Kho truyện ngắn cực hay

shopoga

✩✩
100. LÝ TRỌNG

Ngày xửa ngày xưa nơi cõi trần gian có một đất nước Tây Quản. Ở làng Mỹ Đức, Hồ Châu. Có một người tên là Lý Trọng, tánh tình cao ngạo không tin Nhân Quả, xem thường Tôn Giáo, Đạo Giáo, thường kể tiếu lâm nhạo bán thầy tu, sát sanh hại mạng, gà, vịt, dê, heo vô số kể, làm ăn ra của phải nói là giàu.

– Lý Trọng năm sáu mươi tuổi, một hôm lâm cơn bệnh nặng liền thấy hai con quỉ đến bắt hồn dẫn đi. Đeo vào cổ Lý Trọng đinh bài ác phạm tội đồ. Đưa hồn Lý Trọng xuống Âm Ti Địa Phủ tần thứ nhất. Sau đó thời giải đến pháp tòa. Nhất Điện Diêm Vương nhìn đinh bài đeo trên cổ Lý Trọng để bốn chữ Ác Phạm Tội Đồ. Bằng nói người nầy quả là hung ác, nhất là ác nghiệp phỉ bán các Tôn Giáo Đạo Giáo. Nhất Điện Diêm Vương hỏi ngươi có nhớ là phỉ báng Tôn Giáo, Đạo Giáo, khinh thường người tu tôn thờ Tôn Giáo Đạo Giáo bao nhiêu lần không? cũng như sát sanh hại mạng giết bao nhiêu gà, vịt, lợn, dê, chó? Lý Trọng nói tôi không nhớ rõ.

– Diêm Vương nhìn người bên trái nói Thẩm Phán Thẩm Tra người nầy phỉ báng Tôn Giáo, Đạo Giáo, cũng khinh thường người tôn thờ Tôn Giáo, Đạo Giáo bao nhiêu lần, cũng như sát hại sanh mạng gia cầm gia súc bao nhiêu mạng.

Thẩm Phán Thẩm Tra xem một hồi rồi nói tên nầy đã giết 9 nghìn 9 trăm 50 mạng. Nhạo báng Tôn Giáo, Đạo Giáo, khinh thường người tôn thờ Tôn Giáo, Đạo Giáo. 10 nghìn 200 trăm 60 lần. Nhất Diện Diêm Vương quay sang nhìn người bên phải hỏi, tội nầy thời xử ra sao? Phán Quan Luận Án phán Tội nói.

Thưa Diêm Vương tội nầy phải hành xử qua nhiều ngục.

1, Ngục đâm chém

2, Ngục chảo đồng

3, Ngục cối xay sắt

4, Ngục gà mổ heo xơi

5 Ngục chặt khúc

6, Ngục bỏ vào ao giá

7, Ngục bị cung tên bắn

8, Ngục xẻ thịt phân thây

9, Ngục rút gân đục sườn

10, Ngục lột da nạo mặt

11, Ngục moi gan móc tim

12, Ngục móc mắt cắt lưỡi

13, Ngục cưa xẻ

14, Ngục quết nem

15, Ngục xối nước sôi

16, Ngục ngậm lửa

17, Ngục nướng quay

18, Ngục kéo lưỡi ra cày

Nhất Điện Diêm Vương nghe Phán Quan đọc bản án lấy làm gục đầu nói y án.

Quỉ đầu trâu, quỉ mặt ngựa dẫn Lý Trọng đến nơi hành hình Địa Ngục đâm chém. Lý Trọng kinh hồn bạc vía nhìn thấy những tội nhân bị hành hình máu tuôn lênh láng, tiếng la ré đau đớn khiếp đảm kinh hoàng. lũ quỉ mặt mày hung dữ con thời cầm đao, con thời cầm mác, con thời cầm lê thi nhau đâm rối xả vào linh hồn nạn nhân, Lý Trọng như muốn ngất đi vì quá sợ hãi.

Hai con quỉ dạ xoa vừa nhìn thấy Lý Trọng bị quỉ đầu trâu quỉ mặt ngựa dẫn vào ngục, thời lao tới tóm cổ lôi đi, nhiều con quỉ khác cầm đao chạy tới lâm le đao búa lê mác thấy mà khiếp vía. Lý Trọng như muốn chết ngất, nhưng lũ quỉ nào có tha chúng trói chặt Lý Trọng rồi đâm cho mấy nhác. Nhưng kỳ lạ thay đâm không thủng lũ quỉ ngơ ngác rồi đâm tiếp mấy nhác nữa cũng đâm không thủng lũ quỉ gào thét ầm ỉ thi nhau mà chém mà đâm mà lụi, đao mác gãy lìa. Lý Trọng cũng quá bất ngờ không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Lũ Quỉ kinh hồn liền nói thằng nầy có pháp thuật không thể đâm chém được hãy dẫn qua bên Ngục chảo đồng nấu nhừ.

– Hai con quỉ lôi đầu Lý Trọng qua ngục nấu nhừ, mới bước vào ngục Lý Trọng đã nghe dầu sôi sùng sục, tiếng la ré hãi hùng của những linh hồn sắp bị quăn vào chảo dầu, hai con quỉ lôi đầu Ly Trọng đến một chảo dầu đang sôi sùng sục con quỉ nầy nói với con quỉ kia quăng nó vào chảo dầu đi, thế là Lý Trọng bị chúng quăn vào chảo dầu, nhưng lạ thay Lý Trọng không nghe đau đớn hay nóng gì, trong khi dầu đang sôi sùng sục, mà chỉ thấy mát lạnh trong người, hai con quỉ thấy Lý Trọng không hề hấn gì ngâm mình trong chảo dầu đang sôi sùng sục, thời lấy làm kinh dị, hai con quỉ lấy quạt lửa ra quạt, lửa bùng lên dữ dội phủ kín cả chảo dầu. Dầu sôi càng dữ dội, nhưng Lý Trọng vẫn tỉnh bơ như không có chuyện gì đã xảy ra.

Mấy con quỉ kinh hãi la lớn thằng nầy không thể nấu nhừ hay chiêng ráng gì được mà phải đưa đến cối xay để xay. Chúng lôi Lý Trọng ra khỏi chảo dầu ì ạch thằng nầy sao giờ đây nặng thế không lẽ dầu đã thấm hết vô trong mình nó. Bọn quỉ không lôi cổ Lý Trọng được nửa đành phải khiêng Lý Trọng đi. Vừa đến ngục cối xay Lý Trọng nghe cối xay sắt xay ồ ồ pha lẫn tiếng thét hãi hùng đau đớn của những linh hồn đang bị xay máu chảy lênh láng nhìn thấy mà phát khiếp.

Lũ quỉ nhanh chóng bỏ Lý Trọng vào cối xay, chỉ thấy cối xay, xay mãi mà không xay được Lý Trọng, Lý Trọng vẫn sờ sờ không hề hần gì, bọn quỉ kinh sợ nói người nầy vô cùng quái dị không xay được. Bằng bàn tính với nhau người nầy xay không được, nấu dầu không chết, đao kiếm đâm không thủng thôi thì quăn người nầy xuống địa ngục lạnh giá, thế là lũ quỉ khiêng Lý Trọng đến ngục lạnh giá chưa đến ngục giá lạnh, mà hơi lạnh đã thấu xương. Lý Trọng bị lũ quỉ quăn vào ngục giá lạnh, Lý Trọng nhìn thấy những linh hồn bị lạnh quá nức da tét thịt đau đớn rên la chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần. Lý Trọng ở trong ngục giá lạnh như ở trong hồ nước mát không hề hấn gì. Lũ quỉ thấy vậy liền khiêng Lý Trọng qua địa ngục tên bắn.

Chưa đi đến ngục mà đã nghe tiếng xé gió vù vù tiếng thét hãi hùng gào lên thê thảm những linh hồn đang bị tên bắn. Lý Trọng bị lũ quỉ liệng vào ngục tên bắn thời không khỏi hãi hùng khi nhìn thấy những linh hồn thân đầu trúng đầy tên, tay chân không có chỗ nào là không bị trúng tên linh hồn phạm nhân rên la đau đớn.

