NHỮNG CÂU CA DAO ĐỊA DANH HAY NHẤT
Ai về Quảng Ngãi mà xem
Bãi tơ vàng óng đồng ken lúa vàng
Xóm thôn sực nức mùi đàng
Nhắp chè Tam Bảo luận bàn văn chương.
Bắp với khoai tuy rằng khác giống
Nhưng cùng sống trên cục đất giồng
Anh với em đồng vợ đồng chồng,
Tát biển Đông cũng cạn, đập núi Hồng cũng tan.
Chim bay về núi Sơn Trà,
Chồng Nam vợ Bắc ai mà muốn xa.
Sự này cũng tại mẹ cha,
Cho nên đũa ngọc mới xa mâm vàng.
Gương kia nỡ để bụi nhòa
Sông có Nhị Hà núi có Tản Viên
Thề kia sao để lỡ duyên
Trăng còn soi mãi vùng sen Tây Hồ.
Hồng Hà nước đỏ như son
Chết đi thì chớ, sống còn lấy anh.
Làng tôi công nghệ đâu bằng
Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân
Quai thao tết khéo vô ngần
Là nghề của Vũ sứ thần dạy cho
Tóc rối, lông vịt, mã cò
Bán ra ngoại quốc cũng to mối lời
Khăn san kiểu lối tân thời
Tua cờ nhà đạo, nhà binh
Bán ra Hà Nội, Huế, Vinh, Sài Gòn
Chân chỉ hạt bột y môn
Chỉ tơ, chỉ gốc, lại còn chỉ thêu
Dây đàn, dây rút thật nhiều
Chỉ quả chữ thọ có điều tinh thông
Khéo thay những dải kim tòng
Được bằng thưởng nhất Hà Đông bảo tàng
Phu-la, tơ lụa, đăng ten,
Tiêu thụ các xứ bán buôn thật nhiều
Buồng chơi dùng đệm lông cừu
Hỏi thăm Triều Khúc có nhiều tài hoa
Thắng đai ngựa, chổi lông gà
Thắt lưng, khăn mặt người ta thường dùng
Len đan mũ trẻ ít công
“Tích-cô” dệt máy dùng trong mùa hè
Hoa bằng lông vịt mới kỳ
Giỏ đựng ấm tích bằng tre khéo làm
Nghề kẹo mạ, thợ kim hoàn
Nghề nào cũng giỏi khôn ngoan ai tày
Quai túi dết, sợi giày tây
Vẽ tranh sơn thủy dùng bày phòng chơi
Hơn ba mươi nghệ tân thời
Sĩ, nông, công, cổ mọi người đều hay
Nghề nào cũng khéo chân tay
Nhất thân vinh hiển buổi này cạnh tranh
Đơ Thao Triều Khúc rành rành
Tiếng khen công nghệ nổi danh Bắc Kỳ.
Nón ngựa Gò Găng,
Bún Song thần An Thái,
Lụa đậu từ An Ngãi,
Xoài tượng chín Hưng Long
Mặc ai mơ táo, ước hồng
Tình quê em giữ một lòng bước sau.
Sông Trà Ôn nhiều tôm cá,
Làng Trà Côn đường sá khó đi,
Bơi xuồng mưa gió ngại gì,
Lâu lâu anh rảnh tìm về thăm em.
Trên trời có đám mây vuông
Dưới sông nước chảy như chuông chùa Thầy
Anh về xẻ gỗ cho dày
Bắc cầu sông Cái đón thầy mẹ sang
Chiếu hoa trải xuống sập vàng
Gương tàu một chiếc thiếp chàng soi chung.
Yêu lắm làm chi
Nhớ lắm làm chi
Khi xưa anh nói đổ núi Ba Vì
Bể Đông cạn nước anh cũng nằm kề bên em
Ai xui anh cắt đường duyên
Để em chịu nỗi đắm thuyền bên sông.
(sưu tầm)
Ghi chú: Ảnh của nhiếp ảnh gia Dương Quốc Định, người mẫu Xuân Văn, sưu tầm từ internet
Reply: Thơ Địa Danh hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
NHỮNG CÂU CA DAO HÀ NỘI HAY NHẤT
Ai về Hà Nội, ngược nước Hồng Hà
Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui.
