Kho truyện ngắn cực hay

shopoga

✩✩
PHẦN 67

Đây nói về hơn 40 vạn quân Văn Lang rầm rầm rộ rộ tiến sâu vào Nam Văn Lang, thấy xác người rải rác khắp nơi, cái cảnh giống như vườn không nhà trống, nếu không còn những người dân thưa thớt. Cũng may những người dân sống sót ở lại kể rõ đầu đuôi sự việc.

Các quan tướng Văn Lang vô cùng tức giận nói:

Hãy tiến quân truy sát bọn chúng.

Cao Lạc Tể Vương nói:

Lãnh Nam núi rừng điệp điệp, biết Hồ Chiêm Quân ở chỗ nào mà bắt, hơn nữa bá tánh muôn dân cũng như ba quân tướng sĩ đều là vô tội, mà kẻ có tội chính là Hồ Chiêm Quân mà thôi, xét cho cùng tất cả đều là con cháu Tiên Rồng, nếu có ý chống lại nhà nước Văn Lang sát hại đồng bào lần nữa thời đưa quân quét sạch cũng không muộn. Điều trước mắt là khôi phục lại các Châu, Quận, Huyện, bổ nhiệm các quan tướng nơi đây.

Vua Hùng sau khi rút quân về Kinh Đô Văn Lang để lại 10 vạn quân trấn giữ Nam Văn Lang, đóng quân tại Bình Châu Nam Hồ. Đại Quân trở về Long Biên rồi lên Phong Châu tiến về Kinh Đô Văn Lang. (Trong các triều đại Vua Hùng, Kinh Đô Văn Lang được xây mới dời chỗ nhiều lần ở Phong Châu và lân cận Phong Châu, tùy theo nền kinh tế phát triển).

Kinh Đô Văn Lang thời Hậu Hùng Vương là Kinh Đô mới, khi đại quân tiến về Kinh Đô thời các Châu, Phủ, Quận, Huyện dân chúng ở hai bên đường đông nghịt kéo dài hơn trăm dặm, ca ngợi chiến công oanh liệt.

Hô vang khẩu hiệu:

Văn Lang muôn năm, muôn năm, muôn năm. Vua Hùng vạn tuế muôn năm, muôn năm, muôn năm. Con cháu Tiên Rồng bách chiến bách thắng, bách chiến bách thắng. Mùa xuân non sông Tổ Quốc lại nở hoa đoàn kết, nở hoa anh hùng, nở hoa Trung Hiếu, kiên cường bất khuất.

Tiếng hò reo nhảy múa dậy nước dậy non.

Thơ rằng:

Kìa xuân nước xuân non ửng hồng xuất hiện

Tiếng hò reo lên tận chốn trời xanh

Rền Chiêng Trống rền ca hát ngợi khen

Ôi người thân ôi bạn bè hòa quyện

Tình dân cao ôi tràn đầy hứa hẹn

Đất Trời xuân đưa cuộc sống lên cao.

Một năm sau:

Én về én dệt mùa xuân

Còn ta, ta dệt yêu thương cùng chàng

Một năm dạ héo lệ mòn

Sao Chàng biền biệt để nàng tương tư.

Tiểu thơ, tiểu thơ đến rồi, đến rồi. Gì đến thế hở Xuân Mai. Tiểu thơ biết rồi mà còn hỏi. Nở nụ cười tươi.

Ngọc Thiên Hương hỏi Xuân Mai:

Ta thế nầy coi được không?

Xuân Mai nói:

Ở đây ai cũng nói Tiểu Thơ là Cung Chủ thiên giới xuống trần, đẹp hơn quí phái hơn Tiên Nữ giáng trần nữa là khác.

Thiên Hương nói:

Ngươi khéo ăn nói quá.

Ngọc Thiên Hương tuy đã biết trước mọi việc nhưng lòng vẫn có gì đó rất khó nói.

Tiểu Thơ Diệp Lang Vương Tử có đến không?

Ngọc Thiên Hương nói:

Không đến.

Sao thế? Xuân Mai hỏi.

Thiên Hương giải thích:

Vì chàng là Đích Tôn Vương Tử, Vua Hùng đời thứ 27, không phải lần nầy chỉ một mình ta đâu mà còn có cả An Lạc Tiên nữa.

Xuân Mai như chợt hiểu:

Vua mà mấy vợ mà không được.

Thiên Hương quở khéo:

Thôi đừng nghĩ bậy nữa.

Đây nói về Trung Đại Nhân, Trung Hoài Nghĩa, Trung Ngọc Thiên Hương đưa tiễn Vua Hùng về Nam một đoạn đường. Thời tức tốc về Châu phủ Kinh Giao Châu. Mẹ Ngọc Thiên Hương nhìn thấy Thiên Hương ôm khóc oài:

Con thời trở về còn chị con Ngọc Linh Châu thời ra đi vĩnh viễn.

Tình mẫu tử là thứ tình thiêng liêng cao cả, tình mẹ thương con vô bờ bến, hi sinh tất cả vì con. (Nên trong Văn Hóa Cội Nguồn Đức Cha Trời dạy, trong muôn ngàn thứ tội, bất hiếu với Cha Mẹ là thứ tội đứng đầu trong các tội, ngược lại có hiếu với Cha Mẹ là thứ Đức đứng đầu trong các Đức).

Ngọc Thiên Hương chưa xuất giá, ngày nào cũng chăm sóc cho Mẹ, ai cũng khen Thiên Hương là người con hiếu thảo. Bà Trung Đại Phu Nhân có phúc quá, còn Trung Đại Nhân thời suốt ngày bận rộn say sưa sửa sang đổi mới, từ quan phủ lên vương phủ. Còn Trung Hoài Nghĩa phụ giúp cùng cha cũng bề bộn suốt ngày, cho người đem hài cốt Ngọc Linh Châu về Kinh Giao Châu an tán gần nơi Vương phủ, để cả nhà tới lui thăm viếng. Vương phủ xây xong mà không thấy tin từ Kinh Đô Văn Lang đến, ông bà Trung Đại Nhân lo lắng vô cùng, nhất là Ngọc Thiên Hương mở cửa nhìn về phía Nam mãi.

Và một hôm có quan khâm sai đến báo tin:

Vài hôm nữa kiệu rước dâu sẽ đến, vương gia chuẩn bị thì vừa.

Vị khâm sai thông báo xong, lời qua tiếng lại xong tuần trà thời quan khâm sai cáo từ Trung Vương Gia Đại Nhân, nhắm hướng Tây Giang ra đi. Hai cha con Trung Đại Nhân nhìn vị khâm sai mất hút về hướng Tây. Trung Hoài Nghĩa nổi lên bao cảm xúc: Có lẽ An Lạc Điền nóng ruột chờ đợi tin nầy.

Đây nói về An Lạc Điền, An Lạc Sơn, An Lạc Tiên trở về thành Tây Giang Châu suốt ngày bận rộn sửa sang quan phủ lên vương phủ. Nhất là An Lạc Tiên chờ ngày trông đêm nhưng chờ hoài không thấy tin tức gì từ Kinh Đô Văn Lang cả, lòng hồi hộp không yên, bằng cho người đến Kinh Giao dọ tin thời cũng nhận được tin tức từ Kinh Đô Văn Lang. Lạc Tiên biết được tin nầy hơi yên tâm.

Duyên tình chớm nở từ lâu

Cớ sao mình lại u sầu thế ni

Vần mây buồn nhớ biến đi

Gió ơi hỡi gió lặng đi mây buồn

Cành Mai chờ đợi mùa xuân

Còn em chờ đợi tin chàng ở xa

Mai chờ xuân đến nở hoa

Em chờ Kiệu đến tình ta mặn nồng.

Nói về hai vương phủ, được tin Vua Hùng ban chỉ giao hôn, Diệp Lang cùng Ngọc Thiên Hương, An Lạc Tiên nên duyên chồng vợ, nhận được tin nầy, hai vị Vương phủ vô cùng mừng rỡ, viết thiệp mời bạn bè các Vương phủ Châu phủ đến chia vui.

Ngày lành rước dâu đã đến, hai Vương phủ đàn gái đông nghịt, kẻ ra người vào chúc tụng liên miên, giờ lành đã đến, hai phủ Vương gia tuy cách xa gần 300 dặm nhưng cuộc rước dâu xảy ra cùng một lúc.

Có người vào thông báo cho hai vị vương gia:

Vương gia, vương gia, kiệu rước xe hoa đã đến.

Hai bên đường dân chúng đông nghịt trằm trồ không ngớt, xe rước dâu đẹp quá, sang quá, Chạm Phụng, Trổ Rồng, quân binh hộ tống, có lẽ đây là đội ngự lâm quân mới oai phong như vậy, gươm, đao, giáo, mác chỉnh tề, rước dâu theo kiểu nhà Vương có khác, thành Tây Giang Châu cũng như vương phủ Trung Đại Nhân, đèn hoa rực rỡ, quân binh Vương phủ tiếp đón xe hoa hơn 2 – 3 dặm. Đàn ca kèn sáo du dương, ai nghe thấy như đang lạc vào cảnh giới Thiên Đàng. Ôi vàng bạc, châu báu, sính lễ cả xe, trầu cau rượu nếp, đãi cả làng không thiếu.

Quan khâm sai Đại Thần truyền lệnh:

Vương phủ họ đàn gái tiếp chỉ. Phụng Thiên thừa vận, chiếu theo Hiến Pháp phong tục Văn Lang, Trẩm thay mặt hai họ, đàng trai cũng như đàng gái phúc chỉ kết hôn. Ngọc Thiên Hương con vương phủ Đại Đại Thần, sánh vai cùng Diệp Lang Đức Tôn Vương Tử con của Thượng Vương Đức Thánh Điền Điền Lang. Ngọc Thiên Hương út nữ con Đại Đại Thần vương phủ Trung Đại Nhân sánh duyên kết hôn cùng Diệp Lang Đức Tôn Vương Tử con của Thượng Thượng Vương Đức Thánh Điền Điền Lang, tiếp chỉ.

Cả nhà Trung Đại Nhân lạy tạ tiếp chỉ, sắc chỉ phúc Hôn của Vua Hùng xong, mời khâm sai Đại Nhân vào phòng thượng khách tiếp đãi.

Còn nói về Tây Giang Đại Nhân, An Lạc Tiên nào có khác chi. Kiệu hoa xe hoa vào phủ thời huyên náo cả lên, kẻ lo khuân rượu, bưng trầu bưng cau vào nhà, người lo khuân vàng, vác ngọc, khiêng gấm, đồ sánh lễ nhiều vô kể. Còn phải tiếp chỉ.

Quan khâm sai Đại Thần đọc:

Phụng Thiên thừa vận, chiếu theo Hiến Pháp phong tục Văn Lang, Trẩm thay mặt hai họ, đàng trai cũng như đàng gái phúc chỉ kết hôn. An Lạc Tiên út nữ con Đại Đại Thần vương phủ An Lạc Điền sánh duyên kết hôn cùng Diệp Lang Đức Tôn Vương Tử con của Thượng Thượng Vương Đức Thánh Điền Điền Lang, tiếp chỉ.

Cả nhà An Lạc Điền lạy tạ tiếp chỉ, sắc chỉ phúc Hôn của Vua Hùng xong, liền mời khâm sai Đại Nhân vào phòng thượng khách tiếp đãi.

Có lẽ Tây Giang Châu xa hơn Kinh Giao Châu, xuất phát sớm mới theo kịp đoàn xe hoa Kinh Giao Châu. Gia đình An Lạc Điền đưa An Lạc Tiên lên xe hoa, đưa tiễn một đoạn đường rồi trở về phủ, tiếp tục tiếp đãi các quan khách gần xa. An Lạc Sơn thay mặt cha mẹ đưa em tới tận Kinh Đô Văn Lang.

Còn bên vương phủ Trung Đại Nhân ở Kinh Giao Châu, thời khâm sai Đại Nhân không lấy gì làm vội vã tiếp tục khoan thai ăn uống, cho đến ngày hôm sau mới lên đường về Nam. Cả gia đình họ tộc Trung Đại Nhân đưa tiễn Ngọc Thiên Hương một đoạn khá xa, chờ cho đoàn xe hoa mất hút cả nhà mới trở về Vương phủ.

Nói về Cao Lạc Hải là cháu bốn đời, Hùng Văn Lang Quốc Vương 24, Thượng Hạ Hùng Vương đời thứ nhất, Hạ Hùng Vương lên ngôi Quốc Vương Hoàng Đế thay cho bác ruột là Hùng Dịch Lang cuối dòng trưởng đời thứ 23. 1276 đến 1211 trước công nguyên thọ 132 tuổi đại thọ. 58 tuổi lên ngôi Quốc Vương, 65 năm ở ngôi Quốc Vương, 10 năm ở ngôi Thái Thượng Quốc Đạo. Nên được Vua Hùng ban cho sắc chỉ phúc Hôn.

Đây nói về ông bà Hạ Phúc Thịnh, quê ở Dạ Loan Châu, ba đời tu nhân, tích Đức, nỗi tiếng hiền lành khắp nơi, Quỷ Thần thường theo phù hộ ông bà, tiếng lành bay đến tai Diêu Trì Hoàng Mẫu, Hoàng Mẫu bằng gọi Lôi Tiên đến nói. Ta thấy con duyên trần chưa dứt, tất cả đều do cơ vận ý Trời xoay chuyển. Nước Văn Lang sắp bị yêu quái làm hại, con mau đầu thai xuống thế, hạ sanh vào nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh, đã ba đời tu nhân tích Đức, Hồng Phúc sâu dày, lớn lên theo Quang Âm Thánh Mẫu học Đạo tu Tiên, giúp quân Văn Lang triệt phá yêu Tinh, lập công nơi Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo Vũ Trụ, tăng thêm uy lực về sau.

