Reply: Thơ hay về Tình Yêu (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
BÀI THƠ NỬA ĐỜI VÀ BỐN BI KỊCH LỚN CỦA CON NGƯỜI
1. Bi kịch thứ nhất: Bi kịch trong tình yêu
Nửa đời
Nhỏ lệ làm sông
Thuyền yêu chèo mãi
Vẫn không thấy bờ.
Với giọng thơ lục bát nhưng Thanh Trắc Nguyễn Văn đã vận dụng lối ngắt nhịp biến 2 câu thơ lục bát 6 - 8 thành 2 - 4 - 4 - 4 để tạo nên một âm điệu vừa trữ tình vừa khoắc khoải bi thương. Yêu như trong bài thơ thì làm sao giữ gìn hạnh phúc được? Yêu là phải có nghị lực vươn lên. Tôi nhớ một bài thơ khác cũng của Thanh Trắc Nguyễn Văn, đã có một ý thức và một cách xử lý trong tình yêu hoàn toàn khác hẳn:
Cầm lên một trái khổ qua
Khổ mà kêu khổ đúng là khổ thôi
Yêu nhau leo núi vượt đồi
Chia bùi xẻ đắng khổ rồi cũng qua!
(Trái khổ qua – Thanh Trắc Nguyễn Văn)
Bi kịch trong tình yêu chính là sự ủy mị, sướt mướt. Nước mắt chỉ làm người ta thương hại chứ không giữ được tình yêu. Khoảng những năm 1980 Liên Xô có bộ phim nổi tiếng Mat-xcơ-va không tin vào những giọt nước mắt. Nay qua bốn câu thơ đầu của bài thơ Nửa đời nên có thêm một thành ngữ mới: ”Tình yêu không giữ được từ những giọt nước mắt”. Hình ảnh và hình tượng bài thơ rất đắt: ”Nhỏ lệ làm sông”, ”Thuyền yêu chèo mãi/ Vẫn không thấy bờ” gợi đến những hình ảnh đã có từ rất lâu trong tình yêu: ”biển tình”, ”biển ái” nhưng nghiệt ngã hơn rất nhiều. Cái giá phải trả của một người không có ”bản lĩnh” trong tình yêu cũng thật đáng thương ”thuyền yêu chèo mãi vẫn không thấy bờ”. Thanh Trắc Nguyễn Văn đã khéo léo dùng tu từ và nghệ thuật đúc kết cho người đọc một kinh nghiệm trong tình trường mà chắc có lẽ anh đã từng ít nhiều trải nghiệm qua.
2. Bi kịch thứ hai: Bi kịch của những người muốn làm ”nhà thơ”
Nửa đời
Xếp chữ làm thơ
Chữ “tình” đi mất
Bỏ “khờ” chèo queo.
Chưa bao giờ nước ta lại có rất nhiều người làm thơ như hiện nay. Người làm thơ thì nhiều nhưng những nhà thơ đúng nghĩa thì lại rất ít. Thơ phải viết ra từ cảm xúc, từ nghệ thuật tinh tế. ”Sáng tác” thơ mà xếp chữ cho ra một bài thơ có vần, có điệu như quay một khối rubik thì còn gì là thơ! Đó là ”thợ thơ” thì đúng hơn! Tôi còn nhớ có lần nghe một ”nhà thơ ” tự phong ở một câu lạc bộ thơ nọ, tuổi cũng đã lục tuần, lên hội trường đọc những câu thơ ngô nghê như sau:
Sáng nay mùng tám tháng ba
Chào mừng đại hội các bà các cô...
Nghe thật tức cười nhưng cũng thật giật mình vì nghe đâu ”nhà thơ” này đã xuất bản được hơn tám tập thơ và hiện đang chuẩn bị xuất bản tập thơ thứ chín! Thế mới hay làm thơ thì dễ nhưng làm thơ để đi được vào lòng người thì khó vô cùng. Cái giá phải trả của những người làm thơ loại này là đến một lúc nào đó họ mới hiểu ra mình đã quá dại dột. Họ làm thơ ”tình” nhưng chỉ để người ta xem xong và cười, có người còn xấu miệng hơn bảo họ là những kẻ háo danh. Đó chính là chữ ”khờ” của những ”nhà thơ” không có thực tài. Tuy nhiên đây là bi kịch rất dễ thương. Họ ”khờ” vì sự đam mê nghệ thuật quá đáng của mình. Có thể sự đam mê đó gây phiền nhiễu cho nhiều người khác nhưng không hề gây ra nguy hại nghiêm trọng cho xã hội. Thanh Trắc Nguyễn Văn đã dùng tu từ nhân cách hóa cho chữ ”tình” và chữ ”khờ” để biểu hiện một cách thật sinh động và cũng thật hài hước:
Chữ “tình” đi mất
Bỏ “khờ” chèo queo
Nhìn chung Thanh Trắc Nguyễn Văn đã khá thành công khi anh tạo nên một tiếng cười vui nhưng đầy cảm thông cho loại bi kịch đáng yêu này.