Lũ quỉ cai ngục tên bắn, vừa nhìn thấy Lý Trọng thời thi nhau nã tên nhưng tên không trúng người Lý Trọng, lũ quỉ càng tức giận bắn hơn nữa bắn mỏi tay cũng không làm rụng mảy lông Lý Trọng. Lũ quỉ sợ quá không bắn nữa cột trói Lý Trọng nằm đó. Chúng bàn với nhau đưa Lý Trong qua ngục phân thây. Lũ quỉ ở ngục nầy rất hăng thấy người là thi nhau chém tới. Con thời chặt chân, con thời chặt tay, xúm nhau phân thây Lý Trọng nhưng chúng không làm gì được tay chân Lý Trọng cứng hơn sắt, dao cắt không đứt cứng hơn da đồng.

Lũ quỉ mệt nhừ cũng không làm gì được Lý Trọng. Lũ quỉ nói thằng nầy khi còn ở nhân gian ăn thứ gì là da thịt cứng như thế. Lũ quỉ bằng khiêng Lý Trọng qua ngục rít gân đục sườn. Chúng cột trói Lý Trọng vào cột đồng. ra sức rút gân đục sườn, tiếng đục rền vang địa ngục, nhưng da thịt Lý Trọng vẫn trơ trơ như đá. Lũ Quỉ rút gân không được đục sườn không xong. Lũ quỉ la lên thằng nầy có phép biến thành mình đồng da sắt không làm chi được. Bằng đưa qua ngục moi tim lột da. Lũ quỉ dạ xoa ở đây nghe nói Linh Hồn Lý Trong da thịt cứng lắm không làm chi được, bằng tâu lên bọn đầu trâu mặt ngựa đưa những dụng tốt nhất moi tim lột da. Lũ quỉ ra sức mổ bụng moi tim nhưng mổ mãi không thành, chúng ra sức lột da lột mãi không được. Quỉ đầu trâu mặt ngựa chứng kiến cảnh ấy vô cùng kinh dị lấy làm lạ, lại nghe lũ quỉ dạ xoa nói không có ngục nào hành xử được liền sinh nghi người nầy tu pháp môn gì mà thần thông quảng đại như vậy. Bằng tâu lên Nhất Điện Diêm Vương.

Diêm Vương nói con ma Lý Trọng ghê gớm như vậy sao. những đao kiếm thường hành hình không được, thời phải dùng đến Thần Kiếm, Thần Đao, bằng cho người lấy Thần Kiếm Thần Đạo đưa cho quỉ đầu trâu, mặt ngựa, hành xử Lý Trọng.

– Nói về Lý Trọng không hiểu tại sao mình lại có Thần Thông kỳ lạ như vậy, nên không còn sợ hành hình nữa. Nhìn thấy quỉ đầu trâu mặt ngựa dẫn theo sau lũ quỉ dạ xoa những con quỉ đã từng hành hình mình, như không làm gì được. Quỉ đầu trâu, quỉ mặt ngựa ra lệnh trói Lý Trọng vào cột đồng. Quỉ đầu trâu mặt ngựa nhìn Lý Trọng rồi nói đã xuống địa phủ dù cho phép tắc đến đâu cũng bị hành hình.

Quỉ đầu trâu rút Thần Đao ra, ánh sáng Thần Đao tỏa ra ghê rợn. Lý Trọng vô cùng kinh sợ liền nhớ đến bốn chữ Nam Mô- A Men ánh đao chớp lên chém xuống ken một tiếng kinh thiên động địa Thần Đao như muốn gãy lìa. Quỉ đầu trâu khiếp vía. Quỉ mặt ngựa thấy vậy cũng kinh hoảng bằng rút Thần Kiếm ra phóng kiếm lên không niệm chú, tức thời Thần Kiếm tỏa ra muôn đạo hào quang từ trên không lao xuống Lý Trọng sợ quá miệng lền niệm Nam Mô- A Men Thần kiến lao xuống tới đỉnh đầu thời không lao xuống được nữa nổ lên một tiếng như sấm sét mất hết hào quang rơi xuống đất. Quỉ đầu trâu, quỉ mặt ngựa cùng lũ quỉ da xoa khiếp vía ngơ ngác đứng nhìn Lý Trọng.

– Quỉ đầu trâu, quỉ mặt ngựa báo lên Nhất Điện Diêm Vương. Nhất Điện Diêm Vương nghe xong cũng tái mặt, chuyện gì đã xảy ra. Đã sử dụng đến Đao Thần, Kiếm Thần mà cũng không làm chi được, thời biết làm sao đây, con ma nầy đã ra ngoài càn khôn rồi trường sanh bất tử, biết làm sao đây.

– Bằng nói đưa Lý Trọng đến đây không hành xử nữa, quỉ đầu trâu, quỉ mặt ngựa dẫn Lý Trọng đến trước pháp tòa. Nhất Điện Diêm Vương hỏi, nầy Lý Trọng ngoài tội xem thường các Đạo Giáo, Tôn Giáo, kìa cói nhạo báng người tu, cũng như sát sanh hại mạng, ngươi còn tu pháp môn gì mà kỳ quái như thế. Lý Trọng nói tôi không theo đạo nào cả chỉ tôn thờ Ông Bà Cha Mẹ mà thôi.

Nhất Điện Diêm Vương bằng cho người gọi Thẩm Phán sổ bộ đến phán rằng Ông xem kỷ lại hồ sơ tên nầy ở trần gian tu pháp môn gì mà địa ngục hành hình không được.

– Thẩm Phán sổ bộ xem xét lại từ đầu đến cuối pháp hiện Lý Trọng thường hay niệm Nam Mô- A Men. Bằng tâu thưa Diêm Vương người nầy khi ở trần gian thường hay niệm Nam Mô- A Men. Chỉ có thế thôi không tu theo đạo nào cả. Diêm Vương nghe nói đến bốn chữ Nam Mô, A Men thời kinh hãi nói đây là bài vị Thờ Trời.

– Diêm Vương nói thảo nào mà Thần Đao, Thần Kiếm chém không được. Dù cho Thiên Tiên, Địa Tiên cũng không hành hình nổi, huống chi là Địa Phủ của chúng Ta.

– Diêm Vương nói Nam Mô- A Men chính là bài vị Thờ Trời. Linh Chú của Thiên Ấn. Nay đã in sâu trong đầu Lý Trọng, thời khó mà hành hình cho được. Để Ta cầu lên Đức Chí Tôn giải quyết vụ nầy.

Vào điện thờ Trời Diêm Vương chắp tay cầu lên Cha Trời, cầu lên Đức Chí Tôn. Xin chỉ thị ý kiến.

Từ nơi hư không vọng xuống, hãy cho Lý Trọng sống thêm mười năm trở về trần gian ăn năng sám hối.

Diêm Vương từ Điện Thờ trở ra nói với Lý Trọng, theo lệnh của Trời Ta cho ngươi sống thêm mười năm nữa. Để ngươi ăn năng sám hối, ngươi không theo Tôn Giáo, Đạo Giáo thời thôi đó là quyền của ngươi điều đó không có gì là tội, nhưng không được nhạo báng Tôn Giáo, Đạo Giáo cũng như Thầy Tu, không được lạm sát hại mạng. Nếu biết tu theo Văn Hóa Cội Nguồn thời ngươi sẽ siêu sanh về trời, không còn trở lại nơi địa phủ nữa. Còn nếu ngươi tiếp tục con đường như trước đây, thời Đức Chí Tôn sẽ thâu bốn chữ Nam Mô- A Men trong đầu người. Quỉ Vô Thường sẽ bắt hồn ngươi xuống Địa Phủ hành hình. Diêm Vương nói xong liền sai quỷ vô thường đưa hồn Lý Trọng trở về trần gian nhập xác.

