Kho truyện ngắn cực hay

shopoga

✩✩
PHẦN 67

Đây nói về hơn 40 vạn quân Văn Lang rầm rầm rộ rộ tiến sâu vào Nam Văn Lang, thấy xác người rải rác khắp nơi, cái cảnh giống như vườn không nhà trống, nếu không còn những người dân thưa thớt. Cũng may những người dân sống sót ở lại kể rõ đầu đuôi sự việc.

Các quan tướng Văn Lang vô cùng tức giận nói:

Hãy tiến quân truy sát bọn chúng.

Cao Lạc Tể Vương nói:

Lãnh Nam núi rừng điệp điệp, biết Hồ Chiêm Quân ở chỗ nào mà bắt, hơn nữa bá tánh muôn dân cũng như ba quân tướng sĩ đều là vô tội, mà kẻ có tội chính là Hồ Chiêm Quân mà thôi, xét cho cùng tất cả đều là con cháu Tiên Rồng, nếu có ý chống lại nhà nước Văn Lang sát hại đồng bào lần nữa thời đưa quân quét sạch cũng không muộn. Điều trước mắt là khôi phục lại các Châu, Quận, Huyện, bổ nhiệm các quan tướng nơi đây.

Vua Hùng sau khi rút quân về Kinh Đô Văn Lang để lại 10 vạn quân trấn giữ Nam Văn Lang, đóng quân tại Bình Châu Nam Hồ. Đại Quân trở về Long Biên rồi lên Phong Châu tiến về Kinh Đô Văn Lang. (Trong các triều đại Vua Hùng, Kinh Đô Văn Lang được xây mới dời chỗ nhiều lần ở Phong Châu và lân cận Phong Châu, tùy theo nền kinh tế phát triển).

Kinh Đô Văn Lang thời Hậu Hùng Vương là Kinh Đô mới, khi đại quân tiến về Kinh Đô thời các Châu, Phủ, Quận, Huyện dân chúng ở hai bên đường đông nghịt kéo dài hơn trăm dặm, ca ngợi chiến công oanh liệt.

Hô vang khẩu hiệu:

Văn Lang muôn năm, muôn năm, muôn năm. Vua Hùng vạn tuế muôn năm, muôn năm, muôn năm. Con cháu Tiên Rồng bách chiến bách thắng, bách chiến bách thắng. Mùa xuân non sông Tổ Quốc lại nở hoa đoàn kết, nở hoa anh hùng, nở hoa Trung Hiếu, kiên cường bất khuất.

Tiếng hò reo nhảy múa dậy nước dậy non.

Thơ rằng:

Kìa xuân nước xuân non ửng hồng xuất hiện

Tiếng hò reo lên tận chốn trời xanh

Rền Chiêng Trống rền ca hát ngợi khen

Ôi người thân ôi bạn bè hòa quyện

Tình dân cao ôi tràn đầy hứa hẹn

Đất Trời xuân đưa cuộc sống lên cao.

Một năm sau:

Én về én dệt mùa xuân

Còn ta, ta dệt yêu thương cùng chàng

Một năm dạ héo lệ mòn

Sao Chàng biền biệt để nàng tương tư.

Tiểu thơ, tiểu thơ đến rồi, đến rồi. Gì đến thế hở Xuân Mai. Tiểu thơ biết rồi mà còn hỏi. Nở nụ cười tươi.

Ngọc Thiên Hương hỏi Xuân Mai:

Ta thế nầy coi được không?

Xuân Mai nói:

Ở đây ai cũng nói Tiểu Thơ là Cung Chủ thiên giới xuống trần, đẹp hơn quí phái hơn Tiên Nữ giáng trần nữa là khác.

Thiên Hương nói:

Ngươi khéo ăn nói quá.

Ngọc Thiên Hương tuy đã biết trước mọi việc nhưng lòng vẫn có gì đó rất khó nói.

Tiểu Thơ Diệp Lang Vương Tử có đến không?

Ngọc Thiên Hương nói:

Không đến.

Sao thế? Xuân Mai hỏi.

Thiên Hương giải thích:

Vì chàng là Đích Tôn Vương Tử, Vua Hùng đời thứ 27, không phải lần nầy chỉ một mình ta đâu mà còn có cả An Lạc Tiên nữa.

Xuân Mai như chợt hiểu:

Vua mà mấy vợ mà không được.

Thiên Hương quở khéo:

Thôi đừng nghĩ bậy nữa.

Đây nói về Trung Đại Nhân, Trung Hoài Nghĩa, Trung Ngọc Thiên Hương đưa tiễn Vua Hùng về Nam một đoạn đường. Thời tức tốc về Châu phủ Kinh Giao Châu. Mẹ Ngọc Thiên Hương nhìn thấy Thiên Hương ôm khóc oài:

Con thời trở về còn chị con Ngọc Linh Châu thời ra đi vĩnh viễn.

Tình mẫu tử là thứ tình thiêng liêng cao cả, tình mẹ thương con vô bờ bến, hi sinh tất cả vì con. (Nên trong Văn Hóa Cội Nguồn Đức Cha Trời dạy, trong muôn ngàn thứ tội, bất hiếu với Cha Mẹ là thứ tội đứng đầu trong các tội, ngược lại có hiếu với Cha Mẹ là thứ Đức đứng đầu trong các Đức).

Ngọc Thiên Hương chưa xuất giá, ngày nào cũng chăm sóc cho Mẹ, ai cũng khen Thiên Hương là người con hiếu thảo. Bà Trung Đại Phu Nhân có phúc quá, còn Trung Đại Nhân thời suốt ngày bận rộn say sưa sửa sang đổi mới, từ quan phủ lên vương phủ. Còn Trung Hoài Nghĩa phụ giúp cùng cha cũng bề bộn suốt ngày, cho người đem hài cốt Ngọc Linh Châu về Kinh Giao Châu an tán gần nơi Vương phủ, để cả nhà tới lui thăm viếng. Vương phủ xây xong mà không thấy tin từ Kinh Đô Văn Lang đến, ông bà Trung Đại Nhân lo lắng vô cùng, nhất là Ngọc Thiên Hương mở cửa nhìn về phía Nam mãi.

Và một hôm có quan khâm sai đến báo tin:

Vài hôm nữa kiệu rước dâu sẽ đến, vương gia chuẩn bị thì vừa.

Vị khâm sai thông báo xong, lời qua tiếng lại xong tuần trà thời quan khâm sai cáo từ Trung Vương Gia Đại Nhân, nhắm hướng Tây Giang ra đi. Hai cha con Trung Đại Nhân nhìn vị khâm sai mất hút về hướng Tây. Trung Hoài Nghĩa nổi lên bao cảm xúc: Có lẽ An Lạc Điền nóng ruột chờ đợi tin nầy.

Đây nói về An Lạc Điền, An Lạc Sơn, An Lạc Tiên trở về thành Tây Giang Châu suốt ngày bận rộn sửa sang quan phủ lên vương phủ. Nhất là An Lạc Tiên chờ ngày trông đêm nhưng chờ hoài không thấy tin tức gì từ Kinh Đô Văn Lang cả, lòng hồi hộp không yên, bằng cho người đến Kinh Giao dọ tin thời cũng nhận được tin tức từ Kinh Đô Văn Lang. Lạc Tiên biết được tin nầy hơi yên tâm.

Duyên tình chớm nở từ lâu

Cớ sao mình lại u sầu thế ni

Vần mây buồn nhớ biến đi

Gió ơi hỡi gió lặng đi mây buồn

Cành Mai chờ đợi mùa xuân

Còn em chờ đợi tin chàng ở xa

Mai chờ xuân đến nở hoa

Em chờ Kiệu đến tình ta mặn nồng.

Nói về hai vương phủ, được tin Vua Hùng ban chỉ giao hôn, Diệp Lang cùng Ngọc Thiên Hương, An Lạc Tiên nên duyên chồng vợ, nhận được tin nầy, hai vị Vương phủ vô cùng mừng rỡ, viết thiệp mời bạn bè các Vương phủ Châu phủ đến chia vui.

Ngày lành rước dâu đã đến, hai Vương phủ đàn gái đông nghịt, kẻ ra người vào chúc tụng liên miên, giờ lành đã đến, hai phủ Vương gia tuy cách xa gần 300 dặm nhưng cuộc rước dâu xảy ra cùng một lúc.

Có người vào thông báo cho hai vị vương gia:

Vương gia, vương gia, kiệu rước xe hoa đã đến.

Hai bên đường dân chúng đông nghịt trằm trồ không ngớt, xe rước dâu đẹp quá, sang quá, Chạm Phụng, Trổ Rồng, quân binh hộ tống, có lẽ đây là đội ngự lâm quân mới oai phong như vậy, gươm, đao, giáo, mác chỉnh tề, rước dâu theo kiểu nhà Vương có khác, thành Tây Giang Châu cũng như vương phủ Trung Đại Nhân, đèn hoa rực rỡ, quân binh Vương phủ tiếp đón xe hoa hơn 2 – 3 dặm. Đàn ca kèn sáo du dương, ai nghe thấy như đang lạc vào cảnh giới Thiên Đàng. Ôi vàng bạc, châu báu, sính lễ cả xe, trầu cau rượu nếp, đãi cả làng không thiếu.

Quan khâm sai Đại Thần truyền lệnh:

Vương phủ họ đàn gái tiếp chỉ. Phụng Thiên thừa vận, chiếu theo Hiến Pháp phong tục Văn Lang, Trẩm thay mặt hai họ, đàng trai cũng như đàng gái phúc chỉ kết hôn. Ngọc Thiên Hương con vương phủ Đại Đại Thần, sánh vai cùng Diệp Lang Đức Tôn Vương Tử con của Thượng Vương Đức Thánh Điền Điền Lang. Ngọc Thiên Hương út nữ con Đại Đại Thần vương phủ Trung Đại Nhân sánh duyên kết hôn cùng Diệp Lang Đức Tôn Vương Tử con của Thượng Thượng Vương Đức Thánh Điền Điền Lang, tiếp chỉ.

Cả nhà Trung Đại Nhân lạy tạ tiếp chỉ, sắc chỉ phúc Hôn của Vua Hùng xong, mời khâm sai Đại Nhân vào phòng thượng khách tiếp đãi.

Còn nói về Tây Giang Đại Nhân, An Lạc Tiên nào có khác chi. Kiệu hoa xe hoa vào phủ thời huyên náo cả lên, kẻ lo khuân rượu, bưng trầu bưng cau vào nhà, người lo khuân vàng, vác ngọc, khiêng gấm, đồ sánh lễ nhiều vô kể. Còn phải tiếp chỉ.

Quan khâm sai Đại Thần đọc:

Phụng Thiên thừa vận, chiếu theo Hiến Pháp phong tục Văn Lang, Trẩm thay mặt hai họ, đàng trai cũng như đàng gái phúc chỉ kết hôn. An Lạc Tiên út nữ con Đại Đại Thần vương phủ An Lạc Điền sánh duyên kết hôn cùng Diệp Lang Đức Tôn Vương Tử con của Thượng Thượng Vương Đức Thánh Điền Điền Lang, tiếp chỉ.

Cả nhà An Lạc Điền lạy tạ tiếp chỉ, sắc chỉ phúc Hôn của Vua Hùng xong, liền mời khâm sai Đại Nhân vào phòng thượng khách tiếp đãi.

Có lẽ Tây Giang Châu xa hơn Kinh Giao Châu, xuất phát sớm mới theo kịp đoàn xe hoa Kinh Giao Châu. Gia đình An Lạc Điền đưa An Lạc Tiên lên xe hoa, đưa tiễn một đoạn đường rồi trở về phủ, tiếp tục tiếp đãi các quan khách gần xa. An Lạc Sơn thay mặt cha mẹ đưa em tới tận Kinh Đô Văn Lang.

Còn bên vương phủ Trung Đại Nhân ở Kinh Giao Châu, thời khâm sai Đại Nhân không lấy gì làm vội vã tiếp tục khoan thai ăn uống, cho đến ngày hôm sau mới lên đường về Nam. Cả gia đình họ tộc Trung Đại Nhân đưa tiễn Ngọc Thiên Hương một đoạn khá xa, chờ cho đoàn xe hoa mất hút cả nhà mới trở về Vương phủ.

Nói về Cao Lạc Hải là cháu bốn đời, Hùng Văn Lang Quốc Vương 24, Thượng Hạ Hùng Vương đời thứ nhất, Hạ Hùng Vương lên ngôi Quốc Vương Hoàng Đế thay cho bác ruột là Hùng Dịch Lang cuối dòng trưởng đời thứ 23. 1276 đến 1211 trước công nguyên thọ 132 tuổi đại thọ. 58 tuổi lên ngôi Quốc Vương, 65 năm ở ngôi Quốc Vương, 10 năm ở ngôi Thái Thượng Quốc Đạo. Nên được Vua Hùng ban cho sắc chỉ phúc Hôn.

Đây nói về ông bà Hạ Phúc Thịnh, quê ở Dạ Loan Châu, ba đời tu nhân, tích Đức, nỗi tiếng hiền lành khắp nơi, Quỷ Thần thường theo phù hộ ông bà, tiếng lành bay đến tai Diêu Trì Hoàng Mẫu, Hoàng Mẫu bằng gọi Lôi Tiên đến nói. Ta thấy con duyên trần chưa dứt, tất cả đều do cơ vận ý Trời xoay chuyển. Nước Văn Lang sắp bị yêu quái làm hại, con mau đầu thai xuống thế, hạ sanh vào nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh, đã ba đời tu nhân tích Đức, Hồng Phúc sâu dày, lớn lên theo Quang Âm Thánh Mẫu học Đạo tu Tiên, giúp quân Văn Lang triệt phá yêu Tinh, lập công nơi Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo Vũ Trụ, tăng thêm uy lực về sau.

Ở cung Tiên Vương Mẫu có bốn vị Tiên Cô, Phong, Vân, Lôi, Vũ. Lôi Tiên được lệnh Vương Mẫu đầu thai xuống trần, liền về Cung Lôi Âm, xuất hồn hóa một Đạo hào quang bay xuống hạ giới đầu thai vào nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh, lớn lên theo học Đạo tu Tiên với Quang Âm Thánh Mẫu, gia nhập quân Văn Lang, làm tới chức phó thống soái, thống lãnh ba quân tướng sĩ cùng với Cao Lạc Hải thống soái, đánh bại quân Ân chiến đấu với yêu Tinh, Bạch Cốt Ma Tổ, Bạch Cốt Ma Bà. Được Vua Hùng phong là Đệ Nhất Nhi Nữ anh hùng kiên trung hào kiệt.

Ông bà Hạ Phúc Thịnh vừa gặp Hạ Tiên trở về, vui chưa được bao lâu thời Hạ Tiên lại lên đường đánh giặc. Ông bà Hạ Phúc Thịnh lòng buồn nao nao, nhưng cảnh nước nhà đang bị ngoại xâm đánh phá, dân chúng cơ cực lầm than, ông bà Hạ Phúc Thịnh đành phải gạt nước mắt, chia tay với người con yêu dấu độc nhất mới trở về.

Tin thắng trận giòn giã dồn dập vọng về, ông bà Hạ Phúc Thịnh cảm thấy sung sướng tự hào, ông bà cảm ơn Trời Đất ban cho ông bà một Hạ Tiên vừa hiếu thảo, vừa xinh đẹp, nhất là về tài năng làm rạng danh dòng họ. Từ khi Hạ Tiên thống lãnh ba quân tướng sĩ đi đánh giặc, thời cả làng ai nấy cũng tự hào về làng mình. Nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh hồi nào cũng có kẻ ra người vào, kẻ tới người lui liên miên không dứt, ca ngợi không hết lời.

Thôn Dạ Quang hôm nay vui như ngày hội, đèn hoa rực rỡ, nhất là nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh, người đông nhưng ai nấy cũng bận rộn, nét mặt đầy vẻ hân hoan tràn đầy sức sống. Ông bà Hạ Phúc Thịnh trong bộ đồ sang trọng, đi tới đi lui tiếp đón niềm nở.

Có người nói:

Sao chưa thấy xe hoa, kiệu hoa đến.

Có người nói:

Tới phải có giờ có khắc chứ.

Có người nói:

Chị thấy Cao Lạc Tướng Quân chưa? tôi thì thấy rồi, đẹp trai oai phong lẫm lẫm, nghe đâu lên cấp Vương Gia rồi.

Người kia nói:

Không phải Vương Gia thôi đâu mà là Đại Vương Gia.

Người bé con hơn nói:

Vậy là Hạ Tiên làng ta trở thành Vương Đại Nương Vương Gia rồi.

Người cao hơn nói:

Đó là lẽ hiển nhiên rồi, còn phải nói.

Có người hỏi:

Đông Hải Châu, Bộ Lạc Hải giàu lắm phải không?

Bà chị kế bên nói:

Đúng rồi Bộ Lạc Hải có tới 7 – 8 Châu, Dạ Loan Châu chúng ta cũng nằm trong Bộ Lạc Hải. Nghe nói Cao Lạc Hải là con cháu của Cao Lạc Hầu Tể Vương, hoàng thân quốc thích với Vua Hùng, quyền uy giàu sang hết nói. Ông bà Hạ Phúc Thịnh có phước quá.

Người kia nói:

Chúng ta bì sao được. Ba đời nhà Phúc Thịnh làm phước làm Đức, đổ của đổ công giúp đỡ người nghèo, người tàn tật, người không nơi nương tựa, tu tạo nơi thờ phụng các vị Thần Tiên nhất là hết lòng thờ Trời, không dám làm điều sai quấy. Nỗi tiếng nhân Đức khắp vùng đó sao, nếu chúng ta muốn có cái phúc lớn thời phải tu luyện như gia đình của bà, có gieo thời có gặt, có nhân thời có quả, gieo giống nào trổ ra giống nấy.

Nghe qua lời nói nầy ai cũng nghĩ là đúng như vậy. Kìa đoàn xe hoa đã đến, tiếng kèn sáo văng vẳng vọng lại. Đến rồi đẹp quá, sang quá, một đoàn xe hoa rực rỡ. Đi trước kiệu hoa là một trang anh tuấn, nét mặt rạng rỡ như buổi bình minh, ai thế. Còn ai nữa đó chính là Cao Lạc Hải thống soái tướng quân.

Hôm nay Cao Lạc Hải không bận theo sắc phục theo kiểu Quân Đội mà ăn mặt theo kiểu chú rể lại càng làm thêm vẻ khôi ngô tuấn tú. Cao Lạc Hải cỡi con ngựa ô thật đẹp, dẫn đầu đoàn xe hoa. Quân binh tùy tùng đến nhà ông bà Phúc Thịnh rước dâu. Đoàn xe hoa tiến vào nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh trước sự hâm mộ của làng xốm, nức lòng trầm trồ khen ngợi. Nhìn đồ lễ cưới. Nào là vàng bạc Châu Báu, gấm vóc lụa là. Rượu ngon cả xe, Trầu Cau cả gánh. Đãi cả làng cũng không hết. Đúng là ngày vui cả làng, mặt sức mà thưởng thức. Rượu ngon, cao lương mỹ vị. Cái vui của ngày hội mừng cho đôi lứa nên duyên vợ chồng. Và cuộc vui nào cũng đến hồi kết thúc. Hạ Tiên trong y phục Cô Dâu lộng lẫy. Chẳng khác nào Tiên Nữ giáng trần. Lạy tạ từ giã ông bà Phúc Thịnh bước lên xe Hoa. Đoàn xe xa dần rồi mất hút đưa Hạ Tiên Về Đông Hải Châu. Sống hạnh phúc.

Năm năm sau. Nơi Dinh Thự Vương Phủ Đông Hải Châu. Tiếng vui đùa của trẻ con. Hình như là một trai một gái. Nơi vườn cây cảnh chạy tung tăng đùa hoa, đuổi bướm.

Bỗng nghe tiếng ông bà Phúc Thịnh gọi:

Phúc Tấn, Phúc Duyên coi chừng chạy gấp té.

Phúc Tấn, Phúc Duyên nghe ông bà Ngoại gọi. Liền chạy tới đứa vuốt râu, đứa thoát vào lòng bà Ngoại. Vậy mới biết cái quả hưởng phúc hôm nay không phải tự nhiên mà có. Mà đã có cái giá dày công tu nhân tích Đức, không chỉ một đời mà thậm chí nhiều đời. Gieo giống nào trổ ra giống ấy.

Đây nói về đoàn rước dâu về tới Kinh Đô Văn Lang hơn ba ngày mới tới. Hai đoàn xe Hoa nối đuôi nhau vào thành. Dân hai bên đường đông nghẹt. Đội kỵ quân 10 mét một người. Đứng hai bên đường, kéo dài 30 dặm, không cho dân chúng tới gần đoàn xe Hoa rước dâu, chỉ đứng ở xa mà nhìn. Không nói chúng ta cũng hiểu. Buổi lễ kết hôn long trọng đến mức độ nào. Nơi Vương Phủ nguy nga tráng lệ thuộc hàng bật nhất trong các Vương Phủ nơi Kinh Đô Văn Lang. Vương Phủ Đức Thánh Vương Điền Điền Lang Các vị cao cấp Vương Gia đều có mặt. Cũng may là hai Lão sui gia phi ngựa ngày đêm đến kịp.

Diệp Lang vô cùng hạnh phúc. Sống chung cùng hai người vợ xinh đẹp tuyệt trần. Ra sức chăm lo việc nước. Ngọc Thiên Hương. An Lạc Tiên giúp chồng những lúc khó khăn. Nên công việc luôn luôn trôi chảy. Về điểm nầy Vua Hùng khen ngợi không hết lời. Lại sinh ra con đàn cháu đống, làm nứt lòng ông bà, cha mẹ.

Ba mươi lăm năm sau: Diệp Lang lên ngôi Quốc Vương Hoàng Đế. Hùng Vương đời thứ 27 Thượng Hạ Hùng Vương. Đời thứ bốn Hạ Hùng Vương. Niên hiệu: Hùng Diệp Vương: Pháp hiệu Bảo Lang. Thay cho ông nội là Hùng Tiên Lang: Pháp hiệu Điển Lang. Điền Điền Lang. Cha của Diệp Lang, trở thành Thái Thượng Hoàng. Còn Hùng Tiên Lang: Điển Lang: Lên ngôi Thái Thượng Quốc Đạo. Thánh Tổ.

Như chúng ta đã biết Vũ Trụ có ba ngôi: Thiên Hoàng. Nhơn Hoàng. Địa Hoàng. Còn thời đại Vua Hùng thường nói đến ba đời. Ông, Cha. Và Đức Tôn: Là ba ngôi đặc biệt. Vì vậy sự lập ngôi kế vị. Ở thời Thượng Hùng Vương. Lập Đức Tôn kế vị là chính. Lớp già thay cho lớp trẻ.

Ở thời Hạ Hùng Vương, từ Hùng Vương thứ sáu trở về sau thường là truyền ngôi cho con, nhiều hơn là truyền ngôi cho cháu.

Nói đến trị quốc cũng khác thường. Ở vào thời đó không có một đất nước nào trị quốc như nước Văn Lang.

Thượng trị Quốc Hội thi hành Luật Pháp ngôi vị cao thượng nhất Thượng trị Quốc Hội. Đứng đầu các quan chức nhà nước Văn Lang chính là Quốc Vương Bệ Hạ, thi hành Quốc Pháp, Luật Pháp tối cao.

Còn ban hành Hiến Pháp: Độc Nhất vô nhị: Bản Hiến Pháp Quốc Tổ ban hành, lúc dựng nước giữ nước mà thôi, chính là nền Quốc Đạo dân tộc. Còn ban hành Luật Pháp là do Hạ trị Quốc Hội quyết định qua các thời kỳ rồi thông lên Quốc Vương phê duyệt chứng nhận mới được thi hành.

Đức Tôn Vương Tử Diệp Lang lên ngôi Quốc Vương trị vì Thiên Hạ. 1077 đến 1020 trước công nguyên. Thọ 128 tuổi. 62 tuổi lên ngôi Quốc Vương. 57 năm ở ngôi Quốc Vương. 9 Năm ở ngôi Thái Thượng Quốc Đạo Thánh Tổ.

* * *
 

shopoga

✩✩
HẾT

XEM TIẾP ĐOẠN KINH VĂN SAU


Nói về Văn Hóa Cội Nguồn, lịch sử nền Quốc Đạo Văn Lang. Là sự đúc kết Tinh Hoa vũ trụ, một thứ Tinh Hoa văn minh mà chỉ Phật Thánh Tiên mới hiểu nổi. Còn ở lãnh vực phàm tục, dù thông minh cho mấy cũng chỉ khám phá phần lớp vỏ mà thôi, phần thô. Còn phần vi tế thời khó mà với tới cho được. Và đã thất truyền từ lâu, nguyên do dẫn đến thất truyền thời nhiều nhưng tóm tắc 10 nguyên do chính sau đây.

1 - Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc là do truyền miệng kéo dài quá lâu nên dẫn tới sai lệch, càng về sau càng sai lệch lớn, dẫn đến mất gốc mờ mịt về Văn Hóa Cội Nguồn.

2 - Là thêm bớt trong lúc truyền khẩu, làm lệch đi những ý chính nguyên văn của Văn Hóa Cội Nguồn, có thể nói Văn Hóa của loài Rồng biến thành Văn Hóa của loài Rắn nước.

3 - Là Văn Hóa Cội Nguồn không được truyền rộng rãi, chỉ truyền cho những người được lựa chọn, cũng vì thế mà dẫn đến sự thất truyền càng về sau càng lớn.

4 - Là do không để lại Kinh Luân, có lẽ vì lúc ấy chữ viết, giấy mực còn quá sơ sài, thậm chí giấy còn chưa ra đời, chỉ dùng da thú.

5 - Là do ngoại bang xâm lược thống trị đập phá hết di tích, liên quan đến Văn Hóa Cội Nguồn, sai lệch còn sót lại.

6 - Là do ách thống trị quá khắc nghiệt của quân xâm lược đối với truyền thống khơi dậy của nhân dân ta, chỗ nào khơi dậy chỗ đó liền bị triệt phá.

7 - Là do ách thống trị ngoại xâm, bóp méo lịch sử Văn Hóa Cội Nguồn chúng ta, chúng thêm bớt vài chi tiết, độc hại hơn nữa những chi tiết thêm bớt của chúng lại được các nhà tri thức của ta nghe theo chúng viết ra, để lại cho thế hệ con cháu tiếp nối học, càng học càng mờ mịt, không còn biết đâu là thật, là giả, để chúng dễ bề cai trị.

8 - Là do nô lệ kéo dài hàng nghìn năm, không những nô lệ về thể xác mà còn nô lệ cả về mặt tinh thần, bị nền văn minh, văn hóa của ngoại bang ngự trị, chia rẽ tinh thần đoàn kết dân tộc, dẫn đến cảnh nồi da nấu thịt.

9 - Một Dân Tộc đã mất Văn Hóa Cội Nguồn thời coi như tinh thần dân tộc đó không còn chỗ đứng, dẫn đến sai phạm nghe theo chúng làm hại non sông Tổ Quốc làm hại hạt giống Tiên Rồng còn sót lại trong tâm hồn người dân Đại Việt.

10 - Là do sự mê hoặc của ngoại bang, chúng dẩn dắt Dân Tộc ta đến con đường mất tự Chủ, đi trên con đường lệ thuộc mà chúng đã sắp đặt an bày.

Thường thường trong Văn Hóa Tiên Rồng hiểu được mưu đồ của địch, chúng ta mới có kế thắng địch, thắng ở tương kế tựu kế, thắng ở cương không được thời thắng nhu vậy, thắng ở nhu không được thời thắng ở chí, ý chí của mỗi dân tộc hùng anh, mang dòng máu Tiên Rồng.

* * *



LỜI TÂM HUYẾT CỦA NGƯỜI HỘ PHÁP

GIỮ GIÁO, TRUYỀN GIÁO

HAI CHỮ “TỰ HÀO”


Chúng ta sinh ra và lớn lên dù ở nước ngoài hay trong nước đều mang trong mình dòng máu Tiên Rồng, chung nền Truyền Thống lâu đời nhất là Truyền Thống chống ngoại xâm, hào hùng bất khuất, anh dũng kiên cường sáng chóa. Một nền Văn Hóa lâu đời có một không hai, nền văn minh đột phá thời cổ đại, nền văn minh tinh thần lẫn vật chất làm chấn động Địa Cầu thời đó, thời Đại Hùng Vương. Kéo dài Độc Lập 2622 năm, sự Độc Lập kéo dài ấy không phải tự nhiên mà có, chính là nhờ nền văn minh cao tột, Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo Dân Tộc. Nền văn minh đỉnh cao của nhân loại, lấy Hiến Pháp làm vua, lấy luật pháp làm thầy, tôn thờ Chính Đáng, đó là tôn thờ Tổ Tiên, ông bà, cha mẹ.

Tôn Thờ Tổ Tiên là tôn thờ bản thể Cội Nguồn, vô thỉ, vô chung như không thay đổi bản thể khai lập tạo ra con người và Vũ Trụ, hay còn gọi là Đấng Tạo Hóa, Tạo Hóa đã sinh ra nhân loại, cũng ban cho nhân loại nhiều thứ quyền. Trong đó quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền Độc Lập tự Chủ, những quyền cốt yếu nói trên không ai có quyền xâm phạm, khi họ sử dụng cái quyền của họ đúng theo Thiên Luật chính đáng, không ai hủy diệt được nó, nếu có hủy diệt thời không bao giờ hủy diệt được, thứ quyền thiêng liêng mà Tạo Hóa Tổ Tiên đã ban tặng cho mỗi con người.

Hãy tôn trọng quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền Độc Lập tự chủ. Những kẻ tự cho mình có quyền. Ban cho Thiên Hạ quyền tự do, quyền sống, quyền Độc Lập tự Chủ là những chú Hề trên sân khấu tuồng đời.

HIẾN PHÁP VĂN LANG có đoạn nói: Hỡi Đồng Bào trăm họ chúng ta sống trên một sân chơi bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, bảo vệ, tôn trọng quyền tự do, tôn trọng quyền mưu cầu hạnh phúc, tôn trọng Độc Lập chủ quyền của nhau, đó là chân lí, đó là lẽ phải. Đằng nầy nhà Ân không những không tôn trọng chủ quyền Độc Lập của nhau, đưa quân xâm lược đàn áp quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, biến bình đẳng thành nô lệ. Nói chung là chúng biến dân Văn Lang thành dân nô lệ của chúng và chúng đã thất bại. Khi quyền Độc Lập, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc bị đe dọa. Thời nhất tề đồng loạt đứng lên đánh đuổi kẻ thù ấy. Thời nay cũng thế mà thôi, quyền Độc Lập, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự Chủ bị đe dọa nghiêm trọng. Hay chế độ cửa quyền áp bức. Thời khó tránh khỏi tai họa chiến tranh. Hãy sống theo lối sống văn minh hiện đại. Sống theo Văn Hóa Cội Nguồn, tôn thờ Hiến Pháp, Luật Pháp, tôn trọng truyền thống Nền Quốc Đạo Dân Tộc.

* * *



LINH THIÊN


Phải nói là tối Đại Linh Thiên.

Theo tôi được biết những người xúc phạm đến Văn Hóa Cội Nguồn thời tai họa giáng xuống liền như, tự nhiên hộc máu mà chết, tự treo cổ mà chết, xe cán chết, nhảy lầu chết, rắn cắn chết, bò xốc chết, té cấm khẩu không chữa được, đột quỵ không chữa được, mất chức, mất quyền, tan nhà nát cửa, gia đạo bất hòa, điên cuồng khó chữa, con cháu nổi lên làm hại gia phong, từ giàu sang dẫn đến phá sản sạt nghiệp. Nói chung tai họa giáng xuống nhiều vô số đối với những người bất kính đối với Văn Hóa Cội Nguồn. Còn những người thành kính thì sao, người điên trở thành hết điên, tự nhiên thông minh kỳ lạ, học hành thường đến nơi đến chốn, tai họa ít xảy đến, những bệnh nan y thường gặp may chữa khỏi, lên chức, lên quyền, từ nghèo khó chuyển lên giàu, của ăn của để không hết, con cháu hiếu thảo làm rạng rỡ gia phong. Nói chung tùy lòng thành kính cầu chi đặng nấy, công Đức đối với Văn Hóa Cội Nguồn càng dày thời phước Đức càng cao. Sự linh Thiên ấy do đâu mà có.

1 - Là do Hồn Thiên Dân Tộc phò trì tạo ra.

2 - Là do Thánh Thần Phật Tiên gia hộ tạo ra.

3 - Là do Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu, Lạc Long Quân, Âu Cơ tạo ra.

4 - Là do các Long Thần Hộ Pháp tạo ra.

5 - Là do sự hiển linh của ông bà nhiều đời nhiều kiếp tạo ra, khiến cho con cháu gặp nhiều may mắn. Lập công với Văn Hóa Cội Nguồn. Rạng danh tổ tông dòng Họ.

Đây là những điều tai nghe mắt thấy, không phải những lời bịa đặt mà là sự thật không thể tưởng tượng nổi.

Báu vật Trời cho khá giữ gìn

Anh Linh truyền thống đã hồi sinh

Con đường hạnh phúc giờ đã đến

Truyền bá cho đời rạng danh nên

* * *

Kinh sử Cha Ông mãi sáng ngời

Soi đường dẫn lối mãi vạn đời

Gươm thiên trấn quốc truyền hậu thế

Ngoại xâm khiếp vía khiếp tả tơi

* * *

Văn Lang kinh sử đã ra đời

Long, Lân, Quy, Phụng, đã chầu trời

Sấm dậy ầm ầm rền đất Bắc

Khiếp kinh hồn vía khiếp ôi ôi

* * *

Việt Nam chữ S trổ oai linh

Rồng Tiên chuyển hóa diệt yêu tinh

Đại Cáo Đông Tây Thiên Quyền Nhân Chủ

Đại Đồng Bình Đẳng Đại Anh Linh

* * *

Dân Tộc Việt Nam đã sẵn sàng

Chung nhau xây dựng ánh đạo vàng

Truyền thống anh linh thời dựng nước

Truyền thống anh hùng vẻ vẻ vang

* * *

Văn Kinh sử lược đã trao tay

Lo gì chẳng được đắp xây hòa bình

Lo gì chẳng được sang giàu

Lo gì chẳng được về Trời an vui

Nếu như biên chép ấn in

Hồn thiên che chở Cha Ông phù trì

Huống chi truyền bá cho đời

Cầu chi đặng nấy gia đình bình an

Chuyển đời đổi số giàu sang

Cháu con vinh hiển vượt qua khốn cùng

Văn Kinh sử lược oai hùng

Chỉ cần ca ngợi cũng thành hiền nhân

Huống chi theo bước Cha Ông

Hiếu Trung, Trung Hiếu ra công đáp đền

Chung nhau xây dựng nước mình

Rạng danh dân tộc rạng ngời Việt Nam

* * *

Thành tâm lễ lạy kính tin

Những gì để lại Cha Ông cho đời

Văn kinh tỏa sáng ngời ngời

Chung nhau gìn giữ để rồi ấm no

Con đường Độc Lập Tự Do

Con đường truyền thống Ông Cha con đường

Kinh văn đã ở trong lòng

Về trời sống mãi phước phần trời cho

Nhớ câu Nguồn Cội Ấm No

Nhớ câu mất gốc héo khô ngọn cành

Việt Nam con cháu Tiên Rồng

Trở về Nguồn Cội xây đời vạn xuân

* * *
 

shopoga

✩✩
VĂN MINH NHẬN THỨC HIỂU BIẾT VỀ CÀN KHÔN VŨ TRỤ THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC VĂN LANG

Càn Khôn Vũ Trụ
Chia làm ba phần


1 - Thiên giới.

2 - Trần gian.

3 - Âm phủ địa ngục.



Thiên giới chia làm 3 phần

a: Thượng Thiên vũ trụ, có 4 tầng Trời.

b: Trung Thiên vũ trụ, có 18 tầng Trời.

c: Hạ Thiên vũ trụ, có 6 tầng Trời.

- Thượng Thiên vũ trụ, có bốn tầng Trời Vô Sắc Giới.

- Trung Thiên vũ trụ, có 18 tầng Trời Sắc Giới.

- Hạ Thiên vũ trụ, có 6 tầng Trời gọi chung là Dục Giới.



Trần gian nhân loại cũng chia làm 3 hạng người

a: Thượng căn.

b: Trung căn.

c: Hạ căn.

- Thượng căn: Không học cũng thông

- Trung căn: Có học mới biết, không học không biết.

- Hạ căn: Đầu óc u tối, học mười chỉ hiểu được một. Có khi học Tây nghỉ Đông, học một đường hiểu một nẻo.



Âm phủ có ba đường khổ

a: Địa ngục tù đày.

b: Luân hồi Ngạ Quỷ.

c: Luân hồi súc sanh.



Nói về Thiên giới

Từ Cung Trời Đao Lợi Thiên trở lên gọi là Không cư Thiên Thiên Tiên.

Cõi Trời, Cung Trời, dưới Cung Trời là Cung Điện rồi đến Cung Động.

Như vậy từ tầng Trời Đao Lợi Thiên trở xuống. Chư Thiên ở Cung Trời, rồi đến Cung Điện, Cung Động. Tổng cộng là 36 Cung Trời, 72 Cung Động Cung Điện. Trên núi, dưới núi, trong lòng núi. Cùng khắp hạ hạ thiên vũ trụ. Có 7 núi chính lớn nhỏ cao to xa gần. Núi Tu Di Sơn nằm ở giữa.

1: Là núi Trì Địa Sơn.

2: Là núi Chướng Ngại Sơn.

3: Là núi Mã Nhĩ Sơn.

4: Là núi Thiện Kiến Sơn.

5: Là núi Đảm Mộc Sơn.

6: Là núi Trì Trục Sơn.

7: Là núi Song Trì Sơn.

Bảy núi nầy xa gần ở giáp vòng núi Tu Di Sơn.



Lại nữa núi Tu Di Sơn không những to, cao, lớn, mà xung quanh còn có 7 Kim Sơn bao bọc đó là:

1: Là núi Du Kiện Đà La.

2: Là núi Y Sa Đà La.

3: Là núi Kiệt Địa Lạc Ca.

4: Là núi Tô Đạt Lê Xá Na.

5: Là núi Án Thấp Phược Yết Noa.

6: Là núi Tỳ Na Đát Ca.

7: Là núi Ni Dân Đạt La.

36 Cung Trời 72 Cung Động Cung Điện.



Hạ hạ Thiên vũ trụ. Thánh – Thần – Phật – Tiên – Tà Giáo – Chánh Giáo phân nhau để ở. (Xem Kinh Long Hoa Pháp Tạng Sẽ Nói Rõ Hơn)

Sống ở Hạ hạ Thiên vũ trụ. Từ Cung Trời Đạo Lợi Thiên trở xuống. Nhân loại chư Thiên được phân làm hai loại người.

* – Một loài người là con cháu nhà Trời do hai Đấng Tiên Rồng sanh ra lưu truyền nòi giống xuống gọi là Con Rồng Cháu Tiên. Đồng Bào Thiên Hạ.

* – Hai là do các loài Bò Sát, Cầm-Thú, Thảo Mộc tu luyện thành người.

Xét cho cùng Nguồn gốc con người có ra là do hai Nguồn:

1 - Là do Tổ Tiên Khai Hóa, sau khi thành lập vũ trụ xong. Hiện ra Đức Cha Trời Long Hoa Cửu Huyền cùng Tiên Cơ Địa Mẫu. Sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống cho đến tận bây giờ. Gọi là Con Rồng Cháu Tiên.

2 - Là do các loài Bò Sát, Cầm-Thú, Thảo Mộc tu luyện thành người. Con người bằng pháp thuật. Không phải do Tinh Cha Huyết Mẹ loài người truyền xuống. Nên không thể lưu truyền nòi giống con người được. Khi hết Thần Lực thời cốt nào trở về cốt nấy. Cốt Khỉ hoàn Khỉ. Cốt Chồn-Cáo, sẽ trở về cốt Chồn Cáo.

Vì vậy Nhân Loại Chư Thiên ở hạ Thiên vũ trụ. Chia làm hai giới Phi Nhân và Thánh Nhân, Phi Tiên và Thánh Tiên, Xiển Giáo cùng Triệt Giáo.

Nói tóm lại: Các loài bò sát, Cầm-Thú, Thảo Mộc tu luyện thành người. Tu theo Chánh Đạo gọi là phi Tiên-giả Nhân. Không tu theo Chánh Đạo. Sống theo ác tánh gọi là Yêu-Tinh hay còn gọi là Quỷ dữ.

Hạ Thiên vũ trụ có 6 tầng Trời cõi Dục là:

Tính từ cao xuống thấp

Tầng 6: Trời Ma La Thiên.

Tầng 5: Trời Tha Hóa Thiên.

Tầng 4: Trời Hóa Lạc Thiên.

Tầng 3: Trời Đâu Suất Thiên.

Tầng 2: Trời Dạ Ma Thiên.

Tầng 1: Trời Đao Lợi Thiên.

Dưới nữa là Tứ Đại Thiên Vương trấn giữ Đông – Tây – Nam – Bắc. Bốn phương lưng chừng núi Tu Di Sơn rồi đến Cung Điện, Cung Động, trên núi, dưới núi, trong lòng núi.

Nơi hạ Thiên vũ trụ 6 tầng trời cõi Dục. Ở tầng Trời Đâu Suất Thiên. Có vị Phật Tổ Di Lặc Thiên Tôn làm giáo chủ, giáo hóa Thiên chúng làm theo lời dạy của Đức Cha Trời. Long Hoa Cửu Huyền Lạc Long Quân.

Lại nữa ở tầng Trời Đao Lợi Thiên, trên đỉnh núi Tu Di. Có vị Ngọc Hoàng. Huyền Khung Cao Thượng Đế Đại Thiên Tôn ngự trị tại Cung Linh Tiêu. Trên cai quản 6 tầng Trời. Dưới cai quản 18 tầng Địa Ngục. Làm theo Thiên ý lời dạy của Đức Cha Trời duy trì Luật Tạng Công Đạo vũ trụ. Nói chung Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa tất cả đều là con cháu của hai Đấng Tiên Rồng. Lên ngôi Chủ Quản các tầng Trời, các cõi Trời, các Cung Trời, cho đến Cung Động, Cung Điện toàn vũ trụ. Điều hướng về Cội Nguồn truyền lời dạy của Đức Cha Trời. Di trì Luật Tạng, Thiên Tạng, Pháp Tạng Công Đạo vũ trụ. Giữ vững cán cân Công Lý, Đại Đồng bình đẳng, không thiên vị một ai hễ phạm tội thời bị Thiên Luật Công Đạo xoay chuyển phán xử như nhau.

VĂN MINH NỀN QUỐC ĐẠO VĂN LANG, LÀ SỰ VĂN MINH PHÁT NGUỒN TỪ CỘI NGUỒN VŨ TRỤ CŨNG NHƯ HÀNH SỰ THEO THIÊN Ý CHA TRỜI THIÊN LUẬT VŨ TRỤ. ĐỈNH CAO TỐI CAO THIÊN Ý HÓA CÔNG. RỐT RÁO CÔNG BẰNG BÌNH ĐẲNG. QUỐC ĐẠO VĂN LANG LÀ ĐẠO LUẬT TỐI CAO NHÂN LOẠI CON NGƯỜI. ĐẠO LUẬT THIÊN CÔNG ĐỨC CHÍ TÔN THEO THIÊN Ý CHA TRỜI TRUYỀN XUỐNG CHỐN NHÂN GIAN. TRỞ THÀNH HIẾN PHÁP NỀN VĂN HIẾN VĂN LANG.

Ở miền trung Thiên vũ trụ nơi tần Trời thứ mười một của trung Thiên giới, tính từ địa phận trung thiên giới trở lên. Tầng thứ 18 tính từ tầng trời Tứ Thiên Vương hạ thiên vũ trụ tính lên.

Tiền Thân Quốc Tổ Hùng Vương ở đây sanh xuống chốn nhân gian làm con Kinh Dương Vương (xem Long Hoa Mật Tạng sẽ nói rõ hơn). Nơi Cõi Trời phước sanh hàng năm vào mùa Thất sen nở rộ. Từ các ao thất bảo hào quang chóa lại đủ màu sắc, hương sen ngào ngạt. Là mùa lễ hội Long Vân. Phật – Thánh – Tiên – Thành – Chúa. Từ khắp thập phương vũ trụ cõi Trời, đều đến dự Đại Hội Long Vân, là những vị Đức cao Đạo trọng. Thần thông quảng đại, pháp thuật, trí tuệ, vô tận, vô biên, uy Quyền vạn cõi.

Các Ngài là những vị đương nhiệm điều hành vũ trụ. Theo bộ máy huyền cơ của Tạo Hóa. Di trì Công Đạo, cán cân công lý của luật bình đẳng nhân quả vũ trụ.

Lúc bấy giờ nơi tần trời thứ 18 của vũ trụ, Cõi Trời Long Vân bỗng nhiên to lớn dị thường, gấp hàng nghìn hàng vạn lần so với lúc bình thường. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, mỗi người mỗi vẻ. Hào quang muôn màu, muôn sắc vô cùng đẹp mắt, vô biên rực rỡ sinh động kỳ ảo vô cùng. Các Ngài đến dự hội Long Vân, đông vô số, vô biên. Không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn. Dù cho tính đến cả trăm vạn năm cũng không hết. Thấy các Ngài đã yên vị chỗ ngồi.

