuất phát. Chân khí cuồn cuộn lan tỏa xuống Khí Hải, Hoang Du, Thiên Khu, Đại Cự Y, Quan Nguyên, Trung Cực thông xuống Khúc Cốt lan tỏa khai thống hết thảy các huyệt Đạo ở bụng dưới như huyệt Đại Hách, Duy Đạo, Ngũ Xu, Xung Môn, Cự Liêu, Đại Cự, Khí Xung, Thủy Đao, Ngủ Khu v.v…



Thái Tử vận hành Chân khí tuần hoàn cứ thế mà vận chuyển khai thông huyệt Đạo kinh mạch càng lúc càng thông suốt, càng lúc nhuần nhuyễn dễ dàng. Vận hành Chân khí, khí thông huyệt Đạo, kinh mạch là một bí pháp, ẩn tàng huyền vi khó mà nói cho hết. Tuy Thái Tử đã đi hơn nữa đoạn đường tu Thiền luyện khí, vận hành khai thông huyệt Đạo, kinh mạch. Nhưng đã đưa Thái Tử đến đỉnh cao, khó có người theo kịp.



Để bước sang giai đoạn khó hơn, đòi hỏi người tu Thiền vận hành Chân khí phải tập trung ý chí tinh thần cao độ, tập trung, thấy nghe hay biết, chú tâm vào tu Thiền vận khí mà thôi.



Tổ Tiên tạo lập lên vũ trụ, thời chúng ta phải tạo lập lên sự sống con người, con cái của Tổ Tiên thay thế Tổ Tiên cai quản vũ trụ. Tổ Tiên tạo lập lên thể xác con người là thể xác hoàn hảo, anh linh tối cao, thể xác Tiểu Thiên vũ trụ, thể xác tinh hoa hơn cả tinh hoa 8 muôn 4 nghìn loài cọng lại. Cũng không hơn được thể xác Tiểu Thiên vũ trụ con người. Linh Hồn đầu thai để được làm người là điều rất khó, đầu thai được làm người thời coi như Linh Hồn đã làm chủ bộ máy thể xác huyền vi vũ trụ. Linh Hồn nhờ làm chủ bộ máy thể xác.





 

shopoga

✩✩
Tiểu Thiên vũ trụ này, tiến hóa Linh Hồn phát Huệ mau chóng, đạt đến đỉnh của sự giác ngộ, làm chủ vũ trụ, lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Bộ máy thể xác con người, bộ máy Tâm Linh con người là cả kho tàng bí mật vũ trụ. Không có bộ máy nào huyền diệu hơn bộ máy Tâm Linh, bộ máy thể xác con người. Không có con thuyền nào bay vào vũ trụ, hơn được con thuyền Tâm Linh. Con thuyền tiểu Thiên Vũ Trụ, thể xác con người. Thái Tử phát huy vận dụng lều lái con thuyền Tâm Linh, con thuyền tiểu Thiên vũ trụ bay đến tận Cội Nguồn vũ trụ, gặt hái những thành quả mà không thể ai cũng gặt hái được. Không có sức mạnh nao hơn được sức mạnh con người, dù cho đó là sức mạnh của Rồng, Voi, Sư Tử, Cọp, Báo v.v… Nhưng ít ai hiểu được điều này, nếu ai hiểu được bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ, điều khiển và phát huy sức mạnh của nó, thời Di sơn đảo hải chỉ là việc nhỏ mà thôi. Chúng ta sẽ lần lượt thấy rõ Thái Tử phát huy sức mạnh tìm ẩn mật tạng bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ thể xác con người ở những đoạn kinh sau.



Có thể nói Thái Tử đang phát huy tìm năng sức mạnh con người, sức mạnh tâm Linh con người, tiến sâu về bí mật vũ trụ, mở đường cứu thế, làm khiếp đảm loài Ma - Quỉ - Yêu - Tinh, đem lại hạnh phúc cho nhân loại con người, nhân loại anh em.