Ở cung Tiên Vương Mẫu có bốn vị Tiên Cô, Phong, Vân, Lôi, Vũ. Lôi Tiên được lệnh Vương Mẫu đầu thai xuống trần, liền về Cung Lôi Âm, xuất hồn hóa một Đạo hào quang bay xuống hạ giới đầu thai vào nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh, lớn lên theo học Đạo tu Tiên với Quang Âm Thánh Mẫu, gia nhập quân Văn Lang, làm tới chức phó thống soái, thống lãnh ba quân tướng sĩ cùng với Cao Lạc Hải thống soái, đánh bại quân Ân chiến đấu với yêu Tinh, Bạch Cốt Ma Tổ, Bạch Cốt Ma Bà. Được Vua Hùng phong là Đệ Nhất Nhi Nữ anh hùng kiên trung hào kiệt.

Ông bà Hạ Phúc Thịnh vừa gặp Hạ Tiên trở về, vui chưa được bao lâu thời Hạ Tiên lại lên đường đánh giặc. Ông bà Hạ Phúc Thịnh lòng buồn nao nao, nhưng cảnh nước nhà đang bị ngoại xâm đánh phá, dân chúng cơ cực lầm than, ông bà Hạ Phúc Thịnh đành phải gạt nước mắt, chia tay với người con yêu dấu độc nhất mới trở về.

Tin thắng trận giòn giã dồn dập vọng về, ông bà Hạ Phúc Thịnh cảm thấy sung sướng tự hào, ông bà cảm ơn Trời Đất ban cho ông bà một Hạ Tiên vừa hiếu thảo, vừa xinh đẹp, nhất là về tài năng làm rạng danh dòng họ. Từ khi Hạ Tiên thống lãnh ba quân tướng sĩ đi đánh giặc, thời cả làng ai nấy cũng tự hào về làng mình. Nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh hồi nào cũng có kẻ ra người vào, kẻ tới người lui liên miên không dứt, ca ngợi không hết lời.

Thôn Dạ Quang hôm nay vui như ngày hội, đèn hoa rực rỡ, nhất là nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh, người đông nhưng ai nấy cũng bận rộn, nét mặt đầy vẻ hân hoan tràn đầy sức sống. Ông bà Hạ Phúc Thịnh trong bộ đồ sang trọng, đi tới đi lui tiếp đón niềm nở.

Có người nói:

Sao chưa thấy xe hoa, kiệu hoa đến.

Có người nói:

Tới phải có giờ có khắc chứ.

Có người nói:

Chị thấy Cao Lạc Tướng Quân chưa? tôi thì thấy rồi, đẹp trai oai phong lẫm lẫm, nghe đâu lên cấp Vương Gia rồi.

Người kia nói:

Không phải Vương Gia thôi đâu mà là Đại Vương Gia.

Người bé con hơn nói:

Vậy là Hạ Tiên làng ta trở thành Vương Đại Nương Vương Gia rồi.

Người cao hơn nói:

Đó là lẽ hiển nhiên rồi, còn phải nói.

Có người hỏi:

Đông Hải Châu, Bộ Lạc Hải giàu lắm phải không?

Bà chị kế bên nói:

Đúng rồi Bộ Lạc Hải có tới 7 – 8 Châu, Dạ Loan Châu chúng ta cũng nằm trong Bộ Lạc Hải. Nghe nói Cao Lạc Hải là con cháu của Cao Lạc Hầu Tể Vương, hoàng thân quốc thích với Vua Hùng, quyền uy giàu sang hết nói. Ông bà Hạ Phúc Thịnh có phước quá.

Người kia nói:

Chúng ta bì sao được. Ba đời nhà Phúc Thịnh làm phước làm Đức, đổ của đổ công giúp đỡ người nghèo, người tàn tật, người không nơi nương tựa, tu tạo nơi thờ phụng các vị Thần Tiên nhất là hết lòng thờ Trời, không dám làm điều sai quấy. Nỗi tiếng nhân Đức khắp vùng đó sao, nếu chúng ta muốn có cái phúc lớn thời phải tu luyện như gia đình của bà, có gieo thời có gặt, có nhân thời có quả, gieo giống nào trổ ra giống nấy.

Nghe qua lời nói nầy ai cũng nghĩ là đúng như vậy. Kìa đoàn xe hoa đã đến, tiếng kèn sáo văng vẳng vọng lại. Đến rồi đẹp quá, sang quá, một đoàn xe hoa rực rỡ. Đi trước kiệu hoa là một trang anh tuấn, nét mặt rạng rỡ như buổi bình minh, ai thế. Còn ai nữa đó chính là Cao Lạc Hải thống soái tướng quân.

Hôm nay Cao Lạc Hải không bận theo sắc phục theo kiểu Quân Đội mà ăn mặt theo kiểu chú rể lại càng làm thêm vẻ khôi ngô tuấn tú. Cao Lạc Hải cỡi con ngựa ô thật đẹp, dẫn đầu đoàn xe hoa. Quân binh tùy tùng đến nhà ông bà Phúc Thịnh rước dâu. Đoàn xe hoa tiến vào nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh trước sự hâm mộ của làng xốm, nức lòng trầm trồ khen ngợi. Nhìn đồ lễ cưới. Nào là vàng bạc Châu Báu, gấm vóc lụa là. Rượu ngon cả xe, Trầu Cau cả gánh. Đãi cả làng cũng không hết. Đúng là ngày vui cả làng, mặt sức mà thưởng thức. Rượu ngon, cao lương mỹ vị. Cái vui của ngày hội mừng cho đôi lứa nên duyên vợ chồng. Và cuộc vui nào cũng đến hồi kết thúc. Hạ Tiên trong y phục Cô Dâu lộng lẫy. Chẳng khác nào Tiên Nữ giáng trần. Lạy tạ từ giã ông bà Phúc Thịnh bước lên xe Hoa. Đoàn xe xa dần rồi mất hút đưa Hạ Tiên Về Đông Hải Châu. Sống hạnh phúc.

Năm năm sau. Nơi Dinh Thự Vương Phủ Đông Hải Châu. Tiếng vui đùa của trẻ con. Hình như là một trai một gái. Nơi vườn cây cảnh chạy tung tăng đùa hoa, đuổi bướm.

Bỗng nghe tiếng ông bà Phúc Thịnh gọi:

Phúc Tấn, Phúc Duyên coi chừng chạy gấp té.

Phúc Tấn, Phúc Duyên nghe ông bà Ngoại gọi. Liền chạy tới đứa vuốt râu, đứa thoát vào lòng bà Ngoại. Vậy mới biết cái quả hưởng phúc hôm nay không phải tự nhiên mà có. Mà đã có cái giá dày công tu nhân tích Đức, không chỉ một đời mà thậm chí nhiều đời. Gieo giống nào trổ ra giống ấy.

Đây nói về đoàn rước dâu về tới Kinh Đô Văn Lang hơn ba ngày mới tới. Hai đoàn xe Hoa nối đuôi nhau vào thành. Dân hai bên đường đông nghẹt. Đội kỵ quân 10 mét một người. Đứng hai bên đường, kéo dài 30 dặm, không cho dân chúng tới gần đoàn xe Hoa rước dâu, chỉ đứng ở xa mà nhìn. Không nói chúng ta cũng hiểu. Buổi lễ kết hôn long trọng đến mức độ nào. Nơi Vương Phủ nguy nga tráng lệ thuộc hàng bật nhất trong các Vương Phủ nơi Kinh Đô Văn Lang. Vương Phủ Đức Thánh Vương Điền Điền Lang Các vị cao cấp Vương Gia đều có mặt. Cũng may là hai Lão sui gia phi ngựa ngày đêm đến kịp.

Diệp Lang vô cùng hạnh phúc. Sống chung cùng hai người vợ xinh đẹp tuyệt trần. Ra sức chăm lo việc nước. Ngọc Thiên Hương. An Lạc Tiên giúp chồng những lúc khó khăn. Nên công việc luôn luôn trôi chảy. Về điểm nầy Vua Hùng khen ngợi không hết lời. Lại sinh ra con đàn cháu đống, làm nứt lòng ông bà, cha mẹ.

Ba mươi lăm năm sau: Diệp Lang lên ngôi Quốc Vương Hoàng Đế. Hùng Vương đời thứ 27 Thượng Hạ Hùng Vương. Đời thứ bốn Hạ Hùng Vương. Niên hiệu: Hùng Diệp Vương: Pháp hiệu Bảo Lang. Thay cho ông nội là Hùng Tiên Lang: Pháp hiệu Điển Lang. Điền Điền Lang. Cha của Diệp Lang, trở thành Thái Thượng Hoàng. Còn Hùng Tiên Lang: Điển Lang: Lên ngôi Thái Thượng Quốc Đạo. Thánh Tổ.

Như chúng ta đã biết Vũ Trụ có ba ngôi: Thiên Hoàng. Nhơn Hoàng. Địa Hoàng. Còn thời đại Vua Hùng thường nói đến ba đời. Ông, Cha. Và Đức Tôn: Là ba ngôi đặc biệt. Vì vậy sự lập ngôi kế vị. Ở thời Thượng Hùng Vương. Lập Đức Tôn kế vị là chính. Lớp già thay cho lớp trẻ.

Ở thời Hạ Hùng Vương, từ Hùng Vương thứ sáu trở về sau thường là truyền ngôi cho con, nhiều hơn là truyền ngôi cho cháu.

Nói đến trị quốc cũng khác thường. Ở vào thời đó không có một đất nước nào trị quốc như nước Văn Lang.

Thượng trị Quốc Hội thi hành Luật Pháp ngôi vị cao thượng nhất Thượng trị Quốc Hội. Đứng đầu các quan chức nhà nước Văn Lang chính là Quốc Vương Bệ Hạ, thi hành Quốc Pháp, Luật Pháp tối cao.

Còn ban hành Hiến Pháp: Độc Nhất vô nhị: Bản Hiến Pháp Quốc Tổ ban hành, lúc dựng nước giữ nước mà thôi, chính là nền Quốc Đạo dân tộc. Còn ban hành Luật Pháp là do Hạ trị Quốc Hội quyết định qua các thời kỳ rồi thông lên Quốc Vương phê duyệt chứng nhận mới được thi hành.

Đức Tôn Vương Tử Diệp Lang lên ngôi Quốc Vương trị vì Thiên Hạ. 1077 đến 1020 trước công nguyên. Thọ 128 tuổi. 62 tuổi lên ngôi Quốc Vương. 57 năm ở ngôi Quốc Vương. 9 Năm ở ngôi Thái Thượng Quốc Đạo Thánh Tổ.

* * *
 

shopoga

✩✩
HẾT

XEM TIẾP ĐOẠN KINH VĂN SAU


Nói về Văn Hóa Cội Nguồn, lịch sử nền Quốc Đạo Văn Lang. Là sự đúc kết Tinh Hoa vũ trụ, một thứ Tinh Hoa văn minh mà chỉ Phật Thánh Tiên mới hiểu nổi. Còn ở lãnh vực phàm tục, dù thông minh cho mấy cũng chỉ khám phá phần lớp vỏ mà thôi, phần thô. Còn phần vi tế thời khó mà với tới cho được. Và đã thất truyền từ lâu, nguyên do dẫn đến thất truyền thời nhiều nhưng tóm tắc 10 nguyên do chính sau đây.

1 - Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc là do truyền miệng kéo dài quá lâu nên dẫn tới sai lệch, càng về sau càng sai lệch lớn, dẫn đến mất gốc mờ mịt về Văn Hóa Cội Nguồn.

2 - Là thêm bớt trong lúc truyền khẩu, làm lệch đi những ý chính nguyên văn của Văn Hóa Cội Nguồn, có thể nói Văn Hóa của loài Rồng biến thành Văn Hóa của loài Rắn nước.

3 - Là Văn Hóa Cội Nguồn không được truyền rộng rãi, chỉ truyền cho những người được lựa chọn, cũng vì thế mà dẫn đến sự thất truyền càng về sau càng lớn.

4 - Là do không để lại Kinh Luân, có lẽ vì lúc ấy chữ viết, giấy mực còn quá sơ sài, thậm chí giấy còn chưa ra đời, chỉ dùng da thú.

5 - Là do ngoại bang xâm lược thống trị đập phá hết di tích, liên quan đến Văn Hóa Cội Nguồn, sai lệch còn sót lại.

6 - Là do ách thống trị quá khắc nghiệt của quân xâm lược đối với truyền thống khơi dậy của nhân dân ta, chỗ nào khơi dậy chỗ đó liền bị triệt phá.

7 - Là do ách thống trị ngoại xâm, bóp méo lịch sử Văn Hóa Cội Nguồn chúng ta, chúng thêm bớt vài chi tiết, độc hại hơn nữa những chi tiết thêm bớt của chúng lại được các nhà tri thức của ta nghe theo chúng viết ra, để lại cho thế hệ con cháu tiếp nối học, càng học càng mờ mịt, không còn biết đâu là thật, là giả, để chúng dễ bề cai trị.

8 - Là do nô lệ kéo dài hàng nghìn năm, không những nô lệ về thể xác mà còn nô lệ cả về mặt tinh thần, bị nền văn minh, văn hóa của ngoại bang ngự trị, chia rẽ tinh thần đoàn kết dân tộc, dẫn đến cảnh nồi da nấu thịt.

9 - Một Dân Tộc đã mất Văn Hóa Cội Nguồn thời coi như tinh thần dân tộc đó không còn chỗ đứng, dẫn đến sai phạm nghe theo chúng làm hại non sông Tổ Quốc làm hại hạt giống Tiên Rồng còn sót lại trong tâm hồn người dân Đại Việt.

10 - Là do sự mê hoặc của ngoại bang, chúng dẩn dắt Dân Tộc ta đến con đường mất tự Chủ, đi trên con đường lệ thuộc mà chúng đã sắp đặt an bày.