– Nói về gia đình con cái của Lý Trọng thấy cha đã mê sản hơn bảy ngày, ngày nào cũng rước thầy đến tụng kinh, nhảy múa bắt ấn, niệm chú, phù lửa, phun nước. Lý Trọng được quỉ đưa hồn về trần gian nhập xác liền mở mắt ra ngồi dậy nhìn thấy các Thầy đang nhảy múa phù phép gọi hồn liền nói làm ba cái trò nầy mà cứu được Ta sao?

– Các thầy đang nhảy múa nghe lý Trọng nói thế không bằng lòng cho lắm. Gia đình con cái nói nhờ các thầy đây ngày đêm phù phép gọi hồn nên Cha mới còn sống. Lý Trọng nói nơi địa ngục thiếu cha gì những vị Thầy như các Thầy đây bị quỉ hành hình đau đớn vô cùng rên la thảm thiết. Bằng kể lại tất cả những gì mình đã trải qua nơi Âm Phủ, cho gia đình cũng như các Thầy nghe. Lý Trọng nói Cha chỉ sống được thêm mười năm, trong mười năm còn lại Cha sẽ làm lành lánh dữ, không sát hại sanh mạng nữa. Nguyện tu hành theo Văn Hóa Cội Nguồn. Từ đó Lý Trọng đem tiền của giúp cho người nghèo, không con kìa cói nhạo bán các Tôn Giáo, Đạo Giáo nữa. Vì đã hiểu rõ Đạo nào cũng làm lành lánh dữ. Cùng một tôn chỉ với nhau. Là cầu mong siêu sanh về Thiên Giới. Thoát khỏi tam đồ khổ Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh.

Nam Mô Vô Tận Hư Không

A Men Như Ý liên thông đất trời

Chú Linh đệ nhất trên đời

Ấn Linh Pháp Chú không gì cao hơn

Nam Mô như ý A Men

Bài vị Linh Chú Anh Linh Thờ Trời

Chỉ cần đọc tụng một lần

Vượt qua kiếp nạn muôn trùng khó chi
 

shopoga

✩✩
101. NÀNG TIÊN THỨ CHÍN

Ngày xửa ngày xưa ở trên Non Tiên Thiện Kiến có gia đình Thiên Nga tu luyện thành người ( Trở thành Phi Tiên) Nga Vương có tất cả là chín người con gái duy chỉ có Út Nga là xinh đẹp hơn cả.

Út Nga một hôm đi chơi liền gặp một chàng trai khôi ngô tuấn tú chính là Công Tôn loài Công tu luyện thành người, thường tới lui kỳ quan, bảo tháp nghe kinh, nên Công Tôn ăn nói lưu loát Út Nga liền đem lòng thương yêu. Công Tôn cũng say đắm Út Nga. Thế là hai người lén lút bên nhau lâu ngày tới tai Nga Vương.

Nga Vương vô cùng tức giận, vì Nga Vương không thích loài Công nên quát mắng Út Nga nói rằng con không được qua lại với thằng khốn đó Út Nga bị cấm cố ở nhà. Công Tôn vì thương nhớ Út Nga muốn phát điên đành liều mạng đến nhà Út Nga.

– Nga Vương nhìn thấy Công Tôn tức quá hét lớn tao sẽ đánh chết mầy, thằng khốn dụ dỗ con gái tao. Công Tôn chỉ biết làm thinh không dám cãi lại hay chống trả bị Nga Vương đánh chết. Linh Hồn lưu lạc đến trần gian đầu thai vào một gia đình nghèo Ông Bà Gia Tự, ra đời với cái tên là Gia Đông ở gần Thị Trấn Cam Lông.

– Ông Bà Gia Tự tuy nghèo nhưng vẫn cho con đi học. Gia Đông học rất giỏi. Năm Gia Đông lên 16 tuổi không may Cha Mẹ qua đời Gia Đông trở thành mồ côi cha mẹ, một mình vào rừng đốn củi để sanh sống không ngờ lạc lối chẳng biết đường ra đi mãi đi mãi trước mắt hiện ra một suối tiên cảnh quang nơi đây đẹp như tranh vẽ, hoa nở khắp nơi.

Cảnh quang xinh đẹp biết bao là

Muôn sắc vạn màu, đủ thứ hoa

Suối trong in bóng, mây lơ lửng

Rừng xanh rộn tiếng, bởi chim ca

Bức tranh tạo hóa, như tranh vẽ

Bồng lai tiên cảnh, đã hiện ra

Lạc bước đi vào, nơi tiên cõi

Cũng thật là gần, nào có xa

Gia Đông đang say sưa ngắm cảnh bất ngờ từ trên trời bay xuống một đàn Thiên Nga. Gia Đông vội ẩn mình trong một khóm hoa. Đàn Thiên Nga đậu xuống bờ suối hiện ra chín nàng Tiên lần lượt cởi xiêm y để tắm. Người nào người nấy da trắng tựa bông, vóc dáng lưng eo ngực nở đầy mông. Gia Đông say sưa nhìn nàng Tiên thứ 9.

Nàng Tiên thứ 9 bắt gặp đôi mắt trong bụi hoa say sưa nhìn nàng. Các nàng Tiên tắm xong mặc xiêm y bay về trời, Gia Đông nhìn theo mãi như người mất hồn. Gia Đông không về nhà mà ở lại nơi đây trông chờ nàng Tiên thứ 9 xuất hiện.

– Nói về Út Nga cùng tám chị em bay trở lại Non Tiên Cực Lạc. Út Nga nhớ lại người lén nhìn mình ánh mắt vô cùng quen thuộc phải nói là rất quen. Út Nga nghĩ không lẽ là chàng Linh Hồn lưu lạc đến trần gian đầu thai làm người trần thế. Nàng liền bay trở lại trần gian đến suối Tiên, ở trên mây Út Nga nhìn thấy một chàng trai từ nơi suối Tiên ngâm bài thơ rồi bỏ đi.

Tháng năm thương nhớ một người

Bóng hình vời vợi đất trời xa xăm

Duyên tình sao quá mong manh

Dẫu bao thương nhớ cũng đành chia xa

Thương người nghĩ lại thương Ta

Đợi Chờ, chờ đợi tháng năm đợi chờ

Cố quên để hết nỗi sầu

Nhưng nào có được cạn bầu tâm tư

Tình xưa nàng đã lãng quên

Nàng không trở lại đợi trông ê chề

Thôi thì trở lại quê nhà

Quạnh hiu, hiu quạnh một mình cô đơn

Út Nga nào có biết chàng trai kia đã chờ đợi một năm trời. Vì trên Non Tiên Cực Lạc một ngày, thời ở nhân gian đã trải qua một năm. Út Nga nghe những lời thơ đau nhói trái tim nàng như muốn bật khóc.

Nói về Gia Đông chờ đợi nàng Tiên thứ chín ăn trái cây uống nước suối ròng rã một năm không thấy đàn Thiên Nga bay trở lại liền tìm đường trở về nhà. Út Nga bay theo sau nhìn thấy chàng trai đi vào ngôi nhà sụp xệ. Út Nga nghĩ chàng nghèo đến thế sao.