Sở dĩ con người yếu hơn loài Rồng, Voi Sư Tử, Hổ, Báo là vì con người không hiểu tiềm ẩn sức mạnh con người, cũng như sức mạnh tâm Linh, nên không tu Thiền luyện khí, tỉnh tâm thu nạp năng lượng vũ trụ. Vận hành năng lượng Vũ Trụ. Khai thông huyệt đạo kinh mạch. Vì thế bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ thể xác con người trở nên yếu ớt, bệnh tật hoành hành thời tiết xâm hại. Cũng như một xã hội mà thiếu đi văn hóa Cội Nguồn lại thêm các huyết mạch giao thương, trục lộ chủ chốt chật hẹp tắc nghẽn, thời xã hội đó không nói chúng ta cũng hiểu, không những lạc hậu đói nghèo lắm điều khốn khổ. Văn Hóa Cội Nguồn lưu chảy trong tâm linh chính là Nguồn sinh khí nuôi dưỡng Tinh Thần, phát huy nội lực tiềm ẩn Tâm Linh, làm tinh thần Dân Tộc lớn mạnh, không có sức mạnh nào hơn được. Thái Tử đang nổ lực tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Thiên Đạo vũ trụ, Chủ Nghĩa Đại Đồng nuôi dưỡng tinh Thần phát huy đến chỗ chí linh, chí Thánh.




Nói đến con người thời ai ai cũng biết có cả phần Hồn, lẫn phần Xác. Thái Tử là nhà khoa học vũ trụ. Tu Thiền luyện khí, vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo, kinh mạch là ba phương án tối cao, đưa sức mạnh con người lên ngan tầm sức mạnh vũ trụ. Tiểu Thiên vũ trụ hòa nhập vào Đại Thiên vũ trụ. Thái Tử là nhà khoa học Đa năng xã hội, nhà lãnh tụ Tinh Thần vĩ đại dân tộc, không những tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, vận hành Văn Hóa Cội Nguồn khai thông tinh thần làm cho các Bộ Tộc, Bộ Lạc, các tần lớp xã hội, các giáo phái, các màu da. Chủng Tộc hội nhập vào Cội Nguồn, triệu người như một, tiến tới cảnh dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, kéo dài Độc Lập, minh chứng lịch sử thời Đại Vua Hùng kéo dài hơn hai nghìn bảy trăm lẽ một năm.



Sự phát triển văn minh xã hội không chỉ là sự văn minh, máy móc, vật chất mà còn phải văn minh về thể lực đi đôi với văn minh Tinh Thần, làm chủ xã hội đi đôi với làm chủ bản thân, làm chủ ý thức, làm chủ Tâm Linh của mình. Hướng về tương lai tươi sáng, sống trong bầu không khí trong lành Đại Đồng, Bình Đẳng, Công Bằng văn minh.








Nếu chúng ta không biết khai thông nhân loại, khai thông mọi tổ chức chính trị, mọi thành phần giai cấp xã hội, mọi tôn giáo, Đảng phái. Bằng con đường Chính Nghĩa Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đồng Bình Đẳng, thời phải nói chúng ta đang sống trong thế giới đầy bệnh hoạn với bao nhiêu là sự bế tắc, dẫn đến bao nhiêu là xung đột, dẫn đến xã hội Địa Ngục, thế giới Địa Ngục, con người làm hại con người, đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời, thời hậu quả không biết đâu mà lường. Thái Tử là nhà Đại khoa học vũ trụ, Đại khoa học xã hội Tinh Thần lẫn vật chất. Nói đến tu Thiền luyện khí là nói đến chúng ta tiến tới làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ vận mệnh xã hội. Hàng phục thói hư tật xấu, trở thành một chân Tâm trong sáng. Đại Đồng chủng tánh đạt đến cảnh giới bất sanh bất diệt. Làm chủ vận mệnh làm chủ vũ trụ. Vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch, làm cho cơ thể tràng đầy sinh lực. Đẩy lùi mọi bệnh tật.






Vận hành Văn Hóa Cội Nguồn, khai thống trí huệ con người, thấy rõ tương lai tốt đẹp, không còn lẩn quẩn trong phạm vi nhỏ hẹp, giống như con Ếch ra khỏi đáy giếng, gà con ra khỏi lớp vỏ trứng, với cái nhìn khác xưa cái nhìn hiểu thế nào là về sự ngu dốt của mình. Người vận hành Chân khí, cũng giống như ao hồ sông rạch xưa nay bị lu lấp, tắc nghẽn, nay bổng cơn mưa kéo đến làm cho ao, hồ, sông, rạch không những đầy nước, lại khai thông dòng chảy, khai thông sức mạnh liên kết cùng nhau dẫn đến bất tận. Nói về con người đã được khai thông huyệt Đạo kinh mạch, thời sức mạnh toàn thân bất tận. Thái Tử thấy rõ điều đó.