3. Bi kịch thứ ba: Bi kịch trong kinh doanh
Nửa đời
Bán mảnh trăng treo
Tháng năm rơi trắng
Cái nghèo còn mang.
Đã là nhà thơ hầu hết ai cũng có chút bệnh ngông! Ở Trung Quốc có nhà thơ Lý Bạch nhảy xuống dòng sông ôm trăng mà chết. Ở Việt Nam ta thì có nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng đòi bán trăng trên trời! Nhiều người khác cũng thế, họ kinh doanh rất nhiều thứ và nhiều người trong số đó đã phải cam chịu thất bại, chẳng hạn như những người ”kinh doanh thơ”. Trong một bài thơ trào lộng nhà thơ Tản Đà cũng đã từng kể chuyện ông gánh ”đống thơ ế” lên bán chợ trời!
Ở đây Thanh Trắc Nguyễn Văn dùng tu từ ẩn dụ ”mảnh trăng treo” để nói lên những cái gì rất đẹp và rất nghệ thuật. Nhưng cái đẹp, cái nghệ thuật ấy chưa chắc đã kiếm ra tiền! Kết quả là gì? Là hơn ”nửa đời” người kinh doanh, đầu tư nhưng trắng tay vẫn hoàn trắng tay! Họ hoàn toàn hiểu những điều gì họ đã và đang làm nhưng chưa chắc họ đã nhận được sự đồng cảm của những người thân. Có những người luôn bị vợ hoặc con cái chì chiết là ”vô dụng” hoặc nặng nề hơn ”là đồ ăn hại”!
Câu thơ thật phũ phàng:
Tháng năm rơi trắng
Không sinh được lợi lại còn bị mất thời gian:”tháng năm rơi”. Càng đọc, càng ngẫm nghĩ lại càng thêm chua xót. Thật đúng là ”Cơm áo không áo không đùa với khách thơ” (Thơ Xuân Diệu).
4. Bi kịch thứ tư: Bi kịch cho những người đi tìm hạnh phúc
Nhân vật trong bài thơ hình như yêu rất nhiều. Anh ta luôn mơ đến những mối tình cao và xa đối với những nàng hoa hậu chân dài. Những chuyện tình đó thật phù phiếm và không thực. Thanh Trắc Nguyễn Văn đã dùng hình ảnh rất sinh động để diễn tả :
Nhặt giấc mơ hoang
Vâng đúng vậy, loại tình yêu đơn phương chỉ một chiều, không cân xứng kiểu như Trương Chi yêu Mỵ Nương thì quả thật đúng là một loại bi hài kịch xã hội. Đó là những ”giấc mơ hoang tưởng” không thực tế.
Thanh Trắc Nguyễn Văn đã dùng một từ rất ”đắc” đó là ”vấp”! "Vấp” chỉ xảy ra khi người ta không chú ý và giúp con người thật sự được ”bừng tỉnh”! Đã vậy, ở đây còn lại là ”vấp” vào nỗi ”nhớ”. Thật rất mới và rất lạ! Nhờ ”vấp” mà nhân vật trữ tình trong bài thơ chợt ”nhớ” đến một người con gái vẫn còn yêu thương mình thật lòng. Nhân vật vội vã ”bàng hoàng” đi ”tìm em”. Nhưng dù sao cũng đã hơn ”nửa đời” người rồi, không biết ”người ấy” đã mất hay vẫn còn trên dương thế? Nếu vẫn còn liệu người ấy có còn chờ đợi hay đã sang thuyền khác mất rồi? Than ôi!
(Giải nhất Bình thơ trong tháng tại trang web văn học Đất Đứng năm 2010)
Reply: Thơ hay về Tình Yêu (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
CHIỀU BÀ ĐIỂM
Chiều Bà Điểm xanh ngát
Hàng cây gió rì rào
Lá vọng vào nỗi nhớ
Nắng vỡ rụng lao xao.
Em cười sao chẳng nói?
Áo bà ba mịn màng
Ta mơ làm nhẫn cỏ
Nguyện đời hết lang thang.
Gập ghềnh xe thổ mộ
Lộc cộc bánh vang đều
Nhà ai đun củi bếp
Khói mờ cửa lam rêu.
Hoàng hôn dần dần tím
Sương thu nhòa nhòa xanh
Ngập ngừng ngừng lối nhỏ
Chưa xa xa sao đành?
Chợt qua chiều Bà Điểm
Cầm ngẩn ngơ miếng trầu
Trầu xanh têm vôi thắm
Đôi chim trời bay cao.