Thường thường trong Văn Hóa Tiên Rồng hiểu được mưu đồ của địch, chúng ta mới có kế thắng địch, thắng ở tương kế tựu kế, thắng ở cương không được thời thắng nhu vậy, thắng ở nhu không được thời thắng ở chí, ý chí của mỗi dân tộc hùng anh, mang dòng máu Tiên Rồng.

* * *



LỜI TÂM HUYẾT CỦA NGƯỜI HỘ PHÁP

GIỮ GIÁO, TRUYỀN GIÁO

HAI CHỮ “TỰ HÀO”


Chúng ta sinh ra và lớn lên dù ở nước ngoài hay trong nước đều mang trong mình dòng máu Tiên Rồng, chung nền Truyền Thống lâu đời nhất là Truyền Thống chống ngoại xâm, hào hùng bất khuất, anh dũng kiên cường sáng chóa. Một nền Văn Hóa lâu đời có một không hai, nền văn minh đột phá thời cổ đại, nền văn minh tinh thần lẫn vật chất làm chấn động Địa Cầu thời đó, thời Đại Hùng Vương. Kéo dài Độc Lập 2622 năm, sự Độc Lập kéo dài ấy không phải tự nhiên mà có, chính là nhờ nền văn minh cao tột, Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo Dân Tộc. Nền văn minh đỉnh cao của nhân loại, lấy Hiến Pháp làm vua, lấy luật pháp làm thầy, tôn thờ Chính Đáng, đó là tôn thờ Tổ Tiên, ông bà, cha mẹ.

Tôn Thờ Tổ Tiên là tôn thờ bản thể Cội Nguồn, vô thỉ, vô chung như không thay đổi bản thể khai lập tạo ra con người và Vũ Trụ, hay còn gọi là Đấng Tạo Hóa, Tạo Hóa đã sinh ra nhân loại, cũng ban cho nhân loại nhiều thứ quyền. Trong đó quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền Độc Lập tự Chủ, những quyền cốt yếu nói trên không ai có quyền xâm phạm, khi họ sử dụng cái quyền của họ đúng theo Thiên Luật chính đáng, không ai hủy diệt được nó, nếu có hủy diệt thời không bao giờ hủy diệt được, thứ quyền thiêng liêng mà Tạo Hóa Tổ Tiên đã ban tặng cho mỗi con người.

Hãy tôn trọng quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền Độc Lập tự chủ. Những kẻ tự cho mình có quyền. Ban cho Thiên Hạ quyền tự do, quyền sống, quyền Độc Lập tự Chủ là những chú Hề trên sân khấu tuồng đời.

HIẾN PHÁP VĂN LANG có đoạn nói: Hỡi Đồng Bào trăm họ chúng ta sống trên một sân chơi bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, bảo vệ, tôn trọng quyền tự do, tôn trọng quyền mưu cầu hạnh phúc, tôn trọng Độc Lập chủ quyền của nhau, đó là chân lí, đó là lẽ phải. Đằng nầy nhà Ân không những không tôn trọng chủ quyền Độc Lập của nhau, đưa quân xâm lược đàn áp quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, biến bình đẳng thành nô lệ. Nói chung là chúng biến dân Văn Lang thành dân nô lệ của chúng và chúng đã thất bại. Khi quyền Độc Lập, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc bị đe dọa. Thời nhất tề đồng loạt đứng lên đánh đuổi kẻ thù ấy. Thời nay cũng thế mà thôi, quyền Độc Lập, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự Chủ bị đe dọa nghiêm trọng. Hay chế độ cửa quyền áp bức. Thời khó tránh khỏi tai họa chiến tranh. Hãy sống theo lối sống văn minh hiện đại. Sống theo Văn Hóa Cội Nguồn, tôn thờ Hiến Pháp, Luật Pháp, tôn trọng truyền thống Nền Quốc Đạo Dân Tộc.

* * *



LINH THIÊN


Phải nói là tối Đại Linh Thiên.

Theo tôi được biết những người xúc phạm đến Văn Hóa Cội Nguồn thời tai họa giáng xuống liền như, tự nhiên hộc máu mà chết, tự treo cổ mà chết, xe cán chết, nhảy lầu chết, rắn cắn chết, bò xốc chết, té cấm khẩu không chữa được, đột quỵ không chữa được, mất chức, mất quyền, tan nhà nát cửa, gia đạo bất hòa, điên cuồng khó chữa, con cháu nổi lên làm hại gia phong, từ giàu sang dẫn đến phá sản sạt nghiệp. Nói chung tai họa giáng xuống nhiều vô số đối với những người bất kính đối với Văn Hóa Cội Nguồn. Còn những người thành kính thì sao, người điên trở thành hết điên, tự nhiên thông minh kỳ lạ, học hành thường đến nơi đến chốn, tai họa ít xảy đến, những bệnh nan y thường gặp may chữa khỏi, lên chức, lên quyền, từ nghèo khó chuyển lên giàu, của ăn của để không hết, con cháu hiếu thảo làm rạng rỡ gia phong. Nói chung tùy lòng thành kính cầu chi đặng nấy, công Đức đối với Văn Hóa Cội Nguồn càng dày thời phước Đức càng cao. Sự linh Thiên ấy do đâu mà có.

1 - Là do Hồn Thiên Dân Tộc phò trì tạo ra.

2 - Là do Thánh Thần Phật Tiên gia hộ tạo ra.

3 - Là do Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu, Lạc Long Quân, Âu Cơ tạo ra.

4 - Là do các Long Thần Hộ Pháp tạo ra.

5 - Là do sự hiển linh của ông bà nhiều đời nhiều kiếp tạo ra, khiến cho con cháu gặp nhiều may mắn. Lập công với Văn Hóa Cội Nguồn. Rạng danh tổ tông dòng Họ.

Đây là những điều tai nghe mắt thấy, không phải những lời bịa đặt mà là sự thật không thể tưởng tượng nổi.

Báu vật Trời cho khá giữ gìn

Anh Linh truyền thống đã hồi sinh

Con đường hạnh phúc giờ đã đến

Truyền bá cho đời rạng danh nên

* * *

Kinh sử Cha Ông mãi sáng ngời

Soi đường dẫn lối mãi vạn đời

Gươm thiên trấn quốc truyền hậu thế

Ngoại xâm khiếp vía khiếp tả tơi

* * *

Văn Lang kinh sử đã ra đời

Long, Lân, Quy, Phụng, đã chầu trời

Sấm dậy ầm ầm rền đất Bắc

Khiếp kinh hồn vía khiếp ôi ôi

* * *

Việt Nam chữ S trổ oai linh

Rồng Tiên chuyển hóa diệt yêu tinh

Đại Cáo Đông Tây Thiên Quyền Nhân Chủ

Đại Đồng Bình Đẳng Đại Anh Linh

* * *

Dân Tộc Việt Nam đã sẵn sàng

Chung nhau xây dựng ánh đạo vàng

Truyền thống anh linh thời dựng nước

Truyền thống anh hùng vẻ vẻ vang

* * *

Văn Kinh sử lược đã trao tay

Lo gì chẳng được đắp xây hòa bình

Lo gì chẳng được sang giàu

Lo gì chẳng được về Trời an vui

Nếu như biên chép ấn in

Hồn thiên che chở Cha Ông phù trì

Huống chi truyền bá cho đời

Cầu chi đặng nấy gia đình bình an

Chuyển đời đổi số giàu sang

Cháu con vinh hiển vượt qua khốn cùng

Văn Kinh sử lược oai hùng

Chỉ cần ca ngợi cũng thành hiền nhân

Huống chi theo bước Cha Ông

Hiếu Trung, Trung Hiếu ra công đáp đền

Chung nhau xây dựng nước mình

Rạng danh dân tộc rạng ngời Việt Nam

* * *

Thành tâm lễ lạy kính tin

Những gì để lại Cha Ông cho đời

Văn kinh tỏa sáng ngời ngời

Chung nhau gìn giữ để rồi ấm no

Con đường Độc Lập Tự Do

Con đường truyền thống Ông Cha con đường

Kinh văn đã ở trong lòng

Về trời sống mãi phước phần trời cho

Nhớ câu Nguồn Cội Ấm No

Nhớ câu mất gốc héo khô ngọn cành

Việt Nam con cháu Tiên Rồng

Trở về Nguồn Cội xây đời vạn xuân

* * *
 

shopoga

✩✩
VĂN MINH NHẬN THỨC HIỂU BIẾT VỀ CÀN KHÔN VŨ TRỤ THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC VĂN LANG

Càn Khôn Vũ Trụ
Chia làm ba phần


1 - Thiên giới.

2 - Trần gian.

3 - Âm phủ địa ngục.



Thiên giới chia làm 3 phần

a: Thượng Thiên vũ trụ, có 4 tầng Trời.

b: Trung Thiên vũ trụ, có 18 tầng Trời.

c: Hạ Thiên vũ trụ, có 6 tầng Trời.

- Thượng Thiên vũ trụ, có bốn tầng Trời Vô Sắc Giới.

- Trung Thiên vũ trụ, có 18 tầng Trời Sắc Giới.

- Hạ Thiên vũ trụ, có 6 tầng Trời gọi chung là Dục Giới.



Trần gian nhân loại cũng chia làm 3 hạng người

a: Thượng căn.

b: Trung căn.

c: Hạ căn.

- Thượng căn: Không học cũng thông

- Trung căn: Có học mới biết, không học không biết.

- Hạ căn: Đầu óc u tối, học mười chỉ hiểu được một. Có khi học Tây nghỉ Đông, học một đường hiểu một nẻo.



Âm phủ có ba đường khổ

a: Địa ngục tù đày.

b: Luân hồi Ngạ Quỷ.

c: Luân hồi súc sanh.



Nói về Thiên giới

Từ Cung Trời Đao Lợi Thiên trở lên gọi là Không cư Thiên Thiên Tiên.

Cõi Trời, Cung Trời, dưới Cung Trời là Cung Điện rồi đến Cung Động.

Như vậy từ tầng Trời Đao Lợi Thiên trở xuống. Chư Thiên ở Cung Trời, rồi đến Cung Điện, Cung Động. Tổng cộng là 36 Cung Trời, 72 Cung Động Cung Điện. Trên núi, dưới núi, trong lòng núi. Cùng khắp hạ hạ thiên vũ trụ. Có 7 núi chính lớn nhỏ cao to xa gần. Núi Tu Di Sơn nằm ở giữa.

1: Là núi Trì Địa Sơn.

2: Là núi Chướng Ngại Sơn.

3: Là núi Mã Nhĩ Sơn.

4: Là núi Thiện Kiến Sơn.

5: Là núi Đảm Mộc Sơn.

6: Là núi Trì Trục Sơn.

7: Là núi Song Trì Sơn.

Bảy núi nầy xa gần ở giáp vòng núi Tu Di Sơn.



Lại nữa núi Tu Di Sơn không những to, cao, lớn, mà xung quanh còn có 7 Kim Sơn bao bọc đó là:

1: Là núi Du Kiện Đà La.

2: Là núi Y Sa Đà La.

3: Là núi Kiệt Địa Lạc Ca.

4: Là núi Tô Đạt Lê Xá Na.

5: Là núi Án Thấp Phược Yết Noa.

6: Là núi Tỳ Na Đát Ca.

7: Là núi Ni Dân Đạt La.

36 Cung Trời 72 Cung Động Cung Điện.



Hạ hạ Thiên vũ trụ. Thánh – Thần – Phật – Tiên – Tà Giáo – Chánh Giáo phân nhau để ở. (Xem Kinh Long Hoa Pháp Tạng Sẽ Nói Rõ Hơn)

Sống ở Hạ hạ Thiên vũ trụ. Từ Cung Trời Đạo Lợi Thiên trở xuống. Nhân loại chư Thiên được phân làm hai loại người.

* – Một loài người là con cháu nhà Trời do hai Đấng Tiên Rồng sanh ra lưu truyền nòi giống xuống gọi là Con Rồng Cháu Tiên. Đồng Bào Thiên Hạ.

* – Hai là do các loài Bò Sát, Cầm-Thú, Thảo Mộc tu luyện thành người.

Xét cho cùng Nguồn gốc con người có ra là do hai Nguồn:

1 - Là do Tổ Tiên Khai Hóa, sau khi thành lập vũ trụ xong. Hiện ra Đức Cha Trời Long Hoa Cửu Huyền cùng Tiên Cơ Địa Mẫu. Sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống cho đến tận bây giờ. Gọi là Con Rồng Cháu Tiên.

2 - Là do các loài Bò Sát, Cầm-Thú, Thảo Mộc tu luyện thành người. Con người bằng pháp thuật. Không phải do Tinh Cha Huyết Mẹ loài người truyền xuống. Nên không thể lưu truyền nòi giống con người được. Khi hết Thần Lực thời cốt nào trở về cốt nấy. Cốt Khỉ hoàn Khỉ. Cốt Chồn-Cáo, sẽ trở về cốt Chồn Cáo.

Vì vậy Nhân Loại Chư Thiên ở hạ Thiên vũ trụ. Chia làm hai giới Phi Nhân và Thánh Nhân, Phi Tiên và Thánh Tiên, Xiển Giáo cùng Triệt Giáo.

Nói tóm lại: Các loài bò sát, Cầm-Thú, Thảo Mộc tu luyện thành người. Tu theo Chánh Đạo gọi là phi Tiên-giả Nhân. Không tu theo Chánh Đạo. Sống theo ác tánh gọi là Yêu-Tinh hay còn gọi là Quỷ dữ.

Hạ Thiên vũ trụ có 6 tầng Trời cõi Dục là:

Tính từ cao xuống thấp

Tầng 6: Trời Ma La Thiên.

Tầng 5: Trời Tha Hóa Thiên.

Tầng 4: Trời Hóa Lạc Thiên.

Tầng 3: Trời Đâu Suất Thiên.

Tầng 2: Trời Dạ Ma Thiên.

Tầng 1: Trời Đao Lợi Thiên.