Để tiến đến giai đoạn khó khăn hơn, đòi hỏi người tu Thiền luyện khí phải tập trung cao độ, cùng một lúc vận hành khai thông nhiều huyệt Đạo. Đây là một việc làm khó, đối với người căn cơ kém, còn đối với Thái Tử dẫn Chân khí từ Đan Điền xuống Khúc Cốt, Hội Âm, Trường Cường, rồi lan tỏa rộng ra Bế Quan, Xung Môn, Âm Liêm, Thừa Phụ xuống hai chân khai các huyệt Đạo bốn mặt, mặt sau, mặt trước, mé ngoài, mé trong. Từ Háng - Mông xuống các đầu ngón chân rồi vận khí chạy trở lên Xung Môn, Bế Quan.



Để vận hành Chân khí khai thông các huyệt Đạo có hiệu quả, Thái Tử nhớ rõ các huyệt Đạo vị trí huyệt Đạo nằm trên cơ thể một cách rõ ràng. Thái Tử vận hành Chân khí thông lên hai bên hông khai thông huyệt Cư Liêu rồi đến Ngủ Khu, Đới Mạch, Chương Môn.



Thái Tử vận hành Chân khí thông lên nách, khai thông huyệt cực tuyền, rồi thông lên bả vai khai thông huyệt Kiên Ngung, Kiên Tỉnh hai bên trên bả vai, để tiếp tục cuộc hành trình vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo kinh mạch Thái Tử tiếp tục dẩn Chân khí chạy xuống hai cánh tay khai thông các huyệt Đạo ở hai mặt cánh tay mé ngoài, mé trong của hai cánh tay xuống tận các đầu ngón tay rồi dẩn Chân khí trở lại, chạy lên vai khai thông hai huyệt Thiên Đỉnh ở bả vai gần giáp cổ. Để tiếp tục cuộc hành trình vận hành Chân khí, Thái Tử dẩn Chân khí thông lên cổ khai thông hai huyệt Thiên Song. Chân khí cuồn cuộn thông lên đầu, khai thông các huyệt Đạo dọc theo hai bên tai lên Bách Hội.



Chân khí từ hai huyệt Thiên Song ở cổ cuồn cuộn thông lên huyệt Thiên Dung, thông lên Ế Phong, Hoàn Cốt giáp tai, rồi thông lên Chính Cung, Nhĩ Môn, Khiếu Âm, Khúc Tấn, Giác Tôn, Thừa Linh rồi thông lên Bách Hội. Hai dòng sông Chân khí hiệp lại nhau làm cho Bách Hội khai mở một cách kỳ lạ làm thông suốt các kinh mạch nhỏ lớn khắp toàn châu thân. Thái Tử thấy cơ thể nhẹ như bong bóng Thần Lực bất tận, khí lực như Đại Dương. Lúc này Thái Tử không cần tập trung ý tưởng dẩn Chân khí nữa mà ý để đâu thời Chân khí chạy tới đó.



Chân khí theo ý Thái Tử chạy xuống trán, xuống mắt, xuống mũi, xuống miệng, xuống cổ, xuống ngực, xuống bụng rồi trở về Đan Điền và cứ thế theo luật tuần hoàn vận hành Chân khí lưu chuyển thuần thục. Ba con sông lớn thi nhau mà chảy đem Nguồn Chân khí vũ trụ bồi đắp kinh mạch, huyệt Đạo, Tế Bào nguồn Chân khí năng lượng sống vũ trụ, từ trước ra sau, từ sau ra trước, từ đầu xuống chân, từ chân lên đầu, sự tuần hoàn này Chân khí tuôn chảy đến đâu, thời các lỗ chân lông đều khai mở đến đó. Có thể nói chẳng khác gì bốn biển, năm châu, giờ đây đã được Dung Hòa, Đông Tây Nam Bắc, Trung Ương, Thượng, Hạ thành một mối, Thái Bình An Lạc Đại Đồng Bình Đẳng. Phàm, Thánh hợp nhất các thứ tệ nạn xã hội liền bị đẩy lùi hết chỗ dung thân, cũng như khai thông huyệt Đạo kinh mạch bệnh tật liền bị tiêu trừ.