Hà Nội băm sáu phố phường
Hàng Gạo, hàng Ðường, hàng Muối trắng tinh
Từ ngày ta phải lòng mình
Bác mẹ đi rình đã mấy mươi phen
Làm quen chẳng được nên quen
Làm bạn mất bạn ai đền công cho.
Lụa này là lụa Cổ Đô
Chính tông lụa cống các cô ưa dùng.
Ổi Quảng Bá, cá hồ Tây
Hàng Đào tơ lụa làm say lòng người.
Ước gì anh biến thành hoa
Nhờ em cô gái Ngọc Hà chăm nom.
Dạo xem phong cảnh Long Thành
Đủ mùi phường phố, đủ vành núi sông
Nhị Hà quanh bắc sang đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
Nùng Sơn, Long Đỗ đâu đây
Tam Sơn núi đất cao tầy Khán Sơn
Ngọc Sơn nhân tạo bé hơn
Bên hồ Hoàn Kiếm ngay đền Văn Xương
Trúc Bạch, Mã Cảnh nên tường
Xa hồ Bảy Mẫu giáp đường gần nhau
Ngoài đường quai có hồ sâu
Tây Hồ rộng rãi ngay đầu phía tây
Xung quanh bao bọc kín thay
Đất cao thành lũy, cửa xây nên tường
Mười lăm ô đúng đường đường
Yên Ninh, Yên Phụ, Thụy Chương một bề
Tiên Trung, Nghĩa Lập gần kề
Thanh Hà, Ưu Nghĩa dưới là Đông An
Cựu Lâu, Mỹ Lộc, Lương Yên
Thịnh An, Thanh Bảo, Kim Liên, Thịnh Hào
Sở tại là những huyện nào
Thọ Xương, Vĩnh Thuận, phủ Hoài thống kiêm.
Thọ tám tổng, Vĩnh có năm
Đồng Xuân, Đông Thọ, Phúc Lâm, mé ngoài
Vĩnh Xương, Thuận Mỹ, An Hòa
Thanh Nhàn tổng cuối giáp tòa Kim Liên
Yên Thành huyện Vĩnh ở bên
Thượng, Trung, Nội, Hạ ngoài miền ô môn
Yên Thành gồm mấy phường thôn
Khán Xuân, Thanh Bảo, Yên Viên gần thành
Trúc An, Lạc Chính, Yên Thành
Yên Trạch, Yên Định, Yên Ninh các làng
An Quang, An Thuận, Châu An
Phúc Lâm giáp giới đi sang tổng này
Ven sông một dải đất dài
Phúc Lâm, Nghĩa Dũng đến vài thôn Nguyên
Trừng Thanh thượng, hạ trung liền
Ngũ Hầu, Sài Thúc, Hạ tên Kiếm Hồ
Hương Nghĩa, Mỹ Lộc, Vọng Hà
Tây Long, Hữu Thị giáp là Bảo Linh
Thanh An, Bến Cổ, Trừng Thanh
Trang Lâu, Cơ Xá, đất dành phù sa
Thanh Nhàn liên tiếp không xa.
Tổng này tám xóm, một là Lương Yên
Lãng Yên, Cẩm Hội, Hương Viên
Hàm Khánh, Vọng Đức, Tràng Tiền thẳng trông
Thanh Nhàn với xóm Lạc Trung
Kim Liên bên cạnh, tổng trong xóm ngoài
Mười lăm thôn trại rộng dài
Quỳnh lôi, Trung Tự, Bạch Mai, Cầu Dền
Phúc Lâm, Đông Tác, Kim Liên
Vân Hồ, Yên Nhất, Thịnh Yên, Giáo Phường
Hòa Mã, Phục Cổ cùng đường
Vũ Thạch, Hồi Mỹ hỏi đường Đông Tân
Quá lên mười một thôn dân
Hạ Hào đến tổng dần dần cửa tây
Xã Đàn, Trung Phụng cả đây
Nối Thổ Quan nữa một dây vòng tròn
An Hòa nguồn nước sông con
Văn Hương, Thanh Miến giữa nom Hồ Đình
Văn Tân, Lương Sử, thôn Minh
Giám thôn bên hữu, cống sinh đi về
Vĩnh Xương nay đất Tràng Thi
Mười lăm thôn kế trước thì Vĩnh Xương.