Biết đã đến lúc Khai Hội Long Vân. Đức Chí Tôn, chính là tiền thân Quốc Tổ Hùng Vương ngự trên tòa Kim Long Bá Bảo. To lớn như ngọn núi Tu Di. Từ tòa Kim Long Bá Bảo tám muôn bốn nghìn con Rồng Châu Báu, bỗng chuyển động. Mỗi con phát ra một đạo hào quang, xuyên suốt hư không làm chấn động vũ trụ. Từ nơi Đỉnh Đầu Đức Chí Tôn phát ra 8 muôn 4 nghìn đạo hào quang xuyên suốt hư không làm chấn động vũ trụ thưa thỉnh với Cha Trời là chúng Con Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa muốn được nghe lời Cha Trời Truyền Dạy. Tức thời nơi vũ trụ hư không vang ra tiếng sấm lớn. Tiếng sấm uy quyền tối cao của Đức Cha Trời. Tiếng sấm Đại Đồng bình đẳng. Tiếng sấm quang minh Chính Đại. Tiếng sấm luân hồi Nhân quả. Tiếng sấm an Lạc tự do. Tiếng sấm của Địa Ngục đau khổ. Tiếng sấm Đại Nguyện cứu khổ ban vui. Tiếng sấm Đại từ. Đại Bi. Đại Hỷ. Đại Xả. Đại Hạnh. Đại Trung Hiếu. Tiếng sấm khen ngợi Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa vì nhân loại vì Tổ Tiên, vì Cội Nguồn, thay thế Cha Trời chuyển đại pháp luân. và cứ thế Như Lai tạng tánh vang lên, 8 muôn 4 nghìn chủng tánh đà la ni. Mật Tạng của Đức Cha Trời. Pháp tạng huyền vi vũ trụ.

Mà Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa mãi mãi nghe theo và làm theo, giữ gìn truyền đạt lại cho người sau, làm lợi ích cho toàn nhân loại. Tùy theo sức lực. Hạnh Nguyện lớn nhỏ, lập công với Trời. Đức Cha Trời sẽ ban thưởng cõi nước lớn nhỏ tùy theo công Đức của mỗi người tạo ra.

Tiếng sấm Tạng Tánh Mật Tạng vũ trụ. Đức tánh của Đức Cha Trời vừa dứt. Tức thời nơi hội Long Vân năm màu da anh em bỗng nghe thấy mùi hương kỳ lạ. Chưa từng thấy từng nghe. Trỗi dậy từ chân không mỗi lúc một thêm ngào ngạt. Chỉ cần hít được là Tinh Lực: Công Lực: Thần Lực tăng lên gấp trăm gấp nghìn lần sức tu luyện hàng triệu triệu năm. Một chuyện hi hữu chưa từng xảy ra ở những lần Đại Hội. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa Đồng nghĩ. Có lẽ chúng ta là những người con, người cháu, chăm chỉ nghe lời dạy bảo của Đức Cha Trời nên Đức Cha Trời ban thưởng Tinh Hoa Tiên Thiên vũ trụ. Công Lực, Tinh Lực, Thần Lực, quí hiếm như vậy. Bỗng nơi hư không vũ trụ vang lên tiếng nói. Đúng thế đúng thế, các con là những người con chí hiếu đáng yêu đáng quí của ta. Đã có các con duy trì Công Đạo vũ trụ, thời ta không còn lo lắng chi nữa.

Bây giờ Đức Chí Tôn thấy Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa năm màu da anh em người nào người nấy hào quang rực rỡ liền chấp tay thi lễ hướng về Đại Hội. Đức Chí Tôn nói Thưa Đại Hội anh em. Chúng ta là anh em con một Cha, Chung một Cội Nguồn sống trong ngôi nhà chung vũ trụ. Anh em chúng ta từ xưa đến nay. Thay thế Đức Cha Trời điều hành vũ trụ. Luôn luôn phát Đại hạnh, Đại Nguyện dắt dẫn nhân loại con người sau xa lìa tội lỗi. Trở về Cội Nguồn. Trở về thật tướng thật tánh của mình. Nhổ sạch cội ác, thoát khỏi luân hồi sanh tử. Địa Ngục ngạ quỷ súc sanh, khốn khổ vô cùng.

Xét cho cùng cái gốc ác là do mê muội tạo ra mà thôi. Ác hay thiện đều do tâm mình tạo ra cả. Bản nguyên linh giác chân tánh nguyên thủy vốn không thiện, không ác. Trong sạch thanh tịnh vì thế mà ta đã đầu thai xuống trần gian. Truyền dạy lời dạy của Đức Cha Trời mở đường làm gương đi trước mở ra Văn Hóa Cội Nguồn nơi trần thế. Lập lên nhà Nước Văn Lang đồng thời cũng thành lập lên Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang. Chủ quảng Hồn Thiên Dân Tộc toàn cầu. Theo Thiên Ý Cha Trời Thiên Luật Vũ trụ chuyển xây bộ máy huyền vi không cho những Linh Hồn dấy loạn cõi tâm linh trần thế cũng như phạm Thiên Luật, Thiên Ý Cha Trời.

Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang nơi trần thế. Thống trị Linh Hồn toàn cầu cho hết tiểu kiếp thứ 9 sau 10 nghìn năm ở chốn nhân gian. Ta đã dựng lên nước Văn Lang. Mở ra văn hóa Cội Nguồn Quốc Đạo Tiên Rồng dân tộc Hiến Pháp đầu tiên của nước Văn Lang. Mật Tạng Tánh Đức Cha Trời. Cũng là Hiến Pháp độc nhất vô nhị Hiến Pháp Đa Nguyên Thiên Quyền Nhân Chủ, cao hơn Hiến Pháp Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ mấy bậc. (Xem Kinh Long Hoa Pháp Tạng sẽ nói rõ hơn)

Lời dạy của Đức Cha Trời cao thâm huyền diệu. tối đại Linh Thiên, tin theo làm theo thời phước đức uy lực trí huệ vô cùng, vô tận, vô biên. Bằng ngược lại chỉ cần không tin, hay hủy bán hoặc lợi dụng lời dạy của Trời làm lợi cho cá nhân. Thiệt hại cho bá tánh muôn dân. Thời tội ấy không biết đâu mà lường. Đại họa sẽ giáng xuống liên miên. Khi chết đi khó mà đầu thai trở lại làm người được nữa.

Khi Ta khai dựng lên nước Văn Lang Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo Tiên Rồng chỉ truyền xuống vị vua kế tiếp mà thôi. Vì lúc ấy trình độ dân trí còn quá thấp, mê tín dị đoan. Thờ tà giáo, các loài cầm thú. Hơn nữa Thiên cơ vũ trụ chưa chuyển đến giai đoạn văn minh vật chất. Các nhà khoa học vũ trụ, Thiên Tiên, Địa Tiên, chưa luân chuyển xuống trần. Nên giấy bút còn tạm bợ thô sơ lạc hậu chưa hoàn hảo chữ viết cũng vậy. Nên không để lại kinh giáo, chỉ truyền miệng, Cũng chỉ vì truyền miệng tam sao thất bổn không bao lâu nền Văn Hiến Quốc Đạo sai lệch mất gốc. Dân tộc Văn Lang dần dần rơi vào khốn khổ vì Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo chân chính không còn.

Khi ta về Trời các thế hệ Vua Hùng nối tiếp nhau duy trì Chánh Đạo Văn Hóa Cội Nguồn. Nhưng vì không có kinh, chỉ truyền miệng nên đã dẫn đến lệch lạc tam sao thất bổn, ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn mặt trời trí tuệ dần dần biến mất. U minh phủ khắp nhân gian thiên hạ đồng bào rơi vào ác Đạo. Thiện ác lẫn lộn đi vào binh đao máu lửa vô cùng thê thảm. Địa ngục âm phủ càng thêm mở rộng, khổ thay khổ thay.

Thấy Đức Chí Tôn lo lắng như thế. Nơi Pháp Hội Long Vân, có Đức Phật Tổ vô lượng quang Như Lai. Ngự trên tòa Sen Báu 8 muôn 4 nghìn cánh to như núi Kim Sơn, hào quang chói lọi uy lực, thần thông, trí huệ vô biên. Liền chấp tay thi lễ nói với Đức Chí Tôn rằng.

Thưa Đức Chí Tôn. Chí Tôn hãy an tâm. Tuy nơi chốn nhân gian là nơi vô cùng nguy hiểm. Đối với Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, khi lâm phàm liền rơi vào cảnh tối tăm. Lôi cuốn theo dòng đời trần thế Xuống trần nhiều, nhưng trở lại Thiên Giới thời rất ít.

Chỉ trừ các vị Tổ thời mới mong trở về ngôi vị cũ của mình. Nơi chốn nhân gian mạng lưới u minh dày đặt, gió bát phong thổi mạnh. Sáu trần đánh phá biến ảo khôn lường. Sáu căn đầy dẫy bệnh tật. Sáu thức không an trụ chân tánh được, thường luân chuyển vào cảnh tối tăm mù mịt sa vào ác Đạo.

Nếu không nhờ Thần Lực của Đức Cha Trời gia hộ thời Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, khi lâm phàm khó trở về ngôi vị cũ. Nói gì đến chuyện chuyển Đại Pháp Luân cứu thế. Vì thế Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa lâm phàm phải khế hiệp theo huyền cơ vũ trụ, mới bảo đảm linh căn trở về Thượng giới. Hiện giờ ở chốn nhân gian, huyền cơ vũ trụ đã chuyển đến giai đoạn phong Thần.

Các vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa ở hạ hạ Thiên vũ trụ. Địa Tiên vào cuộc, 36 cung Trời, 72 cung Động cung Điện lần lược lâm phàm luân chuyển tiến hóa, thanh lọc Linh căn. Từ địa vị Địa La Thần lên địa vị Thiên La Thần. Các vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, vị nào trụ tâm không vững sẽ rơi vào kiếp Phong Thần, uổng công hàng nghìn kiếp tu luyện.

Nước Văn Lang cũng không tránh khỏi Đại họa, vì chúa tể của các loài Hồ tinh ra đời thời không bao giờ bỏ qua món hận con Trời đã hại chúng. Lại nữa sau phong Thần 600 năm, Huyền cơ chuyển sang giai đoạn tam giáo. Phật giáo, Thánh giáo, Tiên giáo ra đời. Sau tam giáo 500 năm. Huyền cơ vũ trụ chuyển đến giai đoạn mở màn văn minh vật chất. Nhân loại chư Thiên ở hạ Thiên vũ trụ, lần lược thi nhau lâm phàm. Liền bị chuyển vào dòng xoáy, của màng danh lợi, rơi vào cảnh giới u minh. May nhờ ánh sáng Tam giáo soi đường, nên ít sa vào Địa ngục. Nếu không trở về thiên đàng được, thời cũng đầu thai trở lại làm người tiếp tục hưởng phước, tiếp tục tu luyện lập công tiến hóa linh hồn, chờ Hội Long Hoa Rồng Tiên ra đời. Ở vào giai đoạn nầy huyền cơ bắt đầu chuyển đến Trung Thiên vũ trụ tần Trời thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Tức là tần Trời 8, 9, 10 tính từ tầng trời Tứ Thiên Vương trở lên. Các chư Thiên ở ba tầng Trời nầy lần lượt lâm phàm. Trong số chư Thiên lâm phàm có Đức giáo chủ A MEN, 1 trong 100 người con của Đức Cha Trời. Hành Kim. Đem ánh sáng quyền năng Cha Trời xuống chốn nhân gian. Nhưng đó mới chỉ là ánh sáng hừng đông mở màng. Cho đến sau công nguyên 2000 năm, đầu thế kỷ 21, mặt Trời chân lý vũ trụ mới xuất hiện. Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ mới thật sự ra đời. Đây là giai đoạn vô cùng quan trọng, giai đoạn phong Thánh, Đại Thánh.
 

shopoga

✩✩
Từ thế kỷ 21 đến thế kỷ 30 một nghìn năm nhân loại Trần Gian đi theo Văn Hóa Cội Nguồn thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa vô lượng vô biên không thể tính đếm, không thể luận bàn cho hết được. Mặt Trời chân lý vũ trụ sẽ sáng mãi đến tiểu kiếp thứ 15 qua 84 triệu năm thời Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ mới lặng. Thay vào đó là ánh sáng Liên Hoa Hãi Tạng ra đời kéo dài cho đến tiểu kiếp 20 hết kiếp trụ. Ở kiếp hoại không có ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác ra đời, kéo dài 336 triệu năm cho đến khi trái đất nổ trở về chân không.

Lại nữa cuối tiểu kiếp tăng đầu tiểu kiếp giảm của tiểu kiếp thứ 10 Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ. Đã trải qua 8 triệu 4 trăm nhìn năm. Lúc ấy tuổi thọ của nhân loại trần gian đã tăng lên tới đỉnh, 8 muôn 4 nghìn tuổi. Thời Đại Hội Long Hoa vũ trụ mở ra ở khoảng chân không Hạ Thiên vũ trụ. Huyền cơ chuyển đến giai đoạn phong địa vị tối cao. Những chủ nhân tương lai Tổng Đà La Ni kế thừa Di Chí Tổ Tiên Như Lai, Cha Trời Mẹ Trời, chuyển đại pháp luân giai đoạn tối cao của nhân loại. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa. Nơi Hội Long Vân Nhờ nương theo thần lực của Phật Tổ Tổ Tổ nơi Pháp Hội ai cũng điều thấy rõ những sự việc xảy ra trong tương lai như vậy. Theo sự huyền vi Tạo Hóa sắp xếp của Cha Trời.

Bỗng thấy vũ trụ rung chuyển. Từ nơi tòa Kim Cang bá bảo to lớn như ngọn núi Thiên Sơn. Muôn Đạo Hồng Quang phóng lên dữ dội. Có vị Hồng Quang Lão Thánh Thánh Tổ Tổ Tổ. Chắp tay thưa với Đức Chí Tôn rằng. Chúng ta là con cái nhà Trời, thừa kế di Chí Cha Ông, cũng như thừa kế giang sang vũ trụ. Những Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa phải có nhiệm vụ. Kiến tạo xây dựng mỗi ngày một thêm xinh đẹp, vật chất lẫn tinh thần. Nhất là đạo đức con người mỗi ngày thêm phong phú rực rỡ hơn lên.

Từ khi Tổ Tiên lập lên vũ trụ. Hiện thân ra Cha Trời, Mẹ Trời khai tạo ra giống người dìu dắt Linh Hồn anh em chúng ta lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Vận hành bộ máy huyền vi vũ trụ, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời. giữ gìn Công Đạo Thiên Ý luật nhân quả vũ trụ.

Những linh hồn đã gieo được hạt giống tốt lời dạy của Đức Cha Trời tiến hoá lên ngôi vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, thời tùy theo Công Đức, và sự chứng ngộ hội nhập Cội Nguồn. Mà làm chủ các tầng Trời, cõi Trời, cung Trời, cung Điện, cung Động khắp tam giới.

Lại nữa các vị Tổ đại nguyện viên mãn. Hội nhập Cội Nguồn trở về bản thể Linh giác thật tướng thật tánh tối cao Tạo Hóa. Ví như bọt nước tan biến trở lại là nước. trở về ý thức thanh tịnh, bình đẳng Đại Đồng, Cội Nguồn vũ trụ ngôi vị Tổ Tiên Khai Hóa. Thành lập vũ trụ mới, thay thế vũ trụ cũ, già cỗi đi vào hủy diệt. Nơi pháp Hội Long Vân Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa nương theo ánh sáng hồng quang ai nấy cũng nhìn thấy rõ quá trình diễn biến. Quá khứ hiện tại vị lai không sót một chi tiết nhỏ.

Tức thời nơi pháp Hội Long Vân. Chúng hội ở địa vị Thần chuyển lên địa vị Thánh còn Phật Thánh Tiên chuyển lên ngôi Tổ Tổ vô lượng vô biên không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn. Chờ đến pháp Hội Long Hoa giữa tiểu kiếp thứ 10, các ngài Đồng phóng quang, tuyên thuyết, diễn thuyết bản thể chân tướng chân tánh. Đồng Cội đồng nguồn vũ trụ Đại Đồng bình đẳng có một không hai thật tánh, thật tướng vũ trụ.

Lại nữa nơi pháp Hội Long Vân, bỗng thấy hào quang ngũ sắc phóng lên dữ dội từ tòa châu báu Thái Cực lưỡng nghi to như ngọn núi Mộc Sơn. Có vị Không Không Lão Tổ Tổ Tổ, chắp tay thưa với Đức Chí Tôn rằng. Thưa Đức Chí Tôn từ đây đến cuối tiểu kiếp thứ 9 chỉ còn 8 nghìn năm nữa theo chốn nhân gian và nhân loại chỉ trụ được hơn 6 nghìn năm mà thôi. Tức là sau công nguyên chỉ hơn 5 nghìn năm. Còn trên nữa 2 nghìn năm tiếp theo thời con người khó mà sống, vì 2 nghìn năm cuối cùng của tiểu kiếp thứ 9, Tứ Đại, Đất Nước, gió lửa đi vào thái chuyển quá mạnh. Động Đất, Nước Biển dâng, Mưa to, Bão lớn Thời tiết khắc nghiệt. Nhiệt Độ tăng quá cao, cũng như hạ quá thấp. Con người sống sót tồn tại còn lại là không bao nhiêu ở những giai đoạn cuối tiểu kiếp thứ chín. Mở màn người nguyên thủy Thời Hồng Hoang lặp lại đầu tiểu kiếp thứ 10. Sau Công Nguyên 5 nghìn năm thời cơn bão bình thường cũng lên tới 200 cây số giờ. Nước biển dâng ngập hầu như gần hết các lục địa những đồng bằng nhiệt độ trung bình gần 100 độ C, động đất cực mạnh luôn luôn xảy ra khắp các châu lục và cuối cùng là chuyển đổi lục địa, năm châu bốn biển thay dạng đổi hình. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa ở Hạ Thiên, Trung Thiên lâm phàm xuống trần phò trì văn hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ làm lợi ích cho toàn nhân loại tiến hóa linh hồn lên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Biến Địa Ngục trần gian thành thiên đàng Cực Lạc giả tạm, trước khi nhân loại trở về Thiên đàng Cực Lạc chính thức. Các vị Thiên Tiên Địa Tiên lâm phàm cứu nhân độ thế mở ra khoa học văn minh vật chất, khai thác tài nguyên vũ trụ, tạo ra phương tiện máy móc phục vụ con người, giảm bớt thiệt hại thiên tai đang thái chuyển thay đổi sanh tiểu kiếp mới.

Nơi pháp Hội Thiên chúng Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, nương theo hào quang của Đức Không Không Lão Tổ Tổ Tổ thấy nhân loại trần gian sắp đi vào hiểm họa vì những nghìn năm đi lần về cuối tiểu khiếp. Chuyển sang tiểu kiếp mới theo luật tuần hoàn vũ trụ, các ngài đồng nghĩ ta phải cứu nhân loại phàm trần, thoát khỏi ba đường ác đưa nhân loại trở về Thiên Đàng Cực Lạc theo lời dạy của Đức Cha Trời, lập đại công dâng lên Đức Cha Trời, ý nghĩ tốt đẹp của các Ngài đã làm chuyển động cả vũ trụ. Những chỗ u tối xưa nay nơi vũ trụ bỗng tự nhiên sáng trở lên, các vị Thần, Thánh, Phật, Tiên toàn vũ trụ ca ngợi công Đức, phát tâm cúng dường, đồng loạt bay lên tầng Trời thứ 18 cõi Long Vân. Cúng dường đồ ăn, thức uống hiếm quí, hương Hoa Kỳ Hương dị bảo, kim cương ngọc ngà trân châu báu lạ. Thành trận mưa cúng dường mưa báu kéo dài, làm chấn động toàn vũ trụ tam Thiên Đại Thiên thế giới. Khắp nơi địa ngục lúc bấy giờ, người đại tội biến thành nhẹ tội, người nhẹ tội liền siêu sanh lên cõi nhân gian, sống trong sự giàu có.

Lúc ấy bỗng nơi hư không vang ra tiếng nói lớn. Hi hữu thay đáng khen thay, lòng Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xã đã phát huy tác dụng đến tận cùng vũ trụ, nơi tối tăm nhất cũng được tỏa sáng, nơi đau khổ nhất cũng được nhẹ đi, hi hữu thay đáng khen thay. Đáng khen thay đó là lời khen của Đức Cha Trời từ nơi hư không vũ trụ.

Nơi pháp Hội Long Vân, có một tòa kim cang bát Quái Châu báu to như núi song trì luôn luôn phát ra ánh sáng kì lạ, từ trắng thành đen, từ đen thành vàng, từ vàng thành đỏ, từ đỏ sang chàm. Ngũ hành luân phiên chuyển hóa, thì ra tòa kim cang bát quái ấy là của Thiên Cơ Lão Tổ Tổ Tổ đang chuyển đại pháp luân. Thiên Cơ Lão Tổ Tổ Tổ liền chắp tay thưa Đức Chí Tôn rằng. Thưa Đức Chí Tôn từ khi Tổ Tiên Khai Hóa, khai lập vũ trụ đến giờ, bộ máy huyền vi vũ trụ không có gì thay đổi, luật trước luật sau cũng chỉ là một luật, hể có sinh là có diệt, không sinh là không diệt. Vật chất luân chuyển theo tuần hoàn. Sanh trụ Dị Diệt, còn linh căn linh hồn thời luân chuyển theo nghiệp lực, Thiện Ác mê chấp, nhân quả. Tất cả linh hồn sanh ra đều bình đẳng. Thuận theo Thiên Ý hành Thiện thời thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời gọi là ác, vì ác nên thành yêu tinh quỷ dữ ác đạo. Đã gieo ác đạo, thời gặt ác báo. Mê tín dị đoan, Trời không thờ, mà thờ quỉ thờ yêu thờ tinh. Thờ Thần cầm, Thần thú, theo tà thuyết, gieo nhân bất chính, nên kết quả bất lành, rơi vào tà Đạo. Nên sa vào ba đường khổ, Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, cũng như sa đọa thành yêu tinh quỉ quái. Làm theo lời dạy của Đức Cha Trời gọi là Ngộ là Thiện, vì Thiện gọi là Chánh, vì Chánh nên thành tựu vô lượng công Đức. Vì có vô lượng công Đức, nên thành Vua, thành Chúa, thành Phật, thành Thánh, thành Tiên.

Thật ra tất cả Linh Hồn chung một Nguồn gốc Cha Trời. Cha Trời. Đại Linh Hồn ví như nước, còn tất cả tiểu Linh Hồn nhân loại ví như bọt nước. Bọt Nước do Nước sanh ra mà thôi. Tất cả tiểu Linh Hồn Bình Đẳng, đều là con cái của Đại Linh Hồn Cha Trời. Cũng bởi gì Tâm Hồn mê muội, khởi sanh ra tánh ác, làm hại mình hại người. Làm cho cõi âm phủ Địa Ngục mỗi ngày mỗi thêm rộng lớn, vì hành Ác đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời. Nên bị bộ máy huyền vi vũ trụ xoay chuyển, theo luật nhân duyên cũng như luật nhân quả, gieo giống nào thời gặt giống nấy. đọa lạc luân hồi mãi mãi khốn khổ vô cùng. Dù trải qua vô lượng kiếp cái Ác cứ mãi đeo bám, kết quả đi đến tù đày, sát phạt, ăn nuốt lẫn nhau, khó mà giải thoát. Xin Đức Chí Tôn mở lượng từ bi, đem ánh sáng trí huệ Đức Cha Trời xuống nhân gian. Chuyển Đại Pháp Luân lần nữa làm lợi ích cho toàn nhân loại, thiện ác đều được giải thoát. Trở về bản giác Chân Tánh, ngôi vị Chí Tôn vô thượng.

Thưa Đức Chí Tôn, giai đoạn cuối tiểu kiếp là giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. Có thể nói giai đoạn cực ác biết lợi dụng Phật Pháp, Thánh Pháp, Tiên Pháp phục vụ lợi ích riêng cho mình. Làm lợi cho bè phái, đảng phái phục vụ chiến tranh. Các vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa xưa nay đều hiểu. Khi đầu thai xuống trần trở thành người phàm tục. Thời quên mất tiền thân kiếp trước của mình. Bị dòng đời xoay chuyển theo trào lưu xã hội, nên Làm lành lánh dữ đã khó, huống chi là chuyển Đại Pháp Luân. Trên biển lữa hận thù, tranh đấu chém giết lẫn nhau thủ đoạn cùng hung, cực ác chồng chất như núi như non. Trong hoàng cảnh trần gian xã hội như thế, thời Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đầu thai xuống trần không những không làm được gì mà còn bị lôi kéo theo dòng đời lạc vào Tà Ma Ác Đạo. Trở thành anh hùng lạc đạo hết mong về trời. Có khi còn sa đọa xuống Địa Phủ.

Thưa Đúc Chí Tôn. Nếu không phải bật thượng căn Trí Huệ vô tận, Đại Nguyện vô tận thời khó mà chuyển Đại Pháp Luân. Làm cho ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác tỏa sáng khắp Trời đất được. Nhất là ở vào tình thế nơi chốn trần gian đang trên đà hưng thịnh Mạc Kiếp Mạc Pháp gần cuối tiểu kiếp đầy khó khăn nguy hiểm nầy.

Nơi Pháp Hội Long Vân, Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa đồng nghĩ như vậy. Chỉ có Đức Chí Tôn anh cả con Trời xuống trần mới chuyển xây được tình thế ở giai đoạn đầy khó khăn nguy hiểm nầy. Liền thỉnh cầu Chí Tôn chuyển Đại Pháp Luân, đem ánh sáng Đa Nguyên Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ xuống trần mở màng đời Thánh Đức. Lấp con đường địa ngục mở cửa Thiên Đàng đưa nhân loại trần gian về trời. Đức Chí Tôn nhận lời thỉnh cầu pháp hội Long Vân. Chờ đúng huyền cơ vũ trụ tái sanh xuống chốn nhân gian Thiên Ấn Thiên Bút ra đời.

Tự hào truyền thống Cha Ông

Tự hào đất nước con Rồng Cháu Tiên

Tự hào Văn Hóa văn minh

Tự hào Quốc Tổ uy linh oai hùng

Tự hào hai chữ Đồng Bào

Tự hào Nam Việt đất trời Địa Long.



Trung Thiên vũ trụ có 18 tầng Trời, tính từ cao xuống thấp:

18: Tầng Trời sắc cứu cánh.

17: Tầng Trời Thiện Hiện.

16: Tầng Trời Thiện Kiến.

15: Tầng Trời Vô Nhiệt.

14: Tầng Trời Vô Phiền.

13: Tầng Trời Vô Tưởng.

12: Tầng Trời Quảng Quả.

11: Tầng Trời Phước Sanh.

10: Tầng Trời Thiên Vân, Chỗ Đức Chí Tôn Ngự.

9: Tầng Trời Biến Tịnh.

8: Tầng Trời Vô Lượng Tịnh.

7: Tầng Trời Thiểu Tịnh.

6: Tầng Trời Quang Âm.

5: Tầng Trời Vô Lượng quang.

4: Tầng Trời Thiểu Quang.

3: Tầng Trời Đại Phạm.

2: Tầng Trời Phạm Phụ.

1: Tầng Trời Phạm Chúng.



Mười tám tầng Trời nầy gọi chung là: Sắc giới.

Tam giới là:


1: Dục giới.

2: Sắc giới.

3: Vô Sắc giới.



BỘ VĂN LANG CHIẾN SỰ 1
ĐẾN ĐÂY ĐÃ HẾT


CHỦ BÚT: ĐINH HÙNG CHUNG​
 

shopoga

✩✩
QUỐC BẢO
CHÂN KINH

VĂN LANG
CHIẾN SỰ

II


THIÊN ẤN THIÊN BÚT

GÒ HỘI

ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI



2013

Nguyễn Đức Thông















PHẦN 1: MỞ ĐẦU

Văn Lang trù phú, cảnh sang giàu.

Vàng, ngọc, trân châu, sắt, đồng, thau.

Gạo trắng, cá tươi, người đông đúc.

Lụa là gấm vóc, ngọc trắng phau.

Quê, thị, gần, xa, luôn nô nức.

Hội đình, chợ, quán, cảnh chen nhau.

Phương Bắc ngày đêm, lòng thèm khác.

Xâm lăng cướp lấy, trước nối sau.

Nói đến nước Xích Quỷ, thời Kinh Dương Vương, thời phải nói đến sự giàu có, không những giàu có về vàng, bạc, châu, báu, sơn hào hải vị, món ngon vật lạ, nhất là văn minh về lúa nước, nhất là lúa hổ Rằng, lúa Hổ Chưởng, lúa Chiêm, lúa Thần Nông, lúa Xích Khoán, lúa Thiền Minh, lúa An Cựu, lúa Hạ Bạch, lúa Thanh Vu, lúa Bạch Kê, lúa Tẻ, lúa Thuần, lúa Mạch, lúa Kim Ô, lúa Hoàng Đế, lúa Xích Kê, lúa Thượng, lúa Hạ, lúa Phì, lúa Lùn, lúa Thơm, lúa Nếp Tẻ, lúa Đuôi Phụng, lúa Bạch Mạc, và còn nhiều giống lúa quý hiếm khác nữa, dân Bắc Văn Lang lúa thóc đầy bồ, phải nói cuộc sống dân nước Xích Quỷ, không những thái bình thịnh trị hàng nghìn nghìn năm, trong cuộc sống no cơm, ấm áo. Mà còn béo bở về thu nhập qua đường trao đổi buôn bán, Một đất nước béo bở như thế, luôn luôn khơi dậy lòng tham lam thèm muốn, những nước lân cận nhất là những nước lân cận Phương Bắc, chúng thèm khát đến nỗi ăn không ngon ngủ không yên, lúc nào cũng mơ tưởng chiếm cho được Bắc Văn Lang, coi như làm chủ sở hữu nền văn minh lúa nước, cơm no áo ấm thời còn gì bằng. Cho nên nước Xích Quỷ lúc nào cũng rình rập mối nguy mất nước, bởi quân xâm lược Phương Bắc rình rập ngày đêm.

Cùng thời lúc ấy, một vị cứu tinh đất nước ra đời, chính là Quốc Tổ Hùng Vương, người con độc nhất của Kinh Dương Vương, Quốc Tổ Hùng Vương ra đời chuyển xây tình thế, không những đánh tan mộng xâm lược Phương Bắc, mà còn mở rộng nước Xích Quỷ vào Nam, trở thành nước Văn Lang rộng lớn, gấp ba lần nước Xích Quỷ, sự mở rộng bờ cõi về Nam làm cho nước Văn Lang trở nên hùng mạnh, không có một đất nước nào hùng mạnh hơn.

Đất nước Văn Lang chia ra làm ba miền, Bắc Văn Lang, hầu hết là toàn bộ Nước Xích Quỷ, rồi tới Trung Văn Lang, kế đến là Nam Văn Lang.

Khai dựng lập lên nước Văn Lang, Quốc Tổ không ở Bắc Văn Lang, mà ở Nam Văn Lang, đây là một điều bí mật của Quốc Tổ, vì Quốc Tổ biết trước Bắc Văn Lang, Trung Văn Lang, một khi văn hóa Cội Nguồn đã mất, nền Quốc Đạo không còn, trở nên độc quyền, độc tài, độc trị, theo xu hướng Phương Bắc, sẽ bị Bắc Phương chiếm lấy, đồng hóa dân chúng theo văn hóa Phương Bắc. Nhưng giặc Phương Bắc không bao giờ chiếm lấy được Nam Văn Lang, vì Nam Văn Lang là Địa Long Vũ Trụ. Thánh địa linh thiên nhất địa cầu, nên văn hóa Phương Bắc không thể đồng hóa nổi dân tộc Nam Văn Lang, dù trải qua hàng nghìn năm xâm lược đồng hóa, theo ý đồ Phương Bắc, những gì biết trước của Quốc Tổ không gì là sai cả.

Bắc Văn Lang nước Xích Quỷ, phần lớn đất đai Giao Chỉ, Tới thời Hùng Vương, được mở rộng gấp đôi, Bắc Văn Lang Nước Xích Quỷ, Giao Chỉ, vì thế mà trở nên vô cùng hưng thịnh, lại phân chia thêm ra nhiều Bộ, Châu, Quận, Huyện. Bắc Văn Lang đất đai phì nhiêu, nhờ có nhiều con sông lớn bồi đắp, như sông Dương, sông Trường, sông Lạc, sông Âu, chia ra nhiều sông nhánh khác nữa, bồi lấp thành đất đen và bốc hơi rất mạnh, rất phù hợp cho nền nông nghiệp lúa nước. Những cánh đồng lớn, cò bay thẳng cánh, sông ngòi kinh rạch chằng chịt, thuận tiện cho việc trồng lúa nước, đem lại sự hùng mạnh cho quân lực, nếu có được Bắc Văn Lang thời không lo gì sự đói nghèo nữa, không lo thiếu lương thực nuôi quân, nên không có thế lực mạnh nào mà không muốn chiếm lấy, phải nói là chiếm lấy cho bằng được. Do sự trù phú đất đai, nhiều giống lúa tốt, sông ngòi kinh rạch, khí hậu ôn hòa thiên nhiên ưu đãi nầy, luôn luôn khơi dậy lòng thèm khát những tay háo chiến, mộng bá Vương, nên Bắc Văn Lang càng về cuối thời Hùng Vương càng chiến tranh xâm lược dữ dội từ Phương Bắc, xâm lược về Phương Nam, đất nước Văn Lang.

Những trận xâm lược kinh thiên động địa chưa từng có trong lịch sử, nhất là sự xâm lược của Nhà Ân, Ân Thọ Trụ Vương, ở vào thời hạ Hùng Vương, thời thứ 3 Hùng Tiên Lang (Điển Lang) trong 18 thời hạ Hùng Vương, 1141 đến 1139 trước công nguyên, quân Nhà Ân bị quân Văn Lang đánh tả tơi, thây phơi chật đất, làm phân cho đất Văn Lang, quân thù kinh hồn bạt vía, không còn dám mơ mộng xâm lược nữa, dân Văn Lang sau khi thắng quân xâm lược, thời không còn coi Phương Bắc ra gì, nên mất đi đề cao cảnh giác, sự yên bình ấy kéo dài gần 200 năm, cho đến thời Hùng Huy Vương (Pháp Hải Lang), Hùng Vương đời thứ 6. Thời Phương Bắc lại một lần nữa xâm lược, 961 đến 930 trước công nguyên, do con cháu của Trụ Vương Đắc Kỷ, còn sống sót lập lên nước Man Du cách Tây Bắc Văn Lang hơn 100 dặm, liên thông với nước Hồ, nước Hung Nô, ba nước Phiên Ngung nầy chiếm một lãnh địa vô cùng rộng lớn, không chịu lệ thuộc Nhà Chu, nên xưng Vương, ngang tầm các Vương Nhà Chu, các Vương Nhà Chu giận lắm nhưng không làm gì được, ba nước Phiên Ngung, vì nhờ địa thế hiểm trở đồi rừng núi non trùng điệp, nên rất khó mà hạ được ba nước Tam Vương nầy. Ba nước Phiên Ngung nầy mỗi ngày mỗi mạnh, nhưng không dòm ngó đến Phương Bắc, vì Phương Bắc không hưng thịnh như Phương Nam, nhất là về đất đai cũng như nền văn minh lúa nước, nhất là ngành Luyện Thép vô cùng bí mật của nước Văn Lang, không dễ gì lọt bí quyết ra bên ngoài, trong Dòng Dõi Vua Hùng cũng ít người được biết, vì thế nếu chiếm được Văn Lang thời sự quý hiếm nào cũng có, ba nước Phiên Ngung nầy thèm khát ngày đêm, hợp lực cùng nhau đánh chiếm Bắc Văn Lang.

Quân Ân, Quân Hồ, Quân Hung Nô, vượt qua Tây Bắc Văn Lang đánh xuống Bắc Văn Lang, nhà Tây Chu, Di Vương biết thế nhưng giả đò như không biết, ở thế ngư ông đắc lợi, Ân Mao Vương, là cháu chắt Võ Cảnh.

Võ Cảnh là con của Vua Trụ, Đắc Kỷ, Chu Di Vương nghĩ nếu Ân Mao Vương thắng thời ta cũng có phần, nới rộng thêm trấn chư hầu, Nước Ngô, Nước Sở, Nước Tề, được mở rộng về Phương Nam qua đất Bắc Văn Lang, nếu thua thời Vua Di Vương, cũng trừ đi được mối hậu họa lớn mạnh của con cháu Nhà Ân, kẻ thù không đội trời chung với Nhà Chu.

Đây nói về Chu Võ Vương, diệt được Đắc Kỷ, Trụ Vương xong, thời cũng bắt được hai đứa con của Đắc Kỷ, là Vũ Canh và Võ Cảnh, trốn sau hậu cung, Vũ Canh chống cự nên đã bị giết, chỉ còn lại Võ Cảnh. Võ Cảnh là con trai Đắc Kỷ mới sanh sau, là con út sau cùng của Trụ Vương.

Võ Cảnh tuy còn nhỏ nhưng khôn lanh vô cùng, vừa thấy Chu Võ Vương liền sụp lạy. Các chư hầu thấy vậy nổi giận quát:

Cha ngươi là hôn quân vô đạo, tội ác dẫy đầy, cũng nên chém Võ Cảnh đi đền tội với thiên hạ, lại trừ hậu họa mai sau.

Có lẽ số Trời chưa cho giết, nên khiến cho Võ Vương can, Võ Vương nói:

Trụ Vương vô đạo hung tàn bạo ác là do Đắc Kỷ, cùng với nịnh thần, bày mưu hiến kế, Võ Cảnh chỉ là một đứa bé, làm gì có tội, hơn nữa Vũ Canh đã chết, thói thường tội của cha không luận đến con, chúng ta phong cho Võ Cảnh một vùng đất, hầu nối kiếp lửa hương Nhà Thương, như vậy chúng ta đã đền ơn Nhà Thương.

Các chư hầu không dám cải, nhưng trong bụng thời không ưng lắm, vì nhổ cỏ phải nhổ cho tận gốc, bằng không hậu họa sẽ không sao lường được.

Một hôm Tử Nha nói với Võ Vương rằng:

Bệ hạ đã không giết Võ Cảnh, thời cũng nên ra ơn cho Võ Cảnh, lo phần hương khói, nhưng phải dùng người giám sát mà kèm kẹp, nếu phát hiện mưu đồ bất chính thời giết đi để trừ hậu họa.

Võ Vương y lời giao Võ Cảnh cho hai vị Ngự Đệ, trông coi giám sát. Võ Cảnh càng lớn càng khôn ngoan, ý tứ kín đáo vô cùng, khó ai đoán được ý đồ của Cảnh, sự nhẫn nhịn, nhẫn nhục, nhẫn nại của Võ Cảnh phải nói là hết sức thâm sâu. Khi Võ Vương băng hà qua đời, Võ Cảnh khóc lóc thê thảm ra vẽ thương yêu lắm, Võ Cảnh biết chỉ cần lộ một cử chỉ bất mãn là coi như là toi mạng nhất là khi tuổi đã trưởng thành.

Một hôm Võ Cảnh nằm ngủ thời thấy hồn Đắc Kỷ hiện về kêu Võ Cảnh:

Cảnh con đây là cơ hội tốt nhất cho con thoát khỏi sự kèm kẹp, của Nhà Chu, để lập lên nghiệp lớn. Con hãy xin với Thành Vương, cho con đến một mảnh đất xa xôi tận miền Tây Nam gần đất Hung Nô, Phiên Ngung đã di cư từ Tây Bắc đến ở rất thân quen với quân Hồ, quân Hung Nô, với quân Hồ vô cùng hùng mạnh, lại ở nơi hẻo lánh khó mà tận diệt được, Nhà Chu tuy mạnh nhưng cũng không diệt được họ đâu.

Đắc Kỷ dạy bảo xong liền biến mất, Võ Cảnh gọi mẹ một tiếng thật lớn, giật mình tỉnh dậy. Nghe tiếng gọi mẹ thật lớn của Võ Cảnh có người chạy vào hỏi:

Công tử gọi ai thế?

Võ Cảnh vô cùng khiếp sợ nói:

Tôi thấy chiêm bao sợ quá la lên.

Người nầy chính là người hầu được cài theo dõi ngày đêm, mỗi hành động cử chỉ, dù chỉ là cử chỉ nhỏ nhặt cũng phải báo cáo lên bề trên.

Người hầu nói:

Công tử thấy mẹ phải không?

Nghe người hầu hỏi thế Võ Cảnh sợ đến tái cả mặt. Không sao đâu đó chỉ là giấc mơ. Võ Cảnh nghe người hầu nói thế mới yên tâm.

Hôm sau Võ Cảnh vào chầu Thành Vương cúi đầu lạy tạ tâu rằng:

Muôn tâu bệ hạ, Võ Cảnh trộm nghĩ thân đầy tội lỗi, đáng lý đã chết từ lâu, nhưng nhờ Đức cao của Bệ Hạ nên Cảnh dân mới được sống sót, Cảnh dân nhớ mãi muôn đời, không lúc nào dám quên, ơn trên chưa báo đáp thời dám mong được gì, hạ dân cũng có chút bẩm báo nhưng không dám, nếu bệ hạ cho phép thời hạ dân mới dám dâng tấu sớ.

Thành Vương hỏi:

Ngươi muốn tấu gì thời đưa đây cho Trẫm cùng các quan xem.

Võ Cảnh làm như ra vẻ sợ hãi, lấy phong thư ra dâng lên cho Thành Vương xem. Thành Vương xem xong rồi đưa cho các quan xem. Nội dung tấu thư như sau: Võ Cảnh sống đến ngày nay đều nhờ ơn Bệ Hạ, lại được ăn no mặc ấm, ơn Đức của Bệ Hạ không sao đền đáp được, nay Cảnh hạ dân cũng đã lớn, muốn cầu xin Bệ Hạ một việc, nếu bệ hạ cho phép thời hạ dân mới dám tâu.

Các quan xem xong liền tâu rằng:

Muôn tâu bệ hạ đã ra ơn thời ra ơn cho trót xem Võ Cảnh có ý nguyện gì.

Thành Vương nói:

Trẫm cho phép ngươi cứ nói.

Nghe nói đến tiếng ngươi Võ Cảnh hơi sợ, lấy hết lòng can đảm tâu rằng:

Muôn tâu Bệ Hạ, Cảnh dân nguyện xin Bệ Hạ phong cho một ít đất tận nơi biên giới Tây Nam, giáp ranh với quân Hung Nô, quân Hồ, ở nơi ấy hạ dân chí thú làm ăn thờ phụng Tổ Tiên.

Nghe Võ Cảnh tâu ai nấy lấy làm kinh ngạc: Đây không phải là xin mà là đày đến nơi đất chết, rừng thiên nước độc, không ai có thể dám tới gần nơi đó nói gì là đến để ở.

Các quan nghĩ: Võ Cảnh đã quá sợ chết trở thành điên loạn, nên mới có lời thỉnh cầu điên dại như thế, riêng chỉ có.

Chu Công Đán là không nghĩ như vậy. Chu Công Đán nghĩ: Dù cho Võ Cảnh hàng phục được quân Hung Nô, quân Hồ, cũng không làm gì được Nhà Chu.

Thành Vương từ lâu muốn diệt đi mối hiểm họa nầy. Nhưng chưa có cơ hội, đây chính là cơ hội để tiêu diệt mầm họa về sau. Bằng nói:

Trẫm chấp nhận cho lời thỉnh của Khanh.

Bằng phê chiếu chỉ phong cho đất Man Vu, rừng thiên nước độc, muốn bao nhiêu cũng được, bằng cho người cấp lương thực vài xe, vàng bạc hơn trăm lượng, cho vài chục tên binh lính hộ tống đến biên giới Hung Nô, hoang vu. Võ Cảnh mừng quá lạy tạ Thành Vương, rồi qua hôm sau là lên đường tiến về Tây Nam đến Đất Hồ đi được hơn mười ngày thời lấy vàng bạc, bán xe mua ngựa, chở lương thực hàng hóa tiến lần về rừng núi, vượt qua nhiều sông suối dốc đèo, những quân lính đi theo lần lượt bỏ trốn, không còn lại mấy người. Càng đi thời rừng núi trùng điệp, chim kêu vượn hú, đêm về thời hơi lạnh thấu xương, đi đến đây có trốn cũng không biết đường về, ai cũng nghĩ đi theo Võ Cảnh là đi vào đất chết.

Đoàn ngựa chở hàng hóa đang đi, thời bỗng nghe thấy tiếng ngựa hí vang trời, những người theo hộ tống Võ Cảnh sợ hết hồn hết vía. Đất Man Vu là đất chết chóc nổi tiếng, bọn cướp rừng nổi tiếng là ăn thịt cả người sống, không mấy ai đến đây mà toàn mạng trở về.

Võ Cảnh nhìn mấy mươi người người nào người nấy hung tàn bạo ác vô cùng, đao, kiếm sáng ngời lao tới bao vây quát:

Các ngươi là ai mà dám đi qua khu vực nầy. Mau để lại ngựa hàng hóa hết lại cho ta bằng không các ngươi không còn một mạng.
 

shopoga

✩✩
Các binh lính sợ quá run lập cập, Võ Cảnh bình tỉnh hỏi:

Nơi đây là nơi nào?

Tên ăn cướp quát:

Chết đến nơi mà còn hỏi.

Tên mặt hổ nói:

Thôi nói cho nó biết đi, để chúng xuống âm phủ biết nơi đây là đâu.

Tên mặt trắng quát:

Đây là đất Man Du hay còn gọi là đất hoang vu, đất vô chủ không thuộc quyền của ai cả, chúng ta là kỵ binh còn sống sót của nhà Ân, trở thành Chúa tể sơn lâm, Chúa tể của núi rừng. Hãy báo danh rồi về chầu âm phủ.

Võ Cảnh nghe bọn ăn cướp nói đây là đất Man Du thời mừng vô cùng nói:

Tới rồi, tới rồi cuối cùng ta cũng tới được nơi đây. Trời đã giúp ta, Trời đã giúp ta.

Võ Cảnh cười lên sản khoái. Tên thủ lĩnh mặt hổ nghe Võ Cảnh nói không hiểu gì cả, liền quát lớn:

Các ngươi là ai mau nói ra.

Tên béo mập nói:

Giết chúng đi cho rồi cần gì hỏi lôi thôi.