Hóc Môn 1999
(Tập thơ Cỏ Hoa Thì Thầm – NXB Thanh Niên 2002)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Ghi chú: Người mẫu Hoa khôi học đường năm 1994 Thủy Tiên (áo xanh) trong bức ảnh nổi tiếng Trở về của nhiếp ảnh gia Nguyệt Vy và ảnh minh họa sưu tầm từ internet
Reply: Thơ hay về Tình Yêu (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
ĐỌC TẠM BIỆT PHONG NHA CỦA THANH TRẮC NGUYỄN VĂN
Động Phong Nha là một trong những danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhất của Việt Nam. Tôi cũng đã đến Phong Nha được hai lần nhưng đều là ban ngày. Tác giả Thanh Trắc Nguyễn Văn tỏ ra rất sắc sảo khi chọn cảnh đêm có trăng để đặc tả cảnh đẹp của động Phong Nha. Đối với tôi đó là điều khá bất ngờ và khá độc đáo!
“Quảng Bình có động Phong Nha
Nửa đêm trăng xuống là đà trên sông”
Câu thơ rất tự nhiên và cảnh cũng rất đẹp. Trăng xuống ở đây không phải là trăng trên bầu trời rơi xuống mà là chính ánh trăng rọi rơi xuống mặt nước sông và nổi là đà theo sóng. Theo ý bài thơ thì có lẽ tác giả đang ngồi trên thuyền và sắp ra đi “tạm biệt Phong Nha”. Một cảnh chia ly thật nhiều cảm xúc. Cảm xúc như được nhân lên gấp bội theo các câu thơ:
“Người đi nổi nhớ chìm mong
Câu thơ gởi lại mãi bồng bềnh trôi”
Thuyền đưa người đi bập bềnh theo sóng. Khi sóng đưa thuyền “nổi” lên thì “nhớ”, còn khi sóng đưa thuyền “chìm” xuống thì lại “mong”! Câu thơ tác giả gởi lại cũng da diết không kém: “bồng bềnh trôi”, nghĩa là cũng có “mong” có “nhớ” trong đó! Bút pháp thơ tình của Thanh Trắc Nguyễn Văn thật lãng mạng và cũng thật là đa tình!
“Động Tiên tiên ở trên trời
Tôi theo níu vội rối bời sợi tơ
Kìa em Mái Tóc mộng mơ
Chàng Khổng Lồ ngó cứ vờ không quen…”
Đây có lẽ là đoạn thơ tác giả hồi tưởng khi vào thăm động Phong Nha. Những địa danh trong động Phong Nha như Động Tiên, Mái Tóc, Chàng Khổng Lồ,… đều được tác giả nhân cách hóa rất khéo và cài vào bài thơ một cách thật sinh động. “Em” chính là cảnh, cảnh cũng chính là người thiếu nữ đất Quảng Bình? Thơ tả cảnh nhưng thật ra tả tình, thơ tả tình thật ra để tả cảnh. Ảo và thật cứ hòa quyện vào nhau đúng như một người đi lạc vào “Động Tiên” vậy!
“Chén nồng cạn với đêm đen
Gió thu rạo rực cũng len lén về
Phong Nha sóng vỗ tứ bề
Nhanh tay hứng được câu thề tặng em.”
Đây là đoạn thơ mà có rất nhiều bạn thích. Theo các bạn ấy thì câu thơ nghe thật sinh động và thật trữ tình, nhất là từ "gió thu rạo rực". Nhưng theo tôi lại nghĩ khác. Đồng ý là đoạn thơ này Thanh Trắc Nguyễn Văn đã viết được những câu thơ lục bát rất điêu luyện, nhuần nhuyễn khiến âm điệu nghe thật nhịp nhàng, ý tứ thật mới lạ, thật bay bổng. Song le “câu thề mà hứng từ sóng nước” lên rồi trao tặng cho “người đẹp” thì tôi e có vẻ ngẫu nhiên và không thật lòng! Nhưng xin cũng đừng trách Thanh Trắc Nguyễn Văn vội. Đó là bản chất của các nhà thơ. Họ luôn thường rất đa tình, đa sầu, đa cảm và cũng rất đa mang!
“Sông Son son sắt nào quên
Giọng hò xứ Quảng cứ chênh vênh sầu”
Đoạn thơ cuối đưa người đọc rời khỏi cảnh hồi tưởng để quay về cảnh đầu lúc chia ly. Sông Son theo tôi biết nước có màu xanh ngọc rất đẹp, nhưng ở đây tác giả muốn nói đến một ý khác: “son sắt”, nhằm để nói lên cái tình của người con gái Quảng Bình thủy chung như nhất. Hình tượng cuối bài thơ được trải dài và thật đẹp:
“Nụ cười em rải sông sâu
Trăm năm tôi vớt
Vẫn màu nhớ nhung…”
Tạm biệt Phong Nha là một bài thơ tình hay. Lời thơ thật trong sáng, thật dễ hiểu nhưng cũng rất trữ tình. Tác giả cố ý dùng nhiều từ lấp láy như: là đà, bồng bềnh, chênh vênh,… hoặc sử dụng tu từ điệp từ như: Động Tiên tiên ở trên trời (hai từ “tiên” liền nhau), Sông Son son sắt nào quên (hai từ “son” liền nhau) khiến các câu thơ trở nên giàu âm điệu và giàu hình ảnh một cách rất đặc sắc
(Giải nhất Bình thơ trong tháng tại trang web văn học Đất Đứng năm 2010)