Sức mạnh của một Quốc gia không phải chỉ ở một người hay một tổ chức chính trị, Đảng phái tôn giáo, không có dân thời lấy đâu có Chính Quyền, lấy dân làm gốc là đều tất yếu. Nhưng phát huy được cái gốc của dân, đó mới là điều thăng chốt, tiến tới xã hội văn minh, xã hội Đại Đồng Bình Đẳng mà chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn mới là chỗ tựa vững chắc của toàn dân. Có thể nói mỗi việc làm mỗi suy nghĩ của Thái Tử, để lại cho chúng ta những Di sản quí hiếm và không cho phép chúng ta đánh mất Di sản quí hiếm mà Tiền Nhân để lại cho chúng ta thứ tài sản vô giá này.


PHẦN THƯA HỎI :



Hỏi: Thế nào là hết lòng vì dân vì nước?



Đáp: Người hết lòng vì dân vì nước là người thương yêu Đồng Bào như thương yêu máu thịt của mình, suốt cuộc đời chỉ lo cho dân cho nước mà không đòi hỏi cầu lấy Danh, Lợi, địa vị nào cả. Không bao giờ dìu dắc Đồng Bào vào cảnh anh em tương tàn, nồi da nấu thịt. Đi đầu trong mọi lĩnh vực nhân cách Đạo Đức, Trung Hiếu mãi mãi tôn thờ truyền thống dân tộc Văn Hóa Cội Nguồn. Những kẻ giả nhân giả nghĩa, giả Đạo giả Đức làm hại dân tộc, làm hại non sông Tổ Quốc, chỉ lừa dối những kẻ thiếu hiểu biết, lừa dối Thần Thánh sao được. Và cán cân Công Lý vũ trụ sẽ chuyển xây vận mệnh kẻ ấy vào Thiên La Địa La trùng trùng tai họa. Danh, tánh của những kẻ ấy sẽ được công luận lên án, đời đời bị Thiên Hạ nguyền rủa.



Hỏi: Thế nào là đặc niềm tin đúng chỗ.



Đáp: Tin Văn Hóa Cội Nguồn, truyền thống anh linh dân tộc. Tinh Hoa Truyền Thống Dân Tộc là nguồn nước Thánh Quốc Bảo Chí Tôn, Chí Thánh của dân tộc mà Ông Cha ta đã dày công vun đắp, truyền lại cho chúng ta.



Hỏi: Thế nào là lợi dụng Tôn giáo Đạo giáo phục vụ cho mưu đồ xâm lược?



Đáp: Các thế lực ngoại xâm họ thường lợi dụng học thuyết chân chính, của các Tôn giáo Đạo giáo những giáo điều của Tôn giáo Đạo giáo có lợi về mặt chính trị, họ liền áp dụng đầu độc dân tộc ta, làm cho dân tộc ta quên đi Nguồn Cội, sa ngã bị mê hoặc, làm mất đi ý chí tự cường, ý chí trung Hiếu, lu mờ truyền thống Con Rồng Cháu Tiên. Cụ thể dân tộc ta vô cùng khốn khổ phải chịu cảnh nô lệ hàng nghìn năm, sống trong chảo dầu biển lửa, sống trong kiềm kẹp với hàng trăm lớp trói chính sách của quân xâm lược, dân ta phải chịu cảnh trâu cày ngựa cỡi, đói nghèo lạc hậu khốn khổ vô cùng. Các học thuyết Tôn giáo Đạo giáo một khi các thế lực ngoại xâm lợi dụng biến chúng thành con dao nhiều lưỡi, uy hiếp tinh thần dân tộc. Vì hiểu tính cách lợi hại con Dao nhiều lưỡi này mà quân xâm lược luôn luôn mang theo nó, để uy hiếp đè bẹp tinh thần dân tộc ta, nên chúng ta phải luôn luôn cảnh giác. Cảnh thực hư của các giáo điều mà chúng luôn luôn dùng những giáo điều ấy mở đường cho xâm lược. Một dân tộc Rồng Tiên bị chúng trói vào giáo điều và chúng cho đó là pháp luật, thời con Rồng biến thành con giun ngay. Chúng Ta hãy hội nhập Văn Hóa Cội Nguồn chính là diệu dược Linh Đơn một khi uống vào liền thấy rõ chân tướng của loài Hồ Ly, Cáo, Sói.