Thế là chúng ra tay. Lúc ấy bỗng một trận cuồng phong nổi lên, tức thời xuất hiện hai vị Đạo Sĩ. Hai vị Đạo Sĩ quát:

Các ngươi sao không ra mắt lễ lạy Chúa Công.

Mấy mươi tên ăn cướp quát:

Hai đạo sĩ kia ngươi nói ai là Chúa Công của ta.

Hai Đạo Sĩ chỉ Võ Cảnh nói:

Người nầy chính là Chúa Công của các ngươi.

Mấy tên ăn cướp quát:

Hai Đạo Sĩ kia, hai ngươi từ đâu tới?

Có người nói:

Chúng là đồng bọn với nhau, chúng ta đông sợ gì hai lão Đạo Sĩ, xông lên giết hết tất cả cho ta.

Hai Đạo Sĩ quát:

Đồ hỗn láo không dạy cho các ngươi bài học thời các ngươi không biết trời cao đất rộng là gì.

Tên mặt hổ quát:

Anh em đâu mau giết hai Đạo Sĩ đó cho ta.

Tức thời cả bọn ăn cướp lao nhanh vào chém giết hai Đạo Sĩ. Hai Đạo Sĩ quát:

Quả thật các ngươi đáng tội chết.

Tức thời hóa phép làm cho bọn cướp xây xẩm mặt mày, ngã lăn xuống ngựa. Liền ra lệnh cho những tên lính theo Võ Cảnh:

Trói hết chúng lại, chờ lệnh xét xử.

Bọn ăn cướp vô cùng kinh hãi không ngờ hai Đạo Sĩ thần thông quản đại như vậy. Hai Đạo Sĩ tới trước mặc Võ Cảnh quỳ xuống tâu rằng:

Chúng Thần đến cứu giá trễ, xin Chúa Công tha cho tội chết, chúng Thần tu ở Hồ Động, Nương Nương về báo cho chúng thần biết là Chúa Công sẽ đến nơi đây, quả là đúng như vậy. Xin Chúa Công hãy xử những tên phản nghịch nầy, những tên nầy từng là quân lính của Nhà Ân, bị quân Chu truy nã nên ẩn sâu vào rừng núi trốn tránh, không chỉ bấy nhiêu mà cả hàng mấy nghìn tên, trong đó có những vị tướng lĩnh, không chịu ra đầu hàng, ẩn trong rừng sâu làm cướp, nghe nói Thành Vương đã phong đất cho Chúa Công, đất Man Vu, hay còn gọi là đất hoang vu, hàng mấy trăm dặm chính là nơi đây. Và nơi đây sẽ trở thành đất Ân của Chúa Công, chúng Thần nguyện theo Chúa Công khai dựng cơ nghiệp, xin Chúa Công thu nhận cho.

Võ Cảnh thấy sự việc xảy ra như trong giấc mơ, Võ Cảnh liền đở hai Đạo Sĩ dậy. Hai Đạo Sĩ thi lễ nói:

Chúng Thần cảm ơn Chúa Công.

Hai Đạo Sĩ quay sang những tên ăn cướp:

Các ngươi nghe đây, người trước mặt các ngươi chính là Võ Cảnh Chúa Công, con của Thiên Tử, Ân Thọ Trụ Vương và Nương Nương Đắc Kỷ.

Các tên ăn cướp nghe hai Đạo Sĩ nói thế thời kinh hãi, bò tới cúi đầu lạy tạ:

Chúng Thần xin ra mắt Chúa Công.

Cũng từ đây Võ Cảnh, chiêu mộ những binh lính không chịu đầu hàng Nhà Chu, ra phò Võ Cảnh lập lên nước Man Du hùng mạnh, nhờ kết giao với quân Hồ và quân Hung Nô làm cho Nhà Chu cũng phải e dè đề phòng.

Võ Cảnh nhanh chóng xây dựng đất nước hùng mạnh thu nạp những người có tội đến ở, trở hành đội quân hung bạo vô cùng, các nước nhỏ ở gần đấy đều đến quy phục. Võ Cảnh nhiều vợ nên cũng nhiều con, làm thông gia với quân Hồ và quân Hung Nô, nên thế lực càng hùng mạnh, với chính sách ngoại giao khôn khéo với Nhà Chu địa thế khó đánh Võ Cảnh xưng Vương, Cảnh Ân Vương. Nhà Chu muốn diệt cũng diệt không được.

Có người thở dài nói rằng:

Nhà Chu thả cọp về rừng, nhổ cỏ chừa gốc, nuôi mầm họa về sau.

Thành Vương qua đời Chu Mục Vương lên thay, Tạo Thụ được Mục Vương Nhà Chu yêu mến. Ông cha của Tạo Thụ là Ác Lai, Ác Lai thờ Vua Trụ, nên Võ Cảnh được sự giúp đỡ của Tạo Thụ rất nhiều, vì thế Cảnh Ân Vương càng thêm hùng mạnh. Cảnh Ân Vương nhiều con nên cũng sanh ra nhiều Cháu, toàn là những anh hùng hảo hán, học được nhiều pháp thuật cao siêu, lại có Yêu Hồ giúp sức nên khó ai chống lại được. Ở đời người ta thường nói, con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, mộng bành trướng, tham lam không dứt. Đến thời Cháu Chắt của Võ Cảnh, Cảnh Ân Vương theo chí nguyện của tổ tiên là Ân Trụ Vương, giặc Ân xâm lược Nước Văn Lang lần nữa, 961 đến 930 trước công nguyên.

Đây nói về Phương Bắc, không giống như Phương Nam, chỉ có một nước Văn Lang thống nhất rộng lớn, chỉ cần một Quận, một Huyện, cũng bằng một nước nhỏ ở Phương Bắc, một Châu ở Văn Lang, bằng một nước lớn ở Phương Bắc, vì thế ở Phương Bắc có đến hàng nghìn Vua, luôn tranh bá với nhau, cho thấy Phương Bắc vào thời đó chưa đi vào thống nhất trật tự như Phương Nam Văn Lang. Phương Nam Văn Lang chỉ có một vì Vua đó là VUA HÙNG, được nối truyền nhau đời nầy sang đời khác 41 đời Vua Hùng, kéo dài độc lập 2701 năm. Chia đất nước ra làm nhiều Bộ, một Bộ chia ra làm nhiều Châu, một Châu chia ra làm nhiều Quận, Huyện, một Huyện chia ra làm nhiều Xã, một xã chia ra làm nhiều Thôn. Chỉ cần một Xã Văn Lang cũng bằng một nước nhỏ ở Phương Bắc gọi là các trấn chư hầu của Nhà Chu, cũng như các trấn Chư Hầu thời Nhà Ân, Nhà Thương. Như nước Lỗ, nước Tề, nước Yên, nước Ngụy, nước Quản, nước Thái, nước Tào, nước Thành, nước Hoắc, nước Vệ, nước Đằng, nước Tấn, nước Ngô, nước Ngu, nước Quách, nước Sở, nước Hứa, nước Tấn, nước Cử, nước Kỷ, nước Trâu, nước Tiết, nước Tống, nước Khởi, nước Kế, nước Cao Ly.

Các nước trấn Chư Hầu lớn, nhỏ nầy, ngang tầm với các Châu, Quận, Huyện Văn Lang mà thôi, không có nước nào bằng Bộ Văn Lang, có nước nhỏ hơn Quận Huyện Văn Lang. Ở vào thời ấy, các nước lớn ở Phương Bắc, không có nước nào bằng Bộ Giao Chỉ, Bộ Việt Thường.

Các nước lớn ở Phương Bắc thường thôn tính các nước nhỏ làm trấn Chư Hầu cho mình, có thể nói là thường thôn tính nhau, diệt lẫn nhau, mất chỗ nầy mọc ra chỗ khác, mất chỗ nọ mọc ra chỗ kia, lúc thì đất Ngô, lúc thì đất Sở, lúc thì đất Tấn lúc thì đất Vệ, lúc thì đất Tào lúc thì đất Ngụy, một chỗ đất mà có nhiều tên Vua chồng lấp lên nhau, theo sự chuyển biến của lịch sử, thời Nhà Thương, Nhà Ân, Nhà Chu cũng vậy, không có sự thống nhất như Phương Nam Văn Lang, không có Vua nầy thôn tính Vua kia, Chúa kia thôn tính Vua nọ, có nghĩa là không có nhiều Vua, chỉ có một vì Vua duy nhất đó là Vua Hùng, hết đời nầy nối sang đời khác, tuy biết rằng đất đai vô cùng rộng lớn, nhưng tất cả đi vào bộ máy thống nhất, từ trên xuống dưới, sống trong một nền Hiến Pháp, Quốc Đạo Văn Minh. Không như ở Phương Bắc hàng nghìn vị Vua, thôn tính nhau, chiếm đoạt nhau, tàn sát lẫn nhau, nay là đất của Sở, mai là đất của Ngô, không cố định, diệt chỗ nầy có điều kiện thời sanh lại chỗ khác, vì thế phương Bắc chiến tranh cướp đoạt đất đai thôn tính nhau triền miên. Đúng như câu đất đai không của riêng ai, người nào mạnh thời người đó được, được xưng Vua thua cho là Giặc, xem đi xét lại Giặc với Vua chẳng khác gì nhau.

Không như Phương Nam chỉ duy nhất một Nước Văn Lang rộng lớn, một đất nước cố định mãi mãi, trước sau cũng chỉ là nước Văn Lang, chỉ chuyển đổi niên đại mà thôi. Niên Đại Hồng Hoang, Niên Đại Hồng Bàng, Niên Đại Hồng Đế, Niên Đại Viêm Đế Thần Nông, Niên Đại Kinh Dương Vương, Niên Đại Hùng Vương, chuyển sang thời Âu Lạc.

Nếu đem so sánh, Bắc – Nam, thời nước Văn Lang là một đất nước duy nhất cố định, luôn luôn thống nhất không có cảnh chia đất nước ra làm nhiều nước, mà chỉ phân chia đất nước ra làm nhiều Bộ, nhiều Châu, nhiều Quận, nhiều Huyện, thống nhất trong một Nhà Nước Văn Lang, chỉ có một Vua, không có cảnh nhiều Vua tàn sát lẫn nhau như Phương Bắc. Vì thế nước Văn Lang hể mất là mất luôn, không bao giờ mọc ra chỗ khác được, như ở Phương Bắc, như nước Dịch, nước Cao mất đất chỗ nầy, mọc ra chỗ đất khác, Vệ mất đất nầy Vệ mọc ra nơi đất khác, các nước khác cũng thế.

Trong lịch sử kéo dài hàng nghìn nghìn năm, Phương Nam nước Văn Lang nằm trên đất Văn Lang, mãi mãi như thế hể mất là mất, hể còn là còn, không thể mất ở đất nầy mọc ra nơi đất khác được. Có thể nói Phương Bắc ở vào thời đó chưa có nền Văn Hiến thống nhất, luôn luôn hỗn độn chia nhỏ nhiều nước ăn nuốt lẫn nhau, tiêu diệt nhau, xâm lấn nhau, hết nghìn năm nầy đến nghìn năm khác, lúc nào cũng nghe chiến tranh nước Lỗ, nước Tề, nước Yên, nước Ngụy, nước Tống, nước Tấn, nước Trần, thôn tính lẫn nhau, diệt rồi sanh, sanh rồi diệt, lớn mạnh ở đất nầy, lại bị thu nhỏ lại ở đất khác, bởi tham vọng chiếm đoạt, triệt hạ, giành giật thôn tính lẫn nhau.

Không như nước Văn Lang, chia ra làm nhiều Bộ, mỗi Bộ chia ra làm nhiều Châu, mỗi Châu chia ra làm nhiều Quận Huyện, tuy rộng lớn vô cùng, nhưng không có chiến tranh tranh giành thuộc địa giữa bộ nầy, với bộ khác, các châu nầy với châu khác, nên không có sự xưng Vua, xưng Chúa nhiều như đất Phương Bắc, thống nhất về một mối một Nhà Nước Văn Lang, thống nhất chỉ có một Quốc Tổ Vua Hùng.

Và chỉ có một Niên Hiệu Vua Hùng trên Đất Nước Văn Lang, kéo dài sự độc lập 2701 năm kể cả thời dựng nước, thời dựng nước là 79 năm, thời Quốc Tổ, sau thời Quốc Tổ là thời giữ nước, 2622 năm, và cho đến thời hạ Hùng Vương đời thứ 6 Hùng Huy Vương trong 18 đời hạ Hùng Vương 961 đến 893 trước công nguyên, dân bắc Văn Lang bị đồng hóa bởi nền Văn Hóa Phương Bắc, bằng con đường ngoại giao buôn bán hội nhập, cọng với sự di cư bất hợp pháp dân các nước Phương Bắc lánh nạn chiến tranh qua bắc Văn Lang, hàng vạn, vạn người trong vòng mấy mươi năm, những Bộ, những Châu, những Quận, những Huyện, dân chúng tăng lên chóng mặt, dân chúng Phương Bắc di cư qua Bắc Văn Lang mang theo cả nền Văn Hóa Phương Bắc, làm cho dân chúng Bắc Văn Lang bị mê hoặc, từ đó Bắc Văn Lang dần dần đi vào đại loạn, phần đông từ Vương Quan cho đến dân Chúng đều mê hoặc bởi thứ văn hóa bói toán, nhập đồng, nhập bóng, xin xăm, bói quẻ, tiên tri độc hại nầy, không dè chừng Văn Hóa Phương Bắc, vì nghĩ Văn Hóa Phương Bắc không có gì độc hại, nên không kiểm soát về văn hóa, dẫn đến tai hại biến Bắc Văn Lang đồng hóa Văn Hóa phương Bắc, ngã lần về phương Bắc rồi trở thành lệ thuộc dần phương Bắc, cũng từ đó Bắc Văn Lang nhiều nội loạn nổi lên đòi tự trị, làm biến động tình hình Bắc Văn Lang.

Hàng vạn vạn người dân các nước Phương Bắc di cư sang ở Bắc Văn Lang, họ mang theo nền văn hóa Phương Bắc, nền văn hóa bói toán, xin xăm, bói quẻ, nhập đồng, nhập bóng cầu cạnh thần linh, những nhân vật được tôn thờ từ phương Bắc du nhập vào Bắc Văn Lang, làm mê hoặc dân Văn Lang. Vì lúc ấy dân tộc Văn Lang, đã lạc Nguồn lạc Cội, nên ngã theo tôn thờ thần linh ở phương Bắc, và dần dần dân tộc Bắc Văn Lang đi vào mất gốc, không những mất gốc về Văn Hóa Cội Nguồn, mà còn mất luôn cái gốc Truyền Thống dựng nước giữ nước Văn Lang.

Vì hấp thụ Văn Hóa phương Bắc, nên Bắc Văn Lang nhiều anh hùng nổi lên, đòi tự trị lập nước riêng, xưng Vua nầy Vua nọ như phương Bắc. Sự nổi lên đòi tự trị ấy, được hậu thuẫn từ các nước lân cận trấn chư hầu Nhà Chu, Bắc Văn Lang trở thành bãi chiến trường cho sự bùng nổ lên nhiều phe phái hình thành lên nhiều Vua, Chúa tự trị riêng mỗi vùng, rồi thôn tính nhau theo kiểu phương Bắc.

Lúc ấy nhà nước Văn Lang cũng đã bắc đầu suy yếu, là do mất đi những điều cơ bản của nền Văn Hiến. Văn Hóa Cội Nguồn truyền thống dân tộc, dẫn đến độc quyền độc tài, độc trị, sa vào con đường lìa xa dần dân chúng, làm mất lòng tin dân chúng. Dân chúng lại nghe theo sự xúi dục của các thế tham vọng bành trướng phương Bắc, nhất là những nước lân cận Bắc Văn Lang. Dẫn đến nội loạn chia bè rẽ phái ở Bắc Văn Lang nổi lên đòi tự trị từng vùng xưng Vua xưng Chúa, có sự hậu thuẫn từ phương Bắc, nên các Vua Hùng từ đời 11, 12, 13, ra sức dẹp nội loạn Bắc Văn Lang nhưng không dẹp nổi, vì người dân đã ngã theo Văn Hóa phương Bắc, Văn Hóa của sự xưng hùng xưng bá, Văn Hóa chia bè rẽ phái, hình thành lên quá nhiều khu tự trị hùng mạnh, những ông Vua Việt nổi lên, như Vua Điền Việt, Vua Mân Việt, Vua Dương Việt, Vua Đông Việt, Vua Nam Việt, Vua Lạc Việt, và nhiều vị Vua Việt khác nữa. Sau nầy bị Doãn Thường Việt nổi lên diệt sạch chiếm lĩnh Bắc Văn Lang, xưng hùng xưng bá.

Tổ Tiên của Doãn Thường Việt, là dòng dõi Vua Vũ, con thứ hai của Vua Thiếu Khang, đời Nhà Hạ, qua nhiều triều đại thôn tính lật đổ nhau, con cháu Vua Vũ lánh nạn di cư đến đất Cối Kê, cắt tóc xăm mình như dân Văn Lang, trải qua hai mươi đời trở thành dân Văn Lang, đến đời Doãn Thường thời nổi lên như một vị anh hùng, dân chúng theo về rất đông, tiêu diệt nhiều thế lực tự trị, như thế lực Việt Hoa, thế lực Kinh Việt, thế lực Mân Việt, thế lực Âu Việt, thế lực Lạc Việt, thế lực Điền Việt, thế lực Kiều Việt, nói chung là nhiều thế lực Bách Việt nổi lên tự trị, bị Doãn Thường thôn tính, xưng là Vua Việt. Doãn Thường chết con là Câu Tiễn được lập làm Việt Vương, Việt Vương Câu Tiễn Thế Gia.
 

shopoga

✩✩
Cùng vào thời kỳ ấy Bắc Văn Lang đã nổi lên nhiều thế lực từ những nước láng giềng xâm lược qua, như Ngô, Tề, Sở, vân vân… Bắc Văn Lang ở vào thời kỳ nầy không khác gì phương Bắc các thế lực tự trị, luôn luôn thôn tính lẫn nhau, Vua Điền Việt mất chỗ nầy thời mọc lên chỗ đất khác, Vua Mân Việt mất chỗ đất nầy thời mọc lên chỗ đất khác, Vua Dương Việt cũng vậy mất chỗ đất này mọc lên chỗ đất khác, cứ như thế mà tranh bá tranh hùng, thôn tính lẫn nhau. Theo khẩu hiệu Phương Bắc (thiện hạ đất đai không của riêng ai, người nào mạnh người đó được).

Bắc Văn Lang trở thành nồi da nấu thịt, những cuộc chiến xâu xé lẫn nhau, của nhiều thế lực tự trị xưng Vua, xưng Chúa, thôn tính lẫn nhau hủy diệt lẫn nhau, mạnh được yếu thua, đất đai thuộc về người khác, cứ thế mà chiếm qua chiếm lại. Nay thuộc đất Dương, mai thuộc đất Mân, mốt thuộc đất Lạc, vị trí đất đai, theo nhân vật con người, cùng một chỗ đất, ba hồi là đất Dương, ba hồi là đất Mân, ba hồi là đất Lạc, không khác gì phương Bắc. Dân bắc Văn Lang đã bị đồng hóa Văn Hóa phương Bắc, chính là một trong những nguyên do dẫn đến mất Bắc Văn Lang, đồng hóa với phương Bắc.

Khi Bắc Văn Lang đã bị đồng hóa Văn Hóa phương Bắc tạo ra cảnh nồi da nấu thịt, dân tộc Văn Lang tàn sát dân tộc Văn Lang, những khu tự trị nổi lên, đất Văn Lang mất lần mất lần, chiến tranh càng lớn đất Văn Lang càng mất về tay Phương Bắc, nhất là những cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt, đây chính là cơ hội các thế lực Phương Bắc chiếm lần đất đai Văn Lang, bằng con đường đưa quân sang giúp cho những thế lực tự trị yếu hơn, nhân cơ hội đó chiếm luôn đất đai.

Hoặc buộc những thế lực chiến thắng cắt đất giao cho họ, thế là Bắc Văn Lang lần lần mất đất về tay phương Bắc. Cứ mỗi lần chiến tranh nội bộ nồi da nấu thịt xảy ra, là mỗi lần mất đất về tay phương Bắc, và cứ thế phương Bắc nuốt lần đất phương Nam, hết nghìn năm nầy sang nghìn năm khác, và nuốt mãi cho đến tận ngày nay.

Nói về thời hạ Hùng Vương, đời thứ 3 Hùng Tiên Lang, đánh bại quân xâm lược Nhà Ân, cắt đứt quan hệ với phương Bắc, cho đến khi Nhà Ân bị hủy diệt, Nhà Chu lên thay thế, Võ Vương chết, Thành Vương lên thay, thời nước Văn Lang nối lại quan hệ ngoại giao với phương Bắc Vào năm (1063 trước công nguyên) đây không phải là lần đầu quan hệ ngoại giao sang thăm Phương Bắc.

Khi ấy nước Văn Lang đời thứ tư hạ Hùng Vương, Hùng Diệp Vương (Bảo Lang) trị vì thiên hạ, Hùng Diệp Vương chỉ thị cho Lạc Vương, Bộ Việt Thường, đại diện cho nước Văn Lang, sang thăm Phương Bắc, Thành Vương Nhà Chu thị hiến chim Trĩ Trắng, nối lại quan hệ ngoại giao, hai phương Nam – Bắc láng giềng.

Ở vào thời đó Bộ Việt Thường ở Nam, Bộ Giao Chỉ ở Bắc hai bộ lớn nhất nước Văn Lang thời đó. Lạc Vương, đứng đầu (bộ Việt Thường) được chọn đại diện cho nước Văn Lang nối lại quan hệ ban giao Nam – Bắc.

Nói về Chu Thành Vương hỏi các quan:

Nghe nói có sứ giả Văn Lang phương Nam đến thăm phương Bắc chúng ta việc đó có thiệt không?

Triệu Công Thích tâu:

Bẩm Chúa công Bệ Hạ, quả có sứ giả Văn Lang đã đến triều ca đang ở ngoài thành, nhưng chỉ là Lạc Vương, Bộ Việt Thường, đem phẩm vật chim trĩ trắng dâng lên Bệ Hạ quan hệ ban giao Nam – Bắc, xin bệ hạ định đoạt.

Thành Vương nói:

Còn ai có ý kiến gì nữa không?

Chu Công Đán nói:

Tâu Chúa Công Bệ Hạ, Văn Lang là một đất nước lớn, không thua kém gì Phương Bắc chúng ta, nước Văn Lang có hai bộ lớn nhất, đó là Bộ Việt Thường, Bộ Giao Chỉ, là hai bộ lớn nhất của nước Văn Lang, hơn nữa Bộ Việt Thường là nơi Vua Hùng đang ở. Lạc Vương đứng đầu Bộ Việt Thường, quan hệ ban giao thời không khác gì Vua Hùng, xin Bệ Hạ cân nhắc.

Thành Vương nói:

Nếu Vua Hùng sang sứ ban giao thời Trẫm đích thân trải thảm tiếp đón. Còn Lạc Vương thời giao cho Chu Công tiếp đón nghị luận ban giao vậy.

Đây nói về Lạc Vương, cùng các Quan đang đợi người đến tiếp dẫn vào triều ca ra mắt Thành Vương. Đang lúc đang đợi bỗng thấy quân lính chỉnh tề cờ xe kiệu rước vô cùng trang nghiêm long trọng. Lạc Vương là người rất thông minh thấy cảnh đón rước thời biết ngay là vừa tôn trọng vừa thị huy. Lạc Vương được tiếp đón vào một ngôi dinh thự thật lớn, tiếp đãi tử tế. Qua lời chào hỏi giới thiệu Lạc Vương biết người tiếp đón mình chính là Chu Công, dưới Thành Vương mà thôi, nên lấy làm hài lòng, và Chu Công cũng hiểu rõ điều đó, hai bên nói qua nói lại rất thâm tình.

Đến lúc nầy Chu Công mới nói:

Chính lệnh không ban đến, thời người quân tử không coi nhau như là bề tôi của mình, thẳng thắng công bằng mà nghị sự.

Ở được mười hôm Chu Công cho người làm xe mới, ngựa mới, cho người đưa tiễn sứ giả về nước. Phương Bắc bao giờ cũng mang lòng dạ đen tối, trăm phương nghìn kế chiếm cho được đất phương Nam, nhất là những nước lận với Văn Lang. Được sự ban giao giữa Văn Lang và Tây Chu cho phép giao thương Nam Bắc thông thương quan hệ láng giềng đây là cơ hội mộng bành trướng phương Bắc, mà không có một chút trở ngại nào. Những nước gần Bắc Văn Lang, như nước Tề, nước Ngô, nước Sở.

Đây nói về Tề Thái Công. Thái Công Vọng tức là Lữ Thượng người Đông Hải, Tổ Tiên ông ta am hiểu về thuật phong thủy, làm tứ nhạc giúp Vua Vũ rất có công, đời Ngu và đời Hạ, được phong ở đất Lữ bao gồm cả đất Thân, họ Khương. Đến đời Thương thời Tề Thái Công được sanh ra, ông ta vốn họ Khương, nhưng lấy họ theo tên đất, cho nên gọi là Lữ Thượng. Lữ Thượng thường bị nghèo khổ, tuổi đã già nhờ câu cá mà gặp Tây Bá nhà Chu, ở vào thời kỳ nầy thuật bói toán, thuật xin xăm đón quẻ phải nói là vô cùng hưng thịnh, cầu tài cầu lợi, cầu quỉ, cầu ma, cầu Thần, cầu Thánh. (Khi đó phương Nam Văn Lang không có thứ văn hóa nầy, mà chỉ có một nền văn hóa duy nhất là văn hóa Cội Nguồn. Nhưng đã bị thất truyền, vì do sự thất truyền nên người dân Văn Lang mất phương hướng, nên bị văn hóa phương Bắc bói toán, thuật số, xin xăm, bói quẻ, cầu thần, cầu quỉ, cầu ma, truyền sang làm cho mê hoặc, nhất là Bắc Văn Lang).

Lữ Thượng nghèo khổ sống nhờ câu cá. Một hôm Tây Bá sắp đi săn, sai bói quẻ, quẻ ứng cho biết: “Cái bắt được không phải là Rồng, không phải là Ly, không phải là Hổ, không phải là Gấu, vật bắt được là con người sẽ giúp đỡ cho mộng Bá Vương làm nên nghiệp lớn’’.

Tây Bá Chu đi săn quả nhiên gặp được Thái Công, ở phía Bắc sông Vị. Thái Công là người hiểu biết rộng, đã có lần thờ Vua Trụ, nhưng Vua Trụ vô đạo, không phải là bậc Thiên Tử chánh chân, nên Thái Công bỏ đi. Đi du thuyết các nước chư hầu, không được ai nghe, cuối cùng trở về phía Tây về với Tây Bá nhà Chu, làm thầy Văn Vương, Võ Vương. Sau khi Văn Vương chết, Võ Vương lên ngôi năm thứ chín, Võ Vương đem quân đi về phía Đông để xem các nước chư hầu có đến họp không.

Thái Công tay trái cầm búa Hoàng Việt, tay phải cầm cờ Bạch Mao tuyên thệ: “Hỡi những con Tê Giác xanh! các ngươi hãy tập họp lại, ta trao thuyền và mái chèo cho các ngươi, kẻ nào đến sau thì bị chém đầu”.

Lời tuyên thệ ấy đến tai các nước. Khi đến bến Mạnh Tân, các nước chư hầu đến họp tám trăm nước. (Để hiểu rõ đoạn Kinh trên chúng ta có thể hiểu các nước ở phương Bắc, chỉ bằng những Châu, Huyện, Quận, ở nước Văn Lang mà thôi). Chỉ nội ở phía Đông nhà Ân mà có đến 800 nước, thời chúng ta cũng hiểu rõ những nước ở phương Bắc phải nói là như Nấm, Vua nhiều như Giá, tự xưng tự trị khắp nơi, không có sự đoàn kết thống nhất. Đó chính là văn hóa tự trị, nói cho rõ hơn nữa đó chính là văn hóa độc quyền, độc tài, độc trị, văn hóa cạnh tranh hủy diệt nhau, không phải văn hóa cạnh tranh của sự phát triển, văn hóa độc quyền, độc tài, độc trị, là văn hóa không có sự công bằng, bình đẳng, mà chỉ có mạnh được yếu thua. Tất cả các nước phương Bắc thời đó, mỗi nước đều có mỗi thể chế giáo điều riêng, không dựa trên một nguyên tắc nào cả, ai mưu mô xảo quyệt hơn thời nước đó mạnh. Chia bè, chia nhốm, tự xưng mình là Vua, biết rằng mình chỉ làm chủ một khu đất nhỏ, vài trăm nóc nhà, vài nghìn nóc nhà. (So ra chỉ bằng Châu, Phủ, Quận, Huyện, nước Văn Lang mà thôi).

Sau khi Võ Vương bình định xong nhà Ân, cơ nghiệp nhà Thương không còn, Võ Vương phong cho Lữ Thượng, (tên tộc là Vọng) chức Thái Công làm chủ đất Tề, Thái Công là người giỏi về chính sự, nên dân chúng theo về rất đông, làm cho nước Tề càng thêm lớn mạnh.

Đến thời Thành Vương, nhà Chu còn nhỏ. Quản Thúc, Thái Thúc làm loạn, những người di cư ở đất Hoài phản lại nhà Chu. Nhà Chu sai Thiệu Khang Công, ra lệnh cho Thái Công. Từ phía Đông cho đến biển, phía Tây cho đến sông Hoàng Hà, phía Nam cho đến Mục Lăng, phía Bắc cho đến Vô Lệ, năm hầu chín bá đều được phép chinh phục.

Do đó nước Tề trở thành một nước lớn, tiếp giáp với Bắc Văn Lang, đóng đô ở Dinh Khâu. Thái Công là người am hiểu về thuật số toán số biết rõ Văn Lang khí số mạc dần, Bắc Văn Lang sẽ mất về tay phương Bắc, vì dân Bắc Văn Lang không hiểu gì về văn hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo dân tộc đã bị mất, tinh thần người dân như ruộng bỏ hoang, rất dễ đầu độc, nên dạy cho Lữ Cấp tức là Định Công với những âm mưu lớn.

Thái Công thường dạy Lữ Cấp rằng: Nếu chúng ta có được Bắc Văn Lang thời coi như chúng ta sẽ có tất cả, muốn có được đất Văn Lang không có con đường nào khác hơn là hàng phục dân Văn Lang bằng con đường văn hóa, đầu độc văn hóa, bằng con đường bói toán, thuật số, xin xăm, bói quẻ, cầu cạnh thần linh, sẽ làm mê hoặc dân Văn Lang. Cộng thêm mở mang nghề buôn, nghề thợ với Văn Lang, giao dịch với Bắc Văn Lang nghề trồng lúa, nghề cá, nghề muối, nhất là tìm hiểu về nghề luyện thép, bí mật của nước Văn Lang. Điều bí mật thành công là phải làm cho Bắc Văn Lang nổi lên từng vùng đòi tự trị, như phương Bắc chúng ta, khi đó họ đánh nhau họ cầu cứu ta, ta giúp cho họ thế là ta nuốt trọn họ, họ không theo ta thì họ còn theo ai, vì họ đã phản lại nhà nước Văn Lang, thời họ không còn con đường để mà lựa chọn, họ chống lại nhà nước Văn Lang, tức là họ đã ngã về ta, và ta lần đồng hóa họ, trở thành dân phương Bắc, mà hể dân phương Bắc tới đâu thời đất Văn Lang mất tới đó. Phương kế nuốt lần đất Văn Lang, không phải một đời mà nhiều đời, như tằm ăn dâu, như mối mọt ăn cây, đất Văn Lang mất lần, mất lần, nhà nước Văn Lang tuy có biết nhưng không sao ngăn chặn được. Cướp đất Văn Lang theo kiểu nầy, thời hiệu quả không chê vào đâu được. Cứ mỗi lần làm cho họ nồi da nấu thịt, dân Văn Lang tự tàn sát lẫn nhau, là mỗi lần chúng ta được lợi lớn, chúng ta không những lấy được đất Văn Lang mà còn gồm thâu được dân Văn Lang, sự thành công nầy không phải một đời mà nhiều đời.

Thái Công chết người con là Lữ Cấp, Định Công kế vị đi theo con đường của cha, quả là hiệu quả vô cùng, không những được mặc lợi về giao thương buôn bán, mà còn được lợi về mặc chính trị, quả thật dân Văn Lang mê say về thuật bói toán, xin xăm bói quẻ, cầu cạnh thần linh, nghiện đến nổi thiếu thứ gì thời được, nhưng thiếu về thuật số, bói toán, xin xăm, bói quẻ, cầu cạnh thần linh thời chịu không nổi, quẻ ứng ông nầy làm Vua, bà nọ làm Chúa thời tin răm rắp, không những dân chúng mà ngay cả Vương Quan cũng bị mê hoặc và từ đó hình lên mộng tự trị, chia bè chia nhóm ra, thôn tính lẫn nhau, xưng Vua, xưng Chúa, và được sự giúp đỡ của những nước lân cận Bắc Văn Lang, như Ngô, Sở, Tề, thậm chí các nước ở xa như Triệu, Tấn.

Sự mở cửa giao thương hợp tác toàn diện, Nam – Bắc ở vào thời kỳ nầy, thời kỳ văn hóa Cội Nguồn không còn, là một điều bất lợi cho nước Văn Lang. Không như thời Hùng Vương dựng nước, văn hóa Cội Nguồn hưng thịnh, càng giao thương hợp tác toàn diện càng có lợi.

Nói về nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang thường có tục lệ vẽ mình làm cho thủy quái, ác thú không dám đến gần, nhất là dân tộc Nam Việt, Âu Việt, Lạc Việt.

Ngô Thái Bá cùng với em Thái Bá là Trọng Ung, đều là con của Thái Vương nhà Chu, hai người đều có mộng lớn làm Vua, và là anh của Quý Lịch. Quý Lịch hiền, nên Thái Vương lập Quý Lịch làm Vua, bị cú sốc nặng biết tình thế không xong, không lẽ tranh ngôi với em mình, hai người bằng trốn đến đất Kinh, người Nam Bắc di cư đến ở giáp ranh với Tây Bắc Văn Lang. Ngô Thái Bá, Ngô Trọng Ung bắt chước cắt tóc vẽ mình giống như người Nam Việt, Âu Việt, Lạc Việt, tự gọi mình là Câu Ngô.

Những người Nam Bắc, thuộc đất Kinh cho hai ông là người có nghĩa khí, họ theo hai ông hơn nghìn nóc nhà tôn hai ông làm Vua, Vua Ngô Thái Bá, Ngô Thái Bá không con, người em là Trọng Ung, lên kế vị ngôi Vua, Vua Ngô. “Lịch sử đã cho ta thấy, văn hóa cách sống tự trị của người phương Bắc, chỉ cần nghìn gia đình, hoặc vài trăm gia đình thời đã có Vua rồi, không như nước Văn Lang cả hàng triệu gia đình mới có Vua”. Nói đến đất Kinh dễ lầm đất Kinh Bắc Văn Lang, nhưng thật ra bên kia biên giới cũng có đất Kinh, đó là đất Kinh Bắc, không phải đất Kinh Nam. Ngô Thái Gia và Ngô Trọng Ung hai người đều có tham vọng lớn không chịu một nước Ngô nhỏ bé, theo kiểu tự trị của mình, nên lúc nào cũng dòm ngó Bắc Văn Lang bằng lập ra kế sách lâu dài, chiếm lấy cho được Bắc Văn Lang. Ngô Thái Gia, Ngô Trọng Ung đều có kế sách giống nhau, (Muốn chiếm được đất Văn Lang, chỉ có một con đường duy nhất, là đồng hóa dân Văn Lang theo văn hóa phương Bắc, văn hóa tự trị, Vua nổi lên mọc khắp vùng, thôn tính lẫn nhau, tranh giành lẫn nhau, mạnh được yếu thua, được là Vua thua là giặc, đó chính là cơ hội cho ta thôn tính Bắc Văn Lang, nhờ sự hậu thuẫn của nhà Chu).

Lúc bấy giờ Võ Vương nhà Chu đã lật đổ thôn tính nhà Ân, bằng cho người tìm con cháu của Thái Bá và Trọng Ung, tìm được Chu Chương. Khi đó Chu Chương đã làm Vua ở nước Ngô, cho nên nhân đó mà phong chính thức Vua Ngô, sự thừa nhận của nhà Chu, lại phong cho Ngu Trọng em của Chu Chương ở phía Bắc đất Chu là đất Hạ. Chu Chương chính thức được thừa nhận Võ Vương, nhà Chu, phong chính thức Vua Ngô. Nên nước Ngô càng thêm lớn mạnh, nhờ gồm thâu một số nước nhỏ. Chu Chương lòng đầy tham vọng, lúc nào cũng dòm ngó Văn Lang, khi Chu Chương còn nhỏ thường chu du Bắc Văn Lang nên hiểu rõ Bắc Văn Lang như trong lòng bàn tay. Nay cơ hội ban giao hai nước láng giềng Nam Bắc hợp tác toàn diện, đây chính là cơ hội mộng bá đồ bành trướng nước Ngô chiếm lấy Bắc Văn Lang.

Chu Chương cho người qua ban giao hợp tác với các Châu phủ Văn Lang, láng giềng, lúc bấy giờ một số Châu Phủ, Quan, Vương, tha hóa, bê tha, tham nhũng, tửu sắc, bị Chu Chương câu miếng nào miếng nấy chắc mẩm, cho người sang qua đầu độc văn hóa, làm cho dân Văn Lang quên đi Nguồn Cội truyền thống anh Linh của mình, chạy theo bói toán, cầu cạnh, xin xăm, bói quẻ, mê tín, dị đoan. Quẻ ứng nói con ông nầy là Vua, con bà kia là Chúa, kích động nổi lên tự trị nhiều vùng, Bắc Văn Lang dần dần đi đến hỗn loạn, nguy cơ Bắc Văn Lang mỗi ngày mỗi hiện rõ.

Kể từ khi Thái Bá và Trọng Ung, lập nước Ngô, được năm đời, thời Võ Vương tiêu diệt được nhà Ân, phong con cháu của Thái Bá ở hai nơi. Một nơi là nước Ngô ở Man Di, một nơi Bắc đất Chu là đất Hạ, truyền xuống được mười hai đời, thời nước Tấn tiêu diệt nước Ngô ở đất Kinh, chỉ còn nước Ngô hưng thịnh ở Nam Man Di, tức là ở Tây Bắc Văn Lang, như vậy mộng xâm lược chiếm đất Văn Lang đã thành công.

Nước Sở, Sở Tử họ Mỹ, dòng giống Vua Chuyên Húc, Mỹ Tử là Dực Hùng, làm thầy Vua Văn Vương, bởi có công lao, nay Võ Vương phong nước Sở. Đến thời Sở Linh Công thời mở mang nghiệp bá quan hệ với Bắc Văn Lang, Sở Linh Công thấy Bắc Văn Lang quả thật đất đai trù phú, đất đen bốc hơi mạnh, đồng ruộng xanh rì bao la bát ngát, cá tôm đầy ắp, buôn bán tấp nập thời thèm khác vô cùng, Quý Nhân có tài toán số biết phương Nam khí thế mạc dần, đất Bắc Văn Lang sẽ mất dần về tay Phương Bắc, bằng bày mưu hiến kế cho Sở Linh Công, chiếm đoạt đất đai Văn Lang.

Sở Linh Công hỏi:

Chiếm đoạt bằng cách nào?

Quý Nhân nói:

Không phải chiếm liền được đâu, mà phải có kế sách lâu dài, như tằm ăn dâu, như mối mọt ăn cây, phải giao thương văn hóa với Bắc Văn Lang, làm cho dân Bắc Văn Lang tôn thờ văn hóa phương Bắc, thời mộng xâm lược chiếm đất Văn Lang mới thành.

Linh Công hỏi:

Giao thương văn hóa theo cách nào?
 

shopoga

✩✩
Quý Nhân nói:

Giao thương qua con đường buôn bán, xuất khẩu lao động, qua làm thê cho các Lạc Điền, Hùng Điền. Mua chuộc các Quan, Châu Phủ, Bố Chính, Hữu Tư từng bước từng bước khi nào thấy Bắc Văn Lang hỗn loạn, nhiều nhân vật nổi lên đòi tự trị, chúng thôn tính lẫn nhau đó là thời cơ cho ta chiếm đất Văn Lang. Hơn nữa chúng đã đòi tự trị chống lại nhà nước Văn Lang, thời chúng không còn con đường nào khác hơn là theo về với chúng ta mà thôi, vì thế nước Sở chúng ta không phải chỉ ở đất Bắc còn có ở đất Nam nữa.

Linh Công nghe phải bằng thực hiện theo kế sách đó. Đến đời, Sở Bình Vương, thời đã chiếm được một phần đất Bắc Văn Lang, Quân Việt đòi lại nhưng không làm gì được, vào năm 548 trước công nguyên.

Tóm lại; Ở vào thời kỳ Văn Lang suy tàn vì mất đi văn hóa Cội Nguồn chính sách ban giao Nam Bắc, hợp tác toàn diện, dẫn đến bất lợi cho Văn Lang, với bao thủ đoạn mánh khóe, hiểm độc, thủ đoạn, xé Bắc Văn Lang ra từng mảnh nhỏ, tạo ra cơ hội thuận thời cơ thôn tính, một cách dễ dàng, với thủ đoạn ăn mòn, như tằm ăn dâu, như mối, mọt, ăn cây, nuốt lần đất Văn Lang, các Vua Hùng ở thời cuối đành bó tay, dẫn đến không những mất Bắc Văn Lang, mà ngay cả Trung Văn Lang cũng mất luôn, đây là một thảm kịch vì đã mất đi văn hóa Cội Nguồn, bị văn hóa Bắc phương xâm hại, thôn tính tinh thần dân tộc Văn Lang, luôn theo chiều hướng có lợi cho chúng, thảm thay thảm thay.

Vận thế vần xoay cuộc cơ trời

Họa phúc đối đầu mãi ai ơi

Thiện ác gieo ra rồi phải gặt

Tránh đâu cho khỏi đạo luật trời.

Đây nói về Võ Cảnh, thoát khỏi họng cọp rời khỏi triều ca như con chim thoát ra khỏi lồng, băng suối lội rừng, cuối cùng cũng đến nơi mình muốn đến, được hai Đạo sĩ tả Tiên và hữu Tiên, phò trì. Kêu gọi tàn quân Ân những người không chịu ra hàng nhà Chu, ẩn vào rừng sâu làm cướp, số người lên đến hàng nghìn nghìn người, toàn là những tay dũng sĩ tài ba, lập lên nước Nam Du, Tây Du, xưng là Cảnh Ân Vương. Mỗi ngày một thêm lớn mạnh, những tên cướp theo về càng đông.

Võ Cảnh lấy vợ người Hồ, sanh ra Hồ Tôn Vương. Hồ Tôn Vương lấy con gái Chúa Hung Nô là Man Man sanh ra Ân Mao Vương, đây nói về Man Man, Vương Hậu. Man Man một hôm nằm ngủ thấy một trận cuồng phong thấy toàn là yêu tinh quỉ dữ dưới sự chỉ huy con Hồ tinh to lớn đánh về phương Nam khói lửa đậy trời, lại thấy một con Rồng Vàng xuất hiện, đánh nhau với con Hồ Tinh to lớn long trời lở đất, Man Man khiếp hồn tỉnh dậy. Không bao lâu thời biết mình đã mang thai, đến ngày khai hoa nở nhị Man Man sanh ra một em bé kháu khỉnh, lúc ấy các loài chim dữ bay đến, khi chúng bay đi rơi xuống một chiếc lông Võ Cảnh liền đặt tên cho con là Ân Mao. Ân Mao càng lớn càng thông minh kỳ lạ, khôn ngoan đáo để, túc trí đa mưu, mà còn có mộng bành trướng, có ý gồm thâu thiên hạ. Võ Cảnh thấy vậy rất vừa lòng.

Một hôm Ân Mao đang chơi thời bỗng thấy ba Đạo Sĩ xuất hiện nói:

Con theo ta về động để tu Tiên học Đạo.

Nói xong ba Đạo Sĩ cùng Ân Mao biến mất, những người hầu Ân Mao hoảng kinh, báo cho Tôn Vương cùng Man Hậu. Man Nương nghe xong lấy làm kinh hải, Hồ Tôn Vương nói:

Không sao đâu. Mao Nhi theo thầy học Đạo không có gì phải lo.

Đây nói về Ân Mao được ba Đạo Sĩ đưa đến một nơi rất xa xôi, đến một ngọn núi đá gần một cái hồ rộng lớn, phong cảnh vô cùng xinh đẹp.

Đạo Sĩ mặt trắng dễ coi hơn nói với Ân Mao:

Thầy là Hồ Nhất Tinh, còn đây là Hồ Nhị Yêu.

Ân Mao bước tới quỳ lạy Nhị Yêu mặt xám, Nhị Yêu mặt xám khen:

Thằng bé nầy thông minh lắm.

Nhị Yêu chỉ Tam Quỹ nói:

Đây là Hồ Tam Quỹ con đến chào hỏi đi.

Ân Mao đến quỳ lạy ra mắt nói:

Con là Ân Mao kính lạy tam sư phụ.

Tam Quỹ thấy Ân Mao không những khôn ngoan mà còn đầy lòng xảo quyệt, thời thích lắm.

Cùng thời với Ân Mao bên đất hung nô em của Man Man là Mạo Mạo sanh ra một em bé sát khí đầy trời, nên đặt tên cho em bé là Sát Sát.