Dưới nữa là Tứ Đại Thiên Vương trấn giữ Đông – Tây – Nam – Bắc. Bốn phương lưng chừng núi Tu Di Sơn rồi đến Cung Điện, Cung Động, trên núi, dưới núi, trong lòng núi.

Nơi hạ Thiên vũ trụ 6 tầng trời cõi Dục. Ở tầng Trời Đâu Suất Thiên. Có vị Phật Tổ Di Lặc Thiên Tôn làm giáo chủ, giáo hóa Thiên chúng làm theo lời dạy của Đức Cha Trời. Long Hoa Cửu Huyền Lạc Long Quân.

Lại nữa ở tầng Trời Đao Lợi Thiên, trên đỉnh núi Tu Di. Có vị Ngọc Hoàng. Huyền Khung Cao Thượng Đế Đại Thiên Tôn ngự trị tại Cung Linh Tiêu. Trên cai quản 6 tầng Trời. Dưới cai quản 18 tầng Địa Ngục. Làm theo Thiên ý lời dạy của Đức Cha Trời duy trì Luật Tạng Công Đạo vũ trụ. Nói chung Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa tất cả đều là con cháu của hai Đấng Tiên Rồng. Lên ngôi Chủ Quản các tầng Trời, các cõi Trời, các Cung Trời, cho đến Cung Động, Cung Điện toàn vũ trụ. Điều hướng về Cội Nguồn truyền lời dạy của Đức Cha Trời. Di trì Luật Tạng, Thiên Tạng, Pháp Tạng Công Đạo vũ trụ. Giữ vững cán cân Công Lý, Đại Đồng bình đẳng, không thiên vị một ai hễ phạm tội thời bị Thiên Luật Công Đạo xoay chuyển phán xử như nhau.

VĂN MINH NỀN QUỐC ĐẠO VĂN LANG, LÀ SỰ VĂN MINH PHÁT NGUỒN TỪ CỘI NGUỒN VŨ TRỤ CŨNG NHƯ HÀNH SỰ THEO THIÊN Ý CHA TRỜI THIÊN LUẬT VŨ TRỤ. ĐỈNH CAO TỐI CAO THIÊN Ý HÓA CÔNG. RỐT RÁO CÔNG BẰNG BÌNH ĐẲNG. QUỐC ĐẠO VĂN LANG LÀ ĐẠO LUẬT TỐI CAO NHÂN LOẠI CON NGƯỜI. ĐẠO LUẬT THIÊN CÔNG ĐỨC CHÍ TÔN THEO THIÊN Ý CHA TRỜI TRUYỀN XUỐNG CHỐN NHÂN GIAN. TRỞ THÀNH HIẾN PHÁP NỀN VĂN HIẾN VĂN LANG.

Ở miền trung Thiên vũ trụ nơi tần Trời thứ mười một của trung Thiên giới, tính từ địa phận trung thiên giới trở lên. Tầng thứ 18 tính từ tầng trời Tứ Thiên Vương hạ thiên vũ trụ tính lên.

Tiền Thân Quốc Tổ Hùng Vương ở đây sanh xuống chốn nhân gian làm con Kinh Dương Vương (xem Long Hoa Mật Tạng sẽ nói rõ hơn). Nơi Cõi Trời phước sanh hàng năm vào mùa Thất sen nở rộ. Từ các ao thất bảo hào quang chóa lại đủ màu sắc, hương sen ngào ngạt. Là mùa lễ hội Long Vân. Phật – Thánh – Tiên – Thành – Chúa. Từ khắp thập phương vũ trụ cõi Trời, đều đến dự Đại Hội Long Vân, là những vị Đức cao Đạo trọng. Thần thông quảng đại, pháp thuật, trí tuệ, vô tận, vô biên, uy Quyền vạn cõi.

Các Ngài là những vị đương nhiệm điều hành vũ trụ. Theo bộ máy huyền cơ của Tạo Hóa. Di trì Công Đạo, cán cân công lý của luật bình đẳng nhân quả vũ trụ.

Lúc bấy giờ nơi tần trời thứ 18 của vũ trụ, Cõi Trời Long Vân bỗng nhiên to lớn dị thường, gấp hàng nghìn hàng vạn lần so với lúc bình thường. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, mỗi người mỗi vẻ. Hào quang muôn màu, muôn sắc vô cùng đẹp mắt, vô biên rực rỡ sinh động kỳ ảo vô cùng. Các Ngài đến dự hội Long Vân, đông vô số, vô biên. Không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn. Dù cho tính đến cả trăm vạn năm cũng không hết. Thấy các Ngài đã yên vị chỗ ngồi.

Biết đã đến lúc Khai Hội Long Vân. Đức Chí Tôn, chính là tiền thân Quốc Tổ Hùng Vương ngự trên tòa Kim Long Bá Bảo. To lớn như ngọn núi Tu Di. Từ tòa Kim Long Bá Bảo tám muôn bốn nghìn con Rồng Châu Báu, bỗng chuyển động. Mỗi con phát ra một đạo hào quang, xuyên suốt hư không làm chấn động vũ trụ. Từ nơi Đỉnh Đầu Đức Chí Tôn phát ra 8 muôn 4 nghìn đạo hào quang xuyên suốt hư không làm chấn động vũ trụ thưa thỉnh với Cha Trời là chúng Con Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa muốn được nghe lời Cha Trời Truyền Dạy. Tức thời nơi vũ trụ hư không vang ra tiếng sấm lớn. Tiếng sấm uy quyền tối cao của Đức Cha Trời. Tiếng sấm Đại Đồng bình đẳng. Tiếng sấm quang minh Chính Đại. Tiếng sấm luân hồi Nhân quả. Tiếng sấm an Lạc tự do. Tiếng sấm của Địa Ngục đau khổ. Tiếng sấm Đại Nguyện cứu khổ ban vui. Tiếng sấm Đại từ. Đại Bi. Đại Hỷ. Đại Xả. Đại Hạnh. Đại Trung Hiếu. Tiếng sấm khen ngợi Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa vì nhân loại vì Tổ Tiên, vì Cội Nguồn, thay thế Cha Trời chuyển đại pháp luân. và cứ thế Như Lai tạng tánh vang lên, 8 muôn 4 nghìn chủng tánh đà la ni. Mật Tạng của Đức Cha Trời. Pháp tạng huyền vi vũ trụ.

Mà Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa mãi mãi nghe theo và làm theo, giữ gìn truyền đạt lại cho người sau, làm lợi ích cho toàn nhân loại. Tùy theo sức lực. Hạnh Nguyện lớn nhỏ, lập công với Trời. Đức Cha Trời sẽ ban thưởng cõi nước lớn nhỏ tùy theo công Đức của mỗi người tạo ra.

Tiếng sấm Tạng Tánh Mật Tạng vũ trụ. Đức tánh của Đức Cha Trời vừa dứt. Tức thời nơi hội Long Vân năm màu da anh em bỗng nghe thấy mùi hương kỳ lạ. Chưa từng thấy từng nghe. Trỗi dậy từ chân không mỗi lúc một thêm ngào ngạt. Chỉ cần hít được là Tinh Lực: Công Lực: Thần Lực tăng lên gấp trăm gấp nghìn lần sức tu luyện hàng triệu triệu năm. Một chuyện hi hữu chưa từng xảy ra ở những lần Đại Hội. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa Đồng nghĩ. Có lẽ chúng ta là những người con, người cháu, chăm chỉ nghe lời dạy bảo của Đức Cha Trời nên Đức Cha Trời ban thưởng Tinh Hoa Tiên Thiên vũ trụ. Công Lực, Tinh Lực, Thần Lực, quí hiếm như vậy. Bỗng nơi hư không vũ trụ vang lên tiếng nói. Đúng thế đúng thế, các con là những người con chí hiếu đáng yêu đáng quí của ta. Đã có các con duy trì Công Đạo vũ trụ, thời ta không còn lo lắng chi nữa.

Bây giờ Đức Chí Tôn thấy Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa năm màu da anh em người nào người nấy hào quang rực rỡ liền chấp tay thi lễ hướng về Đại Hội. Đức Chí Tôn nói Thưa Đại Hội anh em. Chúng ta là anh em con một Cha, Chung một Cội Nguồn sống trong ngôi nhà chung vũ trụ. Anh em chúng ta từ xưa đến nay. Thay thế Đức Cha Trời điều hành vũ trụ. Luôn luôn phát Đại hạnh, Đại Nguyện dắt dẫn nhân loại con người sau xa lìa tội lỗi. Trở về Cội Nguồn. Trở về thật tướng thật tánh của mình. Nhổ sạch cội ác, thoát khỏi luân hồi sanh tử. Địa Ngục ngạ quỷ súc sanh, khốn khổ vô cùng.

Xét cho cùng cái gốc ác là do mê muội tạo ra mà thôi. Ác hay thiện đều do tâm mình tạo ra cả. Bản nguyên linh giác chân tánh nguyên thủy vốn không thiện, không ác. Trong sạch thanh tịnh vì thế mà ta đã đầu thai xuống trần gian. Truyền dạy lời dạy của Đức Cha Trời mở đường làm gương đi trước mở ra Văn Hóa Cội Nguồn nơi trần thế. Lập lên nhà Nước Văn Lang đồng thời cũng thành lập lên Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang. Chủ quảng Hồn Thiên Dân Tộc toàn cầu. Theo Thiên Ý Cha Trời Thiên Luật Vũ trụ chuyển xây bộ máy huyền vi không cho những Linh Hồn dấy loạn cõi tâm linh trần thế cũng như phạm Thiên Luật, Thiên Ý Cha Trời.

Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang nơi trần thế. Thống trị Linh Hồn toàn cầu cho hết tiểu kiếp thứ 9 sau 10 nghìn năm ở chốn nhân gian. Ta đã dựng lên nước Văn Lang. Mở ra văn hóa Cội Nguồn Quốc Đạo Tiên Rồng dân tộc Hiến Pháp đầu tiên của nước Văn Lang. Mật Tạng Tánh Đức Cha Trời. Cũng là Hiến Pháp độc nhất vô nhị Hiến Pháp Đa Nguyên Thiên Quyền Nhân Chủ, cao hơn Hiến Pháp Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ mấy bậc. (Xem Kinh Long Hoa Pháp Tạng sẽ nói rõ hơn)

Lời dạy của Đức Cha Trời cao thâm huyền diệu. tối đại Linh Thiên, tin theo làm theo thời phước đức uy lực trí huệ vô cùng, vô tận, vô biên. Bằng ngược lại chỉ cần không tin, hay hủy bán hoặc lợi dụng lời dạy của Trời làm lợi cho cá nhân. Thiệt hại cho bá tánh muôn dân. Thời tội ấy không biết đâu mà lường. Đại họa sẽ giáng xuống liên miên. Khi chết đi khó mà đầu thai trở lại làm người được nữa.

Khi Ta khai dựng lên nước Văn Lang Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo Tiên Rồng chỉ truyền xuống vị vua kế tiếp mà thôi. Vì lúc ấy trình độ dân trí còn quá thấp, mê tín dị đoan. Thờ tà giáo, các loài cầm thú. Hơn nữa Thiên cơ vũ trụ chưa chuyển đến giai đoạn văn minh vật chất. Các nhà khoa học vũ trụ, Thiên Tiên, Địa Tiên, chưa luân chuyển xuống trần. Nên giấy bút còn tạm bợ thô sơ lạc hậu chưa hoàn hảo chữ viết cũng vậy. Nên không để lại kinh giáo, chỉ truyền miệng, Cũng chỉ vì truyền miệng tam sao thất bổn không bao lâu nền Văn Hiến Quốc Đạo sai lệch mất gốc. Dân tộc Văn Lang dần dần rơi vào khốn khổ vì Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo chân chính không còn.

Khi ta về Trời các thế hệ Vua Hùng nối tiếp nhau duy trì Chánh Đạo Văn Hóa Cội Nguồn. Nhưng vì không có kinh, chỉ truyền miệng nên đã dẫn đến lệch lạc tam sao thất bổn, ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn mặt trời trí tuệ dần dần biến mất. U minh phủ khắp nhân gian thiên hạ đồng bào rơi vào ác Đạo. Thiện ác lẫn lộn đi vào binh đao máu lửa vô cùng thê thảm. Địa ngục âm phủ càng thêm mở rộng, khổ thay khổ thay.

Thấy Đức Chí Tôn lo lắng như thế. Nơi Pháp Hội Long Vân, có Đức Phật Tổ vô lượng quang Như Lai. Ngự trên tòa Sen Báu 8 muôn 4 nghìn cánh to như núi Kim Sơn, hào quang chói lọi uy lực, thần thông, trí huệ vô biên. Liền chấp tay thi lễ nói với Đức Chí Tôn rằng.

Thưa Đức Chí Tôn. Chí Tôn hãy an tâm. Tuy nơi chốn nhân gian là nơi vô cùng nguy hiểm. Đối với Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, khi lâm phàm liền rơi vào cảnh tối tăm. Lôi cuốn theo dòng đời trần thế Xuống trần nhiều, nhưng trở lại Thiên Giới thời rất ít.

Chỉ trừ các vị Tổ thời mới mong trở về ngôi vị cũ của mình. Nơi chốn nhân gian mạng lưới u minh dày đặt, gió bát phong thổi mạnh. Sáu trần đánh phá biến ảo khôn lường. Sáu căn đầy dẫy bệnh tật. Sáu thức không an trụ chân tánh được, thường luân chuyển vào cảnh tối tăm mù mịt sa vào ác Đạo.

Nếu không nhờ Thần Lực của Đức Cha Trời gia hộ thời Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, khi lâm phàm khó trở về ngôi vị cũ. Nói gì đến chuyện chuyển Đại Pháp Luân cứu thế. Vì thế Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa lâm phàm phải khế hiệp theo huyền cơ vũ trụ, mới bảo đảm linh căn trở về Thượng giới. Hiện giờ ở chốn nhân gian, huyền cơ vũ trụ đã chuyển đến giai đoạn phong Thần.