Linh Quang, An Tập, Thuyền Quang
Bích Lưu, Linh Đổng, Liên Đàng, Nam Ngư
An Trung, Thượng, Hạ dân cư
Bắc Thượng, Bắc Hạ vốn như một phường.
Tiên Mỹ, Phụ Khánh gần trường
Đông Mỹ, Mỹ Đức lại đường bên trên
Tổng Thuận Mỹ ở ngay liền
Hăm hai thôn với phường bên cho rành
Chớ nhầm An Nội Đông Thành.
Cổ Vũ An Nội phận đành đôi nơi
Phường Đồng Lạc, phường Đại Lời
Cách xa thôn chợ Tân Khai mới dừng
Đông Môn, Nhân Nội phỏng chừng
Hội Vũ, Bảo Khánh, Chân Cầm bên kia
Phúc Tô, Kim Cổ đó kìa
Báo Thiên, Tự Tháp tới vừa chợ Tiên
An Thái, Thuận Mỹ, Xuân Yên
Tô Tịch, Khánh Thụy cách bên Đông Hà
Phường thôn Đông Thọ mười ba
Cựu Lâu, Hương Dính, Thanh Hà mé sông
Nam Phố, Ưu Nghĩa cùng thông.
Gia Ngư, Nhiễm Thượng, An Trung độ chừng
Đông An, Dũng Thọ, Duyên Hưng
Còn thôn Ngư Võng sau lưng phường Hà
Đến đây rồi lại rẽ ra
Qua Hương Bài đến tổng là Đồng Xuân
Đoài Môn, An Phú gần gần
Sang sông Tô ấy là phần Cổ Lương
Thanh Hà thôn, Đông Hà phường
Tiền Trung, Nghĩa Lập về đường bờ sông
Huyền Thiên, Đồng Thuận bên trong
Vĩnh Trù liền với Phương Trung, Phủ Từ
Thôn phường mười bốn hết chưa
Vĩnh Hanh phường nữa còn chừa Đồng Xuân
Ngoài ô những tổng vân vân
Sáu phường Trung Tổng, Bái Ân, Trích Sài
Thụy Chương, Hồ Khẩu dọc dài
Võng Thị, Yên Thái vừa đầy tổng Trung
Tổng Hạ có phường Nhược Công
Thịnh Hào với trại Nam Đồng thứ ba
Khương Thượng, Yên Lãng nữa mà
Thịnh Quang trại ấy kể đà sáu dân.
Tổng Nội chín trại chớ nhầm
Liễu Giai, Giảng Vũ tiếp gần Đại An
Thủ Lệ, Cỗng Vị là năm
Hữu Tiệp, Vạn Bảo, Cống An, Ngọc Hà
Bẩy phường, tổng Thượng nào xa
Nghi Tàm, Yên Phụ, Nhị Hà neo lên
Nhật Tên, Quảng Bá ở trên
Thạch Khối, Giai Cảnh cùng bên Tây Hồ
Long Thành thật xứng cố đô
Kim âu chẳng mẻ, cơ đồ bền lâu.
The La, lĩnh Bưởi, sồi Phùng
Lụa vân Vạn Phúc, nhiễu vùng Mỗ bên..
Ta lên Hà Nội tìm mình
Trầu cau tiếp đãi thân tình biết bao
Chân đi miệng lại khấn cầu
Lạy Giời phù hộ gặp nhau phen này
Về thăm Hà Nội quê nhà
Sông Hồng chở nặng phù sa ân tình
Tháp Rùa vẫn đẹp lung linh
Cầu cong Thê Húc in hình tháng năm.
Ðất Quảng Nam, chưa mưa đà thấm
Rươụ hồng đào chưa nhấm đà say
Ðối vớI ai ơn trọng, nghĩa dày
Một hột cơm cũng nhớ
Một gáo nước đầy vẫn chưa quên.
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say.
Hai đứa ta ơn trọng nghĩa dày,
Chưa nên câu duyên nợ đã mấy trăm ngày nhớ thương.
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say.
Thương nhau chưa đặng mấy ngày,
Đã mang câu ơn trọng nghĩa dày bạn ơi!