Cũng cùng thời lúc ấy, bên đất Hồ, Hồ Nương Nương cũng hạ sanh một bé gái, lúc hạ sanh bé gái thời một trận gió nổi lên làm cát bay đá chạy, nên đặt tên cho em bé là Nghịch Phong. Nghịch Phong lớn lên không những xinh đẹp mà thường làm những điều không ai tưởng tượng nổi, như treo ngược mình lên cây, chơi với loài hung dữ như cọp, beo, sói. Một hôm Nghịch Phong đang chơi, bỗng một luồng cuồng phong xuất hiện cuốn phen Nghịch Phong đi mất.

Đây nói về Sát Sát càng lớn càng xinh đẹp lại ưa chơi với loài hung độc như rắn, rít, bò cạp, tính tình tàn độc vô cùng, tuổi còn nhỏ mà đã giết chết Nữ Tỳ. Tỳ Nữ không ai là không khiếp sợ. Một hôm Sát Sát đang chơi thời một Đạo Cô xuất hiện thu nhận Sát Sát làm đệ tử, bay lên mây rồi biến mất.

Đây nói về thời hạ Hùng Huy Vương, đời thứ 6 (Pháp Hải Lang) nước Văn Lang đã bắc đầu suy vong, vì nền văn hóa Cội Nguồn đã mất lần hết những điều cơ bản dẫn đến độc tài độc trị, dân chúng mỗi ngày mỗi mất lòng tin, cuộc sống lần lần không còn bình đẳng, quyền con người cũng dần dần biến mất, thay vào đó là chế độ độc trị, độc tài, không khác gì phương Bắc, Vua là trên hết.

Không như thời dựng nước tối cao của nước Văn Lang không phải là Vua, mà là nền Quốc Đạo dân tộc, Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng xã hội. QUỐC TỔ VUA HÙNG, là vị vua tối cao, tôn thờ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, nắm giữ cán cân Công lý xã hội, lập ra tam quyền phân lập. LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP, ĐẠO PHÁP ĐỘC LẬP. Lãnh đạo và điều hành đất nước.

Ở thời kỳ hạ Hùng Vương đời thứ 6, thời bộ máy nhà nước Văn Lang chỉ là nhà nước độc quyền, độc trị, theo kiểu độc quyền, độc trị ở phương Bắc, tất cả quyền hành đều dồn hết cho một quyền lực đó là Vua. Không còn Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng xã hội trên hết nữa, Vua muốn làm gì thì làm, không cần thông qua bộ máy nhà nước. Mà sống theo chế độ thể chế độc trị, độc tài. Cái độc trị, độc tài ấy lần lần ăn sâu vào các cấp Lãnh đạo nhà nước Văn Lang, từ Vua, Quan, các cấp, cho đến chí dân. Lần lần ai nấy cũng chỉ biết nghĩ đến cái lợi của mình, dân lần trở thành vô cảm, tính đoàn kết không còn như thời ông cha nữa, còn Vương Quan thời vơ vét tôm thâu bao cái lợi về mình. Sự khởi đầu, dân chúng bất bình chính là độc tài, độc trị nầy, càng về sau các Vua Hùng càng nặng, cũng như Vương Quan các đời về sau càng nặng, dẫn đến xa rời dân chúng, ai cũng vì túi riêng của mình, hà khắc sách nhiễu dân chúng. Mở đường cho bao mối họa sanh ra nội loạn, cơ hội cho ngoại xâm, xâm chiếm đất đai.

Hùng Huy Vương lâm triều lúc nào cũng nghe tấu sớ báo cáo Bắc Văn Lang dân chúng nổi lên dấy loạn khắp nơi đòi tự trị.

Vua Hùng nổi giận nói:

Con cháu Tiên Rồng mà bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất hiếu, đến thế sao. Các Bộ, các Châu, các Quận, các Huyện, sao để xảy ra những chuyện ấy.

Bằng ra cáo văn chỉ thị: Những Bộ, những Châu, những Huyện, những Quận, có nội loạn về kinh đô hội kiến.

Không bao lâu thời các Bộ, các Châu, các Quận, các Huyện, có nội loạn dân chúng nổi lên đòi tự trị, về kinh đô báo cáo thật tế tình hình.

Nhìn Kinh Đô thật yên bình, nay đã là tháng ba thế mà trời đất vẫn chưa được trong xanh sáng tỏ, lúc nào cũng u ám như có điều chi buồn bã, buôn tiếng thở dài ông cụ nói:

Lòng tham con người không kìm chế được thời chuyện gì cũng xảy ra, hôm nay là ngày hộp trọng đại nơi triều nội, tí nữa là ta quên mất.

Người đó là ai thế? Người đó không ai khác hơn là Lạc Vương, Hữu Thừa Tướng, đứng đầu trăm quan. Các Quan đầy đủ, Vua Hùng lâm triều, tấu sớ dâng lên nhiều hơn mọi lần. Hùng Vương xem cáo văn báo cáo, các Bộ, Châu, biên giới Bắc Văn Lang như sau: Thần là Lạc Hầu Vương cũng như các Châu, các Bộ hết lòng vì dân vì nước, nhưng không hiểu vì sao dân chúng lại dấy loạn đòi tự trị, nổi dậy chiếm lấy Tây Bắc biên giới Văn Lang biên giới Bắc Văn Lang, Đông bắt Văn Lang, Bách Việt Bắc Văn Lang không còn đoàn kết như xưa, mà nổi lên đòi tự trị nhiều vùng, tệ hại hơn nữa. Bộ Bắc Đái, các Châu, Quận, Huyện chỉ cần tập họp vài trăm nóc nhà cũng tự xưng là Vua, Thần đem quân dẹp loạn. Nhưng dẹp yên chỗ nầy, thời chỗ khác lại mọc lên, máu dân Văn Lang đã bắt đầu đổ, không cách gì vổ yên dân chúng cho được. Càng dẹp loạn thời các thế lực tự trị chúng liên kết lại với nhau. Tạo lên một sức mạnh chống trả, chống trả không lại chúng cầu viện phương Bắc. Cảnh nồi da nấu thịt vô cùng thê thảm. Trận chiến ở Huyện Tây Bắc Châu, Huyện Tây Trung Châu, Huyện Hạ Tây Châu, dân Văn Lang cả hai bên thiệt mạng hơn nữa vạn người. Bố chính Tây Châu bỏ mạng, bố chính Trung Châu bỏ mạng, bố chính Hạ Châu bỏ mạng, chúng cầu viện quân Ngô đành phải thất thủ Tây Châu. Châu Phủ bị chúng bắt không còn biết sống chết ra sao.

Các Quan nghe báo cáo tình hình như vậy ai nấy đều thất kinh. Các Quan nghe tấu sớ bộ Lục Hải, lại càng kinh hải hơn nữa, nguyên văn như thế thế nầy: Bẩm Quốc Vương, hạ thần là Lạc Công Hầu, ở bộ Lục Hải tình hình Đông Hải Châu, Đông Bắc Hải Châu, Hạ Giang Châu dân chúng đòi nổi lên tự trị, vì cho rằng Thần Thánh nói Bắc Văn Lang sẽ mất, cơ vận Hùng Vương đã hết đất Văn Lang chia ra nhiều nước, như bên Bắc nhà Hạ, nhà Thương, nhà Ân, nhà Chu. Trời chỉ định ai được thiên hạ thời người đó được, đất đai không thuộc của người nào. Vì thế Bách Việt Văn Lang dân tộc nào Trời chỉ định dân tộc đó là Vua. Vì có sự tiên đoán của Thần Linh, và cũng như sự ứng quẻ của Đất Trời. Dân chúng những Châu Phủ trên, đã trở nên cuồng tín chỉ biết nghe theo Thần Thánh, nhất là Thần Thánh ở đất Bắc. Dân chúng đã dựng miếu thờ khắp nơi, nhập đồng nhập xác hiển Linh lắm, thời thế hiện nay dân chúng chỉ biết nghe theo bói toán, ứng quẻ, nhập đồng, nhập xác, cầu cạnh thần linh, thần linh nói sao dân chúng nghe theo vậy, quẻ ứng. Nói cậu nầy làm Vua, ông kia làm Chúa, thời dân chúng nghe theo răm rắp, vì thế mà nhiều khu tự trị đã nổi lên, hơn trăm nóc nhà cũng xưng Vua, xưng Chúa. Hạ Thần ra lệnh gôm thu quân binh các Châu hơn 10 vạn, rồi giao cho Lạc Tướng thống lãnh hơn vạn quân binh dẹp loạn, dẹp được chỗ nầy, thời Vua chỗ khác đã mọc lên, sự phản loạn đòi tự trị ấy, phải nói là có bàn tay phương Bắc tham gia, diệt tự trị chỗ nầy, tự trị chỗ khác lại mọc lên. Chúng liên kết với nhau chống trả lại quân Văn Lang mỗi ngày mỗi quyết liệt, chúng thua chúng chạy sang qua Bắc cấu kết với nước Hải Nam, nước Mục Lăng, hiện nay đã theo về với nước Tề, nhờ sự trợ giúp của nước Tề quân ta đã đại bại, thiệt hại hơn phân nửa binh lính, quân nổi dậy nhờ sự yểm trợ của quân Tề nên đã thất thủ Đông Hải Châu, Đông Bắc Hải Châu, Hạ Giang Châu, cũng không thể giữ nổi trong nay mai, nếu tình hình nầy kéo dài e rằng mất luôn Bắc Văn Lang, nguy cơ mất Bắc Văn Lang là điều không sao tránh khỏi, nếu không có quân chủ lực dẹp yên chúng.

Vua Hùng lại xem tấu sớ của Bộ Giao Chỉ thời thất sắc, nội dung tấu sớ thế nầy: Bẩm Quốc Vương hạ Thần, Lạc Vương, phụng báo như sau. Tình hình Bắc Giang Giao Châu, Lạc Giang Giao Châu, Giao Giao Minh Châu, Dương Giang Giao Châu, là những Châu lân cận với đất Bắc, thuộc bộ Giao Chỉ, không hiểu vì sao Bách Việt Văn Lang lại nổi lên đòi tự trị, nổi lên Vua Chúa khắp nơi, không khác gì ở phương Bắc, chỉ cần hơn vài ba trăm nóc nhà thời có Vua nổi lên, Vua nầy thôn tính Vua kia làm rối loạn khắp nơi, những trận giao tranh tiêu diệt lẫn nhau dữ dội, gươm đao giáo mác, cung tên, nhập từ phương Bắc, vũ khí binh lính không kém gì Văn Lang chúng ta, với tình hình như thế quân ta không biết đánh ai bỏ ai, cuối cùng họp bàn đi đến thống nhất, là quét sạch những quân nổi dậy đòi tự trị, do Lạc Tướng, Hầu Tướng chỉ huy một cuộc ra quân rầm rộ chúng biết đánh không lại liền chạy qua đất Bắc liên kết thành một sức mạnh dưới sự trợ giúp của quân Sở, chúng trở lại phản công thế là một trận giao tranh quyết liệt giữa quân ta với quân phiến loạn đòi tự trị. Lạc Tướng tử trận, Hầu Tướng bỏ mạng, chúng Bắc sống hơn mười vị Quan Tướng Bố Chánh. Chúng đã chiếm cứ, Bắc Giang Giao Châu, Lạc Giang Giao Châu, Dương Giang Giao Châu, chỉ còn Giao Giao Châu đang cầm cự, không biết thất thủ lúc nào, nói chung là đã mất hơn 25 Quận Huyện.

Đọc xong tấu sớ ai nấy cũng kinh hoàng, còn một điều vô cùng khẩn cấp hơn nữa, là quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô đã khởi động sắp tràn qua đánh chiếm Bắc Văn Lang, chiếm lấy toàn bộ vựa lúa lớn nhất của chúng ta, nếu mất Bắc Văn Lang, thời nguy cơ thiếu ăn trầm trọng, dân chúng Văn Lang chúng ta sẽ chết những đói, những năm thời tiết không thuận.

Nghe tin quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô xâm lược, thời Vương Quan ai nấy cũng kinh hoàng. Việc nội loạn chưa giải quyết xong, thời quân ngoại xâm đã kéo đến.

Hùng Huy Vương nói:

Các Quan văn võ có kế sách gì không?

Khi ấy có vị Quan Vương nổi tiếng là học nhiều hiểu rộng, Lạc Vương Thừa Tướng là con của Lạc Vương Công, thời Hùng Vương đời thứ 4, Hùng Diệp Vương, có công ban giao hợp tác toàn diện Nam Bắc Văn Lang với nhà Chu tâu rằng:

Bẩm Quốc Vương bệ hạ, chúng ta nên cho người đưa thư của bệ hạ đến nhà Chu trình lên Chu Mục Vương Thiên Tử, giúp đở không cho Tề, Ngô, Sở giúp sức cho quân phiến loạn Văn Lang, bớt đi một sức mạnh, hầu mong chống trả lại quân xâm lược.

Thế là Hùng Huy Vương sai Việt Thường Lạc Hầu Thị đi sứ dâng thư lên Thiên Tử Chu Mục Vương, Nhà Chu. Đi sứ dâng thư ba lần nhưng không kết quả, Mục Vương nhận thư nhưng lờ đi. Hùng Huy Vương vô cùng tức giận nhưng biết phải làm sao, không còn giải pháp nào cao hơn nữa là cầu Hiền Tài ra giúp nước.

Ở vào thời kỳ ấy, ở Bộ Ninh Hải, Châu Đông Hải, Huyện Đông Châu có hai anh em sinh đôi tên là Nguyên Dực và Nguyên Minh là cháu nhiều đời của Quan Lạc Tướng Nguyên Đô có tài hay phép lạ, võ nghệ cao cường, tinh thông binh pháp, tiếng tăm đồn xa. Hùng Huy Vương cho người mời hai anh em về triều phong cho làm Lạc Tướng thống lãnh 40 vạn quân đến Bắc Văn Lang kết hợp với quân binh các Châu, các Bộ, trừ quân phiến loạn, cũng như chống trả lại quân xâm lược.
 

shopoga

✩✩

PHẦN 2: ÂM MƯU XÂM LƯỢC

Lòng tham quả thật kinh người.

Ngày đêm toan tính nuốt thời Văn Lang.

Ngoại xâm bè lũ sói lang.

Cáo, chồn, múa vuốt, ăn gan hại người.

Mưu mô quỉ quyệt hại đời.

Văn Lang binh lửa khắp cùng thương đau.

Đây nói về Ân Mao theo học với ba sư phụ, võ nghệ cao cường, thần thông pháp thuật vô biên, mới đó mà đã trên hai mươi tuổi, lấy được hai người vợ không những xinh đẹp mà còn võ nghệ cao cường, tài hay phép lạ, ít người địch lại. Hồ Tôn Vương mất, Ân Mao lên thay gọi là Ân Mao Vương. Ân Mao Vương là tay khôn ngoan xảo quyệt, lắm mưu nhiều kế, liên kết Hung Nô, liên kết Hồ Vương, tạo lên thế lực Tam Vương hùng mạnh, nhà Chu cũng không làm gì nổi. Với mộng bành trướng, Ân Mao Vương lúc nào cũng muốn gồm thâu thiên hạ, nhìn thấy Bắc Văn Lang dân chúng chia năm xẻ bảy lại hiểu rõ Tề, Sở, Ngô, muốn nuốt Bắc Văn Lang, đây là cơ hội làm nên nghiệp bá chiếm lấy Bắc Văn Lang trước Tề, Ngô, Sở, nhưng còn ngại nhà Chu ngồi chờ hai hổ đánh nhau thợ săn đắc lợi, không những lấy được Bắc Văn Lang mà còn tận diệt mình. Ân Mao Vương bằng nghĩ ra một kế sách, muốn nuốt được Bắc Văn Lang, một mình quân Ân không làm nổi, mà còn gặp nhiều nguy hiểm. Chi bằng liên kết với quân Hồ, quân Hung Nô, hợp lực chiếm lấy Bắc Văn Lang, Ân Mao Vương hiểu rõ quân Hung Nô, quân Hồ, không những tàn bạo, mà còn lấy sự chém giết cướp bóc làm sở thích.

Trên khắp Thế Giới hiện nay không nơi nào giàu có như nước Văn Lang, không thứ gì là không có. Chỉ cần nói lên sự giàu sang, không thứ gì là không có nảy khơi động lòng tham, đánh thức lòng háo chiến, đánh thức lòng cướp bóc, thời nhất định quân Hung Nô, quân Hồ sẽ tham gia. Bằng mở ra cuộc hội Tam Vương vô cùng long trọng, đàn ca múa hát, rượu thịt đầy bàn, toàn là những món ngon.

Hung Nô Vương khen:

Quả thật đây mới đúng là sơn hào hải vị, không mấy dễ mà có được.

Hồ Nghi Vương cũng nói:

Có những món tôi chưa bao giờ được thấy, chớ đừng nói là được ăn.

Trong lúc vui vẻ, Ân Mao Vương nói với Hồ Nghi Vương, Hung Nô Vương rằng:

Những sơn hào hải vị nầy, chỉ là những sơn hào, hải vị tầm thường Bắc Văn Lang, Bắc Văn Lang nổi tiếng là giàu có không những sơn hào hải vị thuộc bật nhất Thế Giới, mà còn châu báu cũng bật nhất thế giới.

Ân Mao Vương bằng lấy ra hai viên Dạ Minh Châu tặng cho Hung Nô Vương một viên, Hồ Nghi Vương một viên, hào quang tỏa lên rực rỡ.

Hung Nô Vương khen:

Tôi chưa hề thấy viên Dạ Minh Châu nào quý hiếm như viên Dạ Minh Châu nầy.

Hồ Nghi Vương cũng nói:

Quả là hiếm quý không dễ gì có được.

Mao Ân Vương nói:

Đây là những viên Dạ Minh Châu hạng thường của Bắc Văn Lang.

Hung Nô Vương tỏ vẽ thèm thuồng nói:

Sao ta không hiệp lực lại đánh chiếm Bắc Văn Lang, làm bá chủ sự giàu sang, ăn chơi sung sướng.

Hồ nghi vương nói:

Ba ta mà hiệp lực lại với nhau nói gì Bắc Văn Lang, đánh chiếm nước Văn Lang còn được.

Mao Ân Vương vô cùng mừng rỡ nói:

Thế lực của ba chúng ta hiện nay nhà Chu cũng phải kính nể, không dám đụng đến, biết rằng ba chúng ta xưng Vương ngang hàng với nhà Chu, thế mà nhà Chu không làm gì được chúng ta.

Ân Mao Vương nói:

Phương Bắc nhà Chu không có đất nào là béo bở như Bắc Văn Lang mà toàn là những nước nhỏ, đã dày dạn chiến tranh, khó thôn tính hơn Bắc Văn Lang. Bắc Văn Lang hiện nay đang trong thời kỳ hỗn loạn, tuy nhiều bộ lạc nổi lên xưng Vua Việt, nhưng chỉ là những Vua Việt không dày dạn chiến tranh như những vị Vua ở phương Bắc, những con cừu con xưng Vua mà thôi, chỉ cần quân ta tràn tới, thời chúng chỉ là con mồi cho chúng ta xơi.

Mao Ân Vương nói:

Phương Bắc luôn dòm ngó mãi phương Nam, chỉ cần có cơ hội là chiếm lấy, vì Bắc Văn Lang giàu có trù phú vô cùng, vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu, nhiều vô số kể. Những thứ hiếm quý Bắc phương không bao giờ có. Hiện nay nước Văn Lang đến hồi suy vong, Bắc Văn Lang chia năm, xẻ bảy, nhiều Vua đã nổi lên, đây là cơ hội cho ta chiếm lấy Bắc Văn Lang, trước nước Tề, nước Sở, nước Ngô.

Hung Vương là tay đệ nhất háo chiến nói:

Quân Hung Nô nhận lãnh đánh tiên phong.

Hồ Vương cũng là tay háo chiến không kém gì nói:

Bắc Văn Lang rộng lớn vô cùng tha hồ mà tung hoành cướp bóc, chiếm lấy, cả ba chúng ta không ai nhường ai, hễ ai chiếm được bao nhiêu thời là của người đó.

Thế là Tam Vương đánh chiếm Bắc Văn Lang. Quân Hồ, quân Hung Nô, quân Ân đều mạnh về thiết kỵ binh, vó ngựa vang rền biên giới Tây Bắc Văn Lang. Đã nhuốm màu binh đao máu lửa, quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân, tràng qua như nước lũ.



PHẦN 3: XÂM LƯỢC

Cội nguồn văn hóa đã mất đi

Vận nước Văn Lang khổ li bì

Binh đao máu lửa ôi cùng khắp

Nồi da nấu thịt mạng còn chi

Cơ hội nghìn năm giặc tràn đến

Chúng xơi chúng nuốt béo phi phi

Tan nhà nát cửa xưa nay thế

Đồng bào tàn hại nước lâm nguy.

Đây nói về Bắc Văn Lang, tình hình càng về sau càng trầm trọng, các Bộ Lạc Bách Việt nổi lên đòi tự trị, tranh giành quyền lực, xưng Vua, xưng Chúa, thôn tính tiêu diệt lẫn nhau, không khác gì phương Bắc vài ba trăm nóc nhà cũng xưng Vua, nồi da nấu thịt, thắng là Vua thua là giặc, xem đi xét lại giặc với Vua chẳng khác gì nhau.

Bỗng quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân, từ phía Tây Nam nhà Chu tràng qua Tây Bắc Văn Lang như kiến. Chúng chia làm ba mũi thọc sâu vào đất Bắc Văn Lang trước sức mạnh quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân những Vua Việt nổi lên tự trị chống trả không lại đành phải bỏ mạng. Quân Ngô, quân Sở, quân Tề chiếm đóng trên đất Văn Lang biết chống trả không lại đành phải rút lui về đất Bắc. Quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân thế mạnh như chẻ tre, như trận hồng thủy tràn tới đâu là cuốn sạch tới đó. Chúng như ba con quỉ dữ nuốt nhanh chóng Châu Phủ, Quận, Huyện, Văn Lang. Huyện Tây Bắc, Huyện Tây Trung, Huyện Hạ Tây, nuốt luôn Châu Phủ Tây Châu, Tây Bắc Châu, giết chết Vua Di Việt, Vua Phiên Việt, nhanh chóng tràn xuống Bắc Văn Lang, chiếm lấy các Châu Phủ như lấy đồ trong túi, chiếm lĩnh Dương Giang Châu, Giao Giao Châu, Bắc Giang Châu. Giết chết Vua Dương Việt, Vua Giao Việt, Vua Trung Việt. Tam quân như ba con quỉ dữ hung tàn bạo ác vô cùng quy hàng thời sống, chống lại thời chết, ba con quỉ dữ nhanh chóng nuốt luôn Kinh Giao Châu, giết chết Vua Kinh Việt thọc sâu xuống sang bằng Đông Bắc Hải Châu, giết chết Vua Kiều Việt, tiến thẳng về phía Nam thôn tính Đông Hải Châu, giết chết Vua Đông Việt, tỏa rộng bao vây tóm gọn Hạ Giang Châu, giết chết Vua Điền Việt, chưa đầy một năm ba con quỉ nuốt trọn tất cả các Châu như thế, làm chủ gần một nửa Bắc Văn Lang. (Những vị Vua việt bị giết chết nói trên là những vị Vua lớn ngang hàng với nước Sở, nước Ngô, nước Tống, nước Tấn, nước Ngụy, nước Yên, ở phương Bắc).

Thê thảm nào hơn thảm cảnh nầy

Quan hệ sói lang nạn là đây

Bất trung bất hiếu lìa cội gốc

Tôn thờ lũ giặc, giặc chuyển xây

Theo giặc, giặc hại luôn là thế

Làm giặc, thời giặc đến bủa vây

Chia năm, xẻ bảy, xưng hùng bá

Nắm đũa rã rời, giặc bẻ từng cây.



PHẦN 4: KHỐN KHỔ

Nước loạn cơ nguy vốn xưa nay

Nồi da nấu thịt cảnh đọa đày

Đến khi thức tỉnh thời đã muộn

Cơ nghiệp còn đâu trắng trắng tay

Gông cùm xiềng xích thân nô lệ

Tự do mất hết họa tai bay

Sa vào cạm bẫy mưu phương Bắc

Nước mất nhà tan ngục thế thay.

Đây nói về Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ, Bắc Văn Lang, cố thủ chống trả quân Ân, đã hơn một trăm ngày chờ mãi viện binh không thấy đến, lương thực đã bắt đầu cạn lần, nguy khốn mỗi ngày một thêm chồng chất.

Hùng Lang Công vô cùng nóng lòng đi tới đi lui, lo lắng không yên lẩm bẩm: Quân Xích Linh sao không thấy tới cứu viện, còn quân Giao Châu nữa sao mà chậm trễ thế, hay có chuyện gì xảy ra không. Còn Lạc Hầu Công vào Kinh Đô Văn Lang cầu viện hơn tháng sao chưa thấy về, hay là bị giặc bắt rồi.

Hùng Lang Công càng nghĩ càng lo. Đang trong lúc lo lắng không yên, thời có quân vào báo:

Bẩm Vương Công, quân Ân lại tới khiêu chiến.

Hùng Lang Công, cùng các Quan lên thành xem thấy từ doanh trại của giặc Ân ước lượng hơn năm nghìn quân chúng rầm rộ kéo tới kinh thành khiêu chiến. Tướng giặc quả là oai phong lẫm liệt, đầu đội kim khôi, mặc giáp đồng, cầm thanh đại đao sáng loáng có ngời, cỡi con ngựa trắng giọng nói vang như sấm, chỉ nhìn sự uy dũng của tướng giặc, cũng đã uy hiếp tinh thần đối thủ hết mấy phần rồi.

Tướng giặc đến trước cổng thành lớn giọng chửi rủa:

Con cháu Tiên Rồng mà nhác như thế sao? Oai phong ông cha các ngươi đâu hết rồi, chỉ là một lũ bị thịt, thôi thì mở cửa đầu hàng, thời ta cho các ngươi con đường sống, trở thành dân nô lệ, còn nếu sợ quá cố thủ thời ta chờ các ngươi sạch ruột, làm thịt mới ngon.

Hùng Điền con của Hùng Lang công nghe tướng giặc chửi rủa tức giận chịu không nổi, bằng nói với Hùng Lang Công rằng:

Chúng ta đánh một trận với chúng có chết cũng cam, nỗi nhục nầy không thể nào nhịn được.

Các tướng ai nấy cũng đồng tình lời nói của Hùng Điền: Thà chết nhất định không chịu nhục.

Hùng Lang Công nghĩ: Đã là con cháu Tiên Rồng thời còn sợ ai mà co đầu rụt cổ, có chết thời chết cho anh hùng. Bằng trao ấn lịnh cho Hùng Điền. Hùng Điền vô cùng mừng rỡ, bằng điểm hơn năm nghìn binh, mở cổng thành ra xông ra nghinh chiến với giặc.

Tướng giặc thấy người ra trận là một trung niên mặt trắng, đầu đội kim khôi, mình mang giáp đồng, tay cầm trường thương, cỡi con ngựa hắc long, oai phong lẫm lẫm.

Hùng Điền phi ngựa lao tới quát lên như sấm nổ:

Tên giặc ngoại xâm hỗn láo kia mau xưng tên họ rồi nạp mạng.

Tướng giặc ra oai không kém hét lớn:

Loài Rồng thời ta còn ngán, còn loài giun thời ta chẳng coi vào đâu, mau xuống ngựa quỳ xuống ta cho cái chết toàn thây.

Hùng Điền không nói không rằng phi ngựa lao tới, trường thương vun vút nhắm đối thủ tấn công như vũ bão. Tướng giặc cũng không kém hét lên một tiếng phi ngựa lao tới xáp chiến, binh khí chạm nhau đinh tai nhức óc, binh lính hai bên chiêng trống dậy trời.

Nhìn trận địa rền vang chiêng trống

Bụi mịt mù ngựa cuốn vòng xoay

Thương đao chơm chớp trời mây

Ầm ầm trận địa giao tranh ầm ầm.

Đánh hơn năm mươi hiệp mà chưa diệt được kẻ thù Hùng Điền hét lên một tiếng, dùng chiêu Thái Sơn Áp Đỉnh, cọng với chiêu Âm Dương Sát Thủ như tia chớp đâm đánh tướng giặc, tướng giặc thấy trường thương chớp chớp cuốn tới như một trận lốc, thời thất kinh múa đao lên chống đỡ đùng đùng ầm ầm, tướng giặc sít chút nữa thời bỏ mạng. Tướng giặc không còn dám xem thường nữa, dùng tuyệt kỹ Yêu Đao phi ngựa chém tới ầm ầm, Yêu Đao chơm chớp như mưa sa, người ngựa phóng lên không chém xuống. Hùng Điền bình tỉnh dùng chiêu Ngọa Hổ Tàng Long, chống đỡ, hai bên đánh nhau kẻ tám lạng người nửa cân hơn trăm hiệp vẫn chưa phân thắng bại.

Quả là:

Con cháu Tiên Rồng vốn anh hùng

Trường thương vun vút đảo càn khôn

Mưa tuôn quyền pháp rền sông núi

Vó ngựa réo vang đánh dập dồn.

Hùng Điền quyết giết cho bằng được tướng giặc, nên trường thương càng lúc càng lợi hại, tướng giặc biết đánh không lại, bằng nghĩ ra một kế giả thua bỏ chạy giết chết Hùng Điền, quả là Hùng Điền đã trúng kế rượt đuổi theo tướng giặc, bất thình lình tướng giặc quăng lên không một vật tức thì một luồng khói độc tuông ra. Hùng Điền bất ngờ tránh không kịp bị khói độc tuông trúng xây xẩm mặt mày, tướng giặc quay ngựa trở lại nhanh như chớp chém Hùng Điền một đao bỏ mạng.

Quân Ân thắng thế ào ào lao tới đánh cho quân Văn Lang một trận tơi bời hơn năm nghìn người chỉ còn có mấy trăm. Hùng Lang Công thấy con chết vô cùng đau xót.

Hùng Tướng thấy em chết, vừa đau xót, vừa căm hận quân giặc, quyết tâm trả thù cho em, liền nói với Hùng Lang Công rằng:

Thưa cha, cho con ra trận giết thằng giặc đó trả thù cho em.

Hùng Lang Công cũng vô cùng căm tức, bằng nói:

Con ra trận hết sức cẩn thận, không nên rượt đuổi theo tên giặc.

Hùng Tướng bằng điểm năm nghìn quân tinh nhuệ, mở cổng thành ào ào lao tới hò hét xáp chiến với quân Ân, tướng giặc Ân cũng ra oai không kém, hò hét thúc quân xáp chiến.

Thế là dậy núi dậy non

Quân reo, giáo đổ, kiếm tuôn ầm ầm

Quân ân khiếp vía rụng rời

Thây người gục ngã đất trời rung rinh

Bất ngờ yêu, quỉ, ma, tinh

Đầy trời xuất hiện rung rinh đất trời

Văn Lang quân tướng tàn đời

Phơi thây chiến trận ôi thời thảm thương

Vì dân vì nước hy sinh

Văn Lang Quân, Tướng, anh linh muôn đời.

Nói về Hùng Lang Công, cùng các tướng ở trên thành xem trận địa, thấy quân Văn Lang đánh quân Ân tơi bời, thây phơi chật đất, vui mừng vô kể. Cùng lúc ấy từ doanh trại của giặc Ân, thấy một bóng vụt lên hư không, thì ra đó là một nữ tướng, cỡi con ngựa thiên lý mã, chớp mắt đã tới trận địa.

Hùng Lang Công thất kinh thét lớn:

Con ta nguy mất.

Chỉ thấy nữ tướng tay chỉ lên hư không, tức thời yêu, tinh, ma, quỉ, hiện ra đầy trời, mây đen cuồn cuộn, quân Văn Lang chỉ trong phút chốc chết không còn một mạng, từ đó Kinh Đô cố thủ cầu mong quân tiếp viện đến mà thôi.
 

shopoga

✩✩

PHẦN 5: TỬ CHIẾN

Chúng dân lạc Cội nước khốn nguy

Binh đao máu lửa khổ li bì

Chồn, cáo, can qua ăn nuốt sống

Tan nhà nát cửa mạng còn chi.

Đây nói về Kinh Giao Châu, cách Kinh Đô không xa chỉ hơn 30 dặm, nghe Kinh Đô bị bao vây, liền bàn kế đưa quân tiếp ứng.

Lạc Đô Tướng nói với Quan Tổng Chính:

Khi ta đưa quân đến cứu viện Kinh Đô, nếu có giặc đến tấn công thời cố thủ mà thôi.

Dặn dò xong đâu vào đấy. Đô Tướng liền mở cổng thành dẫn hơn một vạn quân nhanh chóng đến Kinh Đô, quân binh vừa đến Huyện Giao Trung, đến đồi Lạc Địa, thời nghe tiếng reo hò dậy trời dậy đất, quân Ân hiện ra lớp lớp, gươm đao giáo mác sáng ngời. Lạc Đô Tướng, thấy người dẫn đầu quân Ân là một nữ tướng trung niên vô cùng xinh đẹp, liền có ý coi thường.

Lạc Đô Tướng giục ngựa tới hét:

Mau xưng tên họ, đàn bà con gái mà cũng ăn cướp xâm lược, gặp ta là coi như đã tới số, mau xuống ngựa chịu trói, thời ta cho cái chết toàn thây, bằng không xương thịt nát nhừ.

Không ngờ nữ tướng không sợ mà còn thét lên lanh lảnh:

Ngươi đã gặp Sát Sát ta, thời ngươi đã hết con đường sống, trời sanh ra đất đai là không phải của riêng ai, người nào có tài thời người đó được. Văn Lang đã đến thời mạc, đất đai sẽ thuộc về người khác, mau quy hàng thời ta cho cái chết toàn thây.

Lạc Đô Tướng quát:

Đồ hỗn láo.

Rồi phi ngựa tới thét lớn:

Nộp mạng đi.

Thanh đại đao chém tới với một sức mạnh kinh hồn, hai bên quân lính tướng tá, reo hò dậy núi dậy non. Không ngờ nữ tướng không cần né tránh đưa đao lên chống đỡ.

Đô Lạc Tướng thấy thế vui mừng quát:

Xong đời nầy.

Không ngờ một tiếng ầm kinh thiên động địa, cả người lẫn ngựa bị dội ngược trở lại, lòng bàn tay đau buốt. Lạc Đô Tướng kinh hoàng như không tin ở mắt mình. Nữ Tướng quát lên lanh lảnh, giục ngựa lao tới đại đao vun vút chém tới, kình phong tuôn ra ù ù. Lạc Đô Tướng không còn xem thường nữa dốc hết sức bình sanh ra chống đỡ, hai ngựa quần thảo với nhau khói bụi mịt mù, binh khí chạm nhau đinh tai nhức óc.

Lạc Đô Tướng càng đánh càng yếu thế, đánh nhau hơn năm mươi hiệp, Lạc Đô Tướng chỉ còn nhờ vào tuyệt chiêu cuối cùng may hạ gục đối thủ, liền hét lên một tiếng vận dụng hết sức bình sanh đánh ra tuyệt chiêu Liên Hoàn Đao Pháp ánh đao chớp chớp, liền biến ra ảo ảnh chín đường đao chém tới, quả là một chiêu vô cùng lợi hại.

Nữ tướng thấy chiêu đao pháp quá lợi hại như vậy, liền tàn hình biến mất. Lạc Đô Tướng thất kinh, chưa biết phải làm sao, thời nghe trên không có tiếng gió lao xuống, thất kinh Lạc Đô Tướng múa lên thiên vạn đao chống đỡ, chỉ biết ầm ầm đinh tai nhức óc, bốn vó ngựa Lạc Đô Tướng lún sâu. Lạc Đô Tướng chưa hết kinh hồn, thời một tia chớp nổi lên Đô Tướng tránh không kịp trúng một đao bỏ mạng, sau có thơ khen rằng:

Sống ở đời, không ai là không chết

Vì non sông Tổ Quốc nguyện hy sinh

Dù có chết, chết vì dân vì nước

Mãi hùng anh trong nòi giống uy linh.

Quân Ân thắng thế reo hò vang dậy, ào ào xông tới tiêu diệt quân Văn Lang, quân Văn Lang như rắn mất đầu, hỗn loạn bị quân Ân tiêu diệt một cách dễ dàng.

Thảm thương con cháu Tiên Rồng

Ngoại xâm tàn sát đau lòng biết bao

Trời u tối một màng đêm đen thẳm

Lạc Cội Nguồn ôi thê thảm, thảm thê

Kìa trước mắt đầy hố thẳm chông gai

Cơ tạo hóa chuyển vần xoay nguy khốn

Giặc lan tràn khó tránh khỏi kiếp tai.

Đây nói về Quan Tổng Chính trong lòng cứ mãi hồi hộp không yên, đang ra sức cùng binh lính cũng cố trấn giữ Kinh Giao Châu.

Thời có quân binh vào thông báo:

Bẩm Tướng Quân, quân ta đã thất trận tại Huyện Giao Trung, quân Ân đang kéo tới, bao vây Kinh Châu Đông như kiến.

Quan Tổng Chính nghe báo cáo rụng rời cả tay chân, liền cùng các quan lên thành xem coi, thời không khỏi thất kinh. Quân Ân kéo tới càng lúc càng đông bao vây Kinh Giao Châu. Quan Tổng Binh cùng các Quan, chỉ còn biết cố thủ tới đâu hay tới đó.

Cùng lúc ấy, Xích Linh Giao Châu đang chống trả với quân Hung Nô. Đây nói về Xích Linh Giao Châu, Lạc Hầu Vương nghe tin giặc Ân bao vây tấn công Kinh Đô, thời trong lòng kinh hãi, đâu mà nhanh đến thế, nếu giặc chiếm được Kinh Đô thời Bắc Văn Lang coi như đã thuộc về chúng.

Tức thời sai con là Lạc Hồng Hầu, thống lãnh một vạn quân nhanh chóng đến giải vây cứu viện Kinh Đô, đi ngay trong đêm. Khi đến đồi Mục Linh đường đi rậm rạp lại có gió lớn, nghe như có quân mai phục, quả đúng như vậy hai bên cây cối rậm rạp quân Ân mai phục, tên bắn ra như mưa, Lạc Hồng Hầu thất kinh vì sa vào ổ phục kích của giặc, lại sợ bị hỏa công bằng cho lui quân trở lại.

Bỗng thấy đuốc lửa sáng ngời, quân reo dậy đất, một tướng đi đầu mình cao sáu thước mặt đen hung dữ râu ria lồm xồm, viên tướng ấy là ai? Còn ai nữa Hắc Quỉ một tướng tài của quân Ân.

Hắc Quỉ quát:

Ta đợi ngươi ở đây đã lâu, mau cúi đầu chịu trói.

Lạc Hồng Hầu quát lên như sấm nổ:

Xông lên tử chiến với quân cướp nước, thế là quân Văn Lang ào ào xông tới xáp chiến gươm, đao dậy trời.

Trong phút chết, còn chi để mất

Chí hùng anh trong phút chốc cũng vui

Nào xông lên nầy hỡi anh em

Đường quyết tử, ta xông lên quyết tử

Kiếm đã gào thời quân thù phải ngả

Nào tiến lên, nào quyết tử xông lên.

Trước khí thế đầy hào hùng của quân Văn Lang, khó mà hạ gục nhanh chóng cho được, hai bên đánh nhau tới sáng, quân Ân tuy chủ động nhưng cũng không tiêu diệt hết nổi quân Văn Lang. Lạc Hồng Hầu dẫn tàn quân lui về Xích Linh Châu, hai vạn quân đã chết hơn phân nửa.

Lạc Hồng Hầu mình mẩy đầy thương tích nói với Lạc Hầu Vương rằng:

Tình hình vô cùng nguy cập quân Ân, phục kích khắp mọi nơi, chúng phục kích khắp các ngả đường chính yếu tiếp viện, khó mà cứu viện cho được.

Lạc Hầu Vương cũng hiểu rõ tình hình vô cùng nghiêm trọng nói:

Con giữ được mạng sống là may rồi.

Lạc Hầu Vương, lúc nào cũng lo lắng không yên chỉ biết nhìn Bắc Văn Lang mất lần về tay giặc, nhất là từ khi Lạc Hồng Hầu thất trận.

Trong lúc bàn bạc cùng các Quan, thời có quân vào báo:

Giặc Hung Nô đã chiếm lấy Quý Linh Giao Châu, khói lửa ngập trời, chúng như những con quỉ dữ đi đến đâu thời chết chóc nhà tan cửa nát đến đó, đàn bà con gái bị chúng hảm hiếp cho đến chết, gà chó cũng không còn, vơ vét vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu, nói chung là không chừa một thứ gì, kể cả lương thực. Quân binh các Quận Huyện, không có sự liên kết, như những đốm lửa nhỏ, nên bị quân Hung Nô dập tắt, quét sạch một cách dễ dàng, tất cả đều thiệt mạng.

Lạc Hầu Vương than:

Mất đi văn hóa Cội Nguồn là mất đi tất cả, tinh thần dân tộc bị suy sụp, dân chúng bị văn hóa phương Bắc làm hại, đầu độc, làm tan rã sự đoàn kết, chia năm xẻ bảy, tranh giành quyền lực thời tránh sao khỏi ngoại xâm thôn tính. Hơn nữa sự giàu có, đất đai trù phú của Bắc Văn Lang luôn luôn khơi dậy lòng tham lam thèm khác của những tên bạo chúa, nhất là những tên tham vọng lớn hung sùng ác sát phương Bắc, chúng dùng hết mưu kế nầy đến mưu kế khác, miễn sao chiếm lấy được Bắc Văn Lang. Sự lơ là mất cảnh giác đã dẫn đến hậu quả sa vào kế sách của chúng, như cá nằm trong lưới, khó mà thoát khỏi kiếp nạn, mong gì bình ổn lại cho được. Quân Ân, quân Hung Nô, quân Hồ vốn quá mạnh lại có yêu tinh phò trì, không dễ đánh bại được chúng. Chỉ còn chút hy vọng là nhờ quân chủ lực Văn Lang đến giải cứu, đẩy lui quân giặc. Nhưng nào có thấy gì đâu?

Lạc Hầu Vương chỉ biết thở dài, chỉ còn biết tới đâu hay tới đó. Đang lúc buồn rầu, thời có quân vào báo:

Bẩm Hầu Vương, quân Hung Nô đang ồ ạt tiến về Xích Linh Giao Châu, tiến đánh chúng ta.

Nghe quân báo tình thế mỗi lúc một nguy cơ dồn dập, Lạc Hầu Vương, cùng các quan lên thành xem nhìn về hướng Bắc thấy khói bụi mịt mù, quân Hung Nô chia nhau thành nhiều mũi tiến về Xích Linh với thần tốc kinh người.

Đây nói về quân Hung Nô như nhiều cơn lốc kéo đến bao vây Xích Linh Giao Châu, chúng không tấn công ngay mà chỉ đóng trại bao vây mà thôi.

Hung Nô Vương tập hợp các tướng lãnh lại nói rằng:

Chúng ta chưa thể tấn công chiếm lấy Xích Linh Châu được đâu, vì Xích Linh Châu không phải như những Châu phiến loạn, mà là những quan quân đầy lòng trung hiếu quyết bảo vệ Văn Lang. Chúng ta sở dĩ chiếm lấy các Châu Thành cũng như hàng loạt Quận, Huyện, tiêu diệt hơn mười Vua Việt là những vị Vua nổi lên đòi tự trị, phản loạn, phản bội lại nhà nước Văn Lang, đánh mất có lòng trung thành đối với Tổ Quốc, tự mình đánh mất sự đoàn kết dân tộc, tôn thờ văn hóa phương Bắc, nên chúng ta mới tiêu diệt chúng dễ dàng như vậy. Còn đây là Xích Linh Châu, những Châu chưa nổi lên đòi tự trị, xưng Vua, xưng Chúa, thời khó mà tiêu diệt nhanh chóng cho được, phải có nhiều kế sách hay mới tiêu diệt được chúng, vì thế càng tiến sâu vào đất Văn Lang chúng ta gặp nhiều khó khăn.

Các Tướng lĩnh Hung Nô tuy nghe Hung Nô Vương nói thế, nhưng trong lòng thời xem thường quân Văn Lang.

Nói về Lạc Hầu Vương cùng các Quan Tướng thấy quân Hung Nô cờ xí rợp trời từ các mũi lao tới bao vây cung thành đông như kiến, chúng không tấn công liền mà chỉ đóng trại bao vây xung quanh cung thành, một ngày rồi đến hai ngày, nỗi lo lắng Lạc Hầu Vương đã hiện rõ trên sắc mặt, gầy đi thấy rõ, chưa tìm ra kế sách gì để chống trả lại quân giặc chỉ biết ra quân cố thủ cung thành được ngày nào hay ngày nấy.

Thấy các Quan cứ im lặng mãi, Lạc Kim Tiên nói:

Theo lời xưa có kể lại rằng, Quốc Tổ Vua Hùng là đấng Chí Tôn Thiên Đế đầu thai, con lớn của Đức Cha Trời, yêu tinh quỉ dữ nhìn thấy uy danh của người đều khiếp sợ, Xích Linh Châu ta có thờ chân dung của người, sao không cho người họa hình ra cũng như viết uy danh của người lên cờ đem cắm lên những chỗ yếu điểm trong cung thành, thời may ra chống đỡ được yêu tinh quỉ dữ.

Đến lúc nầy đâu còn cách nào hơn, là làm theo lời của Lạc Kim Tiên. Lạc Hầu Vương, cho người họa hình Quốc Tổ, cũng như viết lên uy danh Quốc Tổ trên những lá cờ chính, cắm lên những nơi chính yếu quan trọng của cung thành.

Nói về quân Hung Nô đến ngày thứ ba, thời các doanh trại đều chuyển động như có cuộc xáp chiến xảy ra, chúng duyệt binh liên tục, khí thế hừng hực, những đoàn quân thiết kỵ của chúng chuyển động thần tốc như đội quân ma quỉ, thấy mà rùng mình. Biết có biến cố sắp xảy ra, các quan tướng trong thành tập trung cao độ, cho tinh thần quyết tử, vì non sông Tổ Quốc mà hy sinh.