Trời đã vào xuân nơi đền thờ thường hay lễ hội, nam thanh nữ tú đi lễ đền thờ rất đông. Gia Đông cũng không ngoại lệ đi lễ hội đền thờ, đễ quên đi niềm thương nỗi nhớ một nàng Tiên. Gia Đông vui chơi cho đến mãi tận chiều, bằng ngồi nghỉ dưới gốc cây gần đền. Lúc nầy người đã thưa thớt không còn mấy người. Gia Đông bỗng nghe một giọng ngâm trong trẻo

Yêu nhau từ thuở trên trời

Tưởng đâu hạnh phúc nào ngờ xa nhau

Đôi bờ cách trở biết bao

Kẻ nơi Tiên cảnh người vào trần gian

Duyên tình chưa dứt còn xanh

Cho chàng cùng thiếp bên nhau vẹn tình

Trời xanh chỉ lối đưa đường

Giờ Ta gặp lại chúng mình thành đôi

Gia Đông nghe những lời nầy thời xao động cả con tim đang lúc ngơ ngác tìm kiếm người ngâm thơ. Thời thấy một người con gái đẹp tuyệt trần từ trong đền thờ đi ra. Gia Đông nhận ra ngay chính là nàng Tiên thứ 9 trong lòng liền rộn lên bao niềm sung sướng. Người con gái xinh đẹp tuyệt trần đến bên Gia Đông thỏ thẻ. Thiếp là nàng Tiên thứ 9 trở lại trần gian để gặp chàng. Gia Đông nghe xong lòng như nở hoa, hai người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ, khi sắp đến con đường trở về nhà. Bỗng nàng Tiên thứ 9 biến đi đâu mất. Gia Đông tìm kiếm một lúc ngẩn ngơ ngơ ngẩn tìm mãi cho đến tối mới trở về nhà.

– Gia Đông đẩy cửa bước vào thời thấy mâm cơm dọn sẵn, nhiều món ăn ngon Gia Đông vô cùng kinh ngạc, nghĩ mình có quen biết với ai đâu mà có người lo cho mâm cơm tử tế nầy. Gia Đông nhìn quanh nhưng nào có thấy ai.

– Bụng đói lại thấy những món ăn ngon, ngồi xuống ăn hết sạch, ăn xong thời ngoài hiên trời cũng đã tối đen cơn gió lạnh đã lùa vào song sổ. Gia Đông không ngủ được vì nhớ đến người con gái xinh đẹp chong đèn đọc sách đến sáng.

Gia Đông lại vào rừng đốn củi đem về đổi lấy bát gạo nắm rau khi về đến nhà thời thấy mâm cơm đã dọn sẵn.

– Một hôm trời mưa to gió lớn, Gia Đông nhìn thấy một con Thiên Nga ở ngoài sân lạnh lẽo run lập cập. Gia Đông vốn thích chim Thiên Nga liền ra bế con Thiên Nga vào lòng ôm vào nhà chăm sóc tử tế. Thương yêu nói từ nay Thiên Nga ở đây với Ta, Ta chỉ có một mình. Thiên Nga như hiểu tiếng người gục gục cái đầu, từ đó mỗi lần đi ngủ Gia Đông thường để Thiên Nga bên cạnh mình.

– Nói về Gia Đông suy nghĩ mãi không biết ai là người nấu cơm, xào rau, làm nhiều món ăn ngon dọn sẵn cho mình. Bằng nói với Thiên Nga. Thiên Nga ở nhà xem ai đã giúp Ta, khi Ta về thời chỉ cho Ta biết.

Gia Đông lại vào rừng đốn củi, đi được một đoạn xa liền quay trở lại núp sau nhà xem ai đã giúp mình bấy lâu nay.

– Gia Đông bỗng thấy một người tiên nữ phải nói là xinh đẹp, người ấy không ai khác hơn, chính là nàng Tiên thứ 9 đã gặp nơi đền thờ. Gia Đông theo dõi thấy nàng Tiên thứ 9 quét nhà, nấu ăn, thời lao vào nắm lấy tay nói nàng chính là Tiên Nga thứ 9 mà tôi thương nhớ bấy lâu nay. Út Nga nàng Tiên thứ 9 không rụt tay lại để cho Gia Đông nắm. Út Nga nói em chính là Thiên Nga ở Non Tiên Cực Lạc tu luyện thành Tiên. Em có yêu một người tên là Công Tôn loài công tu luyện thành tiên. Cha em là Nga Vương vốn ghét loài công, nên đánh chết Công Tôn. Linh Hồn Công Tôn lưu lạc đầu thai xuống trần chính là chàng mang tên là Gia Đông. Có lẽ vì nhân duyên chưa dứt nên Trời xui khiến cho hai ta gặp lại nhau. Gia Đông nghe xong không còn gì sung sướng hơn.

– Thế là hai người trở thành vợ chồng chung sống với nhau thật hạnh phúc. Út Nga hóa ra vàng, bạc châu báu, mua đủ thứ đồ dùng, sửa sang lại nhà cửa sạch đẹp khang trang. Hối thúc Gia Đông học hành mai sau tìm được công danh.

– Hai vợ chồng Gia Đông ăn ở với nhau được ba năm thời trên trời một đàn Thiên Nga bay xuống hiện ra tám người con gái vô cùng xinh đẹp. Út Nga vui mừng nói các chị đến thăm em, chị cả Nhất Nga nói em vắng mặt ba ngày trên Non Tiên Cực Lạc, Cha có hỏi mấy lần nhưng các chị đều dấu nói là em đang tu luyện pháp thuật thần thông. Em mau trở về Non Tiên Cực Lạc bằng không Cha sẽ đến đây thời mất mạng cả hai.

– Chị cả Nhất Nga nhìn Gia Đông nói, Gia Đông bây giờ là loài người không phải là Loài Công. Mà loài người là cốt cách Rồng Tiên. Nếu không mất Đạo làm người, khi mãn kiếp trần Gia Đông sẽ trở thành Chánh Tiên, không phải Phi Tiên như chị em chúng Ta. Nhất định Cha sẽ gả Út Nga cho Gia Đông nếu Gia Đông giữ được lòng chung thủy. Thời hai người sẽ gặp lại nhau trên Non Tiên Cực Lạc. Lúc ấy ngươi thành Chánh Tiên sẽ chê muội Út Nga của Ta, vì trên Non Tiên Cực Lạc thiếu gì Tiên Nữ xinh đẹp. Nói xong Chỉ Cả của Út Nga nắm lấy tay Út Nga bay về trời. Gia Đông chỉ biết nhìn theo mà rơi nước mắt.

– Gia Đông dồn hết nỗi buồn vào việc chuyên tâm học hành thi đỗ đậu cao được Vua Hùng Thái Lang bổ nhiệm về làm quan tri huyện Thuận An.

Gia Đông không màn đến vợ con mà họa hình Út Nga bầu bạn sớm hôm, hết lòng lo cho dân cho nước tu theo Đạo Nhân Luân.

– Làm quan được mười năm từ trong bức tranh Út Nga hiện ra nói Cha thiếp chấp nhận cho thiếp làm vợ của chàng

– Từ đó hai người sống với nhau sanh được bốn người con hai trai hai gái đều học thành tài đứa lớn đã được 16 tuổi.

– Gia Đông kêu các con lại nói trần gian chỉ là cõi tạm thiên đàng mới thật chính quê, quê hương chính của Cha Mẹ ở trên Non Tiên Cực Lạc. Gần 20 năm qua Cha đã tu thiền luyện khí kết tụ nhị xác thân. Còn xác thân phàm tục nầy Cha đã vay mượn nơi cõi trần, những gì vay mượn đều phải trả. Cha sẽ bỏ lại xác phàm trả lại cho trần cùng Mẹ con là Út Nga bay về quê hương Non Tiên Cực Lạc chung sống cùng nhau chờ các con lên.

Nói xong Gia Đông nhắm mắt xuôi tay linh hồn thoát ra khỏi thể xác hóa ra chàng trai khôi ngô tuấn tú hào quang sáng chói, các con Gia Đông nhìn thấy cũng phải kinh hãi cho sự việc xảy ra, còn Út Nga nhìn không chớp mắt. Gia Đông nắm lấy tay Út Nga nói trở về Non Tiên Cực Lạc thôi em. Út Nga nhìn bốn người con nói ráng tu theo Đạo Nhơn Luân. Cha Mẹ sẽ rước các con về Non Tiên Cực Lạc nói xong hai người bay lên trời. Có tám người đang đợi trên tần mây. Những người đợi trên mây là những chị em của Út Nga. Thấy Gia Đông khôi ngôi tuấn tú cốt cách Thần Tiên còn đẹp hơn Công Tôn ngày xưa. Ai nấy cũng trằm trồ ca tụng Út Nga có phúc quá.
 

shopoga

✩✩
102. ĐĨA MUỐI VÀ ĐĨA THỊT

Ngày xửa ngày xưa ở huyện Hòa Chánh, có một cô giáo dạy văn nổi tiếng tên là Mỹ Hạnh. Cô nổi tiếng là kể chuyện rất hay. Đến giờ lên lớp của cô Mỹ Hạnh học sinh im lặng lắng nghe. Cô Mỹ Hạnh mở trang sách ra xem một hồi, ngước lên nhìn cả lớp rồi nói, hôm nay các em học môn thay đổi nếp sống.