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say.
Tình non nghĩa nước bao ngày,
Con trăng cõi Bắc đã đầy nhớ thương.
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say.
Em thương anh, cha mẹ không hay
Như ngọn đèn giữa gió, biết xoay hướng nào.
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say.
Lòng ta như chén rượu đầy,
Lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi!
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say.
Chàng đi mô đã mấy hôm rày
Phòng văn vắng vẻ, sách bày cho ai ?
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say.
Kể từ ngày đó đã xa đây,
Sầu đêm quen ngủ, sầu ngày quên ăn.
Ðứng bên ni sông, ngó qua bên kia sông.
Thấy nước xanh như tàu lá,
Ðứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn ,
Thấy phố xá nghinh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn ,
Ðào sông Câu Nhí, tìm vàng Bông Miêu ,
Dặn tấm lòng, ai dỗ cũng đừng xiêu,
Ở nuôi Thầy, Mẹ, sớm chiều cũng có Anh .
Gập ghềnh Giảm thọ , Ðèo Le .
Cu ngói cõng mè, cà cưỡng cõng khoai.
Hội An đất hẹp, người đông
Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu.
Hội An bán gấm, bán điều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành.
Học trò trong Quảng ra thi,
Thấy cô gái Huế, bỏ đi không đành.
Kể từ đồn Nhứt kể vô,
Liên Chiêủ, Thuỹ Tú, Nam Ô , xuống Hàn,
Hà Thân, Quán Cái, Mân Quang .
Miếu Bông, Cẩm Lệ là đàng vô ra.
Ngó lên chợ Tổng bao xa,
Bước qua Phú Thượng, Ðai la, Cồn Dầøu
Cẩm Sa, Chơ Vãi, Câu Lâu.
Ngó lên đường cái, thấy cầu Giáp Năm.
Bây chừ, thiếp viếng, chàng thăm ,
Ở cho trọn nghĩa, cắn tăm nằm chờ .
Kể cầu Ông Bộ kể ra,
Cây Trâm ,Trà Lý, bước qua Bàu Bàu,
Tam kỳ, Chợ Vạn bao lâu,
Ngó qua đường cái, thấy lầu Ông Tây,
Chiên Ðàn , Chợ Mới là đây,
Kế Xuyên mua bán, đông, tây rộn ràng
Hà Lam gần sát Phủ Ðàng,
Phiá ngoài bãi cát , Hương An nằm dài ,
Cầu cho gái sắc, trai tài .
Ðồng tâm xây dựng, tương lai huy hoàng.
Năm hòn nằm đó không sai,
Hòn Khô, Hòn Dài, lố nhố thêm vui,
Ngó về Cửa Ðại, than ôi,
Hòn Nồm nằm dưới mồ côi một mình.
Ngó lên Hòn Kẽm, Ðá Dừng
Thương cha, nhớ mẹ, quá chừng bạn ơi,
Chiêù chiều, ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều,
Quế Trà My thứ cay, thứ ngọt ,
Nhờ tay thợ rừng mới lọt tay anh,
Phân du, bạch chỉ rành rành ,
Cân tiểu ly mới xứng, ngọc liên thành mới cân.
Trà My sông núi đượm tình,
Nơi đây là chỗ Thượng Kinh chan hoà.
(sưu tầm)
Ghi chú: Ảnh người đẹp Phan Thị Mơ (áo vàng) và ảnh minh họa sưu tầm từ internet
Reply: Thơ Địa Danh hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
NHỮNG CÂU CA DAO QUẢNG NGÃI HAY NHẤT
Ai về núi Ấn sông Trà
Có thương cô bậu ghé nhà mà thăm.
Ai về Quảng Ngãi
Cho tôi gởi ít tiền
Mua giùm miếng quế lâu niên
Đem về trị bệnh khỏi phiền bà con.
Ai về Cổ Lũy cô thôn
Nước sông Trà Khúc sóng dồn lăn tăn.
Ai về quê ấy Nghĩa An
Ghé thăm phong cảnh chùa Hang, Bàn Cờ.
Ai về Cà Đó
Chịu khó xách ky
Tay cầm đôi đũa
Lưng đi lòm khòm.