Mặt Trời xuống núi không lâu, thành Xích Linh chìm trong màng đêm u tối, trên bầu trời các vì sao lấp lánh lúc mờ lúc tỏ, bởi những đám mây che khuất, nhưng cũng thấy được giặc Ân, giặc Hung Nô dẫm đạp lên quê hương mang theo mùi máu tanh của lũ ác quỉ.

Chúa Vương Hung Nô đang đọc Thần chú triệu yêu, ma quỉ dữ đến, rồi ra lịnh cho quỉ dữ yêu ma, bay vào thành đánh phá quân Văn Lang, làm cho quân Văn Lang khiếp đảm rối loạn, nhất là những quan binh trấn giữ cổng thành, lũ yêu tinh, ma, quỉ tuân lịnh rồi tức tốc bay vào thành Xích Linh, chúng làm phép trời đất tối tăm mù mịt, cuồng phong nổi dậy ù ù cờ xí gãy sạch chỉ còn một số không hề hấn gì. Vương Quan binh lính kinh hồn bạt vía, bóng ma bóng quỉ chập chờn khắp nơi, quân binh rối loạn.

Lạc Hầu Vương, cùng các quan kinh khiếp thét lớn:

Yêu tinh ma quỉ đã tấn công thành chúng ta, bình tỉnh chống trả lại chúng.

Trong lúc nguy cơ hỗn loạn ấy, từ những cây cờ đề bốn chữ Chí Tôn Thượng Đế cũng như những cây cờ có treo hình Quốc Tổ đồng loạt phát ra tia sáng, làm cho yêu tinh, quỉ ma, tan biến hết thảy. Bỗng bầu trời trở nên trong sáng, muôn vạn vì sao nhấp nháy, như che chở cho thành Xích Linh.

Chúa Vương Hung Nô lấy làm kinh dị nói:

Chuyện gì xảy ra thế! Chuyện gì xảy ra thế!

Đang lúc hoang mang, thời thấy một con quỉ xuất hiện, run sợ nói:

Có Thượng Đế che chở, có Thượng Đế che chở.

Nói xong biến mất. Hung Nô Vương tuyền lệnh không tấn công nữa, trời sáng tỏ, Hung Nô Vương cùng các tướng lĩnh, nhìn lên thành thấy có một số cờ đề bốn chữ Chí Tôn Thượng Đế, cũng như có một số cờ treo hình một người.

Các Tướng lĩnh Hung Nô nói:

Ai mà có quyền lực đến thế?

Hung Nô Vương nói:

Còn ai nữa đó là người khai lập dựng lên nước Văn Lang.

Các Tướng lĩnh nói:

Người chết đã hơn hai nghìn năm mà còn oai linh như thế sao?

Hung Nô Vương nói:

Ta cũng không tin, nhưng yêu tinh quỉ dữ khiếp sợ như vậy không tin cũng không được.

Một số Tướng lĩnh Hung Nô nói:

Chỉ là hình vẽ, với mấy chữ kia thời làm gì được chúng ta.

Chúa Hung Nô như tỉnh ngộ nói:

Các Tướng nói đúng chỉ vài chục hình vẽ, với mấy chữ kia thời làm gì được chúng ta.

Hung Nô Vương ra lệnh:

Bắt tất cả tù binh làm thang dây, gôm hết tất cả dầu trong dân, cũng như dầu trong các Châu Thành lấy được, những dụng cụ công phá thành chiếm được khắp nơi chuyển hết tới đây, lấy vũ khí của địch giết địch.

Lạc Hầu Vương cùng các Quan trên thành thấy quân Hung Nô đang ra sức tạo ra khí cụ công thành thời kinh hãi, quân Hung Nô vốn đã đông, lại biết sử dụng tù binh làm ra khí cụ công thành, thời biết ngày tận cùng thành Xích Linh đã đến.

Cây mất Gốc rũ cành héo ngọn

Người mất Nguồn đại họa hung tin

Nhà tan nước mất tang thương

Thân tàn nô lệ còn chi cuộc đời



 

shopoga

✩✩

PHẦN 6: KIẾP NẠN

Nói về bách tộc Văn Lang có một số bộ lạc Bách Việt, hấp thụ theo văn hóa phương Bắc, nổi lên đòi tự trị xưng Vua, xưng Chúa, không khác gì ở phương Bắc, chỉ cần vài trăm nóc nhà thời xưng Vua, xưng Chúa tự trị một vùng.

Đây chính là cơ hội cho phương Bắc chiếm lấy Bắc Văn Lang, một cách dễ dàng.

Quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, tràn qua chiếm lấy Huyện Tây Bắc, Huyện Tây Trung, Huyện Hạ Tây, rồi chia nhau làm ba mũi đánh chiếm Bắc Văn Lang.

Quân Hồ đánh phía Tây Bắc Văn Lang, quân Hung Nô tiến dọc theo biên giới Bắc Văn Lang thọc sâu xuống Đông Bắc Văn Lang, rồi tiếng sâu vào đất Văn Lang. Quân Ân tiến theo trung lộ đánh thẳng vào Kinh Đô Bắc Văn Lang, tức là Nam Kinh Xích Quỷ.

Quân Hồ khi tiến qua Huyện Tây Trung tiến đánh Phủ Tây Châu, giết chết Vua Tây Việt chiếm lấy Hồ Châu, giết chết Vua Man Việt, chiếm lấy Âu Sơn Châu, giết chết Vua Sơn Việt, những bộ lạc hùng mạnh Tây Bắc nổi lên đòi tự trị xưng Vua, làm sao chống lại quân Hồ đành phải thiệt mạng, chết thê chết thảm.

Về sau có thơ rằng:

Cái dại nào hơn cái dại nầy

Chia bè rẽ phái lợi gì đây?

Cấu xé giành nhau tranh quyền bá

Ngoại xâm kéo đến nát tan thây.

Quân Hồ tràn qua Tây Bắc Văn Lang, tàn sát chết chóc tan thương, gào thét làm mưa làm gió, những người yêu nước căm giận vô cùng, đau buồn khôn tả, nhìn cảnh giặc cướp phá, giết chóc, hảm hiếp phụ nữ, tàn hại trẻ con, những người còn sống, chúng bắt làm nô lệ, đánh đập dã man, trước thảm cảnh nước mất nhà tan, đau đớn vô cùng.

Quân phiến loạn ra sức chống cự quân Hồ, nhưng khác nào bầy dê xông vào bầy cọp, làm cho cọp béo mập thêm. Quân Hồ tiến sâu vào Tây Bắc Văn Lang như đi vào chỗ không người, chiếm hết Châu Phủ nầy đến Châu Phủ khác, quân phiến loạn nổi lên đòi tự trị, quỳ mạp sát đất dưới chân quân Hồ.

Sau có thơ rằng:

Con cháu Tiên Rồng đó phải chăng

Hay là lũ chuột, chỉ tranh ăn

Chia năm xẻ bảy quên truyền thống

Hậu quả là đây, giặc nuốt ăn.

Nói đến chiến tranh xâm lược phương Bắc, không chỉ xâm lược bằng binh hùng tướng mạnh, mà còn xâm lược bằng con đường hợp tác ngoại giao, toàn diện, xâm lược bằng con đường văn hóa, làm cho dân tộc Văn Lang mê muội quên đi Nguồn Cội, quên đi truyền thống Anh Linh của cha ông, mắt vào kế sách mưu gian của chúng, đến khi phát hiện thời không còn kịp nữa để mà chống trả.

Về sau có thơ rằng:

Nhân tình thế thái vốn xưa nay

Lầm mưu gian kế, giặc mưu bày

Đến khi hiểu rõ thời đã muộn

Nước mất nhà tan cảnh trắng tay.

Nói về quân Hồ càng lúc càng tàn ác chúng lấy sạch, giết sạch, đốt sạch, chúng như đàn quỉ dữ ăn thịt người, uống máu người, trước tình cảnh nầy ai mà không căm hờn, đau lòng, xót dạ.

Về sau có thơ rằng:

Một lũ yêu tinh quá bạo tàn

Giết người, hút máu, chúng ăn gan

Con gái, đàn bà, ôi thê thảm

Chúng vùi, chúng dập nát nát tan.

Đây nói về Kiến Giao Châu, có vị quan Trung Chính, Châu Phủ. Châu An ngày đêm đốc thúc binh lính cũng cố trấn giữ châu thành.

Đang lúc hợp bàn cùng các Quan các Tướng, thời có quân vào báo:

Bẩm Thượng Quan quân Hồ đang kéo đến bao vây Châu Thành.

Châu An cùng các Quan lên thành thấy hướng Tây Bắc khói bụi mịt mù, chúng chia ra làm nhiều mũi lao tới bao vây thành Kiến Giao, vó ngựa vang rền uy hiếp tinh thần đối thủ, chúng như những đàn kiến mỗi đàn dài hơn mười dặm, uốn lượn, ngoằn ngoèo lúc thời bung ra lúc thời nhỏ lại ai nhìn thấy cũng phải khiếp kinh.

Châu An có người con gái là Châu Tiên có học được pháp thuật, nên Châu An đặc hết niềm tin vào người con gái nầy, may ra chống trả lại quân thù xâm lược.

Châu Tiên nói với cha:

Khi con còn học Đạo với thầy con nếu gặp lúc vô cùng nguy cấp, thời lập đài tế lễ khấn vái Quốc Tổ, thời có thể tai qua nạn khỏi.

Nghe lời con Châu An cho lập đài tế lễ sẵn, khi cần thời lên đài tế lễ ngay. Cùng lúc ấy quân Hồ kéo đến bao vây thành Kiến Châu một lúc một đông, chúng không tấn công liền mà chỉ đóng trại bao vây.

Qua ba ngày sau từ doanh trại lớn của quân Hồ, xuất hiện một tướng lĩnh dẫn theo chừng năm trăm quân tiến đến cổng thành Kiến Châu, mở giọng hách dịch lớn lối nói rằng:

Nầy Quan Hữu Chánh, Châu An mở cửa thành đầu hàng đi thời ta tha cho con đường sống, bằng không con gà con chó cũng không còn, không bao lâu nữa nước Văn Lang sẽ biến mất, ngươi không thấy sao, Bắc Văn Lang mất rồi chỉ còn thành Kiến Châu nhỏ bé, ta chỉ cần ra tay thành Kiến Châu sẽ trở thành bình địa. Đến giờ nầy mà con cháu Tiên Rồng gì nữa, con giun thì có, mau mở cửa thành đầu hàng đi.

Châu An cùng các Tướng tức giận đến muốn vỡ lồng ngực, nhất là Châu Tiên. Châu Tiên nói:

Cha cho con ra trận giết quách thằng khốn nạn kia cho hả cơn tức giận, làm cho quân Hồ khiếp vía mà rút lui.

Châu An biết con gái mình võ nghệ cao cường, pháp thuật cao siêu, nhưng đối thủ là Tướng nam khó mà đối địch. Châu Tiên biết ý cha liền nói:

Cha yên tâm con biết tự lượng sức mình.

Châu An cực chẳng đã mới để Châu Tiên ra trận, cổng thành vừa mở một nữ Tướng mắt Phụng, mày ngài, mặt hoa, da phấn, lưng ong, ngực nở, không cần mặc áo giáp gì cả, xinh đẹp mảnh mai, như Tiên giáng trần, tướng giặc vừa thấy như bị hút hồn, bởi sắc đẹp chim sa cá lặn.

Châu Tiên, thấy Tướng giặc ngơ ngác như bị hút hồn, thời quát lớn:

Quân cướp nước kia đã gặp ta thời hết con đường sống, mau xuống ngựa chịu trói.

Nghe tiếng quát Tướng giặc liền tỉnh hồn. Với con mắt thèm khát, nhìn Châu Tiên chầm chầm như muốn ăn tươi nuốt sống.

Tướng giặc thốt lên:

Đẹp quá, đẹp quá ta chưa từng thấy bao giờ, bắt sống về làm đồ chơi.

Nói xong tướng giặc thúc ngựa lao tới chém một đao, nhanh như tia chớp, chụp bắt Châu Tiên, không ngờ Châu Tiên biến mất, một tia chớp nổi lên. Tướng giặc kinh hoàng nhưng không còn kịp nữa, bị Châu Tiên chém rụng mất cánh tay, khiếp đảm quay ngựa bỏ chạy.

Châu Tiên quát:

Chạy đâu cho thoát, tức thời Tiên Kiếm phóng theo một tiếng rú thê thảm Tướng giặc bỏ mạng.

Kết cuộc xâm lăng mạng đi đời

Bỏ mạng sa trường thảm ghê nơi

Tham tàn bạo ác đời là thế

Trận địa vùi chôn xác thân phơi.

Quân Văn Lang thắng thế ào ào xông lên đánh quân Hồ tơi tả, sợ con sa vào bẫy giặc bằng cho người đánh trống thu quân.

Nói về Hồ Nghi Vương, đứng trên vọng đài thấy con là Hồ Bá Thi chết thê thảm, tức quá hét lên:

Mau bắt tên yêu nữ kia cho ta.

Hồ Mị Hoa nói:

Để con.

Bằng phi thân xuống đài cỡi con Thần mã Bạch Long Câu, phi nhanh ra trận địa, Châu Tiên định tới chặt đầu Tướng giặc, thời nghe tiếng trống thâu quân, liền quay đầu ngựa trở lại.

Bỗng nghe trên không có tiếng quát:

Nạp mạng đi.

Tức thời một luồng kình phong ập xuống, nhanh như chớp Châu Tiên thúc ngựa né tránh, ầm ầm hai luồng chưởng đánh xuống không trúng Châu Tiên tạo hai cái hố. Châu Tiên thấy người đánh mình là một nữ Tướng xinh đẹp, tuổi xấp xỉ nhau không hơn không kém.

Châu Tiên quát:

Ngươi là ai? Sao đánh lén ta.

Tướng nữ xuất hiện quát:

Ta sợ gì ngươi mà đánh lén.

Châu Tiên quát:

Quân xâm lược kia tên họ là chi, mau rút quân về Bắc thời ta tha cho tội chết.

Hồ Mị Hoa nói:

Ngươi không xứng đáng hỏi tên ta.

Nói xong cô ta thúc ngựa lao tới thanh kiếm trên tay như Rồng bay Phụng múa, chém tới nhanh như tia chớp. Châu Tiên nào chịu thua kém, đôi kiếm trên tay như mưa sa bão táp, dồn dập tấn công liên miên, cánh Phụng tung bay phất phới, quần nhau càng lúc càng nhanh, kiếm qua kiếm lại rền vang trận địa.

Đúng là:

Một bên bão táp mưa sa

Một bên giông tố cuồng phong ầm ầm

Đánh nhau cát bụi mịt mù

Đánh nhau núi lở nghiêng đồi khiếp kinh

Châu Tiên hóa phép liên miên

Sấm rền trời đất, gươm Thiên khắp đầy

Mị Hoa càng đánh càng hay

Vung tay trời đất tối thui mịt mùng

Yêu tinh xuất hiện trùng trùng

Thét gào nhức óc đùng đùng tấn công

Châu Tiên biết đánh không xong

Hóa ra một trận cuồng phong chạy dài

Thâu quân trở lại cung thành

Ngày đêm cố thủ chờ thời chuyển xây.

Nói về Châu Tiên thấy yêu nữ quân giặc vô cùng lợi hại, khó mà đánh thắng được, bằng lui quân vào thành cố thủ, quân giặc đến khiêu chiến không ra nữa. Châu An cùng các Tướng lĩnh thấy quân Hồ như có điều chi khác lạ hình như là chuẩn bị cho sự tấn công quy mô.

Tướng lĩnh Cao Khang nói:

Tối nay nhất định quân Hồ tấn công Châu Thành ta.

Châu Tiên cũng nghĩ như thế nói với Châu An:

Cha hãy cho quân binh chủ động biết trước tối nay tử chiến với chúng.

Quả đúng không sai bên vọng đài quân Hồ, đang tế lễ Hồ Nghi Vương làm phép triệu tập yêu tinh, quỉ dữ, hàng trăm hàng nghìn, tối nay bay lên thành gây rối loạn quân binh, thời tức tốc đồng loạt tấn công chiếm lấy Châu Thành, vì đã chuẩn bị trước.

Châu Tiên ngửi có mùi yêu khí liền nói với cha:

Hãy mau lên đài tế lễ cầu nguyện Anh Linh Đức Quốc Tổ, không còn chần chờ gì nữa.

Bỗng thấy trời đất tối mù tối mịt, cuồng phong nổi dậy ầm ầm, quân binh đốt lửa không được, cờ xí gãy đổ, lại nghe rào rào dưới chân thành, quan binh la hoảng quân Hồ leo tường tấn công, đốt lửa lên không được vì cuồng phong quá lớn, tiếng binh khí đã bắt đầu chạm nhau.

Châu An bình tỉnh cầu nguyện Anh Linh Quốc Tổ, chiến trận đã nổ dòn, bỗng trên hư không sấm sét nổi lên đánh xuống ầm ầm mây tan, gió tạnh, yêu tinh quỉ dữ, tan biến không còn. Quan quân đốt lửa sáng rực trời, thấy quân Hồ leo tường lớp lớp bằng ném đá, bắn tên, đổ dầu, phá hỏng các thang dây, quân Văn Lang chiến đấu anh dũng lợi thế có cung thành, một người có thể hạ gục năm mười tên, quân hồ chết thôi là chết, đánh tới sáng quân Hồ thiệt hại vô kể, quân Văn Lang thắng trận vẻ vang.

Từ đó quân Hồ biết khó nuốt thành Kiến Châu, chỉ còn cách là bao vây, cho quân binh trong thành kiệt huệ lương thực rồi mới ra tay, chúng tản ra vơ vét của cải dân chúng, cắt đứt các ngã đường cứu viện tiếp viện.

Cha ông trở lại cõi trần

Cứu con cứu cháu thoát vòng tai ương

Miễn sao con cháu đừng quên

Cội Nguồn nhớ mãi hiển Linh đời đời.

Đây nói về trên tần trời thứ hai, Đông Nam Thiên Cung, có vị Thiên Đế Ngọc Long, đã từng đầu thai xuống trần mở ra thời đại Kinh Dương Vương, lập lên nước Xích Quỷ, Giao Chỉ.

Câu chuyện như sau: Tiểu kiếp thứ 8 kết thúc, những người còn sống sót, trở thành thỉ tổ Hồng Hoang, đầu tiểu kiếp thứ 9, kiếp tăng, tuổi thọ thỉ tổ Hồng Hoang rất ngắn, trung bình chỉ 10 tuổi, thọ 20 tuổi, đại thọ 30 tuổi, yểu 1 tuổi. Cứ 100 năm tăng lên 1 tuổi, và tăng mãi cho đến khi tuổi thọ trung bình là 8 muôn 4 nghìn tuổi. Trải qua 8 triệu 4 trăm nghìn năm, tức là hết kiếp tăng đầu kiếp giảm, chuyển sang giai đoạn Hồng Bàng, và cứ 100 năm giảm xuống 1 tuổi, và giảm mãi xuống nhân loại con người tuổi thọ trung bình chỉ còn 30 nghìn tuổi, thời chuyển sang giai đoạn Hồng Chúa. Nhân loại con người tuổi thọ tiếp tục giảm xuống chỉ còn 10 nghìn tuổi, thời chuyển sang giai đoạn Hồng Đế, và giảm xuống tuổi thọ nhân loại trung bình chỉ còn 1 nghìn tuổi, thời đi vào giai đoạn cuối thời Hồng Đế, (giai đoạn Hồng Chúa, Hồng Đế, đều nằm trong niên đại Hồng Bàng). Giai đoạn cuối thời Hồng Đế kéo dài hàng chục nghìn năm. Đến thời Hồng Đế cuối cùng hạ sanh quí tử, khôi ngô tuấn tú, lớn lên thông minh, tài trí khác phàm, tên là Hồng Viêm, vì lúc Hồng Nương sắp sanh quý tử, liền thấy Thiên Thần đến lễ bái nói, Viêm Đế Thần Nông đầu thai xuống trần, mở ra thời đại mới, các Thiên Thần nói xong rồi biến mất. Hồng Nương sanh ra quý tử, Hồng Chúa liền đặt tên cho con là Hồng Viêm. Hồng Viêm càng lớn càng thông minh kỳ lạ, trở thành Nhà Bác Học nông nghiệp, đầu tiên của niên đại Hồng Bàng, có công tom góp những giống lúa hoang dại (hay còn gọi là cỏ Trời) mọc theo đầm lầy, giống ngô khoai hoang dại mọc nơi đồi rừng. Lai tạo ra nhiều giống lúa thuần chủng, giống ngô khoai thuần chủng, cho năng xuất cao. Mở ra thời đại mới, thời đại văn minh của nền lúa nước, nông nghiệp ngô khoai. Đem lại sự no cơm ấm áo cho con người. Khi lên ngôi thay cha Hồng Viêm đổi niên hiệu, từ niên hiệu Hồng Đế, chuyển sang niên hiệu VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG, Quốc Tổ VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG Truyền xuống được 5 đời, tới đời thứ năm Viêm Đế Thần Nông. Đế Nương, một hôm ngủ say trong giấc chiêm bao, thấy một con Rồng to lớn, bay tới gần bà rồi biến mất, sau đó thời mang thai. Đến ngày khai hoa nở nhị, thời trên bầu trời mây đen cuồn cuộn, hiện ra mây Rồng rồi mưa xuống một trận lớn, làm cho lúa ngô, khoai sắn, tươi tốt. Nên Viêm Đế Thần Nông đời thứ năm, đặt tên cho con là Đế Tôn Long Đế, Đế Tôn Long Đế, càng lớn càng khôi ngô tuấn tú, dũng mãnh phi thường, có sức mạnh dời non lấp biển, khai phá đất đai rộng mở, đem lại sự phồn thịnh no cơm ấm áo cho người dân, dân chúng sùng kính vô cùng, lực lãm không ai bằng, nên dân chúng thường gọi Đế Tôn Long Đế là Đức Sùng Lãm. Đế Tôn Long Đế, Đức Sùng Lãm, lên ngôi thay cha trị vì thiên hạ, liền đổi niên hiệu. Từ niên hiệu Viêm Đế Thần Nông, chuyển sang niên hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG, Quốc Tổ KINH DƯƠNG VƯƠNG, truyền xuống được chín đời. Đến đời Kinh Dương Vương, đời thứ 9. Sau một chuyến tuần du nơi động Đình Hồ Kinh Dương Vương gặp Thần Long Nữ, Bộ Lạc Long Giao. Kết duyên phu phụ, thành vợ thành chồng. Một hôm Thần Long Nữ trong lúc mơ màng thấy chốn nhân gian mây đen cuồn cuộn yêu tinh quỷ dữ đầy trời, nhân loại lầm than khốn đốn, mất đi quyền sống, quyền tự do, quyền công bằng, quyền bình đẳng, ngục tù cùng khắp, cực hình thê thảm vô cùng. Đang trong lúc kinh hoàng sợ hãi, thời thấy một vị Chí Tôn Thiên Đế xuất hiện, tay cầm Thiên Ấn, tay cầm Thiên Bút, Thiên Bút biến mất, Thiên Ấn hóa thành Gươm Thiên Trí Huệ, phát ra ba đạo hào quang. Mỗi lần Gươm Thiên Trí Huệ vung lên, tức thời hàng loạt tiếng sấm nổi lên, vô số mặt trời hiện ra, yêu, tinh, quỉ dữ liền tan biến hết, bóng đêm chẳng còn, trời quang mây tạnh, muôn hoa đua nở, mùa xuân phơi phới, thái bình an lạc. Thần Long Nữ đem việc thấy kỳ lạ đó kể cho Kinh Dương Vương nghe, từ đó Thần Long Nữ mang thai. Đến ngày khai hoa nở nhị, thời hoa lan khắp nơi đều nở rộ, hương thơm khắp cả nước non, cộng thêm với điềm chiêm bao của Thần Long Nữ, một đấng anh hùng cái thế, nên đặt tên cho con là Hùng Lan. Hùng Lan, lớn lên không những khôi ngô tuấn tú, mà Đạo Đức, trí huệ, có một không hai, có bốn Đức tính nổi bật mà ai cũng thấy, bốn Đức tính đó là Hùng – Bi – Trí – Đức, với bốn Đức tính nầy, tuy còn nhỏ nhưng đã vang danh thiên hạ. Khi Hùng Lan, lên ngôi trị vì thiên hạ thay cha, liền chuyển niên hiệu. Từ niên hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG. Chuyển sang niên hiệu HÙNG VƯƠNG, Niên đại HỒNG BÀNG, chuyển sang niên đại ÂU LẠC, đổi tên nước từ nước XÍCH QUỶ, thành nước VĂN LANG. Mở màng văn hóa Cội Nguồn ra đời, trở thành nền Quốc Đạo đầu tiên của nhân loại. Giai đoạn ĐỒNG BÀO, đoàn kết thống nhất, một 100 bộ lạc đều lấy chung một chữ VIỆT, gọi là Bách Việt, dân tộc Siêu Việt Anh Linh, nòi giống Rồng Tiên ra đời, nòi giống con Trời, thừa kế cơ nghiệp tạo hóa cha ông. Sau cuộc giao tranh với quân ÂU LẠC Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh, thua trận rút lui về phương Bắc bên kia sông Trường Giang, con gái của Đế Lai, là Đế Cơ Công Chúa, sắc nước hương trời, lại thêm pháp thuật thần thông cao cường, chăn tằm dệt vải đều thông giỏi, tài Đức, công – dung – ngôn – hạnh, có một không hai chốn nhân gian. Đế Cơ Công Chúa, phi ngựa qua sông Trường Giang thả mình vân du, lạc đến động Lăng Xương, xem hoa dạo cảnh. Tạo hóa xe duyên, gặp lúc Vua Hùng cũng đang vân du chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ, tạo hóa an bày hai người gặp nhau, rồi yêu nhau kết thành phu phụ, nên duyên chồng vợ. Về chung sống ở Phong Châu Nghĩa Lĩnh, Kinh Đô Văn Lang. Từ đó Nam Bắc sông Trường Giang, hai phương giao hòa Âu ca thịnh trị. Quốc Tổ Hùng Vương, cùng Quốc Mẫu ăn ở ít lâu, sanh con đẻ cái, lập trưởng nam kế tục ngôi Vương, truyền xuống được 23 đời, gọi đó là thượng Hùng Vương. Hùng Vương đời thứ 23 không con, nên nhường ngôi cho con của em, là cháu dòng thứ Hùng Cừ, truyền xuống được 18 đời, gọi đó là hạ Hùng Vương. Vua Hùng Vương thứ 18 có con trai nhưng chết yểu lúc còn nhỏ, thành ra không có con trai kế vị. Nên nhường ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn, (tức là Tản Viên). Thục Phán là cháu thứ của Vua Hùng, làm Lạc Tướng ở Bộ Tây Vu Ai Lao, đem quân về tranh ngôi, Vua Hùng sợ máu thịt anh em tương tàn, nên đành nhường ngôi lại cho Thục Phán. Tản Viên, là Chúa của núi rừng, dẫn theo Mị Nương công chúa Ngọc Hoa, về núi sanh sống. Khi Thục Phán lên ngôi Vương, thời niên đại Hùng Vương, kéo dài 2701 năm kết thúc. Thục Phán lên ngôi Vương, chuyển đổi niên hiệu Hùng Vương, thành niên hiệu An Dương Vương. Chuyển đổi tên nước Văn Lang, thành nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Trị vì thiên hạ trên dưới 50 năm kết thúc thời Âu Lạc 258 trước công nguyên. Kể từ đây con cháu Tiên Rồng, như đi trong đêm, dẫn đến nô lệ phương Bắc, nước Văn Lang chỉ còn có một phần, Nam Văn Lang, còn Trung Văn Lang Bắc Văn Lang, thời đã thuộc về phương Bắc, chỉ còn Nam Văn Lang mà sống cũng không yên, bị phương Bắc đô hộ xâm lược hết thời nầy sang thời khác, hầu nuốt trọn nước Văn Lang, nhưng nuốt mãi không được, vì Nam Văn Lang là đất Địa Linh, Địa Long Vũ Trụ, và kỳ tích xảy ra trên mảnh đất Địa Linh nầy.

Đây nói về trên tầng Trời thứ hai, Đông Nam Thiên Cung, có vị Thiên Đế Ngọc Long, đã từng đầu thai xuống trần, mở ra thời đại Kinh Dương Vương, khai lập lên nước Xích Quỷ. Giao Chỉ, QUỐC TỔ KINH DƯƠNG VƯƠNG. Quốc Tổ Kinh Dương Vương quy Tiên bỏ lại xác phàm về Trời ở Đông Nam Thiên Cung. Vì thương con dân nơi chốn trần gian, nên Quốc Tổ thường hiện về, dân chúng thường thấy trên bầu trời mây đen hình Rồng xuất hiện, thời những trận mưa trái mùa đổ xuống làm cho cây cối xanh tốt, ruộng nương trúng mùa. Những năm mây đen hình Rồng xuất hiện, là dân chúng no cơm ấm áo, chuyện kỳ lạ nầy thường xảy ra trên đất nước Văn Lang. Ở thời hạ Hùng Vương đời thứ 5, Hùng Hy Vương (Viên Lang) dân chúng thấy hồn Quốc Tổ Kinh Dương Vương hiện về, xuất hiện mây ông khổng lồ, dấu chân ông bước tới đâu là in đến đó. Đám mây hiện hình người khổng lồ to lớn đó, thường xuất hiện nhiều nhất trên đất Đổng, nên dân chúng gọi là ông Đổng, hồn Tổ Tiên hiện về. Có lần dân chúng thấy hồn Quốc Tổ Kinh Dương Vương, Long Đế Sùng Lãm, hiện về, hiện thành đám mây ông Đổng cao lớn vô cùng, đầu đội trời, chân đạp đất, cao hơn mười ngọn núi, chỉ trong một đêm mưa to gió lớn, ông cào đất thành ruộng, ông vun đất thành đồi, xẻ đất thành sông, bước chân ông dài từ đỉnh núi nầy sang đỉnh núi khác, dấu chân ông thủng cả đá, thủng cả đất, tiếng nói ông chính là sấm, mắt ông chớp lòa, phóng ra tia lửa, sét, hơi thở ông phun ra mây đen, gió bão và mưa dông. Linh Hồn Quốc Tổ, Long Đế Sùng Lãm thường xuất hiện trong những mùa hè nắng hạn, dân chúng cần nước, tưới cho ngô, khoai, lúa, đậu, ông đi lúc xoáy tròn, lúc đi thẳng, đi hết nơi nầy đến nơi khác, từ Đông sang Tây. Ngày nay vẫn còn thấy dấu chân Long Đế Sùng Lãm, còn in lại khắp nơi.

Nói về Long Đế Sùng Lãm, Quốc Tổ đang ngự tại cung Đông Nam Thiên ở trên Trời. Bỗng có một trận gió lạ, thời biết là Thiên Ý Cha Trời chỉ giáo điều gì, liền co tay bấm ấn, mở con mắt Thiên Nhãn nhìn xuống chốn nhân gian, thời thấy rõ nước Văn Lang đang lâm nạn, nguy cơ đến nơi. Khí số Văn Lang vẫn còn chưa mất, vẫn còn kéo dài hơn mấy trăm năm nữa. Liền triệu tập Thiên Tướng, nói rõ nguy cơ nước Văn Lang.

Long Đế nói:

Khí số Văn Lang còn dài hơn mấy trăm năm nữa, chúng ta hãy đầu thai xuống chốn trần gian, đánh lũ giặc Ân, đi ngược lại Ý Trời, làm hại đất nước Văn Lang.

Các Thiên Tướng mở con mắt Thiên Nhãn đều thấy rõ như thế, nguy cơ nước Văn Lang sắp mất đến nơi. Các Thiên Tướng cùng Long Đế, tức tốc xuất hồn ra khỏi thể xác kim thân, linh hồn bay xuống chốn trần gian đầu thai làm người phàm tục, đánh giặc Ân.
 

shopoga

✩✩

PHẦN 7: BÀY MƯU HIẾN KẾ

Đây nói về hai anh em Nguyên Dực và Nguyên Minh, thống lãnh 40 vạn quân, tiến về Bắc Văn Lang dẹp nội loạn nổi lên đòi tự trị làm hỗn loạn Bắc Văn Lang, cũng như chống trả lại quân xâm lược.

Khi 40 vạn quân chủ lực Văn Lang đến Vân Châu, thời chia làm hai lực lượng. Nguyên Dực thống lãnh 20 vạn quân tiến thẳng về Ninh Châu. Còn Nguyên Minh thống lãnh 20 vạn quân tiến thẳng về Hợp Châu.

Nói về Ninh Giao Châu, có Quan Châu Phủ Lạc Đại Vương, cùng các Quan trấn giữ Châu Thành. Ngày nào cũng có tin báo dập dồn khẩn cấp, quân Ân đã tiến đánh Kinh Giao Châu, tiêu diệt hơn một vạn quân Văn Lang ở Huyện Giao Trung, Lạc Đô Tướng bỏ mạng tại sa trường, và đã chiếm được thành Kinh Châu. Lạc Đại Vương cùng các Quan không khỏi kinh hãi, lo lắng cho số phận Ninh Châu, than rằng:

Chỉ lo chạy chọt Quan quyền

Ăn chơi phè phỡn đảo điên nước nhà

Đến khi có giặc can qua

Co đầu rụt cổ còn ra thống gì

Lòng dân đã mất chí nguy

Cơ đồ sự nghiệp khó mong vững bền.

Lạc Đại Vương, cùng các Quan đến bây giờ mới thấm thía. Dân là nước, nước ô nhiễm độc hại văn hóa phương Bắc, thời cá phải chết. Dân là gốc, nhưng gốc đã mục nát, dân tình trở nên loạn lạc, thời thân cành, nhánh lá Vương Quan cũng đi đời, nhưng tất cả đều đã muộn. Chỉ còn trông chờ cứu tinh xuất hiện, thời may ra vận nước mới thoát qua cơn hiểm họa nầy.

Lạc Đại Vương cùng các Quan chưa biết xoay trở bằng cách nào, chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Thời có quân vào báo:

Bẩm Đại Vương, quân chủ lực Văn Lang đã đến.

Lạc Đại Vương cùng các Quan mừng quá thốt lên:

Cứu tinh đã đến rồi.

Lạc Đại Vương hỏi:

Quân chủ lực đến đâu rồi?

Quân binh đáp:

Quân chủ lực còn cách đây vài ba dặm.

Lạc Đại Vương cùng các Quan ra khỏi thành tiếp đón quân chủ lực Văn Lang. Đi được hơn năm dặm thời thấy quân Văn Lang cờ xí rợp trời, gươm đao sáng giới, kỵ binh, xa binh, xạ binh, giáp binh, rầm rầm rộ rộ khói bụi mịt mù, khí thế hừng hực, thời lấy làm vui sướng, như người sắp chết đuối mà gặp Cứu Tinh. Đi đầu có rất nhiều Tướng lĩnh, mỗi người mỗi vẻ oai phong lẫm lẫm, có một Tướng lĩnh nổi trội hơn hết, mặt sáng như sao, vô cùng oai phong, đó là Tướng soái Nguyên Dực. Nguyên Dực thấy Lạc Đại Vương cùng các Quan đến tiếp đón mình, thời lấy làm vừa lòng.

Lạc Đại Vương cùng các Tướng đến ra mắt thi lễ chào hỏi nói rằng:

Hạ Quan nghinh tiếp hơi trễ xin Tướng Soái tha lỗi cho, Nguyên Dực thi lễ nói không sao không sao, miễn có ra đón là được rồi.

Lạc Đại Vương đi đầu dẫn đường gần đến Ninh Thành thời đại quân dừng lại đóng trại gần đó, cách Ninh Thành hơn dặm. Tướng Soái Nguyên Dực cùng các Tướng, được Lạc Đại Vương tiếp đón vào thành, thiết đãi trọng hậu, đàn ca múa hát, món ngon vật lạ, chẳng thiếu thứ chi.

Nguyên Dực thưởng thức các món ngon vật lạ khen:

Tiếng đồn quả không sai Bắc Văn Lang thứ gì cũng có, thảo nào quân giặc thèm khác lúc nào cũng muốn chiếm lấy Bắc Văn Lang.

Lạc Đại Vương nói:

Lời nói của Tướng Soái quả không sai, đây chỉ là đặc sản của vùng Ninh Châu nầy, còn những nơi khác phải nói là vô cùng phong phú, nhất là vùng lân cận Kinh Đô, thời phải nói là trù phú vô cùng, không có món ngon vật lạ hiếm quý nào mà không có, kể cả chim trĩ trắng, gà chín cựa, sâm nghìn năm, chồn hương chín đuôi, còn không biết bao nhiêu là món ngon hiếm quý nữa.

Tiệc đãi xong xuôi qua ngày hôm sau, Nguyên Dực cùng các Tướng nghe báo cáo tình hình Bắc Văn Lang, cũng như tình hình quân xâm lược. Lạc Đại Vương đọc bản báo cáo, trong bản báo cáo nói như sau:

Bẩm Tướng Soái. Tình hình Bắc Văn Lang vô cùng nghiêm trọng, không những nghiêm trọng về nội loạn, các Bộ Lạc Bách Việt nổi lên đòi tự trị, vì thế Bắc Văn Lang chia năm xẻ bảy tranh giành quyền lực dẫn đến thôn tính lẫn nhau, xưng Vua, xưng Chúa, từng vùng tự trị theo kiểu phương Bắc, chỉ cần vài trăm, vài nghìn nóc nhà cũng xưng Vua. Có thể nói văn hóa phương Bắc đã làm hại phương Nam chúng ta, tình thế nầy khó mà cứu vãn cho được, nghe nói văn hóa Văn Lang chúng ta đã mất gốc, lại không truyền xuống dân, chỉ truyền trong Vương Quan, thừa kế cơ nghiệp ông cha, nên dân chúng ít người được biết về văn hóa Cội Nguồn, nếu dân biết thời còn tai hại hơn nữa. Vì văn hóa Cội Nguồn không có sự độc tài, độc trị, chỉ lấy Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng trị Quốc mà thôi, phải nói không còn phù hợp với tình hình hiện nay, mà tình hình hiện nay là sống theo chế độ độc quyền, độc tài, độc trị, ý Vua là ý Trời, không ai dám cải, cải lại thời bị tru di tam tộc. Còn phương Bắc tru di cửu tộc. Thể chế độc quyền lần lần ăn sâu vào tâm hồn, không những Vua, Quan, như chúng tôi, mà còn ngay cả những người dân, không còn cách nào khác là thuận theo số phận mà thôi. Phương Nam chúng ta dần dần đi theo chiều hướng phương Bắc, nên mới có cảnh Bách Việt Văn Lang nổi lên đòi tự trị, theo xu thế phương Bắc, còn Nam Văn Lang thời chưa xảy ra điều đó, có lẽ là chưa ảnh hưởng gì văn hóa tự trị phương Bắc, nên chưa có sự nội loạn tình hình dân chúng phương Bắc Văn Lang là như thế. Còn về tình hình cấp bách hiện nay. Trước tình thế quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô, chúng càn qua Bắc Văn Lang như thác đổ, với một thời gian ngắn, chúng nuốt không biết bao nhiêu là Châu, Quận, Huyện, giết chết hơn mười mấy Vua Việt nổi lên đòi tự trị.

Nguyên Dực cắt ngang lời báo cáo nói:

Đây cũng là điều may cho chúng ta, ngoại xâm tiêu diệt nội loạn thay cho chúng ta, chúng ta không cần ra tay, kể như chúng ta đã thành công ở bước một.

Nguyên Dực nói:

Ông đọc tiếp đi.

Lạc Đại Vương với giọng rõ ràng đọc tiếp báo cáo rằng:

Theo tin tức báo cáo. Quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, chia làm ba mũi tấn công Bắc Văn Lang, quân Hồ đánh theo Tây Lộ, quân Hung Nô đánh theo Đông Lộ, quân Ân đánh theo Trung Lộ, trong ba thế lực ấy quân Ân là mạnh nhất. Tuy chia làm ba mũi nhưng chúng luôn luôn hỗ trợ cho nhau lúc cần thiết, vì thế chúng đánh chiếm các Châu Phủ một cách dễ dàng. Theo tin báo thời giặc Ân đang bao vây Kinh Đô, giặc Hung Nô đang đánh phá Xích Linh Châu. Quân Hồ đang đánh phá Kiến Châu. Quân Ân phong tỏa cắt đứt những huyết mạch các Châu Thành liên kết với Kinh Đô. Phải nói tình hình hết sức là nguy cấp nếu chúng chiếm được Kinh Đô, chiếm được Xích Linh Giao Châu, chiếm được Kinh Châu, thời coi như chúng chiếm được Bắc Văn Lang.

Đọc xong bản báo cáo. Lạc Đại Vương nói thêm:

Như tin dò thám được thời Kinh Châu đã thất thủ.

Nguyên Dực, cũng như các Tướng chủ lực quân Văn Lang nghe qua bản báo cáo như thế thời không khỏi lấy làm kinh hãi. Trước sức mạnh như vũ bão của quân xâm lược.

Đời sau thơ kể lại rằng:

Sức mạnh quân thù thật gớm ghê

Như cơn Hồng thủy cuộn tràn về

Thành trì sụp đổ trong chốc lát

Sanh Linh vùi dập thật thảm thê.

Đang lúc bàn về quân giặc, thời có quân thám báo về báo nói nhỏ với Lạc Đại Vương. Lạc Đại Vương nghe xong rồi dặn tiếp tục theo dõi động tỉnh của quân Ân.

Nguyên Dực hỏi:

Có chuyện gì thế có thể đem ra bàn được không?

Lạc Vương nói:

Có tin báo là quân Ân tiến đánh thành Ninh Châu chúng ta, tin rất chính xác.

Nguyên Dực hỏi:

Quân Ân chúng sẽ đi theo đường nào tiến đánh Ninh Châu chúng ta.

Lạc Đại Vương nói:

Kinh Châu đến Ninh Châu hơn 100 dặm qua sông, suối, đồi, gò cũng nhiều, đường đi qua nhiều khúc quanh rậm rạp. Theo nhận xét của Đại Vương tôi với khí thế mạnh như vũ bão của giặc thời giặc không sợ gì cả, đường nào gần nhất dễ đi nhất là chúng đi. Tôi tin chắc là quân Ân đi theo đường tắc dễ đi nhất, chỉ có một đoạn đường hiểm yếu, đó là chúng phải băng qua cánh đồng lớn, rồi đến đồi Vạn Lâm, đồi nầy kéo dài hơn 10 dặm cây cối rậm rạp, đồi Vạn Lâm cách đây gần 50 dặm, nếu chúng qua khỏi đồi Vạn Lâm thời không đầy một ngày đại binh chúng sẽ kéo đến, còn kỵ binh thì chỉ cần một ngày là đến nơi.

Nguyên Dực hỏi:

Quân binh trong thành nầy được bao nhiêu?

Lạc Đại Vương thưa:

Bẩm Tướng Soái hiện giờ hơn một vạn quân, phần nhiều do quân binh các Châu Phủ khác thua trận chạy đến đây.

Từ đầu đến cuối cuộc hợp, có một vị quan lúc nào cũng yên lặng đó là Hầu Thái Công tuy tuổi đã lớn nhưng được gọi là bậc mưu Thần bậc nhất ở Ninh Châu.

Đến lúc nầy Hầu Thái Công mới lên tiếng:

Chúng ta có thể tiêu diệt được giặc Ân ở đồi Vạn Lâm nầy. Chúng tiến qua đất Văn Lang, như tiến vào chỗ không người, đánh chiếm các Châu Thành một cách dễ dàng, vì thế chúng sẽ không coi quân lực Văn Lang vào đâu nữa, ung dung mà tiến qua đồi Vạn Lâm. Chúng sẽ cho quân mở đường đi trước, đó chưa phải là quân chủ lực, nếu có quân mai phục chận đánh, thời chúng tỏa ra bao vây đồi Vạn Lâm rồi tìm kế tiêu diệt chúng ta. Theo thời tiết hiện giờ thời ta không sợ hỏa công vì trời hay mưa, cây cối luôn ẩm ước, chúng ta có thể an tâm mà mai phục nơi đồi Vạn Lâm nầy, cứ để cho đội quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực loạt vào vòng vây là tấn công. Quân ta chủ động, quân giặc bị động, chỉ cần ba vạn quân lựa vào những chỗ hiểm yếu phục kích, lợi thế tấn công, cũng đánh tiêu mười vạn quân của chúng.



PHẦN 8: KINH CHÂU THẤT THỦ

Lại nói về quân Ân sau khi đánh bại quân Văn Lang ở Huyện Giao Trung, tiến tới bao vây Kinh Châu, kết hợp với quân Hồ, đánh chiếm Kinh Châu một cách dễ dàng, vì Kinh Châu chỉ còn có hơn năm nghìn quân, không phải là quân chủ lực, quân Ân, quân Hồ, chiếm Kinh Châu như lấy đồ trong túi, chẳng tốn bao nhiêu sức lực, quân Ân làm phép cuồng phong nổi lên, quân binh trong thành kinh hồn bạt vía, quân Ân làm phép yêu tinh quỉ dữ bay lên thành gào thét tấn công, quân binh hỗn loạn, quân Hồ leo tường nhanh như chớp, quân Ân phá cổng thành, chỉ trong chốc lát quân Ân, quân Hồ, tràn ngập vào thành. Kinh Châu thất thủ.

Vị tướng nữ thống lĩnh chỉ huy quân Ân là Sát Sát không những võ nghệ cao cường thần thông pháp thuật ít ai sánh nổi, mà còn đa mưu túc trí, ít ai bì kịp. Sát Sát là vợ chính của Ân Mao Vương, thống lãnh hơn 10 vạn quân tinh nhuệ, quân chủ lực, nhất là đội quân kỵ binh, đội quân xạ binh, di chuyển nhanh chóng lợi hại vô cùng, chiếm được thành Kinh Châu. Sát Sát báo tin thắng trận cho Ân Mao Vương, lên kế sách tiến đánh thành Ninh Châu, Sát Sát đang cùng các Tướng lĩnh bàn bạc lên phương án tiến đánh thành Ninh Châu.