Các vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa ở hạ hạ Thiên vũ trụ. Địa Tiên vào cuộc, 36 cung Trời, 72 cung Động cung Điện lần lược lâm phàm luân chuyển tiến hóa, thanh lọc Linh căn. Từ địa vị Địa La Thần lên địa vị Thiên La Thần. Các vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, vị nào trụ tâm không vững sẽ rơi vào kiếp Phong Thần, uổng công hàng nghìn kiếp tu luyện.

Nước Văn Lang cũng không tránh khỏi Đại họa, vì chúa tể của các loài Hồ tinh ra đời thời không bao giờ bỏ qua món hận con Trời đã hại chúng. Lại nữa sau phong Thần 600 năm, Huyền cơ chuyển sang giai đoạn tam giáo. Phật giáo, Thánh giáo, Tiên giáo ra đời. Sau tam giáo 500 năm. Huyền cơ vũ trụ chuyển đến giai đoạn mở màn văn minh vật chất. Nhân loại chư Thiên ở hạ Thiên vũ trụ, lần lược thi nhau lâm phàm. Liền bị chuyển vào dòng xoáy, của màng danh lợi, rơi vào cảnh giới u minh. May nhờ ánh sáng Tam giáo soi đường, nên ít sa vào Địa ngục. Nếu không trở về thiên đàng được, thời cũng đầu thai trở lại làm người tiếp tục hưởng phước, tiếp tục tu luyện lập công tiến hóa linh hồn, chờ Hội Long Hoa Rồng Tiên ra đời. Ở vào giai đoạn nầy huyền cơ bắt đầu chuyển đến Trung Thiên vũ trụ tần Trời thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Tức là tần Trời 8, 9, 10 tính từ tầng trời Tứ Thiên Vương trở lên. Các chư Thiên ở ba tầng Trời nầy lần lượt lâm phàm. Trong số chư Thiên lâm phàm có Đức giáo chủ A MEN, 1 trong 100 người con của Đức Cha Trời. Hành Kim. Đem ánh sáng quyền năng Cha Trời xuống chốn nhân gian. Nhưng đó mới chỉ là ánh sáng hừng đông mở màng. Cho đến sau công nguyên 2000 năm, đầu thế kỷ 21, mặt Trời chân lý vũ trụ mới xuất hiện. Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ mới thật sự ra đời. Đây là giai đoạn vô cùng quan trọng, giai đoạn phong Thánh, Đại Thánh.
 

shopoga

✩✩
Từ thế kỷ 21 đến thế kỷ 30 một nghìn năm nhân loại Trần Gian đi theo Văn Hóa Cội Nguồn thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa vô lượng vô biên không thể tính đếm, không thể luận bàn cho hết được. Mặt Trời chân lý vũ trụ sẽ sáng mãi đến tiểu kiếp thứ 15 qua 84 triệu năm thời Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ mới lặng. Thay vào đó là ánh sáng Liên Hoa Hãi Tạng ra đời kéo dài cho đến tiểu kiếp 20 hết kiếp trụ. Ở kiếp hoại không có ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác ra đời, kéo dài 336 triệu năm cho đến khi trái đất nổ trở về chân không.

Lại nữa cuối tiểu kiếp tăng đầu tiểu kiếp giảm của tiểu kiếp thứ 10 Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ. Đã trải qua 8 triệu 4 trăm nhìn năm. Lúc ấy tuổi thọ của nhân loại trần gian đã tăng lên tới đỉnh, 8 muôn 4 nghìn tuổi. Thời Đại Hội Long Hoa vũ trụ mở ra ở khoảng chân không Hạ Thiên vũ trụ. Huyền cơ chuyển đến giai đoạn phong địa vị tối cao. Những chủ nhân tương lai Tổng Đà La Ni kế thừa Di Chí Tổ Tiên Như Lai, Cha Trời Mẹ Trời, chuyển đại pháp luân giai đoạn tối cao của nhân loại. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa. Nơi Hội Long Vân Nhờ nương theo thần lực của Phật Tổ Tổ Tổ nơi Pháp Hội ai cũng điều thấy rõ những sự việc xảy ra trong tương lai như vậy. Theo sự huyền vi Tạo Hóa sắp xếp của Cha Trời.

Bỗng thấy vũ trụ rung chuyển. Từ nơi tòa Kim Cang bá bảo to lớn như ngọn núi Thiên Sơn. Muôn Đạo Hồng Quang phóng lên dữ dội. Có vị Hồng Quang Lão Thánh Thánh Tổ Tổ Tổ. Chắp tay thưa với Đức Chí Tôn rằng. Chúng ta là con cái nhà Trời, thừa kế di Chí Cha Ông, cũng như thừa kế giang sang vũ trụ. Những Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa phải có nhiệm vụ. Kiến tạo xây dựng mỗi ngày một thêm xinh đẹp, vật chất lẫn tinh thần. Nhất là đạo đức con người mỗi ngày thêm phong phú rực rỡ hơn lên.

Từ khi Tổ Tiên lập lên vũ trụ. Hiện thân ra Cha Trời, Mẹ Trời khai tạo ra giống người dìu dắt Linh Hồn anh em chúng ta lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Vận hành bộ máy huyền vi vũ trụ, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời. giữ gìn Công Đạo Thiên Ý luật nhân quả vũ trụ.

Những linh hồn đã gieo được hạt giống tốt lời dạy của Đức Cha Trời tiến hoá lên ngôi vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, thời tùy theo Công Đức, và sự chứng ngộ hội nhập Cội Nguồn. Mà làm chủ các tầng Trời, cõi Trời, cung Trời, cung Điện, cung Động khắp tam giới.

Lại nữa các vị Tổ đại nguyện viên mãn. Hội nhập Cội Nguồn trở về bản thể Linh giác thật tướng thật tánh tối cao Tạo Hóa. Ví như bọt nước tan biến trở lại là nước. trở về ý thức thanh tịnh, bình đẳng Đại Đồng, Cội Nguồn vũ trụ ngôi vị Tổ Tiên Khai Hóa. Thành lập vũ trụ mới, thay thế vũ trụ cũ, già cỗi đi vào hủy diệt. Nơi pháp Hội Long Vân Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa nương theo ánh sáng hồng quang ai nấy cũng nhìn thấy rõ quá trình diễn biến. Quá khứ hiện tại vị lai không sót một chi tiết nhỏ.

Tức thời nơi pháp Hội Long Vân. Chúng hội ở địa vị Thần chuyển lên địa vị Thánh còn Phật Thánh Tiên chuyển lên ngôi Tổ Tổ vô lượng vô biên không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn. Chờ đến pháp Hội Long Hoa giữa tiểu kiếp thứ 10, các ngài Đồng phóng quang, tuyên thuyết, diễn thuyết bản thể chân tướng chân tánh. Đồng Cội đồng nguồn vũ trụ Đại Đồng bình đẳng có một không hai thật tánh, thật tướng vũ trụ.

Lại nữa nơi pháp Hội Long Vân, bỗng thấy hào quang ngũ sắc phóng lên dữ dội từ tòa châu báu Thái Cực lưỡng nghi to như ngọn núi Mộc Sơn. Có vị Không Không Lão Tổ Tổ Tổ, chắp tay thưa với Đức Chí Tôn rằng. Thưa Đức Chí Tôn từ đây đến cuối tiểu kiếp thứ 9 chỉ còn 8 nghìn năm nữa theo chốn nhân gian và nhân loại chỉ trụ được hơn 6 nghìn năm mà thôi. Tức là sau công nguyên chỉ hơn 5 nghìn năm. Còn trên nữa 2 nghìn năm tiếp theo thời con người khó mà sống, vì 2 nghìn năm cuối cùng của tiểu kiếp thứ 9, Tứ Đại, Đất Nước, gió lửa đi vào thái chuyển quá mạnh. Động Đất, Nước Biển dâng, Mưa to, Bão lớn Thời tiết khắc nghiệt. Nhiệt Độ tăng quá cao, cũng như hạ quá thấp. Con người sống sót tồn tại còn lại là không bao nhiêu ở những giai đoạn cuối tiểu kiếp thứ chín. Mở màn người nguyên thủy Thời Hồng Hoang lặp lại đầu tiểu kiếp thứ 10. Sau Công Nguyên 5 nghìn năm thời cơn bão bình thường cũng lên tới 200 cây số giờ. Nước biển dâng ngập hầu như gần hết các lục địa những đồng bằng nhiệt độ trung bình gần 100 độ C, động đất cực mạnh luôn luôn xảy ra khắp các châu lục và cuối cùng là chuyển đổi lục địa, năm châu bốn biển thay dạng đổi hình. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa ở Hạ Thiên, Trung Thiên lâm phàm xuống trần phò trì văn hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ làm lợi ích cho toàn nhân loại tiến hóa linh hồn lên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Biến Địa Ngục trần gian thành thiên đàng Cực Lạc giả tạm, trước khi nhân loại trở về Thiên đàng Cực Lạc chính thức. Các vị Thiên Tiên Địa Tiên lâm phàm cứu nhân độ thế mở ra khoa học văn minh vật chất, khai thác tài nguyên vũ trụ, tạo ra phương tiện máy móc phục vụ con người, giảm bớt thiệt hại thiên tai đang thái chuyển thay đổi sanh tiểu kiếp mới.

Nơi pháp Hội Thiên chúng Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, nương theo hào quang của Đức Không Không Lão Tổ Tổ Tổ thấy nhân loại trần gian sắp đi vào hiểm họa vì những nghìn năm đi lần về cuối tiểu khiếp. Chuyển sang tiểu kiếp mới theo luật tuần hoàn vũ trụ, các ngài đồng nghĩ ta phải cứu nhân loại phàm trần, thoát khỏi ba đường ác đưa nhân loại trở về Thiên Đàng Cực Lạc theo lời dạy của Đức Cha Trời, lập đại công dâng lên Đức Cha Trời, ý nghĩ tốt đẹp của các Ngài đã làm chuyển động cả vũ trụ. Những chỗ u tối xưa nay nơi vũ trụ bỗng tự nhiên sáng trở lên, các vị Thần, Thánh, Phật, Tiên toàn vũ trụ ca ngợi công Đức, phát tâm cúng dường, đồng loạt bay lên tầng Trời thứ 18 cõi Long Vân. Cúng dường đồ ăn, thức uống hiếm quí, hương Hoa Kỳ Hương dị bảo, kim cương ngọc ngà trân châu báu lạ. Thành trận mưa cúng dường mưa báu kéo dài, làm chấn động toàn vũ trụ tam Thiên Đại Thiên thế giới. Khắp nơi địa ngục lúc bấy giờ, người đại tội biến thành nhẹ tội, người nhẹ tội liền siêu sanh lên cõi nhân gian, sống trong sự giàu có.

Lúc ấy bỗng nơi hư không vang ra tiếng nói lớn. Hi hữu thay đáng khen thay, lòng Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xã đã phát huy tác dụng đến tận cùng vũ trụ, nơi tối tăm nhất cũng được tỏa sáng, nơi đau khổ nhất cũng được nhẹ đi, hi hữu thay đáng khen thay. Đáng khen thay đó là lời khen của Đức Cha Trời từ nơi hư không vũ trụ.

Nơi pháp Hội Long Vân, có một tòa kim cang bát Quái Châu báu to như núi song trì luôn luôn phát ra ánh sáng kì lạ, từ trắng thành đen, từ đen thành vàng, từ vàng thành đỏ, từ đỏ sang chàm. Ngũ hành luân phiên chuyển hóa, thì ra tòa kim cang bát quái ấy là của Thiên Cơ Lão Tổ Tổ Tổ đang chuyển đại pháp luân. Thiên Cơ Lão Tổ Tổ Tổ liền chắp tay thưa Đức Chí Tôn rằng. Thưa Đức Chí Tôn từ khi Tổ Tiên Khai Hóa, khai lập vũ trụ đến giờ, bộ máy huyền vi vũ trụ không có gì thay đổi, luật trước luật sau cũng chỉ là một luật, hể có sinh là có diệt, không sinh là không diệt. Vật chất luân chuyển theo tuần hoàn. Sanh trụ Dị Diệt, còn linh căn linh hồn thời luân chuyển theo nghiệp lực, Thiện Ác mê chấp, nhân quả. Tất cả linh hồn sanh ra đều bình đẳng. Thuận theo Thiên Ý hành Thiện thời thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời gọi là ác, vì ác nên thành yêu tinh quỷ dữ ác đạo. Đã gieo ác đạo, thời gặt ác báo. Mê tín dị đoan, Trời không thờ, mà thờ quỉ thờ yêu thờ tinh. Thờ Thần cầm, Thần thú, theo tà thuyết, gieo nhân bất chính, nên kết quả bất lành, rơi vào tà Đạo. Nên sa vào ba đường khổ, Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, cũng như sa đọa thành yêu tinh quỉ quái. Làm theo lời dạy của Đức Cha Trời gọi là Ngộ là Thiện, vì Thiện gọi là Chánh, vì Chánh nên thành tựu vô lượng công Đức. Vì có vô lượng công Đức, nên thành Vua, thành Chúa, thành Phật, thành Thánh, thành Tiên.

Thật ra tất cả Linh Hồn chung một Nguồn gốc Cha Trời. Cha Trời. Đại Linh Hồn ví như nước, còn tất cả tiểu Linh Hồn nhân loại ví như bọt nước. Bọt Nước do Nước sanh ra mà thôi. Tất cả tiểu Linh Hồn Bình Đẳng, đều là con cái của Đại Linh Hồn Cha Trời. Cũng bởi gì Tâm Hồn mê muội, khởi sanh ra tánh ác, làm hại mình hại người. Làm cho cõi âm phủ Địa Ngục mỗi ngày mỗi thêm rộng lớn, vì hành Ác đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời. Nên bị bộ máy huyền vi vũ trụ xoay chuyển, theo luật nhân duyên cũng như luật nhân quả, gieo giống nào thời gặt giống nấy. đọa lạc luân hồi mãi mãi khốn khổ vô cùng. Dù trải qua vô lượng kiếp cái Ác cứ mãi đeo bám, kết quả đi đến tù đày, sát phạt, ăn nuốt lẫn nhau, khó mà giải thoát. Xin Đức Chí Tôn mở lượng từ bi, đem ánh sáng trí huệ Đức Cha Trời xuống nhân gian. Chuyển Đại Pháp Luân lần nữa làm lợi ích cho toàn nhân loại, thiện ác đều được giải thoát. Trở về bản giác Chân Tánh, ngôi vị Chí Tôn vô thượng.