Hỏi: Giặc nội tâm. Giặc ngoại xâm. Giặc nào nguy hiểm hơn?



Đáp: Giặc nội tâm. Giặc ngoại xâm. Giặc nào cũng nguy hiểm nhưng giặc nội tâm càng nguy hiểm hơn, muốn cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Thời phải loại bỏ thói hư tật xấu ra khỏi Linh Hồn của mỗi chúng ta, giặc thói hư tật xấu là thứ giặc vô cùng nguy hiểm, đồng bọn của chúng là giặc dốt, giặc ngu si, giặc mê muội. Chúng hùa nhau tham lam, vơ vét của dân, của nhà nước, trộm cướp là thứ giặc con, đặc ra chính sách bóc lột làm cho dân khốn đốn, giặc Cha thứ giặc luôn luôn bốc mùi tàn bạo. Một xã hội ấm no Thái Bình Hạnh Phúc là một xã hội đầy lòng Chân Chính, Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa cao. Muốn hiểu rõ sự nguy hại của thói hư tật xấu giặc nội tâm, thời phải dùng đến gươm Thiên trí Huệ trong Văn Hóa Cội Nguồn, báu vật của Trời Đất, có đủ ba ánh sáng để tiêu diệt chúng.

1: Đó là ánh sáng Công Lý Chính Nghĩa Đạo Đức truyền thống dân tộc.

2: Là ánh sáng Chân Lý Đạo Pháp Thiên Đạo Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng vũ trụ.

3: Là ánh sáng Luật pháp, công bằng xã hội.




Ba nguồn ánh sáng này một khi đã chiếu lên, tức thời u minh non sông Tổ Quốc tan biến ngay. Trả lại cho con người Tâm Hồn trong sáng, giặc nội Tâm sẽ lùi sâu vào tâm thức dần dần bị tiêu diệt, thay vào đó là một Tâm Hồn vị tha và đầy lòng quả cảm. Đẹp như Tiên và mạnh như Rồng.

*********


Hết phần 4 chương 9 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 5 chương 9.
 

shopoga

✩✩
CHƯƠNG 9



PHẦN 5



GIAI ĐOẠN 3

TU THIỀN LUYỆN KHÍ



Thái Tử giờ đây, nhất cử nhất động đều phát tuôn thần lực, ai nhìn thấy cũng khiếp vía. Các lỗ chân lông đều khai mở, Chân khí thu nạp vào Đan Điền liền thông suốt đến các lỗ chân lông ngay, người tu luyện đến đây đã là kinh khiếp lắm rồi nhưng đối với Thái Tử thời chưa đạt, phải tiến lên một nất cao hơn nữa.



Thái Tử tiến đến phương pháp hít thở theo lỗ chân lông, một phương pháp tối cao của người tu Thiền luyện khí. Lại một lần nữa Thái Tử cho ta thấy, tiến đến phương pháp hít thở theo lỗ chân lông là để phát huy sức mạnh toàn năng cơ thể con người Tiểu Thiên vũ trụ. Đây là một phương pháp hơi khó nhưng đối với Thái Tử thời không thấy khó tí nào cả, còn đường đi Thái Tử cho ta thấy, phát huy sức mạnh toàn thân, Tiểu Thiên vũ trụ, thời phải có phương pháp đối với cơ thể, binh pháp đối với xã hội. Phát huy sức mạnh toàn năng Tiểu Thiên vũ trụ, thời phải tu Thiền luyện khí, tỉnh tâm thu nạp năng lượng vũ trụ, vận hành Chân khí, khai thông huyệt Đạo kinh mạch, khai thông các lỗ chân lông, 8 muôn 4 nghìn lỗ chân lông một khi đã hít thở thu nạp năng lượng vũ trụ, thời bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ đã hội nhập vào bộ máy Đại Thiên vũ trụ, thu hút sức mạnh vũ trụ chuyển thành sức mạnh của mình.