Thời có một con yêu tinh vào báo:

Bẩm Nương Nương. Quân chủ lực Văn Lang đã đến Ninh Châu, quân binh đông như kiến, ước lượng trên dưới 20 vạn quân.

Tướng lĩnh quân Hồ là Hồ Nam Quân nói:

Chúng có 20 vạn quân chủ lực, hai lực lượng chúng ta kết hợp lại cũng trên 15 vạn quân, hơn kém bấy nhiêu thời có đáng gì, chỉ cần quân binh tinh nhuệ, tuy ít nhưng cũng chẳng kém gì nhiều.

Sát Sát trợn mắt nói:

Chúng kéo đến là may cho ta, khỏi mất công tìm chúng thanh toán.

Rồi ra lịnh cho Phong Yêu và Quỉ Yêu, tàn hình đến Ninh Châu xem chúng bàn những gì. Phong Yêu và Quỉ Yêu, bay lên không biến mất. Đây nói về Phong Yêu và Quỉ Yêu, được lệnh Nương Nương bay tốc hành đến Ninh Châu, ẩn mình vào thành nghe lén quân Văn Lang bàn những gì.

Nói về nguyên Dực, cùng các quan Tướng Ninh Châu bàn luận sôi nổi, về kế sách chuyến thuật tiêu diệt quân giặc, nào hay đâu có kẻ tàn hình ẩn núp gần đó nghe lén Hầu Thái Công hiến kế. Quân Ân thế nào cũng đi qua đồi Vạn Lâm. Chúng ta cho ba vạn quân mai phục những chỗ trong yếu nơi đây, để cho quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực tiến sâu vào ổ mai phục thời ra tay. Lại cho năm vạn quân nhanh chóng đi bọc về hướng Đông Bắc qua khỏi đồi Vạn Lâm hơn 10 dặm phục kích ở xa để cho quân giặc tiến sâu vào đồi Vạn Lâm thời mới duy chuyển quân binh chận đường rút lui của chúng mà đánh, còn đại quân của ta đi bọc về hướng Tây chận đứng đường tháo chạy của chúng, rồi tiến nhanh vào thành lấy lại thành Kinh Châu. Về vận chuyển lương thực thời do quân Ninh Châu đảm nhiệm, Tướng Soái Nguyên Dực, cho đây là kế sách hay, bằng thi hành theo kế sách nầy. Hai con quỉ nghe xong liền tức tốc bay trở về Kinh Châu báo cho Sát Sát Nương Nương biết.

Sau có thơ rằng:

Cơ mưu bại lộ nào có hay

Ra sức điều quân bố trận bày

Rồng cọp vô tình sa bẫy lưới

Vận nước còn đen khó đổi thay

Kế sách mưu Thần đánh giặc Ân

Nào hay bại lộ kế mưu hay

Tự mình dẫn xác vào chỗ chết

Trận địa vùi chôn thê thảm thay.

Trong binh pháp hai bên đánh nhau, nếu bên nào bại lộ cơ mưu, thời coi như đã bị thua, nói gì đến chiến thắng. Quân giặc tương kế, tựu kế, mà không hay biết gì cả, đến khi thất bại thời mới hổi ôi, chưa nói đến sự nghi ngờ lẫn nhau trong các Quan Tướng, làm suy giảm sức mạnh của chiến đấu, suy giảm sức mạnh của của thống nhất, hợp lực chống quân thù.

Nói về Sát Sát nắm bắt được thông tin bí mật của quân Văn Lang. Liền tức tốc hành động, đi trước một nước cờ điều khiển quân binh theo ý đồ của mình.

Sát Sát bàn với Hồ Man Quân:

Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân Hồ, đến Huyện Ninh Điền chọn nơi hiểm yếu phục kích, chờ cho quân Văn Lang đánh bọc hậu đi tới sa vào ổ phục kích là tấn công ngay.

Võ Vu, Tướng quân nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lãnh ba vạn quân, nhanh chóng đến đồi Vạn Lâm trước quân Văn Lang kéo đến phục kích. Khi quân Văn Lang đi sâu vào đồi Vạn Lâm, chưa kịp tản ra phục kích thời tiêu diệt ngay, làm cho chúng không kịp trở tay.

Hổ Tiên Tướng quân nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân dẫn theo năm nghìn kỵ binh nhanh chóng vượt qua hàng chục dặm đánh bọc hậu từ sau đánh tới, cướp lấy lương thực của chúng, cũng như chận đánh quân hoảng loạn tháo chạy quân Văn Lang.

Còn ta thời thống lãnh 8 vạn quân chận đánh quân chủ lực tại Tây Bắc Sơn Ninh Châu chận đánh quân chủ lực Văn Lang.
 

shopoga

✩✩

PHẦN 9: TRIỂN KHAI LỰC LƯỢNG

Đây nói về Nguyên Dực cùng các Tướng họp bàn kế sách chống giặc, thực hiện theo kế sách của. Hầu Thái Công, thông tin cuối cùng về quân giặc, không ngờ bị quân Ân đánh lừa thông tin, là quân Ân còn án binh bất động chưa tiến đánh Ninh Châu, nhưng thật ra quân Ân đã bí mật triển khai điều động quân binh rồi, vì sao quân Văn Lang lại không phát hiện được, vì dân chúng lúc nầy, hỗn loạn, lo tìm đường lánh nạn, tiến về Nam tránh quân xâm lược, nên quân Văn Lang khó phát hiện điều quân bí mật của quân Ân.

Được thông tin quân Ân vẫn án binh bất động, chưa triển khai lực lượng, tiến đánh Ninh Châu, Tướng Soái Nguyên Dực trở về doanh trại, điều khiển quân binh, theo kế sách đã dự định:

Hầu Tướng Quân nghe lịnh, có thuộc hạ, tướng quân thống lĩnh 5 vạn quân tức tốc lên đường trong đêm nay đến đồi Vạn Lâm theo sự chỉ dẫn quân Ninh Châu, trước khi trời sáng, để tránh tai mắt quân Ân phát hiện, phân bổ lực lượng những chỗ trong yếu phục kích kín đáo, để cho quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực đi sâu vào ổ phục kích rồi ra hiệu lịnh cho quân binh đồng loạt tấn công, tuân lịnh.

Việt Luân Tướng Quân, nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân thống lãnh 5 vạn quân bọc theo hướng Đông Bắc, đi trong đêm vượt qua khỏi đồi Vạn Lâm chừng hơn 15 dặm ẩn náu, không cho địch phát hiện, khi địch đi qua khỏi thời đưa quân đến chận đường rút lui, tiêu diệt chúng, tuân lịnh.

Bạch Tướng Quân nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân dẫn theo năm nghìn quân đi theo đoàn quân vận chuyển lương thực khi nghe có trận giao chiến thời thần tốc tiến về đồi Vạn Lâm trợ lực cho quân ta, tuân lịnh:

Chồn cáo thi nhau cướp giang sang

Mưu mô xảo quyệt mấy vạn ngàn

Hung tàn bạo ác ăn uống máu

Chúng dày, chúng xéo nát ruột gan

Dân lành khốn khổ biết bao

Chúng đâm chúng chém thây phơi khắp cùng

Ngoại xâm lũ giặc bạo tàn

Chúng vơ chúng vét xóm làng còn chi.

Đây nói về Tướng Soái Nguyên Minh, thống lãnh 20 vạn quân chủ lực từ Vân Châu tiền về Kinh Đô, Nam Kinh Xích Quỷ, đến Huyện Nam Giao thời thấy dân chúng thi nhau chạy giặc, một cảnh tượng vô cùng thê thảm.

Đời sau có kể lại rằng:

Chết đói đầy đường thê thảm thay

Cái lạnh trùm lên cắt thịt da

Kêu gào thê thảm con tìm mẹ

Đau buồn ức nghẹn con lạc cha.

Trong tình cảnh nầy, Quan Tướng Văn Lang đau xót vô cùng, nhìn cảnh mẹ dắt con mặt mày bơ phờ chạy theo đoàn người tỵ nạn, không biết bao nhiêu chết đói, những cảnh tượng khốn đốn ấy không ai là không căm phẫn quân thù xâm lược.

Vận nước suy do Nguồn Cội mất

Nạn khắp cùng khó thoát tai ương

Nghĩ đời càng nghĩ càng thương

Cũng vì lạc Cội ngoại xâm hoành hành

Gươm Trấn Quốc đâu còn biến mất

Nghĩa đồng bào tan nát loạn li

Truyền thống tốt đẹp quên đi

Làm sao tránh khỏi ngoại xâm quét càn

Lòng mê muội học đòi phương Bắc

Giặc chuyển xây họa khắp nước non

Mắt mưu gian kế Bắc phương

Dã tâm xâm lược còn chi nước nhà

Nền Văn Hiến tôn thờ gìn giữ

Thời lo chi lũ giặc ngoại xâm

Con đường dân chủ trống không

Độc tài phải chịu nát tan cơ đồ

Cây mất gốc héo cành héo ngọn

Sông không nguồn sông cạn sông khô

Mê lầm văn hóa ngoại ban

Hồn linh nô lệ còn chi giống nòi

Dân lạc Cội dân tình xơ xác

Nạn vần xoay chết chóc điêu linh

Chia năm xẻ bảy còn chi

Làm mồi cho giặc nuốt thời béo no

Mất truyền thống tan hoang nghiệp Tổ

Đời lệ nô bể khổ chất chồng

Mất Nguồn, mất Cội cha ông

Nước non, non nước, chất chồng nạn tai.

Nói về Tướng Soái Nguyên Minh cũng hiểu được phần nào tình hình Bắc Văn Lang, vì ảnh hưởng quá nhiều văn hóa, cầu cạnh, xin xăm, bói quẻ, nhập đồng, nhập bóng, đoán nầy, đoán kia, mê hoặc bởi yêu, tinh, ma, quỉ, ứng nhập vào, lung lạc, lòng mê muội của dân chúng, ứng quẻ, lời dạy bảo của thần linh, ông nầy làm Vua, bà kia làm Chúa, tin theo, làm theo, nổi lên đòi tự trị theo phương Bắc, chỉ cần vài trăm nóc nhà cũng xưng Vua, Vua nầy thôn tính Vua kia, Vua kia thôn tính Vua nọ làm rối loạn Bắc Văn Lang. Tạo ra thời cơ xâm lược những tay tham tàn bạo ác phương Bắc, hậu quả là không sao cứu vãn được. Tướng Soái, Nguyên Minh cho quân tạm dừng nghĩ, vì còn cách Kinh Đô không bao xa, cho người thám thính tình hình của giặc.

Không bao lâu thời quân thám thính về báo:

Quân Ân đóng dinh trại cách Kinh Đô không xa, chúng dựng lên một đài quan sát rất cao sáu bảy tần, để quan sát động tỉnh trên 20 dặm, có lẽ chúng đã thấy quân binh chúng ta đã tiến đến đây, nhưng không thấy chúng động tỉnh gì.

Nguyên Minh dừng quân nghỉ không bao lâu thời có quân vào báo:

Các Châu hỗ trợ quân binh tham chiến.

Nguyên Minh mừng rỡ hỏi:

Được bao nhiêu?

Quân binh bẩm báo:

Bẩm Tướng Soái, hơn năm vạn, các Châu Phủ còn hỗ trợ lương thực.

Nguyên Minh hết sức an tâm về cuộc chiến nầy. Nguyên Minh chưa biết phải đóng quân tại đâu, thời có người vào báo:

Có vị Đại Quan muốn gặp Tướng Soái.

Nguyên Minh hỏi:

Ông ta là ai?

Bỗng có người lên tiếng hỏi tiếp:

Có phải ông ta là Đa Kế không?

Vị Quan binh kinh ngạc nói:

Sao ngài biết.

Ông ta vui mừng trả lời:

Được người đó tới giúp thời lo gì không thắng được giặc Ân.

Đa Kế là vị Quan thanh liêm tinh thông Binh Pháp, thích sống ẩn dật, có lẽ không thể ngồi yên khi vận nước sắp rơi vào tay quân giặc. Vị Quan biết Đa Kế đó là ai vậy, còn ai vào đó nữa, chính là Lạc Hầu Công, từ Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ, vào Kinh Đô Văn Lang cầu cứu viện binh.

Nguyên Minh nghe Lạc Hầu Công khen ngợi người đó như thế liền cho mời vào. Nguyên Minh thấy Đa Kế là người dị tướng, biết ngay là người có tài hay, liền tiếp đón mời ngồi.

Nguyên Minh hỏi:

Nghe ngài tinh thông lục kinh lời đồn có đúng chăng?

Đa Kế khiêm tốn nói:

May mắn tôi có đọc qua, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Luân, ở vào thời đại đó mà biết nhiều hiểu rộng như vậy.

Quả đúng là dị nhân. Nguyên Minh hỏi:

Có kế sách gì chống trả lại quân Ân không?

Đa Kế bẩm:

Khoang nói đến chuyện đó vội, mà tìm nơi lợi thế để đóng quân, quân địch muốn đánh ta cũng khó. Theo tôi thấy Huyện An Giao, Huyện Long Giao là hai nơi đóng quân tốt nhất, một nơi gần quân Ân, một nơi xa quân Ân, ta chia hai lực lượng, hỗ trợ nhau liên kết bảo vệ nhau, không cho địch biết sức mạnh của ta, chúng ta hoạt động một mặt nổi một mặt chìm, một hành động bí mật, một hành động công khai, có như thế mới đánh thắng chúng được, hiệu quả chiến thắng quân thù, phần lớn là những kế sách bất ngờ, ai chủ động cuộc chiến người đó thắng.

Nguyên Minh bằng nghe theo kế sách của Đa Kế, chia hai lực lượng, một nửa âm thầm đến huyện An Giao, một nửa rầm rộ đến huyện Long Giao.

Nói về hơn 10 vạn quân rầm rộ kéo đến Huyện Long Giao, không xa doanh trại quân Ân là mấy, dựng doanh trại theo ngũ hành trận, Đông – Tây – Nam – Bắc – Trung Ương, lại cho dựng quan sát đài cao năm tần không thua kém gì quân Ân.

Họa nào hơn bằng họa xâm lược

Khổ nào hơn nước mất nhà tan

Buồn nào hơn nỗi buồn nô lệ

Cảnh ngục tù, đánh đập lầm thang.

Đây nói về quân Ân bao vây Kinh Đô hơn ba tháng, trong không thể ra ngoài không không thể vào, cắt đứt mọi thông tin liên lạc, lương thực cạn kiệt lần, theo tình hình nầy giặc không đánh cũng tự thua, đầu hàng cũng chết, không đầu hàng cũng chết, phải nói lúc nào cũng ngồi trên đống lửa, các Tướng không còn giữ bình tỉnh được nữa.

Lạc Cao Giang nói:

Con cháu Tiên Rồng có chết thời chết cho vinh quang, không thể chết đói, hay chết cúi đầu trước quân giặc được, để tôi ra giết chúng một trận cho đã tay rồi chết cũng được.

Hầu Việt Yên cũng nói:

Tôi cũng thế để tôi ra trận quyết một trận sanh tử với chúng, có chết cũng cam.

Trong lúc đắn đo suy nghĩ thời có quân trên thành vào báo:

Có lẽ quân cứu viện chủ lực quân Văn Lang đã đến, cách Kinh Thành không xa, về hướng Nam, đóng trại tại Huyện Long Giao.

Hùng Lang Công, cùng các Quan Tướng Kinh Thành, nghe tin nầy như cây chết héo lâu ngày gặp nước, như người chết đuối gặp phao, tất cả đều kéo lên Thành xem có đúng là sự thật không, quả đúng như vậy xa xa cờ xí quân Văn Lang rợp trời rợp đất. Hùng Lang Công cùng các Tướng như muốn ngặt thở trước tin vui nầy.

Các Tướng hét lên:

Chúng ta có quân cứu viện rồi, chuẩn bị tử chiến với quân xâm lược, vui sướng quá.

Luồng gió hồi sanh đã đến rồi

Lòng đầy vui sướng tận chân trời

Văn Lang chủ lực quân đã đến

Niềm tin chiến thắng dậy trong tôi.

Nói về quân Ân, bao vây Kinh Đô không đánh cũng thắng, đó là điều hiển nhiên không chối cãi vào đâu được, nếu không có quân chủ lực Văn Lang đến cứu. Ân Mao Vương cùng Nương Nương là Nghịch Phong, đang lên kế sách đánh chiếm luôn nước Văn Lang, không phải là Bắc Văn Lang nữa. Với mộng xâm lược, lòng tham vô bờ biến, chúng quá hiểu rõ nước Văn Lang vô cùng rộng lớn, chỉ cần một Châu cũng bằng một nước lớn ở phương Bắc, đất đai trù phú, nông sản, thủy sản, lâm sản, không làm gì cho hết, nhất là ngành đồng, thau, sắt, thép, không có một đất nước nào bằng, chỉ cần chiếm lấy được nước Văn Lang thời coi như đã đến cực đỉnh, của sự xưng hùng xưng bá, chỉ trong vòng mấy trăm năm mà dân số tăng lên đông không kém gì phương Bắc.

Ân Mao Vương, coi nước Văn Lang sắp thuộc về mình, thứ nhất là có quân Hồ, quân Hung Nô, thứ hai nước Văn Lang tình hình dân chúng bất mãn, lòng dân không bằng lòng cách cư xử Vương Quan đối với dân, bất hòa, dân không cùng chung chí hướng, bất ổn, dân tình luôn xáo trộn không yên, bất thường, dân chúng không lập trường, thường nghe lời xúi dục, bất trị không thể dạy dỗ theo ý của mình, dân chúng nổi lên đòi tự trị như đã thấy, bất đồng không cùng chí hướng, chia năm xẻ bảy, bất trắc, không lường trước được sự việc, có thể nói là bất lực trước tình hình của đất nước.

Đây chính là cơ hội cho ta thôn tính nước Văn Lang, đánh bại quân chủ lực Văn Lang. Ân Mao Vương, đang hứng chí với mộng bá Vương Chúa Tể của mình, thời có quân vào báo:

Bẩm Chúa Vương, quân thám báo đưa tin là quân chủ lực Văn Lang, từ Kinh Đô Văn Lang đã đến Huyện Nam Giao.

Ân Mao Vương tức thời triệu tập các Tướng Lĩnh xa gần trấn thủ khắp nơi, về hội họp bàn kế sách tiêu diệt quân Văn Lang, thông tin nhanh chóng được ban ra, không bao lâu thời các tướng lĩnh đến đầy đủ.

Mao Vương nói:

Quân Văn Lang đã tiến đến gần sát chúng ta, chỉ còn hơn bốn mươi dặm, hãy điều động toàn lực lượng bao vây tấn công chúng.

Hồ Ma can:

Chưa cần đánh vội như thế, tuy biết rằng quân chủ lực Văn Lang từ xa xôi hơn một nghìn mấy trăm dặm kéo đến đây, thời quân binh đã mỏi mệt, chận đánh là ưu thế thuộc về ta. Nhưng xét lại thời chưa hợp lẽ, vì quân Văn Lang phát xuất lên đường từ lâu, hơn cả tháng, nay chúng mới tới đây, chúng di chuyển quân đi rất chậm, luôn luôn củng cố sức mạnh của quân binh, như vậy chúng đã chuẩn bị trước sự tấn công của chúng ta, hơn nữa chúng ta chưa nắm bắt được lực lượng quân Văn Lang là bao nhiêu, chúng ta chỉ cần cũng cố lực lượng đối mặc với sự tấn công của quân Văn Lang.

Ân Vương nghe Hồ Ma nói cũng có lý liền theo kế sách của Hồ Ma. Không bao lâu thời có quân vào báo:

Quân Văn Lang duy chuyển rất nhanh, chúng đã kéo đến Huyện Long Giao cách chúng ta chỉ hơn 10 dặm.

Ân Mao Vương nói:

Chúng di chuyển nhanh đến thế sao?

Bằng ra lịnh cho các Tướng:

Chuẩn bị cho chiến đấu, tiếp tục theo dõi xem chúng tiến đánh nơi nào trước.

Đây nói về quân Văn Lang chia hai lực lượng một âm thầm tiến về huyện An Giao, đóng đô hạ trại bí mật, một kéo quân rầm rộ duy chuyển nhanh chóng về Huyện Long Giao, dựng trại đóng quân tại đây, bày binh bố trận đóng quân theo ngũ hành trận, xong đâu vào đấy khí thế dậy trời. Tướng Soái Nguyên Minh cùng các Tướng lên đài quan sát thấy dinh trại quân Ân đồn trú xa gần nhiều nơi, theo xa xa luân trận, chỉ cần tiến đánh một doanh trại, thời các doanh trại khác tiến đánh ngay, phải nói là lợi hại vô cùng, các Tướng lĩnh đứng trên đài quan sát, thấy một doanh trại rộng lớn gần Kinh Đô, có lẽ đây là tổng doanh trại chỉ huy, quân Ân, điều khiển quân binh. Các Tướng lĩnh Văn Lang ai nấy cũng háo hức ra trận, mở màn trận chiến.

Nguyên Minh, hộp bàn với các Tướng nói:

Cuộc chiến chúng ta là cuộc chiến lâu dài, khó mà thắng gấp được, vì quân Ân rất hùng mạnh, tùy thời cơ mà thắng nhanh hay chậm, đã giáp mặt với quân Ân là chúng ta đã đi vào quyết tử, đã vào trận thời một mất một còn, nhất là trận mở màn chỉ có thắng không được thua. Tướng Lĩnh nào ra trận trước đây?

Nguyên Minh hỏi các Tướng Lĩnh ai nấy cũng đều tranh nhau ra trận, không ai chịu nhường cho ai. Đa Kế thấy các Tướng Lĩnh tranh nhau không ai chịu nhường ai, bằng nghĩ ra một kế.

Đa Kế nói:

Lão Thần có một đề nghị, thôi thì bốc xăm vậy, ai bốc trúng người đó đi.

Tất cả Tướng Lĩnh đều nhất trí. Thế là cuộc bốc xăm diễn ra, trong xăm chỉ có một chữ xuất, ai bốc trúng thời người đó ra trận, gần 20 tướng lĩnh ai nấy đều bốc một xăm.

Cự Lân bốc xăm rồi mở ra xem, mừng rỡ reo lên:

Tôi bốc trúng rồi, tôi bốc trúng rồi.

Tướng Soái, Nguyên Minh tức thời ra lệnh:

Cự Lân nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân điểm 5 nghìn quân, khiêu chiến với quân Ân, tuân lịnh.

Trước khi ra quân Đa Kế dặn:

Thắng giặc nhờ cơ trí hơn là ở sức mạnh.

Cự Lân như hiểu ý làm ra vẻ yếu đuối. Đa Kế nói:

Chúng ta thắng trận đầu rồi.

Ai nấy cũng lấy làm kinh ngạc, cho lời nói nầy, chưa đánh mà biết thắng. Nói về Cự Lân điểm 5 nghìn quân binh, rồi truyền khẩu lệnh rằng:

Tử chiến ra trận thời coi như đã chết, lao tới quân thù mà tiêu diệt.

Hào khí Anh Linh đất phương Nam

Ung đúc hùng anh sắt dạ gan

Tung hoành ngang dọc trên sóng dữ

Bắt Cọp rượt Rồng dậy núi non.

Đây nói về Ân Mao Vương cùng các Tướng Lĩnh ở trên đài quan sát, thấy từ doanh trại quân Văn Lang đóng theo vị trí ngũ hành, từ nơi Trung Ương một đội quân kéo ra, dẫn đầu quân binh gồm có ba Tướng, trong đó có một Tướng là đáng chú ý hơn cả.

Hồ Ma nói:

Vị Tướng nầy không phải tầm thường đâu.

Các Tướng Lĩnh không chú ý đến lời nói của Hồ Ma, mà tỏ vẻ xem thường Tướng địch Văn Lang.

Có Tướng nói:

Văn Lang đã hết người rồi sao, chẳng thấy chút gì là oai phong cả.

Trong Tướng giặc Ân, có một Tướng nổi tiếng là vô cùng ngạo mạn không xem ai ra gì, và cũng chưa từng gặp đối thủ bao giờ, đã từng giết chết hơn vài chục Tướng, danh vang như sấm, người đó là ai, chính là Ngụy Đan.

Ngụy Đan thưa với Chúa Ân Vương rằng:

Để thần ra trận giết quách Tướng giặc Văn Lang kia làm giảm uy phong của chúng.

Ân Vương nói:

Phải thắng không được thua.

Ngụy Đan điểm 5 nghìn binh từ trại giặc Ân xông ra quát lớn:

Mau xưng tên họ về chầu âm phủ.

Cự Lân giục ngựa xông lên thét:

Ta là Cự Lân, mau khôn hồn đầu hàng, ta cho chết toàn thây.

Ngụy Đan hét lên như sấm:

Con chuột nhắt khua môi múa mỏ lớn lối xem đây.

Tức thời cây đại giáo nặng đến 80 cân múa lên vù vù thúc ngựa lao tới chém Cự Lân một giáo như trời giáng, Cự Lân không dám chống đỡ thúc ngựa né tránh, Ngụy Đan, chém hụt một đao, bằng hét lên một tiếng thúc nhựa lao tới chém liền mấy giáo như tia chớp. Trước sức mạnh kinh khiếp của địch, Cự Lân chỉ biết né tránh muốn hụt hơi.

Ngụy Đan dừng ngựa quát:

Ngươi chỉ có cái tài né tránh, sao gọi là anh hùng.

Cự Lân quát:

Lại ta sợ gì ngươi mà không chống trả.

Nói xong liền giục ngựa lao tới chém Ngụy Đan một đao. Ngụy Đan đưa giáo lên đỡ choang đinh tai nhức óc. Ngụy Đan thấy địch thủ không có gì là mạnh, thời tỏ vẻ coi thường, xông ngựa tới tấn công tới tấp. Cự Lân ra sức chống đỡ, hai bên đánh nhau hơn sáu mươi hiệp, vẫn chưa phân thắng bại, biết rằng Ngụy Đan luôn áp đảo Cự Lân. Ngụy Đan càng đánh càng tức giận, tưởng chừng như vài hiệp là hạ gục Cự Lân được ngay, nào hay đâu đánh hơn sáu mươi hiệp mà vẫn chưa hạ gục được Cự Lân, thử hỏi không tức sao được. Ngụy Đan vô cùng tức giận, thúc ngựa lao tới chém tới tấp, Cự Lân chống đỡ không nổi sắp bại đến nơi.

Thật là:

Một bên giáo chớp sáng ngời

Một bên đao pháp lạ đời cương nhu

Cự Lân càng đánh càng thua

Ngụy Đan càng đánh càng reo càng hò

Hai bên chiêng trống vang trời

Quyết cùng tiêu diệt tại thời nơi đây

Cự Lân sắp bại đến nơi

Ngụy Đan dồn dập giáo thời nổ vang

Âm ầm đất chuyển trời rung

Giáo, đao chơm chớp bịt bùng bủa vây

Cự Lân ra sức chuyển xây

Đường tơ kẽ tóc mạng vong tức thì

Ngụy Đan tỏ vẻ vui mừng

Con mồi sắp ngã tàn đời nát thây

Nào hay trận thế chuyển xây

Bất ngờ đảo lộn kinh thay bất ngờ.
 

shopoga

✩✩
Trên đài cao Ân Mao Vương kinh hải khi nghe tiếng thét như sấm của Cự Lân, thấy Cự Lân đang thế bại chuyển thành thế thắng, đang thế yếu trở thành thế mạnh. Trường đao chém tới như tia chớp ầm một tiếng đinh tai nhức óc.

Ngụy Đan cả người lẫn ngựa lảo đảo, chưa kịp lấy lại bình tỉnh, thời một tia chớp khác lại chém tới, Ngụy Đan tránh không kịp trúng một đao bỏ mạng. Quân Văn Lang thắng thế ào ào xông lên chém quân Ân tơi tả, thây phơi chật đất, kinh hồn bạt vía.

Trên đài cao Ân Mao Vương cùng các Tướng Lĩnh sửng sốt, không thể tin vào mắt mình. Ân Vương tức tối nói:

Có ai ra trận hạ gục tướng địch đó cho ta.

Một Tướng nữ lên tiếng nói:

Để thần ra trận hạ gục tên Tướng xảo quyệt đó, cho chúng biết thế nào là sức mạnh của quân ta.

Tên nữ Tướng đó là ai mà lớn lối như vậy, còn ai nữa tên là Chiên La nổi tiếng khắp vùng Tây Vu Hồ Ân. Chiên La điểm 3 nghìn quân nhanh chóng xông ra hét lớn:

Xem ta lấy đầu ngươi đây.

Nói xong thời giục ngựa lao tới. Bỗng có tiếng quát lanh lảnh:

Nữ tặc hỗn láo xem đây.

Tức thời một nữ Tướng xông ra chận đầu Chiên La chém tới một kiếm. Chiên La múa kiếm chống đỡ choang đinh tai nhức óc. Chiên La thấy Tướng nữ xông ra chận đánh mình tuổi còn trẻ mặt như trăng rằm, môi đỏ như son, cặp mắt như hồ thu long lanh sáng ngời, tuy là thân hình mảnh khảnh, nhưng không kém phần oai phong.

Tức giận thét:

Nữ tặc ngươi là ai mau xưng tên rồi chịu chết.

Tướng nữ xông ra chận đầu tiên la quát:

Ta là Khơ Lan, đưa ngươi về chầu âm phủ.

Khơ Lan, nhìn nữ Tướng giặc đoán tuổi cũng cở như mình, mặt hoa, da phấn, tuy có vẻ mảnh mai, nhưng không kém phần uy dũng, hai nữ Tướng gườm nhau, như nói với nhau rằng, gặp ta ngươi phải bỏ mạng.

Khơ Lan trợn mắt quát:

Mau xưng tên họ ta không giết kẻ vô danh.

Chiên La lại càng dữ tợn hơn nữa trợn mắt quát:

Ta là Chiên La, nghe cho rõ rồi đi chầu Diêm Vương.

Nói xong Chiên La thúc ngựa lao tới ra đòn, song kiếm chém tới kình phong tuông ra ù ù. Khơ Lan ra oai nào chịu kém quát lên một tiếng, múa kiếm lên chống đỡ. Lời thơ khen rằng.

Khơ Lan, nữ tướng anh hùng

Lên non bắc cọp, cỡi Rồng xưa nay

Đã từng đạp sóng cỡi mây

Ngư kình bỏ mạng nổi danh anh hùng.

Đường kiếm Khơ Lan, như Rồng bay Phụng múa, chém tới ầm ầm. Chiên La nào chịu kém, song kiếm trên tay như bão táp cuồng phong.

Về sau có thơ rằng.

Người đẹp dễ đâu phải tầm thường

Cỡi Rồng cỡi cọp múa đao thương

Tung hoành ngang dọc trên trận chiến

Dễ mấy đàn ông vượt trội hơn

Kia kìa cát bụi tung trời đất

Mưa đao, bão kiếm dậy núi non

Vang rền sấm nổ luôn không dứt

Người ngựa xáp chiến kiếm loáng loang

Chiên La càng đánh càng hay

Khơ Lan, càng đánh càng thêm càng tài

Cát bụi mịt mù rền vang tiếng thép

Chiêng, trống, dậy trời, trận chiến dậy non.

Chiên La, Khơ Lan đánh hơn trăm hiệp kẻ năm lạng, người nửa cân, không ai hơn ai. Ân Mao Vương thấy Tướng Văn Lang tài ba như vậy, không còn dám xem thường nữa, khó nắm chắc phần thắng, Ân Vương cho đánh trống thu quân.

Quân Văn Lang thấy thế cũng đánh trống thu quân, tức thời hai bên ngưng chiến, quân Văn Lang thắng trận, đem lại khí thế cho toàn quân Văn Lang.

Tưởng rằng đánh bại quân Nam

Nào hay thua trận, thở than đứng ngồi

Tướng Nam quả thật Tướng Trời

Khó mà tiêu diệt mộng thời vỡ tan.

Đây nói về quân Ân thua trận Ân Mao Vương vô cùng bực tức quát tháo ầm ĩ:

Chỉ mấy thằng nhóc con mà không tiêu diệt được, thời còn nói gì chiếm lấy nước Văn Lang, tức ôi là tức.

Thấy cha tức giận như vậy, Mao Lợi an ủi nói:

Để mai con ra trận lấy đầu chúng dâng lên Cha hả cơn giận.

Ân Mao Vương biết con mình tài ba hơn người, khó có ai địch lại, bằng ưng thuận gật đầu. Nói về quân Văn Lang thắng trận, rồi im bặt không thấy xuất quân, không hiểu là có chuyện gì, lên đài quan sát thấy doanh trại quân Văn Lang binh lính đi qua đi lại như đang tập luyện binh pháp, chiêng, trống, dậy trời. Đã qua bảy ngày vẫn không thấy quân Văn Lang đến khiêu chiến, cứ ở trong doanh trại đánh trống khua chiêng. Ân Mao Vương, lấy làm lạ chúng sợ gì mà không xuất quân khiêu chiến, khi Bắc Văn Lang quân ta chiếm cứ gần hết, sắp mất Bắc Văn Lang đến nơi.

Hồ Ma nói:

Chúng không tới khiêu chiến đánh chúng ta, thời chúng ta tới khiêu chiến đánh chúng. Đàng nào cũng phải tiêu diệt chúng, càng nhanh càng tốt, đi vào ổn định Bắc Văn Lang, rồi tiến đánh Trung Văn Lang, cuối cùng là thôn tính Nam Văn Lang.

Ân Mao Vương cho lời nói của Hồ Ma là phải, bằng theo kế sách đó mà thi hành. Ân Mao Vương cho mời Mao Lợi tới nói rằng:

Tướng Văn Lang khá lợi hại, con ra quân phải hết sức cẩn thận. Con nên chọn mấy danh Tướng tài giỏi theo con xung trận, dẫn quân tới doanh trại quân Văn Lang khiêu chiến.

Mao Lợi nói:

Con xin tuân lệnh.

Nói về Mao Lợi được lệnh khiêu chiến với quân Văn Lang, mặt hầm hầm đầy sát khí, chọn hai Tướng tài điểm 5 nghìn quân, hùng hùng, hổ hổ kéo đến trước doanh trại quân Văn Lang khiêu chiến, chửi bới om sòm:

Quân Văn Lang co đầu rụt cổ kia, nước Văn Lang sắp về tay ta, các ngươi chạy đâu cho thoát, mau ra quy hàng thời sống, chống lại thời gà chó cũng chẳng còn, thức thời hiểu thế mới là khôn.

Trên đài quan sát Tướng Soái, Nguyên Minh cùng các Tướng Lĩnh, nhìn thấy quân Ân tới khiêu chiến, chửi bới om sòm, nhịn không được nữa đòi xuất quân giao chiến, ở trên khán đài cao bảy tần.

Nguyên Minh quan sát ba Tướng Lĩnh của quân Ân, người nào người nấy uy dũng vô cùng, biết là ba Tướng tài, không dễ gì thắng được. Nguyên Minh chưa biết phải đề cử ai.

Đa Kế hiểu nỗi băn khoăn của Chủ Soái bằng nói:

Trong các Tướng Lĩnh ta không phải có một danh Tướng, con nhà danh gia Võ Tướng nổi tiếng nhiều đời, đời Tổ Tằng Tổ Cố, đã từng đánh bại quân Ân thời nhà Ân đó sao.

Nguyên Minh nói:

Có phải Lão Tướng gia nói đến hai anh em nhà Cao Vương phải không?

Đa Kế nói:

Phải. Cao Hải Đại Đô Tướng thống lãnh 10 vạn quân âm thầm lập doanh trại tại Huyện An Giao, còn Cao Sơn đang thống lãnh đại quân trọng yếu chủ lực ở đây. Cao Sơn ra trận nhất định thắng.

Nguyên Minh liền cho mời Cao Sơn đến nói rằng:

Quân Ân đã đến khiêu chiến, xét thấy khó có người thắng được chúng, nên điều Tướng quân ra trận. Cao Sơn vui vẻ nhận lệnh.

Nguyên Minh nói:

Tướng quân cần bao nhiêu quân binh thời điều động bấy nhiêu.

Cao Sơn điểm 5 nghìn quân binh mở cửa doanh trại xông ra. Cao Sơn là vị Tướng khác thường, luôn ẩn cái tài chỉ hiện cái Đức, nên được lòng quân binh Tướng Sĩ, ít ai nhận ra cái tài vô tận của người nầy. Đa Kế là người tinh tế, thấy Cao Sơn lúc nào cũng khiêm cung, không cho ai biết mình là có tài, ít tham gia góp ý kiến nhưng lại hết lòng tận tụy với quân binh. Có lúc Cao Sơn than rằng:

Nước non khó giữ được rồi

Cội Nguồn văn hóa không còn ngửa nghiêng

Văn Lang khó nổi bình yên

Dân tình loạn lạc còn chi sơn hà

Nhớ thời Quốc Tổ ông cha

Yêu tinh, quỉ dữ, khiếp kinh hãi hùng

Phương Nam hưng thịnh thái bình

No cơm ấm áo nở nhành Thiên hương

Bây giờ nước đổ non nghiêng

Ngoại xâm dày xéo đảo điên cõi bờ

Dân tình đói khổ ngục tù

Thân tàn nô lệ, nghẹn ngào thở than

Quân thù đánh đập dã man

Lê la vạn dặm xác phơi dọc đường

Ôi thôi lũ giặc bạo tàn

Yêu tinh quỉ dữ quét càn hại dân

Cội Nguồn văn hóa nơi đâu

Sao không xuất hiện cứu dân buổi nầy

Hiển Linh Quốc Đạo chuyển xây

Mới mong diệt hết lũ bầy sói lang.

Nói về Cao Sơn nhận ấn lệnh, điểm 5 nghìn quân mở cửa doanh trại xông ra hét lớn:

Lũ quân xâm lược kia, khôn hồn thời ra khỏi đất phương Nam, thời còn mạng sống, bằng không tất cả đều vùi chôn nơi đây.

Tướng giặc Ân phi ngựa tới quát tháo lớn lối nói:

Chúa Vương ta muốn là Trời muốn, không ai cản được, đất Văn Lang sẽ thuộc về Chúa Vương ta. Quy thuận Chúa Vương ta thời sống, chống lại Chúa Vương ta thời chết.

Cao Sơn không nói không rằng phi ngựa tới chém Tướng giặc một đao như trời giáng, bộ mặt dữ tợn của Tướng giặc nào chịu thua, múa giáo chống trả, choang, đinh tai nhức óc. Cao Sơn võ nghệ cao cường bay lên khỏi mình ngựa với thế Chim Điêu Bắt Rắn, từ trên không lao xuống ánh đao chớp chớp kinh hồn, Tướng giặc ra sức múa đao lên đỡ, ầm ầm kinh thiên động địa.

Cao Sơn với pháp Lưu Thủy Hành Vân, lượng mình bay trở về mình ngựa, nhanh như chớp thúc ngựa lao tới đánh chiêu Ngọa Hổ Tiên Du, kình phong ầm ầm cuộn tới. Tướng giặc kinh khiếp chưa từng thấy đao pháp nào lợi hại như vậy. Ánh đao như mưa sa bão táp, hết chiêu nầy tới chiêu khác liên miên bất tận. Tướng giặc đờ muốn hụt hơi, mới có 20 hiệp tướng giặc đã ê ẩm cả tay.

Về sau có thơ khen rằng:

Bản sơ hào khí nhất phương Nam

Đao pháp múa lên sấm nổ vang

Đã từng chém chết yêu, tinh, quỉ

Tung hoành ngang dọc cả Bắc Nam.

Cao Sơn hét lên một tiếng như sấm nổ, đường đao chơm chớp giật lưng trời. Tướng giặc kinh hoàng khiếp vía la lớn:

Tuyệt Thế Ma Đao.

Dở hết sức bình sanh chống trả, đùng đùng ầm ầm, một tiếng rú thê thảm Tướng giặc bỏ mạng tại sa trường. Nói về Tướng giặc đứng gần Mao Lợi thấy Tây Đô sắp mất mạng liền phi ngựa vào cứu Tây Đô, nhưng đã muộn Tây Đô hồn du địa phủ. Tướng giặc mới lao ra cứu Tây Đô chính là Tào Hổ. Tào Hổ gầm lên như quỉ dữ, múa giáo chém tới ầm ầm kình phong tuôn ra ù ù cát bay đá chạy. Cao Sơn múa đao chống đỡ, choang, choang, đinh tai nhức óc. Tào Hổ liền dở tuyệt chiêu Kim Tiền Vượt Thác đường giáo kỳ ảo không biết đâu mà lường. Cao Sơn dùng chiêu Ô Long Cổn Địa chống trả ầm ầm long trời lở đất. Cao Sơn không bỏ lỡ dịp may đánh luôn ba chưởng, Tào Hổ múa giáo chống đỡ, đùng đùng ầm ầm dậy núi dậy non, hai bên đánh nhau trên bốn mươi hiệp.

Cao Sơn hét lớn, thúc ngựa lao tới tay phải ra chiêu Long Hổ Xuất Du, tay trái ra chiêu Xuyên Chỉ Triệt Ma ánh đao chớp chớp, chỉ phong véo véo. Tào Hổ ra sức chống đỡ chiêu đao, liền bị trúng ngay một chỉ, muốn nhào xuống ngựa, nhanh như tia chớp Cao Sơn lao tới chém một đao, chết không kịp ngáp.

Về sau có thơ khen rằng:

Phương Nam nào dễ hết anh hùng

Dời non lấp biển đất trời rung

Đường đao chơm chớp muôn vạn dặm

Khiếp vía kinh hồn giặc cáo chung.

Nói về Mao Lợi thấy Tào Hổ lâm nguy liền phi ngựa ra cứu vãn, nhưng không còn kịp nữa Tào Hổ hồn lìa khỏi xác bỏ mạng sa trường.

Mao Lợi thấy chết liền hai Tướng sôi gan hét lớn:

Nộp mạng đây.

Liền thúc ngựa lao tới chém như mưa trút, Cao Sơn chống đỡ muốn hụt hơi. Đúng là kỳ phùng địch thủ, kẻ năm lạng, người nửa cân, hai bên đánh nhau long trời lở đất, đao qua giáo lại ầm ầm đùng đùng dậy núi dậy non, đá chạy, cát bay, mịt mù trời đất, choang, choang, đinh tai nhức óc. Quả là trận chiến kinh thiên động địa, đánh hơn ba mươi hiệp, Mao Lợi muốn giết ngay địch thủ bằng niệm chú thổi ra một luồng âm phong. Cao Sơn kinh hãi bỏ chạy, Mao Lợi rượt theo, bỗng Cao Sơn biến mất, Mao Lợi kinh hãi, không biết Cao Sơn ở đâu thời liền trúng ngay một chỉ, té nhào xuống ngựa. Cao Sơn lao tới chém một đao chết tốt.

Về sau có thơ khen rằng:

Mấy đời danh Tướng tiếng hùng anh

Tung hoành trận địa đánh giặc Ân

Đường đao tuyệt thế xơi ba Tướng

Rền vang danh tánh rạng trời xanh.

Nói về Cao Sơn chém chết Mao Lợi thời nghe trên không có tiếng quát, kèm theo tia chớp đánh xuống. Cao Sơn thất kinh né tránh, đùng đùng đùng hiện ra ba cái hố lớn. Cao Sơn thấy người đánh mình là một thiếu phụ xinh đẹp, mặt đầy sát khí, người thiếu phụ ấy là ai thế, còn ai nữa vợ hai của Ân Mao Vương, mẹ của Mao Lợi.

Nói về Nghịch Phong mẹ của Mao Lợi thấy con mình lâm nguy liền bay xuống cỡi con thiên lý mã bay tới trận địa nhưng không còn kịp nữa, Mao Lợi đã trúng một đao bỏ mạng. Nghịch Phong quyết giết chết Cao Sơn trả thù cho con không ngờ Cao Sơn tránh được. Nghịch Phong còn ở trên không hóa phép, trời đất tối mù tối mịt, yêu tinh quỉ dữ hiện ra đầy trời, xông tới chém giết quân Văn Lang.

Cao Sơn ra sức chống lại yêu tinh quỉ dữ, trận chiến xảy ra vô cùng ác liệt, cuồng phong càng lúc càng mạnh, quân Văn Lang ngã rạp, yêu tinh chém giết tơi bời. Cao Sơn phóng ngựa thoát thân.

Nhưng tiếng quát lanh lảnh:

Chạy đâu cho thoát.

Tức thời một luồng tia sáng ập đến, Cao Sơn múa đao chống đỡ, ầm ầm khủng khiếp, trước thần lực kinh hồn của nữ Tướng giặc. Cao Sơn chống trả hơn mười chiêu, thời trúng ngay một kiếm bỏ mạng.

Giết chết Cao Sơn, Nghịch Phong thu phép tức thời trời quang mây tạnh, yêu tinh quỉ dữ biến mất, quân Văn Lang chết sạch không còn một người.

Trên quan sát đài Nguyên Minh cùng các Tướng kinh hồn bạt vía. Đa Kế thở dài nói:

Không ngờ giặc Ân có Tướng nữ tài ba như vậy.

Nguyên Minh cùng các Tướng đem xác Cao Sơn về doanh trại, tẩm liệm cho người đưa về quê an táng.