Để nắm bắt được nội dung bài học Cô sẽ kể câu chuyện làm thay đổi nếp sống mà không cần dùng đến bạo lực hay ép buộc gì cả, đó là mẫu chuyện đĩa muối và đĩa thịt. Cả lớp reo hò chúng em rất thích nghe Cô kể chuyện. Cô Giáo Mỹ Hạnh ra dấu hiệu im lặng.

Cô kể rằng ngày xửa ngày xưa có một gia đình Họ Bảo tên là Thủ Lĩnh đông con, có thể nói là rất đông, đông như đàn vịt. Vì đông con bửa nào ăn cơm cũng dọn lên đĩa muối để ăn. Không may Thủ Lĩnh qua đời quyền huynh thế phụ anh cả tên là Bảo Thủ lên thế cuộc sống không gì thay đổi bữa ăn nào cũng dọn lên cũng chỉ là đĩa muối. xưa cũng thế và nay cũng thế anh em nhà Thủ Lĩnh ra sức bảo vệ đĩa muối cho tới cùng. Ai nói gì cũng không nghe, biểu gì cũng không thay đổi, có người biểu vứt đi thay thế món khác thời anh em nhà Thủ Lĩnh chống trả quyết liệt.



Ngoài món muối ra anh em nhà Thủ Lĩnh không biết đến những món khác. Quanh năm suốt tháng cũng chỉ là muối.

Cô Mỹ Hạnh nhìn các em rồi nói, ở đời dù vật ngon cho mấy, nếu cứ món ấy ăn hoài thời cũng ngán tận xương.

Huống chi là đĩa muối mặn chát nếu ăn nhiều càng thêm khác nước, thế mà anh em nhà Thủ Lĩnh ngày nào cũng nuốt tuy ớn muối tới tận óc, nhưng cũng phải ăn nếu không ăn thời chết đói. Sống ở đời có thể nói chín người mười ý có một số anh em nhà Thủ Lĩnh nhìn sang nhà hàng xóm trước đây họ cũng ăn muối để sống, nhưng nay thời đã khác thấy họ ăn toàn cá thịt thời thèm lắm, nhưng không biết làm sao thay đổi món ăn vì đĩa thịt không có.

– Cho đến một hôm các em nhà Thủ Lĩnh bàn với người anh cả Bảo Thủ nên thay đổi món ăn khác. Anh cả nói món khác là món gì, đàn em nín thinh không nói. Người anh cả Bảo Thủ quát chúng bây muốn chết cả lũ sao ném đĩa muối đi thời chúng ta lấy gì để mà ăn. Tao cũng biết bữa nào cũng đĩa muối không ăn thời đói mà ăn thời ớn tận óc. Nhưng biết làm sao vì chưa tìm ra món ăn nào khác để thay thế. Nghe anh cả nói như vậy tất cả ngồi im lặng.

– Cứ thế mấy anh em nhà Thủ Lĩnh người nào chịu muối thời bụng phình to như con ễnh ương khác gì cái trống kêu to rỗng tuếch. Còn người nào dị ứng ớn quá nuốt không nổi thời ốm tong ốm teo, nhưng biết làm sao đành nhờ người hàng xóm can thiệp. Các nhà hàng xóm có dịp để khoe món ăn bằng phô trương nào là sơn hào hải vị, nem rồng, chả phụng để cho anh em nhà Thủ Lĩnh nhìn thấy mà thèm, nếu anh em nhà Thủ Lĩnh nghe lời họ bỏ đi đĩa muối thời họ sẽ cung cấp đĩa thịt cho ăn.

Tay anh cả Bảo Thủ nào phải tay ngu trí lúc nào cũng tính toán. Ở đời hễ miếng ớt trao qua thời miếng cà trao lại nào có ai đem đến cho không. Những thứ mình không làm ra chỉ biết nương nhờ vào tay hàng xóm thời làm sao thay cho đĩa muối lâu dài được.

Khi cá đã ăn câu nếu thuận theo ý họ, thời họ cho ăn nhỏ giọt, còn nếu thấy không có lợi cho họ, thời họ không chu cấp cho nữa, lúc ấy đĩa muối không còn lấy gì để sống. Tay anh cả vốn đã già kinh nghiệm nghĩ cái lợi thời ít, cái hại thời nhiều vì thế luôn khép kín chẳng muốn thay đổi cuộc sống. Anh cả Bảo Thủ nói anh em ta bốp bụng thôi cứ giữ đĩa muối để mà ăn, còn hơn ném đĩa muối để rồi chết đói trong khi chưa có món ăn khác để thay thế.

– Từ đó người nào có ý tưởng thay đổi đĩa muối thời bị đánh hoặc giam nhốt, la trời khóc đất oán hận người anh cả, những người xưa nay đã bị dị ứng với đĩa muối càng ráng nuốt ăn vào đầu óc liền có vấn đề sanh ra nhiều tật lắm bệnh nào là bệnh biến thái, bệnh tự chuyển biến, bệnh tự chuyển hóa, tự chống phá lại sự Bảo Thủ Độc Tài Độc Trị. Đòi Tự Do Công Bằng Bình Đẳng sống theo Đĩa Thịt. ai muốn ăn theo kiểu nào thời ăn. Không chịu sự bó buộc bảo thủ nữa.

Cô Giáo Mỹ Hạnh nói các em có biết không. Mối họa sinh ra là do một số anh em nhà Thủ Lĩnh không theo kịp thời đại, khi xung quanh nhà hàng xóm họ đã tiến hóa cuộc sống lên một tầm cao. Ăn toàn đĩa thịt thay cho đĩa muối giữ lại ít muối làm gia vị cho món ăn mà thôi. Với tình thấy nầy không nói cũng biết nhà anh em Thủ Lĩnh sắp tiêu ma tan rã đến nơi. Cơ nghiệp Ông Cha làm nên tiêu tan thành mây khói.

– Cũng may cho đại gia đình Thủ Lĩnh không quên Cội Nguồn. Nên Ông Cha nhìn thấy con cháu nheo nhóc, khốn khổ trăm bề lại mang nhiều chứng bệnh do thừa chất muối hầu hết là mang chứng bệnh mất trí không phân biệt được phải trái, chia bè rẽ phái đấu đá lẫn nhau. Cứ tình hình nầy không bao lâu tự hại nhau rồi chạy theo những nhà hàng xóm, cơ nghiệp Ông Cha gầy dựng theo đó cũng mất luôn.

Bằng hiện về đem đĩa thịt để trên bàn Anh Cả nhìn thấy liền hỏi ai đem đĩa thịt đến, một số người nói không ai đem đến cả mà do Ông Cha hiện về đem cho chúng Ta. Anh Cả vốn xưa nay cũng đã ngán ngẫm đỉa muối nhưng chẳng lấy gì thay thế.

– Nay nhìn thấy đĩa thịt bốc hơi thơm phức anh cả kêu các em đến nói đĩa thịt là của Ông Cha Ta đem đến cho chúng Ta, còn nói thêm rằng các con cứ tự nhiên mà dùng ăn hết đĩa nầy Ta đem đến đĩa khác. Các em nghe Anh Cả nói thế liền gắp cục thịt bỏ vào miệng thưởng thức, thấy vừa ngon vừa lạ, ăn vào khỏe cả người.

Anh Cả nói các em đem đĩa muối cất vào trong xó, lâu lâu đem ra dòm ngó mà thôi. Đàn em nói sao Anh Cả không cho vào sọt rác, thằng nào còn luyến tiếc thời chui vào sọt mà xơi.