Phát huy sức mạnh của một Quốc gia không khác gì mấy, 80 triệu dân hay 100 triệu dân, ví như mỗi người dân là mỗi đầu Lông của Tổ Quốc, các thành phần tổ chức Đảng phái, Tôn giáo, Đạo giáo các dân tộc anh em, ví như các huyệt Đạo của Tổ Quốc và sự giao thương với nhau, ví như là các kinh mạch.



Văn Hóa Cội Nguồn chính là năng lượng sống, cả ba mặt, khoa học, Tinh Thần, vật chất, vận hành Văn Hóa Cội Nguồn, lưu chuyển khai thông, thời kinh mạch giao thương liền được thông suốt mở rộng, đời sống xã hội tiến tới đỉnh cao nhanh chóng. Một đất nước như thế, không nói chúng ta cũng hiểu, đất nước ấy không những vững mạnh về vật chất mà mạnh cả Tinh Thần và cả sức mạnh toàn xã hội Tổ Quốc. Đất nước ấy dù có nhỏ, dù ít dân nhưng khó có đất nước nào đánh bại, dù cho đó là cường Quốc dân số hơn gấp mười lần. Đất nước ấy tuy dù ít dân nhưng dân tộc ấy là dân tộc Rồng Tiên thật sự.



Đức ÂU CƠ khi sinh ra nhân loại thể xác con người, thời loài Rồng hủy bỏ thân xác loài Rồng, Linh Hồn Loài Rồng đầu thai vào con người làm chủ bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ trước nhất, còn các loài khác lần lượt đầu thai làm chủ thể xác con người Tiểu Thiên vũ trụ kế theo sau. Một dân tộc mà sức mạnh như Rồng, đẹp như Tiên, thử hỏi thế lực nào chống nổi.



Sức mạnh của một Quốc gia mà chỉ mạnh ở Vua Quan hay của một Đảng phái, thời sức mạnh Quốc gia ấy chỉ là sức mạnh của con người bình thường, không phải sức mạnh của con người đã khai thông huyệt Đạo kinh mạch. Vì vậy sức mạnh của một Quốc gia không chỉ ở Vua Quan hay một Đảng phái thống trị mà là sức mạnh toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị và Văn Hóa Cội Nguồn chính là rường cột tạo lên sức mạnh đó.



Sức mạnh vô tận của con người là dùng Chân khí năng lượng sống vũ trụ khai thông huyệt Đạo kinh mạch, tạo lên sức mạnh Đại Đồng Tổng Thể từ vô hình cho đến hửu hình, từ Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng cho đến Thể Đặc, sức mạnh tìm ẩn của con người đã được phát huy.



Dân giàu nước mạnh, nước mạnh thời trổ Hoa Độc Lập, Hoa Độc Lập bền vững là nhờ đã kế thừa được cái quả truyền thống mỗi ngày mỗi to lên, quả truyền thống mỗi ngày mỗi to lên là nhờ Tinh Hoa Văn Hóa Cội Nguồn làm cho nó phát triển càng lớn mạnh. Lại một lần nữa Thái Tử cho ta thấy bài học Căn Cội của sự thống nhất, bài học phát huy sức mạnh toàn dân, phát huy nội lực tìm ẩn xã hội. Bài học phát huy nội lực toàn dân, đưa con người đưa xã hội tiến đến cảnh giới tối cao, cảnh giới Cực Lạc.



Trở lại vấn đề chính. Thái Tử ngoài Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu tu Thiền luyện khí, còn các giờ khác Thái Tử tu tập hít thở theo lỗ chân lông, đầu tiên thấy hơi khó nhưng sau đó trở thành thói quen, Chân khí theo lỗ chân lông ra vào thông suốt. Thái Tử chỉ cần hít một luồng Chân khí vận dụng toàn thân, tức thời thân hình bốc cao lên khỏi mặt đất ngay. Thái Tử đã biết mình đạt đến đỉnh cao của vũ thuật, quyền pháp, chưởng pháp đỉnh cao của Thiên Tiên, Địa Tiên.