Ai về Long Phụng thì về
Có sông tắm mát giếng kề một bên.
Ai về Cổ lũy, xóm câu
Nhớ mua đôi chiếu đón dâu về làng.
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ con cá bống sông Trà kho tiêu.
Anh ra đi lính cho làng
Nước mắt ròng ròng nhớ mẹ nhớ cha
Cực vì ông nớ trong tòa
Sức anh đi lính vậy mà phải đi
Ra đi tới rặng Trà Mi
Thấy kẻ thăm con người thăm cháu thiếp đi thăm chàng
Đi ra vừa tới ngoài Hàn
Thấy lính đi tập dư ngàn dư trăm
Thiếp thương chàng mới ghé qua thăm
Chàng qua nước bển biết mấy mươi năm chàng về
Thôi thôi em trở lộn về
Nuôi cha với mẹ trọn bề hiếu trung.
Ăn chanh chép miệng chua chua
Anh đưa em đến chợ Chùa xa xa
Mảng lo cha yếu mẹ già
Đặt lưng xuống đất con nhạn đà trở canh.
Anh ra đi đi lính cho làng
Thượng văn hạ võ làm quan triều đình
Ra đi có tướng có binh
Lên lưng con tuấn mã ra kinh một hồi
Phò vua một dạ trên ngôi
Em tưởng anh có ngãi em ngồi em trông
Hay đâu anh bạc ngãi vong ân
Liệng ra biển Bắc trôi lần biển Đông
Bấy lâu tưởng ngãi vợ chồng
Hay đâu tác nước biển Đông một mình.
Ai đem con én qua sông
Cho nên con én ngồi buồn rỉa lông
Chim khôn quen lấy cái lồng
Cá khôn quen dịch vợ chồng quen hơi
Cá về biển Bắc nghỉ ngơi
Chim dựa gầm trời ngày tháng đinh ninh
Cách xa nhắn một chữ tình
Cảm thương cho bạn một mình bạn ơi.
Anh ơi giữ đạo tam cang
Dù sanh dù tử cũng giữ cho toàn trước sau
Anh ơi đừng có ham giàu
Tỉ như con chim kêu núi Bắc, con cá sầu biển Đông
Có duyên thì vợ thì chồng
Không duyên ở vậy lập vườn hồng trồng hoa
Hỡi người bạn cũ gần xa
Ham nơi phú quý bỏ nghĩa ta sao đành.
Anh chẻ tre bện sáo ngăn sông
Kịp khi đó vợ đây chồng kết đôi
Anh chẻ tre bện sáo cho dày
Ngăn sông Trà Khúc chờ ngày gặp em.
Ai về Quảng Ngãi quê ta
Mía ngon, đường ngọt, trắng ngà, dễ ăn
Mạch nha, đường phổi, đường phèn
Kẹo gương thơm ngọt ăn quen lại ghiền.
Reply: Thơ Địa Danh hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
NHỮNG CÂU CA DAO QUẢNG NGÃI HAY NHẤT (tt)
Ba La, Vạn Tượng, Cầu Mông
Chạy quanh chạy quéo cũng về đồng Ba La.
Bao giờ Thiên Mã sang sông
Thì làng Mỹ Lại mới không công hầu.
Bậu về nhớ ghé Ba La
Mua cân đường phổi cho ta với mình.
Bao giờ rừng Thủ hết gai
Sông Trà hết nước mới sai lời nguyền.
Ba La đất tốt trồng hành
Đã xinh con gái lại lành con trai
Vạn Tượng những chông, những gai
Con gái mốc thích con trai đen sì.
Con mèo trèo lên tấm vách
Con chó dưới ngạch ấm ách chó tru
Thương anh kẻ oán người thù
Lên chùa Thiên Ấn mà tu cho rồi.
Cò bắt lươn cò trườn xuống cỏ
Lươn bắt cò cò bỏ cò bay
Từ ngày xa bạn đến nay
Đêm đêm tưởng nhớ, ngày ngày trông luôn
Kể từ Cầu Ván, Ao Vuông
Bước qua Quán Ốc lòng buồn lụy sa
Quán Cơm nào quán nào nhà
Ngóng ra Trà Khúc trời đà rạng đông
Buồn lòng đứng dựa ngồi trông
Ngó vô Hàng Rượu mà không thấy chàng.