– Anh Cả nói đĩa thịt của chúng Ta là của Ông Cha chúng Ta, không phải là của các nhà hàng xóm. Đĩa thịt hàng xóm toàn là thịt mỡ lộn với da. Còn đãi thịt của chúng Ta toàn là thịt nạc pha chút ba rọi. Đúng là đĩa thịt thời đại vừa cao cấp vừa văn minh. Từ đó anh em nhà Thủ Lĩnh thay đổi chiều hướng đa phương hóa Đa Nguyên tự do công bằng bình đẳng. Thằng nào thích thèm đĩa muối ăn vào bị xơ cứng thời tống cổ nó ra khỏi nhà quan nhà quyền, cho về vườn nuôi gà nuôi lợn. Trị cái tội mù mờ khù khờ thiên đàng sung sướng không đi, địa ngục âm ti khổ cực lao đầu vào.

Gia đình nhà Thủ Lĩnh Độc Tài Độc Trị, từ đó trở thành Nhà Dân Chủ, Tự Do, Nhân Quyền lần lần sánh vai cùng với những nhà hàng xóm giàu có. Tự mình làm ra đĩa thịt thừa dư ăn còn xuất sang các nhà hàng xóm.

– Cô Giáo Mỹ Hạnh kể đến đây nhìn các em xem phản ứng ra sao. Thấy một số em lặng im, một số em chưa hiểu như muốn hỏi gì đó. Cô Giáo Mỹ Hạnh liền giải thích thêm câu chuyện làm thay đổi nếp sống mà không cần bắt buộc ai cả. Cô nói ví như người có chiếc xe đạp trành chạy cà rịch cà tang, đạp nặng muốn chết. Nhưng biểu người ấy bỏ chiếc xe đạp đi thời người ấy không bao giờ chịu bỏ. Nhưng chỉ cần đem xe hon da đến tặng cho, thời người có xe đạp trành tự vứt xe đạp trành vào xó, không ai nhìn thấy nữa là khác. Câu chuyện trên cũng vậy muốn cho gia đình Thủ Lĩnh bỏ đi đĩa muối thay đổi nếp sống văn minh. Thời phải có đĩa thịt đem đến trao cho họ để họ tự làm chủ đĩa thịt. Không cần biểu họ bỏ đĩa muối, họ cũng bỏ, bỏ một cách êm thấm khi đã có đĩa thịt.

– Làm thay đổi một nếp sống con người, hay làm thay đổi chiều hướng của một chế độ. Không cần ép buộc phải thay đổi. Chỉ cần đem lại nếp sống Văn Minh cho họ, thời tự chính họ thay đổi. Với phương pháp ấy còn gọi là Bất Chiến Tự Nhiên Thành.
 

shopoga

✩✩
103. HUYỀN CƠ THÁNH ĐỨC

Đứng trên mục giảng Thầy Giáo Liêm nói.

Câu Chuyện Huyền Cơ Thánh Đức, không phải là ai cũng biết nếu không có Minh Sư thuyết giảng cho nghe. Hôm nay các em học bài mới đó là câu chuyện Thánh Đức. Các em học sinh lấy làm vui mừng hỏi câu chuyện Thánh Đức hay không Thầy?

Thầy Giáo Liêm nói câu chuyện hay hoặc dở là do sự nhận thức của mỗi em, cốt truyện bao giờ cũng mang nội dung triết lý, hàm ý phản ảnh một sự việc nào đó, để cho người nghe nhận thức nâng cao trình độ cũng như sự giác ngộ. Thầy Giáo Liêm nói các em chú ý lắng nghe.

– Vào thuở xa xưa có vị Tôn Sư Huệ Tịnh đến đền thờ An Tân Phổ Đại thuyết giáo về thời Thánh Đức. Thời Thánh Đức là thời non nước được bình yên, cuộc sống như mùa xuân, làm ăn giàu lên phơi phới. Ai ai cũng sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Dân giàu nước mạnh Nhân Quyền Dân Chủ, Văn Minh. Cả hàng chục triệu năm mới lặp lại một lần. Những ai sanh ra gặp thời Thánh Đức phải nói đã từng tu luyện vô lượng kiếp. Những người gặp được Thiên Ý Văn Hóa Cội Nguồn, hành sự theo Văn Hóa Cội Nguồn là những người đã từng là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa nguyện sanh xuống chốn nhân gian truyền bá Thiên Ý lập công bồi đức tiến hóa Linh Hồn lên một tầm cao mới.

– Những người may mắn sanh ra gặp thời Thánh Đức mà không gặp được Chánh Pháp nghĩa là không gặp được Văn Hóa Cội Nguồn thời coi như bỏ qua cơ hội hàng chục triệu năm. Thật đáng tiếc cho những người vô duyên kém sự may mắn như vậy, phải tu luyện chờ đợi trải qua hàng chục triệu năm nữa không biết có gặp được Văn Hóa Cội Nguồn hay không. Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ý Cha Trời chỉ xuất hiện thường là ở vào giai đoạn cuối tiểu kiếp trải qua 16 triệu 800 nghìn năm.

Những ai bỏ qua cơ hội không tìm đọc Kinh, Thơ, Văn Hóa Cội Nguồn thời đáng tiếc biết là bao. Mất đi cơ hội trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, cũng như cơ hội siêu sanh về trời.

Tôn Sư Huệ Tịnh giảng thao thao bất tuyệt, không gấp một lời giảng làu làu rõ chữ từng câu. Ai chú ý lắng nghe liền được trí mở huệ khai như thấy mình vừa trải qua một cơn phẫu thuật, người mù được sáng ra.

– Khi ấy có vị Thiện Nhân trí thức tên là Tôn Kha chắp tay thưa hỏi Tôn Sư Huệ Tịnh.

Thưa Tôn Sư ai có đủ khả năng để lập lên đời Thượng Ngươn Thánh Đức. Phải chăng đó là vị Thánh được Trời lựa chọn lập lên đời Thượng Ngươn Thánh Đức?

Tôn Sư Huệ Tịnh nói. Cơ Thánh Đức là nói đến chu kỳ Thánh Đức lặp lại. Cũng như mùa xuân không có vị nào lập lên mùa xuân, mà chu kỳ mùa xuân lập lại. Hết Thượng Ngơn Thánh Đức, thời tới Trung Ngơn Nhơn Đức, hết Trung Ngơn Nhơn Đức, thời Hạ Ngươn Mạt Pháp. Cứ thế chu kỳ tuần hoàn lập đi lập lại. Đến chu kỳ mùa xuân lập lại thời muôn hoa đua nở thi sắc khoe màu rực rỡ khắp nơi.

Đến thời kỳ Thượng Ngươn Thánh Đức nhất là những chu kỳ nghìn năm sự lặp lại của Thượng Ngươn Thánh Đức gần cuối tiểu kiếp, nhân loại con người thi nhau hướng thiện vì chơn Dương Hưng Thịnh hiệp với tánh khí lành nên gọi là Thượng Ngươn Thánh Đức. Vì sự hướng Thiện mạnh mẽ con người đi đến sự giác ngộ hiểu biết về vũ trụ, cũng như đạo, và đức, hiểu chính nghĩa và phi nghĩa thành tựu trí huệ đỉnh cao phần đông trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, trở lại Thiên Đàng Cực Lạc. Thượng Ngươn Thánh Đức chính là mùa xuân Đạo Đức tinh hoa trí huệ Đạo Đức con người sẽ nở rộ làm tươi đẹp cuộc sống, cũng như non sông đất nước.

– Như vậy Thượng Ngươn Thánh Đức không ai lập lên cả, mà là chu kỳ lặp lại mỗi chu kỳ của thượng ngươn Thánh Đức, ví như mùa xuân lặp lại trăm hoa đua nở khoe sắc khơi màu làm đẹp cho đất trời. Đến chu kỳ Thượng Ngươn Thánh Đức trí huệ Đạo Đức con người kết trái đơm hoa thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa xã hội nhân loại con người trở thành xã hội Thiên Đàng Cực Lạc trần gian.