Nói về Nghịch Phong giết chết Cao Sơn, tiêu diệt năm nghìn quân Văn Lang, ôm xác con bay về trại, Ân Mao Vương tức giận râu tóc dựng đứng, ra lệnh cho các Tướng Lĩnh về hộp, quyết một trận với quân Văn Lang. Cùng lúc ấy quân Hung Nô tấn công thành Xích Linh, chúng bắt hơn ba vạn dân Văn Lang, vận chuyển dầu, cây, dây, thang, lá chắn, những dụng cụ công phá thành, ở các Châu Phủ, chúng đã chiếm đóng, vận chuyển hết đến thành Xích Linh, mở ra trận đánh công phá thành quy mô, chiếm được thành Xích Linh coi như chiếm được Đông Bắc Văn Lang.
 

shopoga

✩✩

PHẦN 10: ĐẠI PHÁ QUÂN HUNG NÔ

Đây nói về quân Xích Linh, vừa lọt vào tầm ngắm của quân xâm lược. Tức thời hai bên đường cây cối rậm rạp tên bắn ra như mưa.

Lạc Hồng thất kinh la lớn:

Có quân mai phục, có quân mai phục. Lui quân, lui quân, lui quân mau.

Trong tình thế tên giặc bắn ra xối xả. Quân Xích Linh lui ra khỏi đồi Vạn Linh chết chóc thương vong rất lớn. Tàn quân lui về thành Xích Linh trong tình cảnh vô cùng thê thảm, tả tơi chết chóc hơn phân nửa.

Mới hay cuộc sống trên đời

Lầm than khốn khổ bởi gì ngoại xâm.

Họa nầy chưa hết thời họa khác đã kéo đến, quân Hung Nô từ các ngã kéo đến bao vây Xích Linh Giao Châu. Nhìn quân Hung Nô bao vây trùng trùng điệp điệp.

Lạc Hầu Vương than rằng:

Mất đi văn hóa Cội Nguồn là mất đi tất cả, lệ thuộc nô lệ văn hóa phương Bắc, thời đại họa giáng xuống không sao tránh khỏi. Tinh thần dân chúng bị mê hoặc bởi văn hóa phi nghĩa xâm lược của ngoại lai, làm cho Bắc Văn Lang tan rã sự đoàn kết, chia năm, xẻ bảy, nổi lên đòi tự trị, theo văn hóa đấu tranh, tranh giành quyền lực, nồi da nấu thịt ở phương Bắc, thời làm sao tránh khỏi ngoại bang thôn tính.

Nói về quân hung nô từ các ngã kéo đến đông như kiến bao vây thành Xích Linh. Sau ba ngày thời quân Hung Nô tấn công thành Xích Linh, nhờ lực lượng yêu tinh, quỉ dữ hỗ trợ. Nhờ kế sách của Lạc Kim Tiên, quân Hung Nô ý đồ tấn công đã thất bại vì yêu tinh, quỉ dữ chúng khiếp sợ uy linh Quốc Tổ. Hung Nô Vương là tay hung tàn bạo ác chúng không dễ gì chịu thua, bằng trăm phương nghìn kế, chiếm lấy cho được Xích Linh Giao Châu.

Quân Hung Nô là quân hung tàn bạo ác, không có việc ác nào mà chúng không làm, chúng bắt dân chúng Bắc Văn Lang, cũng như tù binh Văn Lang có hơn ba vạn người, đày đọa không khác gì sống trong địa ngục. Chúng bắt dân chúng khuân vác dụng cụ, vận chuyển thang giây, vận chuyển dầu, vận chuyển cây, vận chuyển đá, vận chuyển những vật dễ cháy, từ các Châu, Quận, Huyện, chúng đã chiếm lấy được, vận chuyển cả ngày lẫn đêm, đến Xích Linh để chúng công phá thành.

Lạc Hầu Vương cùng các Quan nhìn thấy quân Hung Nô vận chuyển dụng cụ công phá thành càng lúc càng nhiều, thời vô cùng kinh hãi. Trong lúc lo sợ thời có chim bồ câu đưa thơ từ Huyện An Giao gởi tới. Nội dung thơ như sau: Quân chủ lực đã đến An Giao, cho người đến gặp Đô Tướng, người báo Ngô Việt. Lạc Hầu Vương thấy hai chữ Ngô Việt liền tin tưởng hết sức mừng rỡ, liền cho người theo đường bí mật đến An Giao.

Không thể ngồi yên khi quân thù xâm lược

Không thể ngồi yên khi nước non loạn lạc

Hãy đứng lên, nào hiệp lực chung tay cứu nước

Giành lại quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc

Quyền mưu sanh, quyền độc lập, quyền tự do.

Đây nói về Đô Tướng Cao Hải, theo lịnh Tướng Soái Nguyên Minh, thống lãnh 10 vạn quân âm thầm đến Huyện An Giao, âm thầm dựng trại đóng đô ở đó, tùy cơ ứng biến triệt phá quân giặc. Cao Hải là người không những văn võ song toàn, mà cơ trí cũng hơn hẳn người, luôn luôn cho người nắm bắt thông tin, chính xác thành lập đội quân thám báo thiện nghệ, hoạt động rộng khắp. Nên hiểu rõ cánh quân Long Giao đã thắng trận, lại hiểu rõ quân Hung Nô đang ráo riết chuẩn bị tấn công Xích Linh Châu bằng gọi bố chính Ngô Việt, Huyện An Giao đến, dùng chim bồ câu đặc biệt gởi thư cho Lạc Hầu Vương.

Cao Hải cùng các quan Tướng đang bàn kế sách đánh quân Hung Nô, thời có thám báo vào báo:

Bẩm Đô Tướng quân, có người từ thành Xích Linh tới.

Cao Hải nói:

Cho mời vào.

Cao Hải nhìn người mới đến thời nhận ra ngay, không phải là quân binh bình thường, mà là một Đại Tướng quân cơ trí hơn người, bằng thi lễ mời ngồi. Người làm nhiệm vụ quan trọng bí mật kia là ai thế, còn ai nữa nếu không phải Đinh Hoàng tướng quân thời ai đảm nhiệm trong trách nầy. Đinh Hoàng tướng quân đã từng nghe tiếng hai anh em nhà danh gia Cao Hải, Cao Sơn. Đúng là danh bất hư truyền. Cao Hải tướng người uy nghiêm, hai con mắt sáng ngời, trầm lặng khác thường, đúng là mẫu người có tài cơ trí hơn người.

Đinh Hoàng thi lễ nói:

Đinh Hoàng tôi được lệnh ký thác của Lạc Hầu Gia, đến đây bàn kế sách triệt phá quân Hung Nô.

Hai bên thi lễ khách sáo xong rồi đi ngay vào vấn đề chính. Đinh Hoàng thông báo tình hình quân Hung Nô xong. Rồi nói rằng:

Theo tình hình nhận biết của tôi, thời nội trong ngày mai chúng tấn công phá thành.

Cao Hải hỏi:

Tướng quân từ thành Xích Linh đến đây dọc đường có thấy quân Hung Nô mai phục không? Nếu có chúng phòng bị thế nào?

Đinh Hoàng nói:

Quân Hung Nô chiếm lĩnh các Châu Huyện một cách dễ dàng, sanh ra cao ngạo, xem quân binh Văn Lang không vào đâu. Nên sự đề phòng không cao độ, trên đường từ Xích Linh đến đây không thấy quân Hung Nô mai phục, quân Hung Nô rất mạnh về kỵ binh, chúng duy chuyển rất nhanh, chỉ trong vòng một giờ, chúng duy chuyển hơn mấy mươi dặm, muốn tiêu diệt hết chúng không phải dễ. Hiện giờ chúng tập trung lực lượng cao độ tấn công thành, nên không mấy chú trọng quân Văn Lang tấn công, vì chúng nghĩ quân Văn Lang chỉ là quân nhỏ lẻ, hiện đang trấn giữ các Châu thành, nên không còn cơ hội để tấn công chúng.

Cao Hải hỏi:

Chúng ta có thể chịu đựng được mấy ngày công phá thành của chúng.

Đinh Hoàng nói:

Tuy thành Xích Linh là thành trì kiên cố, có lợi thế phòng thủ cao, nhưng trước sức mạnh của quân Hung Nô, nếu khéo điều binh khiển Tướng, kết hợp toàn lực lượng dân chúng trong thành, có thể cầm cự hơn mười ngày.

Cao Hải nói:

Chỉ cần cầm cự ba ngày là đủ. Quân Hung Nô tính khí hung bạo, chúng tấn công ba ngày hao binh tổn Tướng, mà chưa chiếm được thành, chúng sẽ nổi điên lên tấn công luôn cả đêm, đến đêm thứ ba quân hung nô ráo riết công phá thành khi thấy Nam trại, Tây trại, Đông trại quân Hung Nô bị cháy, quân Hung Nô rối loạn, thời mở cổng thành ùa ra tiêu diệt chúng, chúng ta quyết tử với chúng một trận, còn mất thắng thua nầy.

Hai bên bàn bạc xong đâu vào đấy, màn đêm buông xuống, Đinh Hoàng dùng thuật kinh công đi trong đêm như một bóng ma, với quân binh Hung Nô không có sự cảnh giác cao, nên Đinh Hoàng qua mặt chúng một cách dễ dàng, theo con đường bí mật trở về thành Xích Linh.

Nước non gặp lúc nguy nan

Vẫn còn những kẻ hiếu trung sáng ngời

Kể gì sống chết cuộc đời

Ngày đêm ra sức chống thời ngoại xâm.

Đây nói về Hung Nô Vương, cùng hai người con là Hung Đa Di, Hung Quân Liệt mỗi người con thống lãnh 10 vạn quân. Hung Nô Vương thống lãnh 12 vạn quân ồ ạt xâm chiếm Đông Bắc Văn Lang, thế mạnh như chẻ tre, cuồn cuộn như nước lũ tràn tới, tràn tới đâu cuốn sạch tới đó. Những bộ lạc Bách Việt Văn Lang, ảnh hưởng văn hóa phương Bắc, chỉ cần vài trăm, vài nghìn nóc nhà cũng nổi lên xưng Vua Chúa đòi tự trị, làm rối loạn tình hình Bắc Văn Lang, chia năm xẻ bảy, sức mạnh đoàn kết toàn dân không còn nữa, như một bó đũa đã rời từng cây. Chính người dân Bắc Văn Lang đã mở ra trang sử suy tàn, mở đường cho các thế lực ngoại ban, có cơ hội xâm lược Bắc Văn Lang. Quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, thấy thời cơ đã đến chúng làm gì bỏ qua cơ hội, liền kéo quân xâm lược Bắc Văn Lang, thế mạnh như cuồng phong vũ bão. Những bộ lạc, tự mình đánh mất truyền thống Anh Linh, Đại Nam Văn Lang con cháu Tiên Rồng, chạy theo văn hóa phương Bắc, học đòi theo văn hóa phương Bắc, chỉ cần vài trăm, vài nghìn nóc nhà, cũng nổi lên xưng Vua, xưng Chúa, đòi tự trị, bị quân Hung Nô quét sạch, như quét rác, không mấy khó khăn, những Vua Việt nổi lên đòi tự trị chết thê chết thảm.

Sau có thơ rằng:

Ôi những kẻ lầm đường lạc lối

Lạc tâm hồn vào lối yêu ma

Tự mình rước giặc vào tha

Chúng đâm, chúng chém, chúng xơi sạch sành.

Chỉ còn thành Xích Linh, khí thế con Rồng cháu Tiên, luôn vang dội dòng máu hùng anh. Quân Hung Nô hiểu rõ chỉ cần chiếm được thành Xích Linh, thời coi như chiếm lĩnh hầu hết Đông Bắc Văn Lang, còn mấy Châu thành phía Nam Xích Linh là những Châu thành nhỏ, trục lợi giao thương không như thành Xích Linh, phải nói thành Xích Linh là trung tâm giao thương các Châu thành Đông Bắc Văn Lang, dân chúng nơi Xích Linh Giao Châu giàu có vô cùng, không những về ngành thủy sản, hải sản, nông sản, lâm sản, mà ngành giao thương, đa ngành buôn bán cũng vô cùng tấp nập, miếng mồi béo bở thèm muốn của quân Hung Nô, nên chúng quyết tâm chiếm cho được Xích Linh Giao Châu. Quân Hung Nô sau khi quét sạch, những ông Vua Việt nổi lên đòi tự trị, như giết một con chó. Rồi từ Tây Bắc, Bắc, Đông Bắc, địa phận Đông Bắc Văn Lang, chúng chia làm ba mũi chính, như ba con đỉa khổng lồ quơ cái vòi hút máu, từ ba hướng lao nhanh tới thành Xích Linh, bao vây chận nghẹt ba cổng chính trong bất xuất, ngoại bất nhập, hầu cô lập, nếu không đầu hàng thời chết lần chết mòn, cuối cùng cũng phải dâng thành cho chúng. Chúng chận nghẹt ba cổng chính, Nam cổng, Bắc cổng, Tây cổng, chúng quyết chiếm cho được thành Xích Linh, nên đóng đô lập doanh trại cách ba cổng thành không xa. Tây trại do Hung Đa Di, thống lãnh chỉ huy. Nam trại do Hung Nô Vương, thống lãnh chỉ huy. Bắc trại do Hung Quân Liệt, thống lãnh chỉ huy. Chúng bắt dân chúng Văn Lang hơn ba vạn người làm nô lệ vận chuyển dụng cụ công phá thành. Sau những ngày chửng bị đầy đủ, không chần chờ gì thêm nữa chúng ra lịnh tấn công, chúng tấn công ngay trong đêm thứ ba, những kế sách bị thất bại, và chúng chuyển sang tấn công bằng ngày.

Trời thức giấc ôi mây mù trắng xóa

Gió lạnh về như lan tỏa vào tim

Mây lững lờ như buồn bã mông mênh

Một cái chết đang gần kề trước mắt

Những linh hồn âm phủ đã gọi tên.

Quân Hung Nô bắt đầu chuyển động, tiếng tù thúc quân vang dậy cả non sông, chúng ào ào hò hét thi nhau lao tới cung thành.

Nghe tù trận hụ lên vang dội

Như báo rằng chiến trận đến nơi

Kia kìa ác quỉ hò reo

Ào ào nhanh chóng leo lên cung thành

Chúng thét gào rền trời rền đất

Như đòi hồn ăn nuốt kinh Thiên

Nối đuôi chen lấn leo lên

Vạn nghìn con chuột khiếp kinh bạc hồn.

Quân Hung Nô như hàng vạn con chuột ào ào leo lên tường, bên dưới có quân xạ tiễn bắn như mưa yểm trợ.

Đây nói về Lạc Hầu Vương, cùng các Quan nóng lòng chờ đợi, bỗng từ đường hầm bí mật xuất hiện một bóng người. Lạc Hầu Vương cùng các Tướng nhận ra ngay Đinh Hoàng, ai nấy đều vui mừng hớn hở. Đinh Hoàng nhanh chóng thuật lại tất cả những gì mình đã thấy, rồi lấy ra một bức thơ, do Cao Hải gởi nói lên những cơ mật tiêu diệt quân Hung Nô.

Nội dung thơ như sau: Tất cả quân binh trong thành, ra sức chống trả đến ngày thứ ba, theo tính khí hung hãn của quân Hung Nô, thời chúng sẽ tấn công cả ngày lẫn đêm, từ đêm thứ ba trở lên. Khi trên thành thấy ba doanh trại của quân Hung Nô bị bốc lửa, thời mở cổng thành xông ra tử chiến với chúng, thắng hay thua cũng chỉ trong một trận đánh nầy. Lạc Hầu Vương cùng các Quan bàn bạc chiến thuật phòng thủ suốt ngày cả đêm, hầu tìm ra giải pháp tốt nhất. Quân dân thành Xích Linh đồng một lòng chống trả đến cùng, chuẩn bị cho tử chiến lên đến tột đỉnh. Trên thành quân dân nhìn thấy quân Hung Nô chửng bị tấn công, đều đồng loạt cầu nguyện Anh Linh Quốc Tổ phù hộ. Nhờ thế mà tinh thần quân dân bình tĩnh lạ lùng, để cho quân Hung Nô leo lên hơn nữa thành, thời trống chiêng nổi lên quyết tử.

Thế là lao giáo như mưa

Lửa, dầu, đổ xuống khiếp kinh bạc hồn

Cây, đá, ném xuống ầm ầm

Hung Nô bỏ mạng rồi đời lớp lang

Đất trời rung chuyển rền vang

Hung Nô phơi xác chết thôi kể gì

Ba ngày ra sức công thành

Cũng không chiếm được quân thù lộn gan

Hung Nô gào thét dậy non

Đêm về trận chiến càng thêm kinh hoàng

Bỗng đâu lửa dậy đùng đùng

Vang trời ngựa hí khắp cùng thiên la

Hung Nô doanh trại cháy tiêu

Binh trời ập tới bao vây trong ngoài

Hung Nô khiếp vía kinh hồn

Quân binh rối loạn dập dồn đạp nhau

Cổng thành đã mở toan ra

Quân binh lũ lượt xông ra chém nhàu

Hung Nô ngã rạp tơi bời

Mở đường tẩu thoát hãi hùng khiếp kinh.
 

shopoga

✩✩
Đây nói về Hung Nô Vương, Hung Đa Di, Hung Quân Liệt vì xem thường tinh thần chiến đấu quân dân thành Xích Linh. Nên chuẩn bị không chu đáo, ỷ đông chỉ cần tấn công là chiếm được thành, không ngờ quân Văn Lang phòng thủ vững chắc. Quân Hung Nô chết như rạ, tấn công liền ba ngày đi tiêu hơn ba vạn quân, mà vẫn không chiếm được thành, điên tiết dồn quân tấn công luôn cả ngày lẫn đêm. Nhờ sự hỗ trợ của yêu tinh ma quỷ chúng làm cho trời đất tối tăm mù mịt, nhưng chúng không vào được trong thành, nên không gây ra sự rối loạn trong quân binh. Đang lúc hăng say tấn công, bỗng thấy lửa đỏ dậy trời, ba doanh trại Hung Nô bị bốc cháy.

Hung Nô Vương, Hung Đa Di, Hung Quân Liệt kinh hãi la lên:

Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

Bỗng nghe ngựa hí vang trời quân reo dậy đất, Hung Nô Vương hét lớn:

Chúng ta bị quân Văn Lang chiếm lấy doanh trại, cũng như bao vây chúng ta, mau phá vòng vây lui quân.

Cùng trong lúc ấy các cửa thành mở toan, quân binh ùa ra chém giết dữ dội. Hung Nô Vương, Hung Đa Di, Hung Quân Liệt khiếp vía, không biết địch ở nơi nào nhiều hay ít, chỉ nghe ngựa hí vang trời quân reo dậy đất, chiêng trống ầm ầm làm khiếp nhược tinh thần quân Hung Nô. Quân Hung Nô dẫm đạp lên nhau chạy toán loạn.

Nói về Hung Đa Di dẫn bại quân phá vòng vây, ùa nhau chạy về phía Tây Bắc, thời nghe tên bắn xối xả như mưa, đội kỵ binh nhanh chóng vượt lên, thời nghe một tiếng quát long trời lở đất:

Chạy đâu cho thoát.

Tức thời tướng lĩnh quân Văn Lang múa đao chém tới Hung Đa Di, Hung Đa Di múa giáo chống đỡ rồi quày ngựa bỏ chạy, gặp phải quân phục kích, Hung Đa Di không còn tinh thần chiến đấu, thúc ngựa chạy thoát về hướng Bắc, quân Văn Lang không rượt đuổi vì chỉ có hơn năm trăm quân.

Sau có thơ rằng:

Văn lang con cháu Tiên Rồng

Anh hùng gan dạ lẫy lừng muôn thu

Đánh cho khiếp vía ngoại xâm

Đánh cho hổ báo vùi chôn trận tiền

Đánh cho quân giặc đảo điên

Thây phơi rợp đất, xác phơi đầy đồng

Vốn loài ăn cướp non sông

Tàn đời lũ giặc vùi chôn tàn đời.

Đây nói về Hung Quân Liệt kinh hồn bạt vía chưa biết chạy về hướng nào, thời nghe tiếng quát lanh lảnh:

Chạy đâu cho thoát.

Múa kiếm thúc ngựa lao vào chém Hung Quân Liệt, Hung Quân Liệt múa giáo chống trả.

Bỗng có tiếng quát như sấm:

Để thằng giặc nầy cho tôi.

Đinh Hoàng múa thương đâm tới vèo vèo, Hung Quân Liệt ra sức chống trả, bỗng có tiếng nói quân gia chạy theo lối nầy, Hung Quân Liệt còn tinh thần đâu mà chiến đấu, đành thúc ngựa đào tẩu.

Bỗng có tiếng quát:

Chạy đâu cho thoát.

Tức thời một người xuất hiện trường đao chém tới ầm ầm, Hung Quân Liệt kinh hãi:

Tướng Văn Lang ở đâu mà đông thế.

Ráng thúc ngựa chạy dài, quân Văn Lang tha hồ mà chém mà giết.

Đây nói về Hung Nô Vương trong lòng chưa hết kinh hãi:

Không hiểu quân Văn Lang ở đâu tới mà đông đến thế? Không lẽ từ trên trời rơi xuống? Từ dưới đất chui lên?

Hung Nô Vương phá vòng vây chạy về hướng Tây. Bỗng một tiếng quát như sấm nổ:

Ta chờ ngươi đã lâu mau nộp mạng đi.

Tức thời thanh trường đao như sấm sét đánh tới, tướng Hung Nô Vương đưa lao lên chống đỡ ầm ầm đùng đùng, vị Tướng Văn Lang nào để cho Tướng Hung Nô kịp trở tay, thanh trường đao như tia chớp chém tới Tướng Hung Nô tránh không kịp trúng một đao ngã gục. Hung Nô Vương lấy làm kinh khiếp, liền hóa phép nổi lên một trận cuồng phong mù trời mịt đất, phá vòng vây chạy trốn thoát, người Tướng Văn Lang kia là ai làm cho Hung Nô Vương khiếp vía như vậy, người đó chính là Đô Đại Tướng Cao Hải.

Đây nói về Đại Đô Tướng quân Cao Hải, sau khi thảo luận cùng Đinh Hoàng, những khó khăn cùng thuận lợi, những gì cần làm ngay, tất cả đều lên phương án cẩn mật cho trận tiêu diệt quân Hung Nô. Sau khi Đinh Hoàng đi rồi, Cao Hải cùng các Tướng Lĩnh với một quyết tâm cao, quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, không hổ danh là con Rồng cháu Tiên.

Sau có thơ khen rằng:

Từ thuở cha ông thuở Hồng Hoang

Anh Linh truyền xuống nước Văn Lang

Tiên Rồng nòi giống uy Linh ấy

Khí phách hùng anh ngút mây ngàn

Truyền thống Anh Linh rền trời đất

Quân thù cướp nước mộng tiêu tan

Phương Nam rền mãi lòng bất khuất

Trung, hiếu, trải lòng khắp nước non.

Cao Hải nói:

Chúng ta là con cháu Tiên Rồng, luôn luôn thừa kế những gì ông cha để lại. Bổn phận làm con cháu như chúng ta, phải hết lòng bảo vệ non sông Tổ Quốc, không để mất đi một tất đất, dù phải hy sinh tính mạng. Giặc Ân, giặc Hung Nô, giặc Hồ, chúng là loài yêu tinh, quỹ dữ, chuyên hút máu người, và luôn có dã tâm xâm lược đất chúng ta, chúng đã tràn qua, cướp của giết người, bắt dân ta làm nô lệ, ăn thịt trẻ con, hảm hiếp con gái, đàn bà, phụ nữ, vơ vét của cải, con gà con chó chúng chẳng tha, dân chúng khiếp sợ trốn chạy, bệnh tật, đói, rét, chết khắp nẻo đường, cha mất con, vợ mất chồng, mối thù xâm lược nầy chúng ta bắt chúng phải trả, chúng đã dẫm chân lên quê hương tổ quốc chúng ta, thời chúng không còn cơ hội để mà trở về, thân xác của chúng phải đổ xuống làm phân cho đất phương Nam. Chúng ta không thể đứng nhìn mà phải chiến đấu thật anh dũng. Chiến đấu quên mình, chiến đấu vì muôn dân, chiến đấu vì non sông tổ quốc. Đã ra quân thời quyết tử, các tướng nói theo đã ra quân thời quyết tử, đã ra quân thời quyết tử.

Cao Hải ra lịnh:

Bố Chính Ngô Việt, nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân dẫn 5 nghìn quân, tấn công vào Nam doanh trại của quân Hung Nô, đi ngay trong đêm nay, âm thầm lặng lẽ khi trời sáng thời cho quân ẩn núp thật kín đáo, cách xa doanh trại chúng chừng khoảng 20 dặm, không cho chúng phát hiện ra chúng ta, chờ đêm xuống chúng ta duy chuyển quân nhanh chóng, bất ngờ tấn công vào Nam doanh trại của chúng, tiêu diệt sạch, đốt sạch, tiến quân ra bao vây tiêu diệt quân Hung Nô, tuân lịnh.

Phan Thanh Hải, nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân dẫn 5 nghìn quân tấn công vào Tây doanh trại quân Hung Nô, đi ngay trong đêm nay, âm thầm lặng lẽ khi trời sáng thời cho quân ẩn núp thật khéo léo kín đáo, phải đảm bảo an toàn bí mật cách xa doanh trại chừng 20 dặm chờ đêm xuống chúng ta duy chuyển quân nhanh chóng bất ngờ tấn công vào doanh trại tiêu diệt gọn đốt sạch, rồi kéo quân phục kích đường mòn chận đánh đường rút lui của chúng, tuân lịnh.

Trương Việt Hàn, nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân dẫn theo 5 nghìn quân, bí mật đi đường vòng bọc xuống phía Đông, vượt qua địa giới thành Xích Linh, khi trời sáng thời cho quân ẩn núp kín đáo, cách xa doanh trại chừng 20 dặm không cho chúng phát hiện ra chúng ta, đêm xuống thời duy chuyển quân nhanh chóng bất ngờ tấn công vào Bắc doanh trại quân Hung Nô, tiêu diệt sạch, đốt sạch, rồi kéo quân ra phục kích những đường mòn tiêu diệt quân hỗn loạn tháo chạy của chúng, tuân lịnh.

Ngô Việt Tiên nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lãnh 2 vạn quân, từ phía tây đánh xuống phía sau lưng địch, dồn chúng vào chân tường thành Xích Linh, tha hồ mà chém giết, tuân lịnh.

Nguyên Hạo Hạo nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lãnh 2 vạn quân từ phía Đông đánh thọc lên, bao vây tiêu diệt chúng, tuân lịnh.

Còn ta thống lãnh 3 vạn quân từ phía Nam sau lưng chúng đánh tới. Nói về các Tướng Lĩnh sau khi nhận lịnh âm thầm lặng lẽ triển khai lực lượng, di chuyển trong đêm, theo kế hoạch đã dự định, quân Hung Nô không hề hay biết gì cả, chờ đêm xuống là đồng loạt tấn công.

Đây nói về quân Hung Nô chỉ lo tập trung lực lượng công phá thành, vì chưa nắm bắt được thông tin quân chủ lực Văn Lang đã đến, nên không có sự đề phòng, quân Văn Lang lại vô cùng bí mật di chuyển. Quân Hung Nô công phá thành ba ngày mà không chiếm được, lại hao quân tổn tướng rất nhiều, đi tiêu ba vạn, Hung Nô Vương sôi gan, hộp hai con cùng các Tướng lĩnh, bàn kế sách chiếm cho được thành Xích Linh nội trong một đêm một ngày.

Hung Đa Di nói:

Hãy huy động toàn lực lượng thang giây, và nhiều phương tiện công phá thành khác, dồn hết tấn công vào đêm nay, sáng mai là chiếm lấy thành Xích Linh.

Hung Quân Liệt nói:

Hãy triệu yêu tinh, quỉ dữ đến làm phép yểm trợ cho quân ta, làm cho mù trời mù đất chúng không thấy được quân ta, chúng ta mới ồ ạt xông lên chiếm lấy thành nhanh chóng.

Hung Nô Vương khen:

Con nói phải.

Thế là trong đêm hôm đó quân Hung Nô dốc toàn lực lượng, công thành có sự yểm trợ của yêu tinh quỉ dữ. Ánh dương quang đã chìm lần trong đêm tối. Tiếng rỉ rả côn trùng, tiếng rì rào của gió, mãi rì rầm than thở liên miên, giọt sương còn chưa tượng hình thành. Thời bầu trời bỗng nhiên đen ngòm, tối mù tối mịt, đèn đuốc trên thành tắt ngúm hết thảy. Quân Hung Nô ào ào leo lên thành như nước tràn lên đê, trong đêm tối quân Xích Linh chém lớp nầy chúng ào lên lớp khác, không còn cách gì chống trả lại nổi. Trong tình thế nguy cấp cấp ấy.

Thời thấy ba doanh trại quân Hung Nô bốc cháy ngùn ngụt, lửa đỏ rực cả bầu trời, quân reo dậy đất, cùng lúc ấy cuồng phong mây đen cũng tan biến hết, quân Hung Nô khiếp hoảng khi nghe tiếng tù rút quân bỏ chạy, bị quân Xích Linh chém, bắn, xối xả chết la liệt, nằm dày trên mặt thành. Thấy quân Hung Nô rối loạn không leo lên tường thành nữa, theo còi lịnh quân Xích Linh mở cổng thành lao ra chém quân Hung Nô như chém chuối.

Về sau có thơ rằng:

Tiếng quân reo dậy trời dậy đất

Chiêng, trống rền khiếp vía Hung Nô

Đùng đùng đao kiếm như mưa

Ầm ầm trận địa khiếp kinh hãi hùng

Giặc Hung Nô bịt bùng gươm giáo

Đạp lên nhau chạy tháo, chạy chui

Tên bay, lao, giáo, khắp nơi

Hung Nô bỏ mạng ôi thôi khắp cùng

Một trận chiến lẫy lừng sông núi

Quân Hung Nô khiếp vía hồn kinh

Tiên Rồng nào phải dễ xơi

Tàn đời xâm lược ôi thôi tàn đời

Cờ đại nghĩa ngời ngời chiến thắng

Quân Hung Nô phơi xác như non

Đáng đời lũ giặc ngoại xâm

Đáng đời lũ giặc vùi chôn đáng đời.

Nói về quân Hung Nô bại trận chạy sống chạy chết khi không còn thấy quân Văn Lang rượt đuổi nữa, thời mới cho quân dừng nghĩ.

Hung Nô Vương than vắng thở dài:

Quân Văn Lang là quân Trời, mới lợi hại như vậy.

Điểm lại quân binh thời chết hơn phân nửa, Hung Nô Vương cứ than thở mãi. Bỗng thấy quân binh lao tới, Hung Nô Vương kinh hãi, tưởng là quân Văn Lang đuổi theo, chừng khi nhìn kỷ thời không phải, đó là tàn quân của Hung Đa Di, và quân của Hung Quân Liệt, cha con gặp nhau than thở không thôi.

Hung Quân Liệt, nói:

Không hiểu quân Văn Lang ở đâu ra mà đông đến thế, chạy chỗ nào cũng gặp phải quân Văn Lang.

Thật ra quân Văn Lang chỉ có 10 vạn mà thôi, chỉ khéo chủ động, bày binh bố trận, làm cho quân địch hoang mang khiếp sợ, cứ tưởng như hàng mấy mươi vạn quân. Trong chiến tranh, kẻ nào nắm chủ động, về tâm lý, chủ động về bày binh bố trận, chủ động về trận chiến, chủ động đường tiến lui, hiểu rõ về quân địch, mà địch chẳng hiểu rõ gì về mình, chủ động trong mọi tình huống, chủ động trong mọi thời cơ. Thời coi như phần thắng đã thuộc về mình, quân Hung Nô có hơn 30 vạn quân chỉ thua một trận mà đi tiêu hơn phân nửa, giờ chỉ còn, không đầy 15 vạn quân, Hung Nô Vương mất hết ý chí xâm lược.

Hai người con Hung Nô thấy vậy liền khuyên:

Còn nước còn tác củng cố lại lực lượng hợp với quân Ân, tiêu diệt quân Văn Lang.

Hung Nô Vương như có tia sáng liền cho người thám thính quân Ân thắng bại ra sao rồi hể tính.
 

shopoga

✩✩

PHẦN 11: BẠI LỘ CƠ MƯU

Đây nói về tình hình chiến sự Ninh Giao Châu, Lạc Đại Vương, Hầu Thái Công, Nguyên Dực, cùng các Tướng Lĩnh, bàn bạc đưa ra nhiều giải pháp ưu việt nhất, hiệu quả nhất, tiêu diệt quân Ân, quân Hồ.

Nào hay trong lúc bàn bạc, có hai con yêu tinh ẩn mình nghe lén, những cơ mật binh pháp, đây là một tổn thất lớn, có thể nói ván cờ đã bại lộ, đưa đến thất bại mà không hay biết gì cả. Sát Sát nương nương là tay xảo quyệt, nắm bắt tất cả cơ mật thông tin của quân Văn Lang, nhưng làm ra như mình không hay biết, quân binh không động đậy gì cả. Nhưng thật ra Sát Sát đã triển khai quân binh hết rồi, Tướng soái Nguyên Dực, nắm bắt được thông tin cuối cùng là quân Ân chưa xuất binh.

Nguyên Dực cùng các Tướng rời khỏi thành Ninh Châu trở về doanh trại, triển khai lực lượng, điều động quân binh, theo kế sách đã thống nhất chung, chia quân làm ba đạo quân Một đạo quân đến đồi Vạn Lâm phục kích. Một đạo quân bọc về hướng Đông vượt qua đồi Vạn Lâm, đánh bọc sau lưng chận đường rút lui của giặc. Một đạo quân chủ lực bọc về hướng Tây vượt qua khỏi đồi Vạn Lâm, chận đứng đường tháo chạy quân Ân, rồi tiến thẳng chiếm lại thành Kinh Châu, khí thế ra quân với niềm tin chiến thắng.

Nói về Hầu Tướng Quân, theo lịnh của chủ soái Nguyên Dực, thống lãnh 5 vạn quân tức tốc lên đường trong đêm tối, đến đồi Vạn Lâm phục kích, trước khi trời sáng hầu tránh tai mắt quân Ân phát hiện. Khi đạo quân đến gần đồi Vạn Lâm, thời thấy âm khí nặng nề, sương rơi lớp lớp, cơn gió âm u như mang đầy sự chết chóc, hầu Tướng quân bỗng rùng mình như linh cảm có chuyện không may.

Số mệnh huyền cơ Trời đã định

Văn Lang tai nạn bởi nghiệp xưa

Hồn giặc phiêu phiêu trong gió bụi

Che chở giặc Ân hóa gió mưa.

Đồi Vạn Lâm cây cối rậm rạp, sương mù dày đặc, che chắn cả tầm nhìn. Sao mai đã mọc, nhưng màn đêm vẫn còn u tối, đại quân vừa tiến vào đồi Vạn Lâm.

Thời có tiếng nói:

Hầu Tướng Quân sao tôi linh cảm như có điều không may, chúng ta không nên tiến sâu vào đồi Vạn Lâm, hãy cho người thám thính thử xem.

Người vừa lên tiếng đó chính là nữ Tướng quân, Chăm Ly, Nữ Tướng tài năng quân Văn Lang. Hầu Tướng Quân, nghe Chăm Ly nói cũng phải, liền cho người đi sâu vào đồi Vạn Lâm thám thính.

Quân thám thính xong rồi trở ra báo:

Bẩm tướng quân ngoài sương mù dày đặc ra, thời không có động tịnh gì cả.

Hầu Tướng Quân nghe báo cáo như thế thời hơi an tâm. Đạo quân tiến sâu vào đồi Vạn Lâm, cả một khu đồi rộng lớn như thế, mà yên tĩnh lạ lùng.

Chăm Ly nói:

Theo kinh nghiệm của tôi, đáng lý ra giờ nầy thời nhiều loài chim đã thức giấc, chúng ríu ra ríu rít, nhiều loài thú đã đi ăn, nhưng đồi Vạn Lâm nầy cây cối vô cùng rậm rạp thế mà im tiếng lặng hơi.

Hầu Tướng Quân cũng thấy nghi nghi:

Nhưng đã kéo quân vào không lẽ lui quân trở ra, có lẽ chúng ta đa nghi quá cũng nên.

Thế là đạo quân vẫn tiếp tục tiến sâu vào đồi Vạn Lâm, đường sá quanh co rậm rạp, nhưng không có việc gì xảy ra, đồi rừng vẫn im lặng, một sự im lặng kỳ lạ vô cùng, khi đạo quân đã vào hết đồi Vạn Lâm.

Hầu Tướng Quân mới thở phào nhẹ nhõm nói:

Chúng ta đa nghi quá. Nào có thấy gì đâu?

Hầu Tướng Quân ra lệnh:

Hãy tìm nơi ẩn núp.

Lúc bấy giờ sương chưa tan vẫn còn che chắn tầm nhìn, trên vài mươi thước thời không thấy gì cả, huống chi là rừng rậm. Bỗng nghe tiếng tù khai trận nổi lên inh ỏi. Hầu Tướng Quân kinh hồn bạt vía.

Chăm Ly thét lớn:

Có quân mai phục.

Hầu Tướng Quân ra lệnh:

Rút lui, rút lui.

Quân binh tức thời hỗn loạn, dồn ép nhau thậm chí đạp lên nhau mà chạy, hai bên đường tên bắn ra như mưa trút, quân Văn Lang càng thêm hoảng loạn, bị trúng tên chết vô số kể.

Hầu Tướng Quân thét lớn:

Phá vòng vây rút lui.

Nhưng quân Ân đã tràn ra, chém giết quân Văn Lang, biết không còn rút lui được nữa.

Chăm Ly thét lên:

Lấy lại bình tỉnh, xông vào quyết tử với quân thù, tiến lên, tiến lên, tử chiến tử chiến.

Thế là quân binh bình tỉnh xông vào quyết tử với giặc Ân, trận chiến xảy ra long trời lở đất.

Sau có thơ khen rằng:

Tìm cái sống trong đường tơ kẽ tóc

Chí hùng anh lớp lớp xông lên

Dù ngã xuống nhưng linh hồn bất tử

Hãy tiến lên nào ta hãy tiến lên.

Quân Ân không ngờ quân Văn Lang anh dũng như vậy, anh dũng chống trả quyết liệt, lớp nầy ngã xuống lớp khác xông lên. Nữ Tướng Chăm Ly như con Phụng Hoàng tung bay trên đầu bầy sói, đường gươm như mưa sa bão táp, chém xối xả xuống quân thù, quân Ân rơi đầu lớp lớp.

Về sau có thơ khen rằng:

Nữ tướng tài cao được mấy người

Đường gươm vun vút chém quân thù

Thây người ngã gục ôi kinh khiếp

Anh linh hào kiệt rạng muôn thu.

Chăm Ly vừa chém quân thù vừa gào thét:

Tướng quân phá vòng vây thoát đi, để tôi chận đứng chúng.

Tức thời múa gươm chém tới ầm ầm, phá vòng vây cho Hầu Tướng Quân chạy thoát:

Về sau có thơ khen rằng.

Một mình tả đột hữu xông

Mở đường cứu Tướng má hồng máu tuôn

Đường gươm như ánh sao đêm

Chớp lòa vun vút chém bay đầu thù.

Hầu Tướng Quân rơi nước mắt, thét lên một tiếng như sấm nổ, múa đao lao vào chém giết quân Ân.

Về sau có thơ khen rằng:

Cái chết gần kề có sợ chi

Chết vì trung hiếu chết uy nghi

Đường đao trung dũng đầy khí phách

Tung hoành gào thét chết sá chi

Đã chết thời chết một lần

Chết cho non nước thêm phần uy linh

Hy sinh đến lúc hy sinh

Trải lòng trung hiếu còn chi vui bằng.

Tướng lĩnh quân Ân là Võ Vu, thấy Tướng nữ Văn Lang vô cùng xinh đẹp, có ý bắt sống về làm đồ chơi. Bằng sai Tiểu Hổ:

Ngươi xông xa bắt con nhãi đó cho ta.

Tiểu Hổ hiểu ý Chủ Tướng, bằng nói:

Tướng quân xài ớn rồi giao cho thuộc hạ.

Tiểu Hổ, từ nơi ẩn núp phóng ngựa lao ra, múa giáo chém tới Chăm Ly. Chăm Ly đang hăng say chém giết quân Ân, nghe tiếng hét sau lưng, lại nghe có gió giáo chém tới, liền nhanh như chớp lách người cả ngựa né tránh. Tiểu Hổ vốn là tay háo sắc, đánh những đòn chí tử nhưng không nguy hiểm, vì y muốn bắt sống Chăm Ly. Chăm Ly lúc nầy đâu còn nghĩ gì đến cái chết, mỗi đường gươm là mỗi đường thí mạng, lợi hại vô cùng, Tiểu Hổ vì quá háo sắc, Chăm Ly chém rơi đầu.

Về sau có thơ khen rằng:

Ghê thay nữ tướng anh hùng

Trước bầy sói dữ tung hoành xông pha

Đường gươm như ánh sao sa

Quân thù bỏ mạng khiếp kinh quân thù.

Võ Vu nhìn thấy nữ Tướng Văn Lang lợi hại như vậy, không còn mơ tưởng đến làm đồ chơi nữa, bằng ra lệnh:

Bắn chết nữ Tướng kia cho ta.

Tức thời hàng trăm hàng nghìn mũi tên lao tới, găm đầy mình như lông nhím, trước khi chết Chăm Ly hét lên một tiếng, đường gươm vun vút chém vào quân Ân, giết luôn một lúc mười tên nữa, vì sao Chăm Ly găm tên đầy mình mà không chết liền, là nhờ áo giáp đồng Trước cái chết đầy anh dũng của Chăm Ly.

Về sau có thơ khen rằng:

Trước lúc chết đầy hào hùng khí phách

Đầy hiên ngang lòng bất khuất biết bao

Thân ngã xuống, nhưng tâm hồn không ngã

Mãi sáng ngời như muôn vạn vì sao

Sao Mai đẹp mãi vì sao

Chăm Ly, đẹp mãi muôn thu sáng ngời.

Nói về Hầu Tướng Quân thấy Chăm Ly anh dũng hy sinh, liền quát lên một tiếng, múa trường đao chém tới tấp vào quân thù, chém quân Ân như chém chuối. Võ Vu Tướng giặc Ân kinh hãi, hét lớn:

Bắn chết Tướng Văn Lang kia cho ta.

Quân theo lịnh tập trung bắn Hầu Tướng Quân, Hầu Tướng Quân trúng tên đầy mình, trước khi chết trường đao vẫn chém xuống quân thù quân Ân khiếp vía kinh hoàng.

Về sau có thơ khen rằng:

Hầu tướng anh hùng khiếp ngoại xâm

Sá gì cái chết nhẹ hơn lông

Trung hoành ngang dọc xông pha chém

Kinh hồn bạt vía lũ giặc Ân.

Nói về quân Văn Lang như rắn mất đầu, thi nhau phá vòng vây bỏ chạy, năm vạn quân chỉ còn hơn một vạn, chạy trốn thất lạc khắp mọi nơi.

Thắng bại xưa nay quá rõ thì

Cơ mưu bại lộ hết đường đi

Bị động khó mong giành chiến thắng

Sử chép để đời có sai chi.
 

shopoga

✩✩

PHẦN 12: BẠI TRẬN

Cơ mưu bại lộ thật đớn đau

Sa vào cạm bẫy chết thảm sầu

Cơ Trời vận hóa còn đen thẩm

Kiếp nạn truyền miên trước lẫn sau.

Đây nói về Việt Luân Tướng Quân, thống lãnh 5 vạn quân bọc theo hướng Đông theo sự chỉ đường quân Ninh Châu, đạo quân đi đến gần sáng, khi đạo quân đi qua. Huyện Ninh Điền, bỗng có một luồng gió lạ thổi đến, làm gãy cây cờ chủ lực quân Văn Lang, ai nấy đều thất kinh, không hiểu là chuyện gì sắp xảy ra, địa phận Huyện Ninh Điền, không những dân thưa thớt, cây cối um tùm rậm rạp, khó mà phát hiện ra quân ẩn núp, lại thêm sương mù dày đặc, che chắn cả tầm nhìn, vượt qua Huyện Ninh Điền, thời coi như đã vượt qua khỏi đồi Vạn Lâm.

Việt Luân Tướng Quân, định cho đạo quân vượt qua khỏi Huyện Ninh Điền, thời cho quân dừng nghĩ ẩn núp tại đây, mới cho người thám thính động tỉnh của quân Ân. Lúc nầy trời cũng đã hừng hừng sáng, sương mù còn dày đặc chưa tan, đạo quân đang đi qua những chỗ hiểm địa, thời cây cối hai bên đường bỗng rung động, tức thời tiếng tù khai chiến nổi lên.

Việt Luân Tướng Quân thét lớn:

Có quân mai phục, có quân mai phục, mau vượt qua nơi hiểm địa.

Nhưng không còn vượt lên được nữa. Hai bên đường hiểm địa tên bắn ra như mưa, quân Văn Lang vô cùng hỗn loạn. Bỗng thấy một vị Tướng phi ngựa tới chỗ Việt Luân Tướng Quân nói:

Quân địch đã bao vây tất cả, chúng ta đang kẹt trong các chỗ hiểm địa, chỉ còn tử chiến với chúng mà thôi.

Việt Luân Tướng Quân lấy lại bình tĩnh ra lệnh cho toàn quân xông lên tử chiến, quân Văn Lang lấy lại bình tĩnh không còn rối loạn nữa, chiến đấu chống trả quyết liệt, xông lên tấn công quân Hồ.

Về sau có thơ rằng:

Thế cùng đường còn chi để mất

Nào xông lên càng quét quân thù

Đã vào trận kể gì sống chết

Hãy xông lên gào thét xung phong.