Thưa Đức Chí Tôn, giai đoạn cuối tiểu kiếp là giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. Có thể nói giai đoạn cực ác biết lợi dụng Phật Pháp, Thánh Pháp, Tiên Pháp phục vụ lợi ích riêng cho mình. Làm lợi cho bè phái, đảng phái phục vụ chiến tranh. Các vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa xưa nay đều hiểu. Khi đầu thai xuống trần trở thành người phàm tục. Thời quên mất tiền thân kiếp trước của mình. Bị dòng đời xoay chuyển theo trào lưu xã hội, nên Làm lành lánh dữ đã khó, huống chi là chuyển Đại Pháp Luân. Trên biển lữa hận thù, tranh đấu chém giết lẫn nhau thủ đoạn cùng hung, cực ác chồng chất như núi như non. Trong hoàng cảnh trần gian xã hội như thế, thời Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đầu thai xuống trần không những không làm được gì mà còn bị lôi kéo theo dòng đời lạc vào Tà Ma Ác Đạo. Trở thành anh hùng lạc đạo hết mong về trời. Có khi còn sa đọa xuống Địa Phủ.

Thưa Đúc Chí Tôn. Nếu không phải bật thượng căn Trí Huệ vô tận, Đại Nguyện vô tận thời khó mà chuyển Đại Pháp Luân. Làm cho ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác tỏa sáng khắp Trời đất được. Nhất là ở vào tình thế nơi chốn trần gian đang trên đà hưng thịnh Mạc Kiếp Mạc Pháp gần cuối tiểu kiếp đầy khó khăn nguy hiểm nầy.

Nơi Pháp Hội Long Vân, Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa đồng nghĩ như vậy. Chỉ có Đức Chí Tôn anh cả con Trời xuống trần mới chuyển xây được tình thế ở giai đoạn đầy khó khăn nguy hiểm nầy. Liền thỉnh cầu Chí Tôn chuyển Đại Pháp Luân, đem ánh sáng Đa Nguyên Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ xuống trần mở màng đời Thánh Đức. Lấp con đường địa ngục mở cửa Thiên Đàng đưa nhân loại trần gian về trời. Đức Chí Tôn nhận lời thỉnh cầu pháp hội Long Vân. Chờ đúng huyền cơ vũ trụ tái sanh xuống chốn nhân gian Thiên Ấn Thiên Bút ra đời.

Tự hào truyền thống Cha Ông

Tự hào đất nước con Rồng Cháu Tiên

Tự hào Văn Hóa văn minh

Tự hào Quốc Tổ uy linh oai hùng

Tự hào hai chữ Đồng Bào

Tự hào Nam Việt đất trời Địa Long.



Trung Thiên vũ trụ có 18 tầng Trời, tính từ cao xuống thấp:

18: Tầng Trời sắc cứu cánh.

17: Tầng Trời Thiện Hiện.

16: Tầng Trời Thiện Kiến.

15: Tầng Trời Vô Nhiệt.

14: Tầng Trời Vô Phiền.

13: Tầng Trời Vô Tưởng.

12: Tầng Trời Quảng Quả.

11: Tầng Trời Phước Sanh.

10: Tầng Trời Thiên Vân, Chỗ Đức Chí Tôn Ngự.

9: Tầng Trời Biến Tịnh.

8: Tầng Trời Vô Lượng Tịnh.

7: Tầng Trời Thiểu Tịnh.

6: Tầng Trời Quang Âm.

5: Tầng Trời Vô Lượng quang.

4: Tầng Trời Thiểu Quang.

3: Tầng Trời Đại Phạm.

2: Tầng Trời Phạm Phụ.

1: Tầng Trời Phạm Chúng.



Mười tám tầng Trời nầy gọi chung là: Sắc giới.

Tam giới là:


1: Dục giới.

2: Sắc giới.

3: Vô Sắc giới.



BỘ VĂN LANG CHIẾN SỰ 1
ĐẾN ĐÂY ĐÃ HẾT


CHỦ BÚT: ĐINH HÙNG CHUNG​
 

shopoga

✩✩
QUỐC BẢO
CHÂN KINH

VĂN LANG
CHIẾN SỰ

II


THIÊN ẤN THIÊN BÚT

GÒ HỘI

ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI



2013

Nguyễn Đức Thông















PHẦN 1: MỞ ĐẦU

Văn Lang trù phú, cảnh sang giàu.

Vàng, ngọc, trân châu, sắt, đồng, thau.

Gạo trắng, cá tươi, người đông đúc.

Lụa là gấm vóc, ngọc trắng phau.

Quê, thị, gần, xa, luôn nô nức.

Hội đình, chợ, quán, cảnh chen nhau.

Phương Bắc ngày đêm, lòng thèm khác.

Xâm lăng cướp lấy, trước nối sau.

Nói đến nước Xích Quỷ, thời Kinh Dương Vương, thời phải nói đến sự giàu có, không những giàu có về vàng, bạc, châu, báu, sơn hào hải vị, món ngon vật lạ, nhất là văn minh về lúa nước, nhất là lúa hổ Rằng, lúa Hổ Chưởng, lúa Chiêm, lúa Thần Nông, lúa Xích Khoán, lúa Thiền Minh, lúa An Cựu, lúa Hạ Bạch, lúa Thanh Vu, lúa Bạch Kê, lúa Tẻ, lúa Thuần, lúa Mạch, lúa Kim Ô, lúa Hoàng Đế, lúa Xích Kê, lúa Thượng, lúa Hạ, lúa Phì, lúa Lùn, lúa Thơm, lúa Nếp Tẻ, lúa Đuôi Phụng, lúa Bạch Mạc, và còn nhiều giống lúa quý hiếm khác nữa, dân Bắc Văn Lang lúa thóc đầy bồ, phải nói cuộc sống dân nước Xích Quỷ, không những thái bình thịnh trị hàng nghìn nghìn năm, trong cuộc sống no cơm, ấm áo. Mà còn béo bở về thu nhập qua đường trao đổi buôn bán, Một đất nước béo bở như thế, luôn luôn khơi dậy lòng tham lam thèm muốn, những nước lân cận nhất là những nước lân cận Phương Bắc, chúng thèm khát đến nỗi ăn không ngon ngủ không yên, lúc nào cũng mơ tưởng chiếm cho được Bắc Văn Lang, coi như làm chủ sở hữu nền văn minh lúa nước, cơm no áo ấm thời còn gì bằng. Cho nên nước Xích Quỷ lúc nào cũng rình rập mối nguy mất nước, bởi quân xâm lược Phương Bắc rình rập ngày đêm.

Cùng thời lúc ấy, một vị cứu tinh đất nước ra đời, chính là Quốc Tổ Hùng Vương, người con độc nhất của Kinh Dương Vương, Quốc Tổ Hùng Vương ra đời chuyển xây tình thế, không những đánh tan mộng xâm lược Phương Bắc, mà còn mở rộng nước Xích Quỷ vào Nam, trở thành nước Văn Lang rộng lớn, gấp ba lần nước Xích Quỷ, sự mở rộng bờ cõi về Nam làm cho nước Văn Lang trở nên hùng mạnh, không có một đất nước nào hùng mạnh hơn.

Đất nước Văn Lang chia ra làm ba miền, Bắc Văn Lang, hầu hết là toàn bộ Nước Xích Quỷ, rồi tới Trung Văn Lang, kế đến là Nam Văn Lang.

Khai dựng lập lên nước Văn Lang, Quốc Tổ không ở Bắc Văn Lang, mà ở Nam Văn Lang, đây là một điều bí mật của Quốc Tổ, vì Quốc Tổ biết trước Bắc Văn Lang, Trung Văn Lang, một khi văn hóa Cội Nguồn đã mất, nền Quốc Đạo không còn, trở nên độc quyền, độc tài, độc trị, theo xu hướng Phương Bắc, sẽ bị Bắc Phương chiếm lấy, đồng hóa dân chúng theo văn hóa Phương Bắc. Nhưng giặc Phương Bắc không bao giờ chiếm lấy được Nam Văn Lang, vì Nam Văn Lang là Địa Long Vũ Trụ. Thánh địa linh thiên nhất địa cầu, nên văn hóa Phương Bắc không thể đồng hóa nổi dân tộc Nam Văn Lang, dù trải qua hàng nghìn năm xâm lược đồng hóa, theo ý đồ Phương Bắc, những gì biết trước của Quốc Tổ không gì là sai cả.

Bắc Văn Lang nước Xích Quỷ, phần lớn đất đai Giao Chỉ, Tới thời Hùng Vương, được mở rộng gấp đôi, Bắc Văn Lang Nước Xích Quỷ, Giao Chỉ, vì thế mà trở nên vô cùng hưng thịnh, lại phân chia thêm ra nhiều Bộ, Châu, Quận, Huyện. Bắc Văn Lang đất đai phì nhiêu, nhờ có nhiều con sông lớn bồi đắp, như sông Dương, sông Trường, sông Lạc, sông Âu, chia ra nhiều sông nhánh khác nữa, bồi lấp thành đất đen và bốc hơi rất mạnh, rất phù hợp cho nền nông nghiệp lúa nước. Những cánh đồng lớn, cò bay thẳng cánh, sông ngòi kinh rạch chằng chịt, thuận tiện cho việc trồng lúa nước, đem lại sự hùng mạnh cho quân lực, nếu có được Bắc Văn Lang thời không lo gì sự đói nghèo nữa, không lo thiếu lương thực nuôi quân, nên không có thế lực mạnh nào mà không muốn chiếm lấy, phải nói là chiếm lấy cho bằng được. Do sự trù phú đất đai, nhiều giống lúa tốt, sông ngòi kinh rạch, khí hậu ôn hòa thiên nhiên ưu đãi nầy, luôn luôn khơi dậy lòng thèm khát những tay háo chiến, mộng bá Vương, nên Bắc Văn Lang càng về cuối thời Hùng Vương càng chiến tranh xâm lược dữ dội từ Phương Bắc, xâm lược về Phương Nam, đất nước Văn Lang.

Những trận xâm lược kinh thiên động địa chưa từng có trong lịch sử, nhất là sự xâm lược của Nhà Ân, Ân Thọ Trụ Vương, ở vào thời hạ Hùng Vương, thời thứ 3 Hùng Tiên Lang (Điển Lang) trong 18 thời hạ Hùng Vương, 1141 đến 1139 trước công nguyên, quân Nhà Ân bị quân Văn Lang đánh tả tơi, thây phơi chật đất, làm phân cho đất Văn Lang, quân thù kinh hồn bạt vía, không còn dám mơ mộng xâm lược nữa, dân Văn Lang sau khi thắng quân xâm lược, thời không còn coi Phương Bắc ra gì, nên mất đi đề cao cảnh giác, sự yên bình ấy kéo dài gần 200 năm, cho đến thời Hùng Huy Vương (Pháp Hải Lang), Hùng Vương đời thứ 6. Thời Phương Bắc lại một lần nữa xâm lược, 961 đến 930 trước công nguyên, do con cháu của Trụ Vương Đắc Kỷ, còn sống sót lập lên nước Man Du cách Tây Bắc Văn Lang hơn 100 dặm, liên thông với nước Hồ, nước Hung Nô, ba nước Phiên Ngung nầy chiếm một lãnh địa vô cùng rộng lớn, không chịu lệ thuộc Nhà Chu, nên xưng Vương, ngang tầm các Vương Nhà Chu, các Vương Nhà Chu giận lắm nhưng không làm gì được, ba nước Phiên Ngung, vì nhờ địa thế hiểm trở đồi rừng núi non trùng điệp, nên rất khó mà hạ được ba nước Tam Vương nầy. Ba nước Phiên Ngung nầy mỗi ngày mỗi mạnh, nhưng không dòm ngó đến Phương Bắc, vì Phương Bắc không hưng thịnh như Phương Nam, nhất là về đất đai cũng như nền văn minh lúa nước, nhất là ngành Luyện Thép vô cùng bí mật của nước Văn Lang, không dễ gì lọt bí quyết ra bên ngoài, trong Dòng Dõi Vua Hùng cũng ít người được biết, vì thế nếu chiếm được Văn Lang thời sự quý hiếm nào cũng có, ba nước Phiên Ngung nầy thèm khát ngày đêm, hợp lực cùng nhau đánh chiếm Bắc Văn Lang.

Quân Ân, Quân Hồ, Quân Hung Nô, vượt qua Tây Bắc Văn Lang đánh xuống Bắc Văn Lang, nhà Tây Chu, Di Vương biết thế nhưng giả đò như không biết, ở thế ngư ông đắc lợi, Ân Mao Vương, là cháu chắt Võ Cảnh.

Võ Cảnh là con của Vua Trụ, Đắc Kỷ, Chu Di Vương nghĩ nếu Ân Mao Vương thắng thời ta cũng có phần, nới rộng thêm trấn chư hầu, Nước Ngô, Nước Sở, Nước Tề, được mở rộng về Phương Nam qua đất Bắc Văn Lang, nếu thua thời Vua Di Vương, cũng trừ đi được mối hậu họa lớn mạnh của con cháu Nhà Ân, kẻ thù không đội trời chung với Nhà Chu.