– Theo định luật tuần hoàn Trời chuyển xuân thiên hạ sống theo xuân. Cơ Trời chuyển đến Thượng Ngơn Thánh Đức, thiên hạ sẽ sống theo Cơ Vận Thượng Ngơn Thánh Đức. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, ra đời, ra sức tận độ nhân loại về trời đi vào cơ tận độ. Như vậy Không phải Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa khai lập tạo nên Thượng Ngơn Thánh Đức. Mà đến chu kỳ Thượng Ngơn Thánh Đức trí huệ con người tỏa sáng đi vào kết trái đơm hoa trở thành, Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

– Khi Trời chuyển đến cơ Thượng Ngươn Thánh Đức thời Trời cũng khiến cho Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trên các tầng trời lâm phàm xuống trần mở đường dìu dắt nhân loại theo Thiên Ý của Trời đi vào cơ tận độ, tức là Truyền Bá Văn Hóa Cội Nguồn lập lên đời Thượng Ngươn Thánh Đức xã hội Thiên Đàng trần gian.

Điều đáng nói ở đây, mùa xuân lập lại, khác với làm nên sự kiện trong mùa xuân. Có nghĩa là mùa xuân đem lại sự thuận lợi cho muôn hoa đua nở. Còn muôn hoa nở cách nào là do muôn hoa. Thượng Ngươn Thánh Đức lập lại đem lại sự thuận lợi cho phát triển đạo đức. Còn lập lên đời Thánh Đức thời phải do con người dày công tạo lập. Có Nghĩa Là:

– Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đều ra phò Thiên Ý, truyền bá Thiên Ý tận độ nhân loại con người trong chu kỳ Thượng Ngươn Thánh Đức lập lên đời Thánh Đức Thiên Tân.

– Khi ấy có vị Thiện Nữ tên là Tuệ Tâm chắp tay thưa hỏi. Thưa Tôn Sư: Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, ra đời tận độ con người lập lên đời Thượng Ngươn Thánh Đức. Trong thời Thượng Ngươn Thánh Đức ai là Vua của thời Thượng Ngươn Thánh Đức xin Đức Tôn Sư chỉ dạy cho.

– Vị Tôn Sư nghe xong rồi trả lời rằng. Vua Của Thượng Ngươn Thánh Đức, không phải Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Mà là Thiên Ý Cha Trời đã chuyển thành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, trở thành Pháp Vương tối cao của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Đem lại sự công bằng bình đẳng cho Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, trong nền Quốc Đạo Dân Tộc. Cũng như cuộc sống xã hội ai cũng như ai bình đẳng trước Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Dân Tộc.

Tóm Lại: Không có Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, nào lập lên Cơ Vận Thượng Ngươn Thánh Đức, mà là chu kỳ vận hóa Tuần Hoàn theo Thiên Ý, Huyền Cơ Thượng Ngươn Thánh Đức lập lại. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, dựa vào Huyền Cơ Thiên Ý Thánh Đức, lập lên đời Thượng Ngươn Thánh Đức đi vào cuộc sống. Đem lại mùa xuân no ấm cho đời, tiến tới dân giàu nước mạnh xã hội công bằng bình đẳng tự do ấm no hạnh phúc.

– Cả lớp chú ý lắng nghe thầy Giáo Liêm kể câu chuyện Thượng Ngươn Thánh Đức, phản ảnh sâu sắc hai cảnh giới mùa xuân lặp lại và muôn hoa đua nở, làm nên rực rỡ của mùa xuân. Cũng như chu kỳ Thượng Ngươn Thánh Đức lặp lại trí huệ con người thi nhau tỏa sáng đơm hoa kết quả thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, tạo lên cảnh đời mùa xuân thiên đàng cực lạc trần gian. Các em như lột xác trở thành một con người khác, con người của thời đại Thánh Đức Văn Minh.
 

shopoga

✩✩
104. SƠN TINH THỦY TINH

Vào những thập niên cuối niên đại Hùng Vương, không biết bao nhiêu chuyện xảy ra, không những chiến tranh loạn lạc, mà nơi triều đình thời bè phái đấu đá nhau, tranh giành quyền lực cũng như bất đồng chính kiến. Còn đường tình duyên thời lắm chuyện ly kỳ xảy ra, nào là Chữ Đồng Tử, nào là Mai An Tim. Nhưng ở đây chỉ kể về câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh.

– Trước công nguyên 270 tại nơi làng chài Hải Nam, xã Đức Minh, Châu Ninh Hải. Có cặp vợ chồng làm nghề chài lưới, sinh được một người con trai đặt tên là Thủy Tinh, vì khi Bà mang thai thấy một người từ dưới nước bay lên nói Ta là Thủy Tinh. Nên Ông Bà chài lưới đặt tên cho con là Thủy Tinh.

– Thủy Tinh lớn lên lặng dưới nước còn hơn loài rái có khi lặng cả buổi trời mới trồi lên, Ông Bà chái lưới từ đó cá ăn không hết còn dư đem bán mua những thứ khác gia đình trở nên ăn no mặc ấm không thua kém gì những gia đình khấm khá ở làng chài. Thủy Tinh càng lớn càng khôi ngô tuấn tú năm 17 tuổi Thủy Tinh đang lặng xuống sông thời thấy một người mặt Rồng hiện ra, con hãy theo Ta. Thủy Tinh liền theo người mặt Rồng đến một cung điện dưới thủy cung.

– Ở nơi đây có đầy đủ quân binh, binh tôm, tướng cá, nghêu, sò, ốc, hến, Tướng cá mập, tướng cá Xà nhìn cung điện, cũng như đủ loại quân binh thời ai cũng biết chính là vua Thủy Tề nơi Nam Hải.

– Ở cung Thủy Tề Nam Hải, Thủy Tinh được vua Thủy Tề truyền dạy cho pháp thuật thần thông, hơn năm thời trở lại dương trần trở về xóm chài.

Nói về hai Ông Bà làng chài tưởng Thủy Tinh chết rồi, phần nhớ con phần tuổi già hai vợ chồng sinh bệnh rồi qua đời. Thủy tinh trở về thấy không còn Cha Mẹ liền chu du dưới lòng sông đáy biển.

– Cùng thời ấy ở làng Tản Sơn, Huyện Hòa Viên, Hà Châu, có vợ chồng tiều phu nghèo nhưng ăn ở có đức Ông Bà họ Nguyễn. Bà tiều nằm mộng thấy một vị Thần oai phong khôi ngô tuấn tú nói rằng Ta sẽ làm con Bà. Ta là Sơn Tinh. Từ đó Bà Tiều Phu mang thai, rồi sanh ra một cậu con trai đặt tên là Sơn Tinh.

– Sơn Tinh càng lớn càng khôi ngô tuấn tú sức mạnh như hổ như voi một mình làm bằng ba bốn người từ đó gạo nấu dư thừa đồ ăn thức uống lúc nào cũng có trong nhà Ông Bà tiều phu nhàn hạ không còn lo gì nữa. Năm Sơn Tinh lên 15 tuổi bị một trận gió cuốn đi đâu mất sau mới biết thì ra được một vị Tiên Ông đưa đi đến đỉnh núi Trung Sơn truyền dạy cho pháp thuật thần thông, võ công tâm pháp thượng thừa. Sau ba năm tu luyện thành tài. Tiên Ông nói Ta ở trên cung Trời Đao Lợi Thiên có cơ duyên với con nên Ta mới xuống trần truyền thụ võ công và pháp thuật cho con, nói xong thời Tiên Ông biến mất.