Ngó lên Thiên Ấn nhiều tranh
Liều mình lén mẹ theo anh phen này.
Muối Xuân An, mắm Tịnh Kỳ
Khoai lang dưới Trảng, gạo thì Đường Trung.
Qua chùa núi Hó thắp bó nhang vàng
Xin cho bạn cũ lại hoàn như xưa
Trông trời chẳng thấy trời mưa
Rồng đi lấy nước rồng chưa kịp về
Lựu tìm đào, đào chẳng tìm lê
Lên non tìm quế, quế về rừng xanh
Trách ai treo ngọn thắt ngành
Cho chàng xa thiếp cho anh xa nàng.
Tư Nghĩa, Cửa Đại là đây
Gành Hàu, núi Quế đá xây nên chùa
Dưới thời bông súng nở đua
Ngó lên trên chùa đá dựng kiểng giăng
Ngó qua bên xóm Trường An
Ngó xuống hòn Sụp cát vàng soi gương.
Sơn Tịnh có núi Chân Trâu
Có bàu ông Xá, có cầu Rừng Xanh.
Sớm mơi xuống Quán Cơm em thấy hòn núi Hó
Chiều qua Đồng Có em thấy hòn núi Tròn
Về nhà than với chồng con
Ra đi gan nát dạ mòn vì đâu.
Sông Trà Khúc ai mà tát cạn
Rừng Trà Bồng ai đẵn hết cây
Anh mà đi với thằng Tây
Em đành phải dứt hết dây nghĩa tình.
Sông Trà sát núi Long Đầu
Nước kia chảy mãi rồng chầu ngày xưa
Núi Long Đầu lưu danh hậu thế
Chùa Thiên Ấn ấn để hậu hoàng
Ai về xứ Quảng cho nàng về theo.
(sưu tầm)
Ghi chú: ảnh nữ diễn viên Hồ Bích Trâm (quê Quảng Ngãi) minh họa sưu tầm từ internet
Reply: Thơ Địa Danh hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
NHỮNG CÂU CA DAO BẮC NINH HAY NHẤT
Ai về Nội Duệ, Cầu Lim
Nghe câu quan họ, đi tìm người thương.
Ai về phố Hội sông Cầu
Để thương, để nhớ, để sầu cho ai?
Để sầu cho khách vãng lai
Để thương, để nhớ cho ai, để sầu?
Anh có về Kinh Bắc quê em
Mà nghe quan họ, mà xem làng nghề
Quê em có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề cửi canh.
Ăn cơm mỗi bữa ba gà
Có về Kẻ Á với ta thì về
Kẻ Á thanh cảnh nhiều bề
Có ao tắm mát, lắm nghề thảnh thơi
Tháng tám thì được xem bơi
Tháng giêng xem hội mình ơi hỡi mình.
Bắc Ninh cho đến Phủ Từ
Qua cầu sông Nhị ngẩn ngơ tìm người
Tìm người chẳng biết mấy nơi,
Tìm ba mươi sáu phố thấy người ở đây.
Chơi cho nước Hán sang Hồ
Nước Tần sang Sở, nước Ngô sang Lào
Chơi cho chín trận mưa rào
Một trăm trái núi lọt vào trôn kim
Chơi cho bong bóng thì chìm
Đá bia thì nổi gỗ lim mập mờ
Chơi cho bể cạn sông khô
Căng buồm xuôi gió Hán Hồ gặp nhau
Chơi cho sông Lục sáu đầu
Cạn sông hết nước giồng mầu giữa sông
Chơi cho con ốc có sừng
Con lươn có vẩy mới ngừng đi chơi.
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng Tám thì về hội Dâu.
Dù ai buôn bán trăm nghề
Tháng tư, mồng tám thì về chùa Dâu.
Dù ai buôn đâu, bán đâu
Nhớ ngày mồng tám, hội Dâu thì về.
Đông Xuyên có bãi sân chầu
Có chùa Sùng Khánh, có lầu Bạch Vân.
Gặp nhau canh hát giao duyên
Bắc Giang trọng nghĩa, Bắc Ninh trọng tình.