Đây nói về Chu Võ Vương, diệt được Đắc Kỷ, Trụ Vương xong, thời cũng bắt được hai đứa con của Đắc Kỷ, là Vũ Canh và Võ Cảnh, trốn sau hậu cung, Vũ Canh chống cự nên đã bị giết, chỉ còn lại Võ Cảnh. Võ Cảnh là con trai Đắc Kỷ mới sanh sau, là con út sau cùng của Trụ Vương.

Võ Cảnh tuy còn nhỏ nhưng khôn lanh vô cùng, vừa thấy Chu Võ Vương liền sụp lạy. Các chư hầu thấy vậy nổi giận quát:

Cha ngươi là hôn quân vô đạo, tội ác dẫy đầy, cũng nên chém Võ Cảnh đi đền tội với thiên hạ, lại trừ hậu họa mai sau.

Có lẽ số Trời chưa cho giết, nên khiến cho Võ Vương can, Võ Vương nói:

Trụ Vương vô đạo hung tàn bạo ác là do Đắc Kỷ, cùng với nịnh thần, bày mưu hiến kế, Võ Cảnh chỉ là một đứa bé, làm gì có tội, hơn nữa Vũ Canh đã chết, thói thường tội của cha không luận đến con, chúng ta phong cho Võ Cảnh một vùng đất, hầu nối kiếp lửa hương Nhà Thương, như vậy chúng ta đã đền ơn Nhà Thương.

Các chư hầu không dám cải, nhưng trong bụng thời không ưng lắm, vì nhổ cỏ phải nhổ cho tận gốc, bằng không hậu họa sẽ không sao lường được.

Một hôm Tử Nha nói với Võ Vương rằng:

Bệ hạ đã không giết Võ Cảnh, thời cũng nên ra ơn cho Võ Cảnh, lo phần hương khói, nhưng phải dùng người giám sát mà kèm kẹp, nếu phát hiện mưu đồ bất chính thời giết đi để trừ hậu họa.

Võ Vương y lời giao Võ Cảnh cho hai vị Ngự Đệ, trông coi giám sát. Võ Cảnh càng lớn càng khôn ngoan, ý tứ kín đáo vô cùng, khó ai đoán được ý đồ của Cảnh, sự nhẫn nhịn, nhẫn nhục, nhẫn nại của Võ Cảnh phải nói là hết sức thâm sâu. Khi Võ Vương băng hà qua đời, Võ Cảnh khóc lóc thê thảm ra vẽ thương yêu lắm, Võ Cảnh biết chỉ cần lộ một cử chỉ bất mãn là coi như là toi mạng nhất là khi tuổi đã trưởng thành.

Một hôm Võ Cảnh nằm ngủ thời thấy hồn Đắc Kỷ hiện về kêu Võ Cảnh:

Cảnh con đây là cơ hội tốt nhất cho con thoát khỏi sự kèm kẹp, của Nhà Chu, để lập lên nghiệp lớn. Con hãy xin với Thành Vương, cho con đến một mảnh đất xa xôi tận miền Tây Nam gần đất Hung Nô, Phiên Ngung đã di cư từ Tây Bắc đến ở rất thân quen với quân Hồ, quân Hung Nô, với quân Hồ vô cùng hùng mạnh, lại ở nơi hẻo lánh khó mà tận diệt được, Nhà Chu tuy mạnh nhưng cũng không diệt được họ đâu.

Đắc Kỷ dạy bảo xong liền biến mất, Võ Cảnh gọi mẹ một tiếng thật lớn, giật mình tỉnh dậy. Nghe tiếng gọi mẹ thật lớn của Võ Cảnh có người chạy vào hỏi:

Công tử gọi ai thế?

Võ Cảnh vô cùng khiếp sợ nói:

Tôi thấy chiêm bao sợ quá la lên.

Người nầy chính là người hầu được cài theo dõi ngày đêm, mỗi hành động cử chỉ, dù chỉ là cử chỉ nhỏ nhặt cũng phải báo cáo lên bề trên.

Người hầu nói:

Công tử thấy mẹ phải không?

Nghe người hầu hỏi thế Võ Cảnh sợ đến tái cả mặt. Không sao đâu đó chỉ là giấc mơ. Võ Cảnh nghe người hầu nói thế mới yên tâm.

Hôm sau Võ Cảnh vào chầu Thành Vương cúi đầu lạy tạ tâu rằng:

Muôn tâu bệ hạ, Võ Cảnh trộm nghĩ thân đầy tội lỗi, đáng lý đã chết từ lâu, nhưng nhờ Đức cao của Bệ Hạ nên Cảnh dân mới được sống sót, Cảnh dân nhớ mãi muôn đời, không lúc nào dám quên, ơn trên chưa báo đáp thời dám mong được gì, hạ dân cũng có chút bẩm báo nhưng không dám, nếu bệ hạ cho phép thời hạ dân mới dám dâng tấu sớ.

Thành Vương hỏi:

Ngươi muốn tấu gì thời đưa đây cho Trẫm cùng các quan xem.

Võ Cảnh làm như ra vẻ sợ hãi, lấy phong thư ra dâng lên cho Thành Vương xem. Thành Vương xem xong rồi đưa cho các quan xem. Nội dung tấu thư như sau: Võ Cảnh sống đến ngày nay đều nhờ ơn Bệ Hạ, lại được ăn no mặc ấm, ơn Đức của Bệ Hạ không sao đền đáp được, nay Cảnh hạ dân cũng đã lớn, muốn cầu xin Bệ Hạ một việc, nếu bệ hạ cho phép thời hạ dân mới dám tâu.

Các quan xem xong liền tâu rằng:

Muôn tâu bệ hạ đã ra ơn thời ra ơn cho trót xem Võ Cảnh có ý nguyện gì.

Thành Vương nói:

Trẫm cho phép ngươi cứ nói.

Nghe nói đến tiếng ngươi Võ Cảnh hơi sợ, lấy hết lòng can đảm tâu rằng:

Muôn tâu Bệ Hạ, Cảnh dân nguyện xin Bệ Hạ phong cho một ít đất tận nơi biên giới Tây Nam, giáp ranh với quân Hung Nô, quân Hồ, ở nơi ấy hạ dân chí thú làm ăn thờ phụng Tổ Tiên.

Nghe Võ Cảnh tâu ai nấy lấy làm kinh ngạc: Đây không phải là xin mà là đày đến nơi đất chết, rừng thiên nước độc, không ai có thể dám tới gần nơi đó nói gì là đến để ở.

Các quan nghĩ: Võ Cảnh đã quá sợ chết trở thành điên loạn, nên mới có lời thỉnh cầu điên dại như thế, riêng chỉ có.

Chu Công Đán là không nghĩ như vậy. Chu Công Đán nghĩ: Dù cho Võ Cảnh hàng phục được quân Hung Nô, quân Hồ, cũng không làm gì được Nhà Chu.

Thành Vương từ lâu muốn diệt đi mối hiểm họa nầy. Nhưng chưa có cơ hội, đây chính là cơ hội để tiêu diệt mầm họa về sau. Bằng nói:

Trẫm chấp nhận cho lời thỉnh của Khanh.

Bằng phê chiếu chỉ phong cho đất Man Vu, rừng thiên nước độc, muốn bao nhiêu cũng được, bằng cho người cấp lương thực vài xe, vàng bạc hơn trăm lượng, cho vài chục tên binh lính hộ tống đến biên giới Hung Nô, hoang vu. Võ Cảnh mừng quá lạy tạ Thành Vương, rồi qua hôm sau là lên đường tiến về Tây Nam đến Đất Hồ đi được hơn mười ngày thời lấy vàng bạc, bán xe mua ngựa, chở lương thực hàng hóa tiến lần về rừng núi, vượt qua nhiều sông suối dốc đèo, những quân lính đi theo lần lượt bỏ trốn, không còn lại mấy người. Càng đi thời rừng núi trùng điệp, chim kêu vượn hú, đêm về thời hơi lạnh thấu xương, đi đến đây có trốn cũng không biết đường về, ai cũng nghĩ đi theo Võ Cảnh là đi vào đất chết.

Đoàn ngựa chở hàng hóa đang đi, thời bỗng nghe thấy tiếng ngựa hí vang trời, những người theo hộ tống Võ Cảnh sợ hết hồn hết vía. Đất Man Vu là đất chết chóc nổi tiếng, bọn cướp rừng nổi tiếng là ăn thịt cả người sống, không mấy ai đến đây mà toàn mạng trở về.

Võ Cảnh nhìn mấy mươi người người nào người nấy hung tàn bạo ác vô cùng, đao, kiếm sáng ngời lao tới bao vây quát:

Các ngươi là ai mà dám đi qua khu vực nầy. Mau để lại ngựa hàng hóa hết lại cho ta bằng không các ngươi không còn một mạng.
 

shopoga

✩✩
Các binh lính sợ quá run lập cập, Võ Cảnh bình tỉnh hỏi:

Nơi đây là nơi nào?

Tên ăn cướp quát:

Chết đến nơi mà còn hỏi.

Tên mặt hổ nói:

Thôi nói cho nó biết đi, để chúng xuống âm phủ biết nơi đây là đâu.

Tên mặt trắng quát:

Đây là đất Man Du hay còn gọi là đất hoang vu, đất vô chủ không thuộc quyền của ai cả, chúng ta là kỵ binh còn sống sót của nhà Ân, trở thành Chúa tể sơn lâm, Chúa tể của núi rừng. Hãy báo danh rồi về chầu âm phủ.

Võ Cảnh nghe bọn ăn cướp nói đây là đất Man Du thời mừng vô cùng nói:

Tới rồi, tới rồi cuối cùng ta cũng tới được nơi đây. Trời đã giúp ta, Trời đã giúp ta.

Võ Cảnh cười lên sản khoái. Tên thủ lĩnh mặt hổ nghe Võ Cảnh nói không hiểu gì cả, liền quát lớn:

Các ngươi là ai mau nói ra.

Tên béo mập nói:

Giết chúng đi cho rồi cần gì hỏi lôi thôi.

Thế là chúng ra tay. Lúc ấy bỗng một trận cuồng phong nổi lên, tức thời xuất hiện hai vị Đạo Sĩ. Hai vị Đạo Sĩ quát:

Các ngươi sao không ra mắt lễ lạy Chúa Công.

Mấy mươi tên ăn cướp quát:

Hai đạo sĩ kia ngươi nói ai là Chúa Công của ta.

Hai Đạo Sĩ chỉ Võ Cảnh nói:

Người nầy chính là Chúa Công của các ngươi.

Mấy tên ăn cướp quát:

Hai Đạo Sĩ kia, hai ngươi từ đâu tới?

Có người nói:

Chúng là đồng bọn với nhau, chúng ta đông sợ gì hai lão Đạo Sĩ, xông lên giết hết tất cả cho ta.

Hai Đạo Sĩ quát:

Đồ hỗn láo không dạy cho các ngươi bài học thời các ngươi không biết trời cao đất rộng là gì.

Tên mặt hổ quát:

Anh em đâu mau giết hai Đạo Sĩ đó cho ta.

Tức thời cả bọn ăn cướp lao nhanh vào chém giết hai Đạo Sĩ. Hai Đạo Sĩ quát:

Quả thật các ngươi đáng tội chết.

Tức thời hóa phép làm cho bọn cướp xây xẩm mặt mày, ngã lăn xuống ngựa. Liền ra lệnh cho những tên lính theo Võ Cảnh:

Trói hết chúng lại, chờ lệnh xét xử.

Bọn ăn cướp vô cùng kinh hãi không ngờ hai Đạo Sĩ thần thông quản đại như vậy. Hai Đạo Sĩ tới trước mặc Võ Cảnh quỳ xuống tâu rằng:

Chúng Thần đến cứu giá trễ, xin Chúa Công tha cho tội chết, chúng Thần tu ở Hồ Động, Nương Nương về báo cho chúng thần biết là Chúa Công sẽ đến nơi đây, quả là đúng như vậy. Xin Chúa Công hãy xử những tên phản nghịch nầy, những tên nầy từng là quân lính của Nhà Ân, bị quân Chu truy nã nên ẩn sâu vào rừng núi trốn tránh, không chỉ bấy nhiêu mà cả hàng mấy nghìn tên, trong đó có những vị tướng lĩnh, không chịu ra đầu hàng, ẩn trong rừng sâu làm cướp, nghe nói Thành Vương đã phong đất cho Chúa Công, đất Man Vu, hay còn gọi là đất hoang vu, hàng mấy trăm dặm chính là nơi đây. Và nơi đây sẽ trở thành đất Ân của Chúa Công, chúng Thần nguyện theo Chúa Công khai dựng cơ nghiệp, xin Chúa Công thu nhận cho.

Võ Cảnh thấy sự việc xảy ra như trong giấc mơ, Võ Cảnh liền đở hai Đạo Sĩ dậy. Hai Đạo Sĩ thi lễ nói:

Chúng Thần cảm ơn Chúa Công.

Hai Đạo Sĩ quay sang những tên ăn cướp:

Các ngươi nghe đây, người trước mặt các ngươi chính là Võ Cảnh Chúa Công, con của Thiên Tử, Ân Thọ Trụ Vương và Nương Nương Đắc Kỷ.

Các tên ăn cướp nghe hai Đạo Sĩ nói thế thời kinh hãi, bò tới cúi đầu lạy tạ:

Chúng Thần xin ra mắt Chúa Công.

Cũng từ đây Võ Cảnh, chiêu mộ những binh lính không chịu đầu hàng Nhà Chu, ra phò Võ Cảnh lập lên nước Man Du hùng mạnh, nhờ kết giao với quân Hồ và quân Hung Nô làm cho Nhà Chu cũng phải e dè đề phòng.