Nhưng con đường tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn còn rất xa, vì còn phải vượt qua cảnh giới tối cao của vô minh. Đây không phải việc làm mà ai ai cũng làm nổi, phải Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi, Đại trí huệ mới vượt qua nổi. Trong cảnh giới tối cao của vô minh, những cảnh giới xuất hiện càng lúc càng kỳ bí, những cảnh tượng khủng khiếp, những cảnh tượng êm đềm mãi hiện ra bất tận, nếu không làm chủ cái thấy nghe hay biết của mình, khởi tâm phân biệt chạy theo sự thấy nghe hay biết, thời tức khắc rơi vào Ma Đạo, Quỉ Đạo ngay, mắc vào bẫy lưới của Ma Vương và Đại Quỉ đã ẩn sâu tận đáy Tâm Hồn của con người, tất cả đều đã hiện ra. Cứ một đoạn đường tiến sâu vào Mật Tạng vũ trụ là mỗi lần Thái Tử đổi phương pháp tu luyện.



Nói về xão nữ Thị Tỳ, vừa đem đồ ăn thức uống rời khỏi cấm cung, thời nghe tiếng nói vọng đến từ rất xa:

Cúc Phương cứ bảy ngày ngươi mới đem đồ ăn thức uống đến vào buổi trưa đúng Ngọ, vì ta sắp sửa nhập Thiền vào cảnh giới Đại Định, không được cho ai tới gần khu rừng cấm nhất là nơi ta đang nhập Định.



Cúc Phương khiếp vía tưởng là mình đang nằm mơ, cứ rờ tai dụi mắt chừng nhìn giõ đồ ăn cùng xe ngựa mới biết là mình không có nằm mơ. Cúc Phương nhìn quanh nhìn quất không thấy Thái Tử đâu cả, đâm ra sợ hãi, hỏi:

Có phải Thái Tử dạy bảo tỳ nữ đó không?



Cúc Phương lại nghe tiếng nói của Thái Tử như con Muỗi vo ve:

Ngươi không thể thấy ta được đâu vì ta đang ngồi trong thiền phòng khu rừng cấm. Thôi ngươi trở về đi, 7 ngày sau ngươi đem đồ ăn thức uống đến theo lời dặn của ta khi nảy.



Cúc Phương nghe xong càng khiếp vía, vì từ đây đến nơi Thái Tử rất xa đến mấy dặm đường, Cúc Phương bổng chuyển sợ hãi thành niềm vui, hay là Thái Tử thành Đạo rồi, có lẽ là thế.



Xão nữ Thị Tỳ Cúc Phương đem việc Thái Tử căn dặn nói lại cho Thần Long Nữ mẹ của Thái Tử cùng Kinh Dương Vương Cha của Thái Tử nghe. Nghe xong Thần Long Nữ, Kinh Dương Vương vô cùng mừng rỡ. Nghĩ con ta Đắc Đạo thật rồi ngũ thông khai mở. Kinh Dương Vương lại nghĩ Con hơn Cha là nhà có phúc, ta tu luyện đã hơn 70 năm cũng không được thế, có lẽ hơn hẳn các Đạo sĩ, tu sĩ của các giáo phái rồi. Thần Long Nữ cũng nghĩ như vậy liền nói, đã Đắc Đạo cao đến thế còn tu luyện nữa để mà làm gì? Kinh Dương Vương hồi tưởng lại lời nói của Thái Tử trước đây thở dài nói.



Hùng Lan sở dĩ dốc sức tu luyện để tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, cái gì là Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng thật quá mơ hồ vời vợi, chưa bao giờ nghe nói, nói chi đến việc nhìn thấy. Thần Long Nữ nghe Kinh Dương Vương nói thế cũng thở dài theo càng lo lắng cho Thái Tử, dặn tỳ Nữ Cúc Phương rằng việc hôm nay ngươi không được nói cho ai biết. Cúc Phương vân dạ rồi lui ra. Địa Tiên lấy Chân khí làm Đạo. Thiên Tiên thời tiến xa hơn nữa, tham thiền quán tưởng hành Đạo. Nói 1 cách dễ hiểu, Địa Tiên chú trọng về Khí. Thiên Tiên chú trọng về Pháp.

*********


Hết phần 5 chương 9 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 1 chương 10.
 
Top