Mồng năm chợ Ó
Quan họ dồn về
Hội vui lắm lắm
Chưa kịp đi tắm
Chưa kịp gội đầu
Trầu chửa kịp têm
Cau chưa kịp bổ
Miếng lành, miếng sổ
Miếng lại quên vôi
Người có yêu tôi
Thì người cầm lấy
Các anh đứng đấy
Thầy mẹ đứng đâu?
Mời lại xơi trầu
Mừng cho dâu mới
Mặt trời đã tối
Đám hội đã tàn
Ai có hồng nhan
Mang ra chơi hội
Dưới sông múa rối
Trên bãi trồng vừng
Một đấu, một thưng
Bằng nhau như tiện
Như tiện như tề
Kẻo thế gian chê
Chồng cao vợ thấp!
Mến yêu Lạc Thổ thì về,
Làng em làm mã có nghề chăn nuôi.
Đất vui, nhiều lợi thảnh thơi,
Gà chăn chim thả chờ thời mỗi niên.
Anh mà giật giải liên miên,
Gà chim giống tốt chẳng tiên nào tầy.
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng,
Ước gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Trên chùa dưới chợ
Hàng phố hai bên
Núi Rồng ở trên
Ngòi Tên ở dưới.
Trong sáu tỉnh người đà chưa tỏ
Ngoài năm thành chỉ có Bắc Ninh
Yêu nhau trở lại xuân đình
Nghề chơi Quan họ có tinh mới tường.
Reply: Thơ Địa Danh hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
CHIỀU TRÊN SÔNG HÀN
Em xa rời bến sông Hàn Nắng chao chát đổ, gió ràn rạt bay Lắt lay một mảnh trăng gầy Câu yêu gởi lại với ngày rụng rơi.
Bời bời đêm rủ lơi lơi Thuyền nghiêng nghiêng nổi, mây rời rời trôi Sợi buồn, tóc rụng ngang môi Giọt buồn, sao rụng ngang trời mưa sa.
Bến xưa, bướm cũ, vườn cà... Cung đàn đứt nhịp theo tà áo bay Em đi sương lạnh hương đầy Ta về yêu mãi những ngày yêu em.
Đà Nẵng 1994
(Tuyển tập thơ Lục Bát Tình - NXB Đồng Nai 1997)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Ghi chú: ảnh cầu Quay Sông Hàn (Đà Nẵng) và ảnh minh họa sưu tầm từ internet
Reply: Thơ Địa Danh hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
Thạch Động là một danh lam thắng cảnh ở Hà Tiên. Tương truyền Thạch Động là nơi Đại Bàng giam giữ công chúa và chính Thạch Sanh đã giết Đại Bàng cứu công chúa tại đây. Những câu thơ cuối Thanh Trắc Nguyễn Văn đã xếp thành hình bậc thang và tạo hiệu ứng âm thanh, nhằm miêu tả đường lên Thạch Động chông chênh cùng với tiếng chuông chùa âm vang trong chiều.
Hà Tiên thu đến rồi em Đường lên Thạch Động chông chênh nắng vàng Mây chiều rủ gió lang thang Bẽ bàng lá giận khẽ khàng rụng rơi.
Đá xanh xanh bám đỉnh trời Giọt tan lách tách ướt lời đưa trao Câu quen quen đến ngọt ngào Câu thương thương đến bứt nhàu cỏ may.
Cầm tay rồi lại dắt tay Dìu nhau qua hết tháng ngày buồn tênh Nẻo lên .......lối xuống .............gập ghềnh Chuông rền Thạch Động ...................bồng bềnh khói sương.
Hà Tiên 1997 (Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Ghi chú: ảnh Thạch Động và ảnh minh họa sưu tầm từ internet
Reply: Thơ Địa Danh hay nhất (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
Sông Rừng còn có tên là sông Vân Cừ, nhưng nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam là với tên sông Bạch Đằng (trong thơ ca còn gọi là Bạch Đằng Giang). Tôi đến bến phà Rừng lần đầu tiên vào năm 1997. Khi ngồi đợi qua phà, trong một quán nước tôi vô tình nghe được câu chuyện của một đôi vợ chồng già phải đi làm ăn xa nay mới có dịp cùng nhau về thăm lại quê hương. Tôi đã xúc động viết bài thơ này...