Võ Cảnh nhanh chóng xây dựng đất nước hùng mạnh thu nạp những người có tội đến ở, trở hành đội quân hung bạo vô cùng, các nước nhỏ ở gần đấy đều đến quy phục. Võ Cảnh nhiều vợ nên cũng nhiều con, làm thông gia với quân Hồ và quân Hung Nô, nên thế lực càng hùng mạnh, với chính sách ngoại giao khôn khéo với Nhà Chu địa thế khó đánh Võ Cảnh xưng Vương, Cảnh Ân Vương. Nhà Chu muốn diệt cũng diệt không được.

Có người thở dài nói rằng:

Nhà Chu thả cọp về rừng, nhổ cỏ chừa gốc, nuôi mầm họa về sau.

Thành Vương qua đời Chu Mục Vương lên thay, Tạo Thụ được Mục Vương Nhà Chu yêu mến. Ông cha của Tạo Thụ là Ác Lai, Ác Lai thờ Vua Trụ, nên Võ Cảnh được sự giúp đỡ của Tạo Thụ rất nhiều, vì thế Cảnh Ân Vương càng thêm hùng mạnh. Cảnh Ân Vương nhiều con nên cũng sanh ra nhiều Cháu, toàn là những anh hùng hảo hán, học được nhiều pháp thuật cao siêu, lại có Yêu Hồ giúp sức nên khó ai chống lại được. Ở đời người ta thường nói, con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, mộng bành trướng, tham lam không dứt. Đến thời Cháu Chắt của Võ Cảnh, Cảnh Ân Vương theo chí nguyện của tổ tiên là Ân Trụ Vương, giặc Ân xâm lược Nước Văn Lang lần nữa, 961 đến 930 trước công nguyên.

Đây nói về Phương Bắc, không giống như Phương Nam, chỉ có một nước Văn Lang thống nhất rộng lớn, chỉ cần một Quận, một Huyện, cũng bằng một nước nhỏ ở Phương Bắc, một Châu ở Văn Lang, bằng một nước lớn ở Phương Bắc, vì thế ở Phương Bắc có đến hàng nghìn Vua, luôn tranh bá với nhau, cho thấy Phương Bắc vào thời đó chưa đi vào thống nhất trật tự như Phương Nam Văn Lang. Phương Nam Văn Lang chỉ có một vì Vua đó là VUA HÙNG, được nối truyền nhau đời nầy sang đời khác 41 đời Vua Hùng, kéo dài độc lập 2701 năm. Chia đất nước ra làm nhiều Bộ, một Bộ chia ra làm nhiều Châu, một Châu chia ra làm nhiều Quận, Huyện, một Huyện chia ra làm nhiều Xã, một xã chia ra làm nhiều Thôn. Chỉ cần một Xã Văn Lang cũng bằng một nước nhỏ ở Phương Bắc gọi là các trấn chư hầu của Nhà Chu, cũng như các trấn Chư Hầu thời Nhà Ân, Nhà Thương. Như nước Lỗ, nước Tề, nước Yên, nước Ngụy, nước Quản, nước Thái, nước Tào, nước Thành, nước Hoắc, nước Vệ, nước Đằng, nước Tấn, nước Ngô, nước Ngu, nước Quách, nước Sở, nước Hứa, nước Tấn, nước Cử, nước Kỷ, nước Trâu, nước Tiết, nước Tống, nước Khởi, nước Kế, nước Cao Ly.

Các nước trấn Chư Hầu lớn, nhỏ nầy, ngang tầm với các Châu, Quận, Huyện Văn Lang mà thôi, không có nước nào bằng Bộ Văn Lang, có nước nhỏ hơn Quận Huyện Văn Lang. Ở vào thời ấy, các nước lớn ở Phương Bắc, không có nước nào bằng Bộ Giao Chỉ, Bộ Việt Thường.

Các nước lớn ở Phương Bắc thường thôn tính các nước nhỏ làm trấn Chư Hầu cho mình, có thể nói là thường thôn tính nhau, diệt lẫn nhau, mất chỗ nầy mọc ra chỗ khác, mất chỗ nọ mọc ra chỗ kia, lúc thì đất Ngô, lúc thì đất Sở, lúc thì đất Tấn lúc thì đất Vệ, lúc thì đất Tào lúc thì đất Ngụy, một chỗ đất mà có nhiều tên Vua chồng lấp lên nhau, theo sự chuyển biến của lịch sử, thời Nhà Thương, Nhà Ân, Nhà Chu cũng vậy, không có sự thống nhất như Phương Nam Văn Lang, không có Vua nầy thôn tính Vua kia, Chúa kia thôn tính Vua nọ, có nghĩa là không có nhiều Vua, chỉ có một vì Vua duy nhất đó là Vua Hùng, hết đời nầy nối sang đời khác, tuy biết rằng đất đai vô cùng rộng lớn, nhưng tất cả đi vào bộ máy thống nhất, từ trên xuống dưới, sống trong một nền Hiến Pháp, Quốc Đạo Văn Minh. Không như ở Phương Bắc hàng nghìn vị Vua, thôn tính nhau, chiếm đoạt nhau, tàn sát lẫn nhau, nay là đất của Sở, mai là đất của Ngô, không cố định, diệt chỗ nầy có điều kiện thời sanh lại chỗ khác, vì thế phương Bắc chiến tranh cướp đoạt đất đai thôn tính nhau triền miên. Đúng như câu đất đai không của riêng ai, người nào mạnh thời người đó được, được xưng Vua thua cho là Giặc, xem đi xét lại Giặc với Vua chẳng khác gì nhau.

Không như Phương Nam chỉ duy nhất một Nước Văn Lang rộng lớn, một đất nước cố định mãi mãi, trước sau cũng chỉ là nước Văn Lang, chỉ chuyển đổi niên đại mà thôi. Niên Đại Hồng Hoang, Niên Đại Hồng Bàng, Niên Đại Hồng Đế, Niên Đại Viêm Đế Thần Nông, Niên Đại Kinh Dương Vương, Niên Đại Hùng Vương, chuyển sang thời Âu Lạc.

Nếu đem so sánh, Bắc – Nam, thời nước Văn Lang là một đất nước duy nhất cố định, luôn luôn thống nhất không có cảnh chia đất nước ra làm nhiều nước, mà chỉ phân chia đất nước ra làm nhiều Bộ, nhiều Châu, nhiều Quận, nhiều Huyện, thống nhất trong một Nhà Nước Văn Lang, chỉ có một Vua, không có cảnh nhiều Vua tàn sát lẫn nhau như Phương Bắc. Vì thế nước Văn Lang hể mất là mất luôn, không bao giờ mọc ra chỗ khác được, như ở Phương Bắc, như nước Dịch, nước Cao mất đất chỗ nầy, mọc ra chỗ đất khác, Vệ mất đất nầy Vệ mọc ra nơi đất khác, các nước khác cũng thế.

Trong lịch sử kéo dài hàng nghìn nghìn năm, Phương Nam nước Văn Lang nằm trên đất Văn Lang, mãi mãi như thế hể mất là mất, hể còn là còn, không thể mất ở đất nầy mọc ra nơi đất khác được. Có thể nói Phương Bắc ở vào thời đó chưa có nền Văn Hiến thống nhất, luôn luôn hỗn độn chia nhỏ nhiều nước ăn nuốt lẫn nhau, tiêu diệt nhau, xâm lấn nhau, hết nghìn năm nầy đến nghìn năm khác, lúc nào cũng nghe chiến tranh nước Lỗ, nước Tề, nước Yên, nước Ngụy, nước Tống, nước Tấn, nước Trần, thôn tính lẫn nhau, diệt rồi sanh, sanh rồi diệt, lớn mạnh ở đất nầy, lại bị thu nhỏ lại ở đất khác, bởi tham vọng chiếm đoạt, triệt hạ, giành giật thôn tính lẫn nhau.

Không như nước Văn Lang, chia ra làm nhiều Bộ, mỗi Bộ chia ra làm nhiều Châu, mỗi Châu chia ra làm nhiều Quận Huyện, tuy rộng lớn vô cùng, nhưng không có chiến tranh tranh giành thuộc địa giữa bộ nầy, với bộ khác, các châu nầy với châu khác, nên không có sự xưng Vua, xưng Chúa nhiều như đất Phương Bắc, thống nhất về một mối một Nhà Nước Văn Lang, thống nhất chỉ có một Quốc Tổ Vua Hùng.

Và chỉ có một Niên Hiệu Vua Hùng trên Đất Nước Văn Lang, kéo dài sự độc lập 2701 năm kể cả thời dựng nước, thời dựng nước là 79 năm, thời Quốc Tổ, sau thời Quốc Tổ là thời giữ nước, 2622 năm, và cho đến thời hạ Hùng Vương đời thứ 6 Hùng Huy Vương trong 18 đời hạ Hùng Vương 961 đến 893 trước công nguyên, dân bắc Văn Lang bị đồng hóa bởi nền Văn Hóa Phương Bắc, bằng con đường ngoại giao buôn bán hội nhập, cọng với sự di cư bất hợp pháp dân các nước Phương Bắc lánh nạn chiến tranh qua bắc Văn Lang, hàng vạn, vạn người trong vòng mấy mươi năm, những Bộ, những Châu, những Quận, những Huyện, dân chúng tăng lên chóng mặt, dân chúng Phương Bắc di cư qua Bắc Văn Lang mang theo cả nền Văn Hóa Phương Bắc, làm cho dân chúng Bắc Văn Lang bị mê hoặc, từ đó Bắc Văn Lang dần dần đi vào đại loạn, phần đông từ Vương Quan cho đến dân Chúng đều mê hoặc bởi thứ văn hóa bói toán, nhập đồng, nhập bóng, xin xăm, bói quẻ, tiên tri độc hại nầy, không dè chừng Văn Hóa Phương Bắc, vì nghĩ Văn Hóa Phương Bắc không có gì độc hại, nên không kiểm soát về văn hóa, dẫn đến tai hại biến Bắc Văn Lang đồng hóa Văn Hóa phương Bắc, ngã lần về phương Bắc rồi trở thành lệ thuộc dần phương Bắc, cũng từ đó Bắc Văn Lang nhiều nội loạn nổi lên đòi tự trị, làm biến động tình hình Bắc Văn Lang.

Hàng vạn vạn người dân các nước Phương Bắc di cư sang ở Bắc Văn Lang, họ mang theo nền văn hóa Phương Bắc, nền văn hóa bói toán, xin xăm, bói quẻ, nhập đồng, nhập bóng cầu cạnh thần linh, những nhân vật được tôn thờ từ phương Bắc du nhập vào Bắc Văn Lang, làm mê hoặc dân Văn Lang. Vì lúc ấy dân tộc Văn Lang, đã lạc Nguồn lạc Cội, nên ngã theo tôn thờ thần linh ở phương Bắc, và dần dần dân tộc Bắc Văn Lang đi vào mất gốc, không những mất gốc về Văn Hóa Cội Nguồn, mà còn mất luôn cái gốc Truyền Thống dựng nước giữ nước Văn Lang.

Vì hấp thụ Văn Hóa phương Bắc, nên Bắc Văn Lang nhiều anh hùng nổi lên, đòi tự trị lập nước riêng, xưng Vua nầy Vua nọ như phương Bắc. Sự nổi lên đòi tự trị ấy, được hậu thuẫn từ các nước lân cận trấn chư hầu Nhà Chu, Bắc Văn Lang trở thành bãi chiến trường cho sự bùng nổ lên nhiều phe phái hình thành lên nhiều Vua, Chúa tự trị riêng mỗi vùng, rồi thôn tính nhau theo kiểu phương Bắc.

Lúc ấy nhà nước Văn Lang cũng đã bắc đầu suy yếu, là do mất đi những điều cơ bản của nền Văn Hiến. Văn Hóa Cội Nguồn truyền thống dân tộc, dẫn đến độc quyền độc tài, độc trị, sa vào con đường lìa xa dần dân chúng, làm mất lòng tin dân chúng. Dân chúng lại nghe theo sự xúi dục của các thế tham vọng bành trướng phương Bắc, nhất là những nước lân cận Bắc Văn Lang. Dẫn đến nội loạn chia bè rẽ phái ở Bắc Văn Lang nổi lên đòi tự trị từng vùng xưng Vua xưng Chúa, có sự hậu thuẫn từ phương Bắc, nên các Vua Hùng từ đời 11, 12, 13, ra sức dẹp nội loạn Bắc Văn Lang nhưng không dẹp nổi, vì người dân đã ngã theo Văn Hóa phương Bắc, Văn Hóa của sự xưng hùng xưng bá, Văn Hóa chia bè rẽ phái, hình thành lên quá nhiều khu tự trị hùng mạnh, những ông Vua Việt nổi lên, như Vua Điền Việt, Vua Mân Việt, Vua Dương Việt, Vua Đông Việt, Vua Nam Việt, Vua Lạc Việt, và nhiều vị Vua Việt khác nữa. Sau nầy bị Doãn Thường Việt nổi lên diệt sạch chiếm lĩnh Bắc Văn Lang, xưng hùng xưng bá.

Tổ Tiên của Doãn Thường Việt, là dòng dõi Vua Vũ, con thứ hai của Vua Thiếu Khang, đời Nhà Hạ, qua nhiều triều đại thôn tính lật đổ nhau, con cháu Vua Vũ lánh nạn di cư đến đất Cối Kê, cắt tóc xăm mình như dân Văn Lang, trải qua hai mươi đời trở thành dân Văn Lang, đến đời Doãn Thường thời nổi lên như một vị anh hùng, dân chúng theo về rất đông, tiêu diệt nhiều thế lực tự trị, như thế lực Việt Hoa, thế lực Kinh Việt, thế lực Mân Việt, thế lực Âu Việt, thế lực Lạc Việt, thế lực Điền Việt, thế lực Kiều Việt, nói chung là nhiều thế lực Bách Việt nổi lên tự trị, bị Doãn Thường thôn tính, xưng là Vua Việt. Doãn Thường chết con là Câu Tiễn được lập làm Việt Vương, Việt Vương Câu Tiễn Thế Gia.
 
Top