Nói về Hồ Man Quân thấy quân Văn Lang lọt vào hiểm địa vòng vây, thời coi như nắm chắc phần thắng, tha hồ mà chém giết quân Văn Lang. Hồ Man Quân khoan khoái vô cùng, Hồ Man Quân ra lệnh tấn công. Quân Văn Lang bất ngờ kinh hoàng khiếp vía, hỗn loạn bị trúng tên chết thôi là chết, không ngờ chiêng trống quân Văn Lang nổi lên, ngựa hí quân reo dậy đất, không còn rối loạn nữa, xông lên tử chiến, không còn biết sợ chết là gì nữa. Quân Hồ bất ngờ trước tinh thần anh dũng của quân Văn Lang, bị quân Văn Lang lao đến chém tơi tả.

Hồ Man Quân kinh hoảng trước dũng khí anh hùng của quân Văn Lang, bằng thúc quân giao đấu. Quân Hồ đã lợi thế mà còn chủ động trận địa, nên dù quân Văn Lang anh dũng mấy cũng khó mà chuyển xây tình thế được. Trận địa kéo dài cho tới giữa trưa, quân Hồ đi tiêu ba vạn, quân Văn Lang không còn một mạng.

Hồ Man Quân tuy thắng trận nhưng vẫn còn khiếp vía, nhìn lên trời than thở:

Quân Văn Lang là quân Thần quân Thánh, thảo nào hai trăm năm về trước quân Ân đã thất bại, không còn gì nghi ngờ nữa.

Hồ Man Quân, như muốn tiêu tan mộng xâm lược Văn Lang. Hồ Man Quân thắng trận những bao nỗi ê chề, đứt tiêu hơn ba vạn quân, thắng mà chẳng khác gì thua, thắng mà khiếp sợ trước quân Thần, quân Thánh, sự anh dũng không một người chạy trốn, không một người đầu hàng, chiến đấu tới hơi thở cuối cùng. Hồ Man Quân đây là lần đầu tiên nhìn thấy tinh thần chiến đấu, tinh thần quyết tử, cho Tổ Quốc quyết sinh của quân binh Văn Lang, đáng nể phục, đáng khiếp sợ. Hồ Man Quân nghĩ không hiểu những gì sẽ xảy ra đối với Địa Linh Sinh Nhân Kiệt nầy.

Đây nói về Bạch Tướng Quân dẫn theo 5 nghìn quân theo bảo vệ đội quân vận chuyển lương thực, hể nghe tin có trận giao chiến ở đồi Vạn Lâm, thời kéo quân tới yểm trợ. Đội quân vận chuyển lương thực đi chậm, sương mù xuống ước cả áo, tiếng gà rừng gáy như báo hiệu trời sắp hừng sáng. Một nỗi buồn như len lỏi vào linh hồn quân binh, không hiểu nổi buồn vì quê hương Tổ Quốc đang bị ngoại xâm dày xéo thảm thê, hay là nỗi buồn vì nhớ nhà khi nghe tiếng gà gáy, gọi cả đàn thức dậy, vui vầy bên nhau một ngày mới. Bạch Tướng Quân đang đi linh cảm như đang có trận giao tranh, ở tận xa xa không lẽ đồi Vạn Lâm đã vào chiến trận, sao không đúng như dự định theo kế sách đã bàn, liền sanh nghi cho quân vận chuyển lương thực dừng lại, liền cho người thúc ngựa nhanh chóng đến đồi Vạn Lâm nắm bắt tình hình.

Không bao lâu người đó trở lại nói:

Đồi Vạn Lâm đánh nhau rồi.

Bạch Tướng Quân linh cảm như là có chuyện không may, liền cho quân tản ra phục kích, chỉ còn một số ít binh lính đang dừng nghĩ bảo vệ đoàn xe lương thực. Bỗng nghe từ phía sau lưng, tiếng vó ngựa dồn dập mỗi lúc một rõ, Bạch Tướng Quân đoán chắc đó là tiếng vó ngựa của giặc từ sau đánh bọc tới cướp lấy tất cả lương thực.

Bạch Tướng Quân ra hiệu lệnh:

Khi nào địch lọt vào lưới mai phục thời mới tấn công.

Nói về Hổ Tiên Tướng giặc Ân dẫn theo 5 nghìn quân, nhanh chóng lên đường đánh bọc hậu cướp lấy lương thực vận chuyển quân Văn Lang. Hổ Tiên nắm bắt được thông tin tình báo là đoàn quân vận chuyển lương thực quân Văn Lang đã đến Huyện Gia Lâm.

Hổ Tiên nói:

Như vậy đoàn vận chuyển lương thực đã vượt qua chúng ta rồi, chúng ta từ phía sau bất ngờ đánh tới.

Do sương mù che chắn tầm nhìn, quân Ân chỉ thấy trước mắt là đoàn quân vận chuyển lương thực đang dừng nghĩ, chớ không thấy được số người, cứ nghĩ đây chính là cơ hội cho chúng bất ngờ tấn công, nếu đoàn quân vận chuyển lương thực có phát hiện thời cho đó là quân Văn Lang mà thôi. Hổ Tiên thúc năm nghìn quân lao vào chém giết, nhưng đến khi phát hiện là không có bao nhiêu người, chỉ toàn là xe lương thực, thời thất kinh. Bỗng thấy pháo lệnh tử chiến, quân Ân chưa kịp trở tay, thời tên giáo lao, bắn phóng ra như mưa, chiêng trống nổi lên rền trời rền đất, quân Ân bất ngờ trúng tên chết lớp lớp, quân Ân rối loạn chạy loạn xạ, bị quân Văn Lang hạ gục dễ dàng, quân Văn Lang thắng thế xông lên gươm, đao, giáo, mác ào ào chém tới như mưa, ngựa người quân Ân dẫm đạp lên nhau phá vòng vây mà chạy.

Hổ Tiên khiếp quá tìm đường tẩu thoát. Bỗng nghe một tiếng quát như sấm:

Chạy đâu cho thoát xem đây.

Hổ Tiên nghe tiếng gió đao chém tới, tức thời múa trường giáo lên chống đỡ, choang đinh tai nhức óc, Hổ Tiên cả người lẫn ngựa muốn ngã quỵ, không hiểu người nào mà thần dũng đến thế. Hổ Tiên thấy người chém mình là một dũng tướng to lớn, mặt vuông, mắt sáng, mình mặt giáp đồng, đầu đội kim khôi, oai phong lẫm liệt, thảo nào mà chẳng có sức mạnh kinh người, người chém Hổ Tiên một đao như trời giáng đó chính là Bạch Tướng Quân. Hổ Tiên biết đánh không lại phóng ngựa chạy tẩu thoát. Nhưng chạy đâu cho thoát hàng loạt mũi tên bắn trúng đầy mình, nhào xuống ngựa mà chết, quân Ân như rắn mất đầu, quân Văn Lang tha hồ mà đâm mà chém.

Về sau có thơ khen rằng:

Một trận chiến đầy mưu mô khôn khéo

Thời lo gì không chiếm được thương phong

Đường chiến thắng phải dựa trên mưu trí

Đạp quân thù như đạp cỏ dưới chân.

Mặt trời lúc nầy đã lên cao, nhưng che khuất bởi thời tiết âm u cái lạnh đã làm cho con người mau đói. Bạch Tướng Quân không còn nghĩ gì đến sự ăn uống nữa, tức tốc điều động năm nghìn quân, tức tốc đến đồi Vạn Lâm, thời lúc nầy trận chiến đã dừng hẳn, thấy xa xa trước mắt quân binh Văn Lang đang chạy thục mạng, mạnh ai nấy chạy không đoàn, không toán gì cả, thời đã biết quân Văn Lang đã thất trận. Bạch Tướng Quân cho bắn pháo hiệu là đã có quân cứu viện đến nơi, quân Văn Lang đang thất lạc chạy trốn thấy pháo cứu viện, liền cùng nhau chạy đến, người nào người nấy thở muốn hụt hơi, lăn đùng ra ngồi dậy hết nổi.

Nói về quân Ân tuy thắng trận, nhưng cũng đi tiêu hơn một vạn quân, nên không đuổi theo quân Văn Lang bỏ chạy, mà chỉ ra khỏi đồi Vạn Lâm chờ lệnh, những tốp quân binh Văn Lang chạy trốn sợ sự truy đuổi quân Ân, bỗng thấy hiệu lịnh cứu viện quân Văn Lang tất cả đều kéo tới hết, tính đi tính lại chỉ còn hơn một vạn quân, đi tiêu bốn vạn quân.

Bạch Tướng Quân liền hiểu rõ tất cả quân ta đã lọt hết vào ổ mai phục của chúng, nên mới thất trận thê thảm như thế nầy, các Tướng đều chết sạch, chỉ còn quân binh không. Bạch Tướng Quân cho người thám thính cánh quân bọc hướng Đông của Việt Luân Tướng Quân.

Không bao lâu thời quân thám báo kinh hãi về báo:

Bẩm Tướng Quân, quân ta đã chết sạch không còn một mạng tại Huyện Ninh Điền hết rồi.

Bạch Tướng Quân kinh hoàng nghĩ: Quân Ân lợi hại đến thế sao? Biết không thể nào đánh lại quân Ân, nên đành rút quân trở về Ninh Giao Châu, củng cố lại lực lượng.
 

shopoga

✩✩

PHẦN 13: ĐẠI CHIẾN QUÂN ÂN (1)

Đây nói về chủ soái Nguyên Dực, thống lãnh hơn 10 vạn quân bọc theo hướng Tây đồi Vạn Lâm, chận đánh đường rút lui quân Ân, rồi thẳng xuống Đông Bắc, chiếm lại thành Kinh Châu. Đại quân bọc Tây cách đồi Vạn Lâm hơn 15 dặm thời nghe như có trận chiến, những người có nội công thâm hậu mới có cảm giác nghe được.

Nguyên Dực lấy làm lạ tự hỏi: Không lẽ đồi Vạn Lâm đã xảy ra trận chiến. Nguyên Dực nghĩ không thể như thế được, nếu có trận chiến xảy ra phải đến chiều mai, quân Ân mới đến được đồi Vạn Lâm, không thể sớm như vậy được, lại nữa trời đã hừng sáng. Đại quân cũng sắp qua khỏi địa phận Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, đến Huyện Nam Tây Sơn Kinh Châu, trong lòng Nguyên Dực cứ mãi không yên, liền cho quân dừng nghĩ, cho hai toán quân đi thám thính, một là thám thính địa phận Huyện Tây Sơn Kinh Châu, hai là thám thính Đồi Vạn Lâm xem chuyện gì đã xảy ra.

Chủ soái Nguyên Dực hỏi:

Các tướng có nghe thấy gì không?

Có người nói:

Không nghe thấy gì cả.

Có người nói:

Hình như có trận chiến xảy ra.

Hai toán quân thám báo đi chưa được bao lâu thời liền quây trở lại cấp báo:

Bẩm chủ soái đồi Vạn Lâm đã xảy ra trận chiến, không biết thua thắng thế nào.

Toán quân thứ hai báo:

Bẩm chủ soái quân Ân cờ xí rợp trời đã vượt qua Huyện Tây Sơn tiến đánh chúng ta.

Chủ Soái Nguyên Dực ra lệnh:

Hãy bày binh bố trận.

Hiệu lịnh cờ trận phất lên, tức tốc đại quân duy chuyển chiếng trống nổi lên đại quân nhanh chóng lập thành ngũ hành trận, trung ương trận liền dựng lên một cái đài cao bảy thước, chủ soái Nguyên Dực trực tiếp chỉ huy. Đài vừa dựng xong thời quân Ân cũng vừa kéo đến, cờ xí rợp trời, dẫn đầu là một Tướng nữ trung niên vô cùng xinh đẹp.

Nguyên Dực hỏi:

Biết nữ Tướng đó là ai không?

Tức thời có người đáp:

Nhìn lá cờ lớn có hai chữ Sát Sát, thời cũng biết nữ Tướng trung niên xinh đẹp kia là vợ lớn của Ân Mao Vương, Ân Mao Vương có hai người vợ vô cùng lợi hại, khắc tiếng nước Man Du, đó là Sát Sát Ân Nương Nương, và Nghịch Phong Ân Nương Nương.

Người hiểu rõ về nữ Tướng giặc Ân đó là ai vậy, không ai khác hơn là Hầu Thái Công.

Đây nói về Sát Sát nữ Tướng giặc Ân, rầm rầm rộ rộ kéo quân tới, thấy quân Văn Lang đông như kiến, đã bày binh bố trận xong xui, sát khí trùng trùng.

Sát Sát hỏi:

Đây có phải là ngũ hành trận nổi tiếng mấy nghìn năm của quân Văn Lang không? Đã từng đánh bại nhiều quân xâm lược có phải không?

Có một vị Đạo Sĩ mặt xanh râu dài nói:

Bẩm Nương Nương quả đúng đây là trận ngũ hành, không dễ gì phá được, quân binh chuyển biến khó lường.

Sát Sát nói:

Không phá cũng phải phá, ngươi thử ước lượng phá trận ngũ hành nầy cần bao nhiêu quân.

Đạo Sĩ thưa:

Bẩm Nương Nương phải trên 15 vạn quân, ba vạn quân đánh một cửa, 12 vạn quân đánh bốn cửa, còn ba vạn quân thời đánh vào nơi trọng yếu của ngũ hành trận.

Sát Sát nghĩ mình có hơn 8 vạn quân thời khó mà đánh, liền cho người đến đồi Vạn Lâm, điều động quân binh Võ Vu bổ sung cho đủ quân số chịu trách nhiệm đánh Đông ngũ hành trận. Lại cho người tới Huyện Ninh Điền, điều động quân Hồ đánh vào cánh Nam ngũ hành trận.

Sát Sát ra lệnh:

Hồ Phiên nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân thống lĩnh ba vạn quân, chịu trách nhiệm đánh cánh Tây ngũ hành trận, thuộc hạ tuân lịnh. Tào Côn thống lãnh 3 vạn quân chịu trách nhiệm đánh Bắc ngũ hành trận.

Nói về Võ Vu tuy thắng trận ở đồi Vạn Lâm nhưng cũng đi tiêu hơn một vạn quân, vẫn còn đang khiếp vía trước tinh thần chiến đấu anh dũng của quân Văn Lang, còn hai vạn quân rút ra khỏi đồi Vạn Lâm chờ lịnh. Tính tới tính lui chỉ còn một vạn rưởi quân là còn chiến đấu được, còn hơn năm nghìn quân bị thương tơi tả không dùng được, thời thở dài quân Văn Lang quả là quân Thần, quân Thánh, trong lúc đang thở dài, thời có chỉ lệnh đưa đến, mau tức tốc đến Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, bổ sung quân cho đủ ba vạn chịu trách nhiệm đánh cửa Đông ngũ hành trận quân Văn Lang.

Nói về Hồ Man Quân tuy thắng trận nhưng cũng đi tiêu mất hai vạn quân, Hồ Man Quân khi thống lãnh quân binh tràn qua đất Văn Lang, đánh đâu thắng đó một cách dễ dàng, giết hơn mấy Vua Việt, chiếm lấy Châu, Huyện, một cách dễ dàng, sanh ra kiêu ngạo, không coi quân Văn Lang vào đâu. Không ngờ đụng phải quân chủ lực Văn Lang, một loại quân anh dũng kiên cường, chiến đấu không khác gì loài mãnh hổ. Tử chiến không bỏ chạy chiến đấu quyết liệt, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Tuy lọt vào vòng vây hiểm địa nhưng anh dũng đánh bật lại bất ngờ quân Hồ kinh khiếp, bỏ mạng hơn hai vạn quân. Quả là quân Thần, quân Thánh.

Hồ Man Quân được lệnh điều động quân đến Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, chịu trách nhiệm đánh thẳng vào cánh Nam ngũ hành quân Văn Lang, Hồ Man Quân tức thời điều động quân binh lên đường ngay, không bao lâu thời tới Huyện Bắc Sơn, đứng xa xa nhìn thấy Nam trận ngũ hành sát khí trùng trùng, thời nghĩ thầm, phương Nam có trận pháp ngũ hành lợi hại vô cùng, biến hóa khó lường, muốn phá trận ngũ đâu phải dễ không kéo thời bỏ mạng như chơi.

Bằng viết mật thư gởi cho Hồ Nghi Vương. Đại ý mật thư nói rằng: Quân Ân liên kết với quân Hồ ta, đã chiếm lấy thành Kinh Châu, đánh bại 5 vạn quân chủ lực Văn Lang ở đồi Vạn Lâm, quét sạch 5 vạn quân chủ lực Văn Lang ở tại Huyện Ninh Điền, giờ lại tiến đánh phá đại quân chủ lực Văn Lang tại Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, thời coi như chiếm lĩnh toàn bộ Bắc Văn Lang. Chúng ta nhân cơ hội phá trận nầy, chiếm luôn thành Ninh Châu, trước quân Ân.

Nói về Hồ Nghi Vương lòng đầy tham vọng, hầu muốn nuốt nhanh chóng Tây Bắc Văn Lang, chỉ cần nuốt được Kiến Châu, thời coi như đã nuốt trọn Tây Văn Lang, nhưng chưa tìm ra cách chiếm lấy thành Kiến Châu, vì thành Kiến châu kiên cố, lại có cha con Châu Phủ Châu An, tài giỏi nhất là Châu Tiên. Có pháp thuật thần thông cao cường, lại thêm quân binh quyết lòng chống trả. Nên không dễ gì chiếm thành trong ngày một ngày hai được. Hồ Nghi Vương cũng không dại gì công phá thành, khi chưa nắm được phần thắng. Chỉ cần bao vây thành Kiến Châu, thời thành Kiến Châu sớm muộn gì cũng vào tay mình. Đang lúc cho người tom góp ngọc ngà châu báu đã vơ vét từ các Quận Huyện, Châu Phủ, mười mấy xe, lúa gạo, trâu bò, dê lợn, gà vịt, nhiều vô số kể, nhất là trẻ con thời không gì bằng, chúng nấu hầm mà tẩm bổ, quân Hồ, quân hung Nô, uống máu ăn thịt người là chuyện bình thường. Trong lúc hai con mắt hau háu nhìn vàng bạc châu báu ớn thời sang qua nhìn những cô gái tơ có vẻ khoang khoái lắm, gái tơ chính là sở thích của yêu Hồ, tính đưa tay chụp một cô nõn nà, thời có người vào báo:

Bẩm Chúa Vương, có người đưa thư đến.

Hồ Nghi Vương cho đòi người đưa thư vào, đó là một quân thám báo thân cận của Hồ Man Quân. Hồ Nghi Vương đọc xong ra chiều suy nghĩ, rồi kêu Hồ Mị Hoa đến nói:

Con thống lãnh 2 vạn quân tới trợ giúp cho chú con Hồ Man Quân, tiêu diệt quân chủ lực Văn Lang đang đóng ở Huyện Bắc Sơn Ninh Châu. Hồ Man Quân là em của Hồ Nghi Vương, phá trận ngũ hành quân Văn Lang xong, nhanh chóng chiếm lấy thành Ninh Châu.

Hồ Mị Hoa liền thống lãnh 5 vạn quân nhanh chóng đến Huyện Bắc Sơn, theo mật thư của Hồ Man Quân.



PHẦN 14: ĐẠI CHIẾN QUÂN ÂN (2)

Đây nói về chủ soái Nguyên Dực, ở trên đài quan sát thấy quân Ân đang chuyển động quân binh, từ bốn hướng kéo đến bốn cửa trùng trùng điệp điệp. Có lẽ chuẩn bị phá trận. Tức thời phân bổ các Tướng thống lĩnh quân binh trấn giữ ngũ hành trận, chuẩn bị cho trận chiến quyết tử cao độ nhất.

Chủ Soái Nguyên Dực ra lệnh:

In Đô Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó nữ Tướng là La Ha, Tiên Ngung. Thống lãnh hai vạn quân, chia làm chia làm năm đạo quân. Bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh. Trấn thủ tại trung ương hành kim, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

Lô Gô Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng là Phô Rô, Cam Bô, thống lãnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ tại trung ương hành mộc, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

Lê Anh Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là Đoàn Minh, Hoàng Thi, thống lĩnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành thủy, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

Dương Điền Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là La Đôn, Kinh Hạ, thống lĩnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành hỏa, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

Lý Hiển Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là Trịnh Đức, Mai Phi, thống lĩnh hai vạn quân, chia là năm đạo quân, bộ binh, kỵ binh, xa binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành thổ, chuyển hóa bổ sung, hỗ trợ, những đạo quân, kim – mộc – thủy – hỏa, khi yếu hơn thế lực của địch, theo hiệu lịnh của trung ương tổng đài, tuân lịnh.

Từ thế trận ngũ hành, chuyển sang biến hóa thế trận ngũ hành, tức thời sát khí trùng trùng, mây đen ngùn ngụt, cuồng phong chuyển động, kỳ ảo lạ kỳ.

Đây nói về Sát Sát thống lĩnh quân Ân ở trên đài quan sát thấy ngũ hành trận trong phút chốc biến hóa kỳ ảo như vậy, cũng phải kinh hãi. Liền hỏi Đạo Sĩ mặt xanh râu dài:

Đạo Sĩ có biết phá trận ngũ hành nầy không?

Đạo Sĩ mặt xanh râu dài chính là thanh sư, không những có pháp thuật mà còn biết nhiều hiểu rộng. Thanh Sư nói:

Thưa Nương Nương, trận ngũ hành lợi hại là do năm ngọn cờ chính điều khiển chỉ huy, tùy theo trình độ của người chi huy mà lợi hại, nên khó mà đoán được.

Sát Sát nói:

Ta đã quan sát thấy mỗi chi ngũ hành ước lượng chỉ có hai vạn quân. Còn ta có tới ba vạn quân, số lượng hơn chúng quá lớn ta ra lịnh đồng tấn công một lượt, chỉ cần phá vỡ một chi ngũ hành, thời nhất định trận ngũ hành trận sẽ bị phá vỡ ngay.

Sát Sát lấy làm đắc ý cho cách phá trận của mình, liền ra lịnh đồng loạt tấn công.

Đây nói về Trung tâm hành kim, tín hiệu pháo lịnh đã bắn lên báo hiệu quân Ân bắt đầu tấn công. Tức thời Trung ương hành kim trên đài quan sát năm màu cờ bắc đầu chuyển động.

Nói về Hồ Phiên, thống lãnh ba vạn quân, thấy quân binh Văn Lang thưa thớt, chẳng có gì là lợi hại cả, ta chỉ cần năm nghìn kỵ binh, năm nghìn xạ binh, năm nghìn bộ binh là đánh thủng vào Trung ương ngay. Liền sai Tướng Ung Beo chỉ huy năm nghìn bộ binh ào ào xông vào trận. Khí thế tràn vào như nước lũ, bộ binh xông đến đâu thời quân Văn Lang dạt ra đến đó, tiến sâu vào hơn dặm, hò hét dậy trời. Tướng giặc Hồ Phiên cười ngất, ta cứ nghĩ ngũ hành trận lợi hại lắm, chẳng qua cũng thế thôi. Bỗng nghe chiêng trống nổi lên dạy trời, quân reo dậy đất, mây đen cuồn cuộn, phủ tới, năm nghìn quân Ân không thấy đâu nữa, chỉ nghe đao kiếm đinh tai nhức óc.

Hồ Phiên ra lịnh tức thời năm nghìn quân xạ tiễn do Hốt Ma điều khiển ào ào xông trận, quân binh lao vào như thác đổ, tìm quân địch tấn công, nhưng không thấy chi cả như lạc vào chốn hoang vu. Hốt Ma kinh hãi, đây là đâu sao kỳ lạ thế nầy, trong lúc hoang mang thời bỗng nghe chiêng trống dậy trời, thời thấy đội quân thiết giáp trong mây đen xuất hiện cắt đôi năm nghìn quân xạ tiễn. Hốt Ma kinh hãi chưa biết phải làm sao thời thấy xuất hiện hai Tướng cỡi ngựa thiết kỵ giáp lao nhanh tới chém Hốt Ma. Hốt Ma vì quá hoang mang sợ hãi hơn nữa một Tướng khó địch lại hai Tướng, trúng liền hai đao đứt làm hai đoạn, quân Ân như rắn không đầu, chỉ trong vòng chốc lát không còn một mạng.

Hồ Phiên thấy tình thế không xong, liền ra lệnh kỵ binh xung trận. Phiêu Liêu, điều khiển năm nghìn kỵ binh nhanh chóng lao vào nhập cuộc, không ngờ bị xa quân những chiếc xe đầy chông sắt lao tới tấn công, làm cho đội kỵ binh hỗn loạn, xạ binh quân Văn Lang bắn tên ra như mưa, đội kỵ binh quân Ân chết thôi là chết, thi nhau chạy thục mạng, thoát ra khỏi trận ngũ hành, chết hơn phân nửa. Hồ Phiên tái mặt than trời khóc đất, không dám đưa quân vào trận nữa, coi như đi tiêu hơn một vạn quân. Hồ Phiên bây giờ mới biết lời đồn quả không sai, nước Văn Lang có ngũ hành trận vô cùng lợi hại.

Nói về In Đô, Tiên Ngung, La Ha. Trấn thủ Tây ngũ hành, In Đô Tướng quân ở trên đài quan sát ở Trung ương hành kim, chỉ huy năm đội quân ngũ kỳ, năm màu, trắng, xanh, đen, đỏ, vàng. Tiên Ngung thống lĩnh hai đạo quân cờ trắng, cờ xanh. La Ha, thống lĩnh hai đạo quân cờ đen, cờ đỏ, ở trên đài quan sát. In Đô Tướng quân nhìn thấy quân Ân triển khai ba đạo quân, đạo bộ binh, đạo xạ binh, đạo kỵ binh, mỗi đạo ước lượng năm nghìn người. In Đô nhìn thấy đội quân bộ binh tấn công trước, liền phất cờ vàng, ra hiệu. Tiên Ngung, La Ha, thấy cờ hiệu trên quan sát đài, liền tức tốc thu quân ẩn mình trong mây trận.

Đạo quân bộ binh do Ung Beo thống lĩnh điều khiển, ào ào như nước lũ tiến vào trận, không gặp trở ngại nào cả thấy toàn là mây đen cuồn cuộn, Đạo quân cứ tiến sâu vào vùng đất hoang vu. Ung Beo vô cùng kinh hãi, liền ra lệnh cho Đạo quân lui trở ra. Khi ấy trên quan sát đài, đội kỳ cờ trắng, cờ xanh, xuất hiện theo thế bao vây. Tức thời La Ha nhanh chóng phất cờ ra lịnh hai Đạo quân, nhanh chóng lao ra bao vây, quân Ân vô cùng kinh hãi ra sức chống trả, cùng lúc ấy trên đài quan sát In Đô tự tay phất cờ vàng, tức thời hai nghìn binh thiết giáp, từ Trung ương hành kim nhanh chóng ào ào lao ra chém giết quân Ân như chém chuối loáng cái là chết sạch. Cờ trắng, cờ xanh, trên đài quan sát biến mất, thay vào đó là cờ đỏ, giáp binh, hành hỏa bao vây, cờ vàng thiết giáp kỵ binh hành thổ tấn công.

Nói về Hốt Ma nghe trận chiến rền trời rền đất nhưng không thấy vì mây đen cuồn cuộn che chắn tầm nhìn, liền điều động năm nghìn quân xạ tiễn xông vào hiệp lực tấn công. Đội quân xạ tiên tiến sâu vào không thấy Đạo quân bộ binh đâu cả, vô cùng kinh hãi chưa biết phải tiến vào đâu, thời nghe chiêng trống dậy trời. Đội quân áo giáp ào ào hiện ra bao vây, lao tới chém Đạo quân xạ tiễn quân Ân tới tấp. Hốt Ma kinh hãi ra lệnh lập trận xạ tiễn chống trả lại, nhưng không còn kịp nữa, Đạo quân thiết giáp từ sau đánh tới vó ngựa rền trời, lao vào chém quân Ân như chém chuối, chỉ trong chốc lát quân Ân chết sạch, Hốt Ma bỏ mạng sa trường.

Nói về Phiêu Liêu, Tướng giặc được lịnh tức thời điều động năm nghìn kỵ binh, tức tốc lao vào trận, xáp chiến, kỵ binh quân Ân như cuồng phong ào ào bay vào trận. Khi ấy trên đài quan sát cờ đen xa quân Đạo quân xe đầy chông sắt, xích sắt, theo thế cắt đôi quân địch, cùng lúc, cờ trắng, cờ xanh, cờ đỏ, cờ đen, đồng loạt xuất hiện tấn công. Nói về Phiêu Liêu, thống lãnh kỵ binh xông vào trận, thời không thấy Đạo quân bộ binh, Đạo quân xạ binh đâu nữa, mà chỉ thấy quân Văn Lang trùng trùng điệp điệp ẩn hiện trong mây đen, di chuyển ẩn hiện một cách kỳ lạ, chưa biết tấn công vào đâu, thời nghe xe cộ duy chuyển đùng đùng, lao ra cắt đôi kỵ binh quân Ân, tức thời bốn phương tám hướng đồng loạt tấn công. Đạo quân kỵ binh Ân chống trả không nổi, bỏ mạng vô số kể. Phiêu Liêu kinh hãi cùng kỵ binh sống sót lao ra khỏi trận, kinh hồn bạt vía.

Về sau có thơ rằng:

Tưởng rằng phá trận dễ như không

Nào hay bỏ mạng lấp vùi chôn

Ngũ hành trận pháp ôi huyền bí

Biến ảo vô cùng giặc khiếp kinh

Hơn vạn giặc Ân trong nháy mắt

Vùi chôn thân xác chẳng còn tên

Kinh hồn bạt vía quân ăn cướp

Bỏ mạng tàn đời lũ yêu tinh

Nghe chiến trận gươm đao gào thét

Cõi trời Nam đau xót muôn dân

Hỡi giặc Ân nầy hỡi giặc Ân

Cớ sao mi lại chiếm xâm cõi bờ

Giờ đến lúc từ già đến trẻ

Hãy đứng lên chống trả quân thù

Đã chung dòng máu đồng bào

Tay gươm tay giáo quyết nào tử sanh.
 

shopoga

✩✩

PHẦN 15: TỬ CHIẾN

Nói về Lô Gô, Phô Rô, Cam Bô. điều khiển hai vạn quân binh, trấn giữ hành mộc, nơi Trung ương hành mộc. Phô Rô, thống lĩnh hao Đạo quân, cờ trắng, cờ xanh, Cam Bô, thống lĩnh hai Đạo quân, cờ đen, cờ đỏ, trên đài quan sát, Lô Gô thấy từ xa từ nơi đại quân Ân ba Đạo quân cùng một lúc xuất phát, Đạo quân bộ binh, Đạo quân xạ binh, đạo quân kỵ binh, mỗi Đạo quân năm nghìn quân, đồng loạt tấn công Đông ngũ hành, với khí thế như cuồng phong vũ bão, quân Ân ào ào lao vào trận.

Ỷ mình cậy thế quân đông

Ào ào lao tới phá tan ngũ hành

Ba đạo quân cuồn cuộn xông vào

Gươm, đao, giáo, mác, sáng ngời khiếp kinh.

Lô Gô nhìn thấy quân giặc tấn công một lúc ba Đạo quân như vậy, liền phất cờ cho bốn Đạo quân ẩn sâu vào trận, phất cờ phong trận lên hư không, tức thời từ nơi đài cao Trung ương ngũ hành mây đen, mây trắng cuồn cuộn bay ra phủ kín bốn Đạo quân Văn Lang.

Đây nói Võ Vu, đã từng nghe tiếng ngũ hành trận vô cùng lợi hại, nếu không đưa quân đánh tốc chiến, tốc thắng, liên kết ba Đạo quân với nhau, thời khó mà phá được, liền ra lệnh cho ba Đạo quân cùng một lúc tiến vào, Lỗ Đại Đạo quân kỵ binh, Tấn Beo đạo quân xạ binh, Ngụy Hàn Đạo quân bộ binh. Ba Đạo quân ào ào xông vào trận, thời như lạc vào vùng đất mênh mông mây đen, mây trắng, cuồn cuộn, không thấy một bóng người, quân Ân vô cùng sợ hãi không biết quân địch ở phương nào mà tấn công, ba Đạo quân Ân bỗng thấy một Đạo quân xuất hiện, tấn công chúng, chúng liền hiệp lực lao tới tấn công, hai bên giao tranh giữ dội, quân Văn Lang chống trả không lại liền bỏ chạy, quân Ân liền đuổi theo, bỗng quân Văn Lang biến mất. Quân Ân vô cùng kinh hãi, chưa kịp biết phải làm sao, thời nghe chiêng trống dậy trời, tên bắn ra như mưa.

Lỗ Đại, Tấn Beo, Ngụy Hàn, la lớn, rút lui, rút lui, chúng ta đã lọt vào ổ phục kích, quân Ân rối loạn, quân Văn Lang dốc toàn lực lượng phản công, chớp nhoáng, sấm sét, từ bốn phương tám hướng đánh tới tấp, quân Ân đạp lên nhau mà chạy. Lỗ Đại, Tấn Beo, Ngụy Hàn, ra sức thoát ra khỏi trận nhưng không biết cửa ra ở đâu, bằng phóng ngựa hầu tìm đường tẩu thoát, Lỗ Đại bỗng nghe một tiếng quát to như sấm, ta chờ ngươi ở đây đã lâu, nộp mạng đây, tức thời từ trong mây trắng một người xuất hiện, oai phong lẫm liệt, múa trường thương người ngựa lao tới đâm Lỗ Đại một nhác. Lỗ Đại múa giáo chống đỡ, hai bên đánh nhau mấy hiệp, Lỗ Đại quày ngựa bỏ chạy. Tướng Văn Lang quát, chạy đâu cho thoát, tức thời bắn một phát, Lỗ Đại trúng tên độc nhào xuống ngựa bỏ mạng, người bắn chết Lỗ Đại chính là Phô Rô.

Nói về Tấn Beo không ngờ ngũ hành trận lợi hại như vậy, vào trận thời được nhưng ra thời không biết đường, đang phi ngựa tìm đường tẩu thoát, thời thấy đội quân thiết giáp chận đường, liền quày ngựa chạy ngược trở lại, nào ngờ hai bên tên bắn ra như mưa, Tấn Beo trúng tên khắp mình bỏ mạng.

Nói về Ngụy Hàn, đằng sau kỵ binh rượt đuổi, trước mắt là xạ binh bao vây, Ngụy Hàn không còn đường nào khác là thúc ngựa lao vào xạ binh, không ngờ thoát ra khỏi trận, quân Ân ào ào xông tới chận đứng quân Văn Lang không cho truy sát Ngụy Hàn. Ngụy Hàn trúng tên khắp mình nhưng chưa chết hẳn, nói với Võ Vu rằng, quân ta chết hết rồi. Ngụy Hàn nói xong thời tắc thở, hồn chầu âm phủ. Võ Vu kinh hãi, không dám đưa quân vào phá trận nữa.

Nói về Lô Gô ở trên đài quan sát, thấy quân Ân đã lọt hết vào trận, tức thời phất cờ trận dụ quân Ân sa vào bẫy lưới phục kích, quân Ân không hiểu sự biến ảo của ngũ hành, rượt đuổi quân Văn Lang, thế là quân Ân bị tấn công tới tấp, dẫn đến rối loạn. Lô Gô liền phất cờ hiệu vàng, tức thời đội quân thiết giáp từ Trung ương hành mộc kéo ra chận đứng cửa ra, quân Ân kinh khiếp rối loạn tháo chạy trở ra, liền bị Đạo quân thiết giáp Văn Lang đánh bật trở vào, không biết nơi nào là đường trở ra nữa, chạy toán loạn bị quân Văn Lang hốt sạch không còn một mạng.

Về sau có thơ rằng:

Ngũ hành trận pháp của Ông Cha

Đã từng vùi dập giặc can qua

Lẫy lừng trận pháp rền sông núi

Khiếp vía hồn kinh lũ yêu ma.

Đây nói về Hồ Man Quân, cùng Hồ Mị Hoa, thấy ngũ hành trận sát khí trùng trùng, nhất là nơi trung tâm ngũ hành trận mây đen, mây trắng, cuồn cuộn, như có một quyền lực vô tận, làm cho ngũ hành trận biến hóa khó lường.

Hồ Mị Hoa bằng nói với Hồ Man Quân rằng:

Khi con học Đạo với thầy con, thầy con có nói nước Văn Lang có ngũ hành trận vô cùng lợi hại. Nhưng lợi hại hơn nữa là còn tùy thuộc vào cơ trí của người điều khiển, không nên xem thường, phải hết sức bình tỉnh mới phá được, chỉ cần phá được một phương ngũ hành, thời bốn phương ngũ hành kia tức thời yếu đi, nhờ đó quân ta mới phá tan ngũ hành nhanh chóng.

Hồ Cổn Quân nói:

Để con tiên phong phá trận cho, bằng điểm một vạn binh mã, bộ binh, kỵ binh, xạ binh.

Hồ Mị Hoa nói:

Cháu thống lĩnh hai vạn quân theo sau yểm trợ.

Hồ Man Quân lấy làm yên lòng vì hiểu rõ tài phép của Hồ Mị Hoa.

Nói về Dương Điền, La Đôn, Kinh Hạ, thống lĩnh quân binh trấn giữ phương Nam hành hỏa. Trên đài quan sát, Dương Điền thấy quân Hồ đông như kiến, từ đại quân tách ra một đạo quân ước lượng một vạn quân, bộ binh, xạ binh, kỵ binh, nhanh chóng xông vào trận. Tức thời trên đài quan sát xuất cờ trắng, cờ xanh hiệu lịnh tấn công, chậm đứng thế mạnh ồ ạt tấn công quân địch. Thế là gươm đao giáo mác, quân reo ngựa hí dậy trời, hai bên xáp chiến long trời lở đất.

Thế là trận chiến long trời

Ngựa người lao tới ầm ầm kinh thiên

Giáo gươm dậy núi dậy non

Chiêng rền, trống dội bụi bay mịt mù

Quân Ân ỷ mạnh tràn vào

Sóng người cuồn cuộn khác nào thác tuôn

Trên đài cờ phất rút lui

Văn Lang quân tướng thi nhau ẩn mình

Quân Hồ rượt đuổi ầm ầm

Nào hay chẳng thấy quân thù nơi đâu

Quân Hồ kinh hãi, hãi kinh

Lạc vào ổ phục quân binh dậy trời.

Đây nói về quân Văn Lang, chiến đấu quyết liệt với quân Ân giả đò thua bỏ chạy, quân Ân rượt đuổi theo ầm ầm, chỉ trong vòng chớp mắt quân Văn Lang biến mất, mây đen mây trắng cuồn cuộn bao phủ. Quân Hồ lạc mất phương hướng không biết quân địch ở chỗ nào, đang hoang mang kinh hãi. Thời nghe chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất, tên từ bốn phương tám hướng bắn như mưa. Quân Hồ trúng tên chết la liệt, hỗn loạn đạp lên nhau mà chạy, chạy chỗ nào cũng bị quân Văn Lang nhưng đội quân ma quỷ, bám theo chém giết ầm ầm.

Nói về Hồ Cổn, thấy quân Văn Lang chống trả không lại bỏ chạy, liền thúc quân lao theo chém giết hò hét dậy trời. Bỗng thấy mây đen, mây trắng, cuồn cuộn kéo tới tức thời quân Văn Lang biến mất. Hồ Cổn kinh hãi không biết địch ở nơi nào, lại lạc mất phương hướng không biết đâu là Đông Tây Nam Bắc, liền ra lịnh thối lui, nhưng không còn kịp nữa, bốn phương tám hướng chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất tên bắn ra như mưa, chết thôi là chết.

Hồ Cổn tìm đường tẩu thoát nhưng nơi nào cũng toàn là quân Văn Lang tên bắn xối xả. Hồ Cổn cùng tốp kỵ binh phá vòng vây thoát ra, chạy một hơi nhưng không thấy lối ra đâu cả kinh hoàng khiếp vía, bỗng nghe tiếng quát chạy đâu cho thoát tức thời kỵ binh thiết giáp xuất hiện bao vây. Kỵ binh quân Hồ liều mình chống trả, nhưng chống trả làm sao nổi bỏ mạng lớp lớp. Hồ Cổn liều mình phá vòng vây bỏ chạy thục mạng, không biết là mình chạy đến nơi nào. Bỗng nghe tiếng quát chạy đâu cho thoát, tức thời ba người xuất hiện chận đầu. Hồ Cổn càng thêm khiếp vía, người ở bên phải nói để thuộc hạ đưa tên nầy về chầu âm phủ. Tức thời múa đao thúc ngựa lao tới chém Hồ Cổn một đao như trời giáng. Hồ Cổn múa giáo chống đỡ, choang đinh tai nhức óc. Hồ Cổn mạnh vô cùng, không dễ gì một đao mà hạ gục được. Người bên trái thấy thế nói, tên Tướng giặc nầy quả là lợi hại để thuộc hạ lao ra hợp sức hạ gục cho rồi. Tức thời múa đao thúc ngựa lao ra chém tới tấp vào Hồ Cổn. Hồn Cổn võ nghệ cao cường khó mà hạ gục được. Vị Tướng Văn Lang thấy thế liền phi ngựa lao vào xáp chiến Hồ Cổn đánh không lại ba người đành bỏ mạng.

Nói về Hồ Mị Hoa, chỉ huy hai vạn quân theo sau yểm trợ, vừa lao vào trận chiến thời không còn nhìn ra phương hướng nữa, mây đen, mây trắng, cuồn cuộn. Bỗng thấy quân binh hỗn loạn, Hồ Mị Hoa thét lớn tất cả đều không được hỗn loạn. Hồ Mị Hoa giật cả mình, khi thấy đạo quân thiết giáp không biết từ đâu kéo ra cắt đôi đạo quân của mình, làm cho đạo quân rối loạn. Hồ Mị Hoa thúc quân quay ngược trở lại chống trả. Không ngờ từ phía sau quân Hồ, quân Văn Lang như cuồng phong vũ bão từ phía sau đánh tới. Trước mặt quân địch, sau lưng quân địch, đánh như mưa trút, quân Hồ tá hỏa, thi nhau ngã gục.

Nói về quân Hồ bị cắt đôi không còn tiếp ứng với nhau được nữa, bị đạo quân thiết giáp đánh bật lui ra khỏi trận địa, còn một nửa trong trận địa hỗn loạn, bị quân Văn Lang chém giết tơi bời. Hồ Mị Hoa không biết đâu là đường ra mây đen, mây trắng cuồn cuộn che chắn hết cả tầm nhìn, chiêng trống dậy trời, quân reo dậy đất chỗ nào cũng có quân Văn Lang. Hồ Mị Hoa giờ đây mới biết ngũ hành trận pháp vô cùng lợi hại, phải phá tan mây đen, mây trắng, mới thấy được phương hướng thoát ra, liền hóa phép. Không ngờ càng hóa phép thời mây đen, mây trắng, cuồn cuộn phủ tới càng nhiều. Hồ Mị Hoa khiếp quá hóa ra trận cuồng phong thúc con Thiên Lý Mã vượt qua đầu quân binh lao ra khỏi trận.

Đây nói về Hồ Man Quân, trong lòng hồi hộp không biết có phá được trận ngũ hành không, lúc nào cũng nghe đao kiếm dậy trời, bỗng thấy một bóng ngựa từ trong trận bay ra, thời nhận ra ngay là Hồ Mị Hoa.

Hồ Man Quân thúc ngựa lao tới hỏi:

Quân ta thế nào?

Hồ Mị Hoa chưa hết kinh hãi nói:

E chết hết trong trận rồi.

Hồ Man Quân nghe Hồ Mị Hoa nói thế, điến cả người không biết Hồ Côn chết sống ra làm sao.

Đây nói về Dương Điền ở trên đài quan sát thấy quân Hồ xông vào trận đông như kiến, nào là bộ binh, nào là xạ binh, nào là kỵ binh, sức mạnh dời non lấp biển, khí thế hừng hực. Dương Điền tức thời ra hiệu lịnh phất cờ trắng, cờ xanh theo thế xáp chiến. La Bôn liền điều khiển đạo quân bộ binh, xạ binh, cùng đội quân kỵ binh lao ra chận đánh quân hồ, dậy trời dậy đất, xáp trận một hồi quân hồ mạnh quá. Quân Văn Lang được lệnh rút lui. Quân Hồ thừa thắng xông lên ào ào rượt đuổi quân Văn Lang như cuồn phong vũ bão. Quân Văn Lang được lệnh tẻ ra làm hai theo thế bao vây ẩn mình trong mây trận. Quân Hồ thấy quân Văn Lang biến mất trong mây trắng, mây đen, vô cùng kinh hãi.

Trên quan sát đài, cờ hiệu lịnh trắng, đen, xanh, đỏ, bốn phương tám hướng tấn công. Tức thời La Đôn, Kinh Hạ, điều khiển bốn đạo quân, chia ra làm hai, thành tám đạo quân đồng loạt tấn công, từ bốn phương tám hướng, tên bắn ra như mưa, quân Hồ rối loạn chạy chỗ nào cũng bị quân Văn Lang như thiên la địa võng phủ đánh.

Trên quan sát đài, Dương Điền thấy quân Ân lớp trước lớp sau xông vào trận càng lúc càng đông như kiến, liền phất cờ vàng hiệu lịnh, theo thế cắt đôi quân địch, chận đứng không cho quân giặc rút lui, chận đứng không cho quân giặc xông vào trận. Tức thời đạo quân chủ lực thiết giáp từ trung ương hành hỏa do tướng Đổ Trung Pha, nhanh chóng bọc hậu cắt đứt quân Hồ trong không cho ra, ngoài không tiến vào được, đội quân thiết giáp chủ lực, là đội quân phá sức mạnh của địch, quân Hồ lùi ra không được, tiến vào không xong bị quân Văn Lang xơi sạch.

Sau có thơ rằng:

Hơn nhau chỉ một nước cờ

Chuyển xây thế trận diệt loài ngoại xâm

Hơn nhau chủ động điều quân

Làm cho quân giặc hết mong sống còn

Ngũ hành khiếp vía quân thù

Xác phơi như núi hãi hùng ngoại xâm.
 
Top