– Nói về Ông Bà tiều phu họ Nguyễn sinh con đã muộn khi Sơn Tinh 15 tuổi Ông Bà tiều phu cũng đã già thấy Sơn Tinh bị một trận gió lạ đưa đi đâu mất hơn một năm không thấy biệt tăm biệt tích buồn thương nhớ con lâm bệnh mà qua đời. Sơn Tinh trở về thời thấy mồ mả Cha Mẹ mọc cỏ đã xanh. Bằng bỏ nhà lên vùng núi ba vì sanh sống, làm bạn với gió núi, mưa rừng. Bầu bạn với thú cầm chim muôn suối, thác.

– Ở vào thời ấy Vua Hùng Vương thứ 18 Hùng Duệ Vương đời cuối của Niên Đại Hùng Vương, Hùng Duệ Vương có một người con trai nhưng chết yểu năm 14 tuổi. Hùng Duệ Vương không còn con trai nối dõi, còn lại hai người con gái xinh đẹp hai Mẹ khác nhau. Tiên Dung lớn tuổi hơn gọi là chị. Kết duyên cùng Chử Đồng Tử.

Mị Nương nhan sắc đẹp tuyệt trần, không thua gì Tiên Dung. Tiên Dung vì ưng Chử Đồng Tử không còn trở về cung, chỉ còn lại Mị Nương. Hùng Duệ Vương thương yêu hết mực, Mị Dung muốn gì được nấy. Hùng Duệ Vương muốn tìm một người chồng cho Mị Nương thật xứng đáng, liền ra thông cáo kén rể truyền đi khắp nơi khắp chốn. Tin kén rể lọt vào lỗ tai hai chàng trai tài giỏi Thần Thông Pháp Thuật Võ Nghệ Cao Cường.

– Hai chàng trai liền đến cầu hôn Vua Hùng hỏi danh tánh, tên họ là gì ở đâu?

Thủy Tinh quỳ lạy tấu trước Thưa Quốc Vương Thần là Thủy Tinh quê ở Làng Chài Hải Môn.

Đến lượt Sơn Tinh, Sơn Tinh quỳ lạy tâu rằng Thần là Sơn Tinh quê ở Tản Sơn, Huyện Hòa Viên, Hà Châu. Vua Hùng hỏi hai chàng trai có tài gì?

Thủy Tinh tâu trước bằng nói. Thưa Quốc Vương Bệ Hạ Thần có thể làm cho nước dâng lên tràn ngập hết thảy. Kéo mây kéo gió, sấm sét ầm ầm, mưa xuống như trút chỉ trong chốc lát là trôi sạch nhà cửa. Thủy Tinh nói xong thời chỉ tay lên trời niệm chú tức thời mây đen kéo tới che phủ cả bầu trời. Thủy Tinh chỉ tay thêm cái nữa tức thời sấm sét nổi lên đùng đùng làm cho cả triều thần khiếp kinh hồn vía. Thủy Tinh phất tay một cái tức thời mưa như trút xu, mang theo gió bão kinh hồn chỉ trong vòng tích tắc ngập bờ ngập sá nước càng lúc càng dâng cao. Vua Hùng thấy thế lấy làm vừa lòng nhưng sợ nước dâng cao ngập tràn chết dân, cũng như nhà cửa, gà, vịt, heo, dê, trâu, bò trôi hết. Bằng nói bấy nhiêu đó là đủ chàng trai thâu phép lại đi. Thủy Tinh liền phất tay một cái tức thời trời quang mây tạnh, mặt trời ló dạng ánh nắng tràn về không còn mưa gió gì nữa. Ai nấy cũng làm khiếp sợ tài phép của Thủy Tinh.

– Vua Hùng nhìn Sơn Tinh rồi hỏi chàng trai có tài phép gì? Sơn Tinh quỳ xuống tâu rằng Thần chỉ cần phất tay một cái, tức thời biến thành đồng lúa xanh, chỉ tay một cái là mọc lên hàng dãy núi, Sơn Tinh nói xong liền phất tay về hướng đông thời kỳ diệu thay biến thành đồng lúa xanh bát ngát, chỉ tay về hướng tây tức thời núi non mọc lên san sát, Vua Hùng nhìn thấy cũng phải hãi kinh, bằng nói thôi dừng lại Ta nhìn thấy tài của Sơn Tinh rồi.

– Vua Hùng nói hai chàng trai không ai tài hơn ai Một là Chúa miền non cao. Một là Chúa của vùng nước thẩm. Cả hai đều xứng đáng làm con rể của Ta.

Hùng Duệ Vương rất khó chọn lựa, không biết chọn người nào, nhận lời ai, từ chối ai.

– Hùng Vương cho mời các quan Lạc Hầu. Lạc Tướng, Lạc Vương, bàn luận tìm ra kế sách ai làm phò mã. Cuối cùng cũng tìm ra kế sách các quan Lạc Hầu, Lạc Tướng, Lạc Vương tâu rằng.

– Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ: Bệ Hạ hạ chỉ ngày mai, nếu ai đem đồ sánh lễ đến đây trước, sánh lễ gồm một trăm ván cơm nếp, hai trăm cặp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi thời được rước dâu về.

– Trời vừa hừng đông Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến trước lúc mặt trời chưa lên tỏa ánh dương quang. Và được phép đưa Mị Nương về núi.

– Thủy Tinh đến sau chậm hơn vài ba mươi phút, nghe Sơn Tinh rước mất Mị Nương. Bằng nổi giận đùng đùng đem quân đuổi theo đòi cướp lại Mị Nương. Thế là trận giao tranh xảy ra kinh hồn bạt vía

– Thủy Tinh hô mưa gọi gió cuồng phong bão tố mưa trút xuống không ngớt, sấm sét kinh hồn chuyển trời rung đất, nước dâng lên cuồn cuộn sóng vỗ ầm ầm binh tôm tướng cá thét gào rền trời rền đất.

Về sau có thơ rằng:

Thủy Tinh đến sau mất vợ

Nổi giận đùng đùng

Đưa quân rượt đuổi đánh liền Sơn Tinh

Thế là trận đánh xảy ra

Thủy Tinh hóa phép gió mưa ầm ầm

Sấm rền sét nổ vang trời

Nước dâng cuồn cuộn ngập tràn núi non

Nhà cửa xóm làng vùi chôn

Trâu, bò, gà, vịt trôi đi chẳng còn

Mây đen phủ khắp bịt bùng

Binh tôn tướng cá sáng ngời gươm đao

Cá xà cá mập ốc, ngao

Tấn công lớp lớp xiết bao kinh hồn

Cát bay đá chạy mịt mù

Khắp nơi cây cối đổ nhào ngã lăn

Thần thông pháp thuật Thủy Tinh

Mấy ai chống nổi khiếp kinh tiêu đời.

Nói về Sơn Tinh tới trước rước được vợ, đưa Mị Nương về núi đi chưa được bao xa, thời nghe quân binh từ xa rượt tới mây đen che kín phủ khắp bầu trời. Mưa bão nổi lên ầm ầm. Trước cũng nước mà sau cũng nước, binh tôm tướng cá thi nhau lao tới, gươm đao loang loáng nhìn thấy khiếp kinh. Sơn Tinh không hề nao núng tay bắt ấn miệng lâm râm niệm chú, dùng pháp di sơn dời từng dãy núi chặn đứng dòng nước lũ, hóa phép hổ, báo, hiện ra, xé xác binh tôm tướng cá, đại bàng chim điểu, diều hâu, bay chật kín bầu trời từ trên không lao xuống mổ nuốt quân Thủy Tề, hai bên giao tranh ác liệt. Nước dân cao bao nhiêu, thời núi non mọc cao lên bấy nhiêu.

Về sau có thơ rằng:

Được vợ nào chịu thua ai

Không hề nao núng ra tay trổ tài

Hóa phép hổ báo khắp cùng

Đại bàng, chim điểu nào là diều hâu

Lao vào ăn nuốt cá tôm

Nghêu sò, ốc, hến, cũng như mập xà

Di sơn chận nước khắp cùng

Núi cao chót vót nước đành phải thua

Giao tranh tới bảy ngày đêm

Thủy Tinh thua cuộc hết mong tranh giành

Thủy Tinh lòng giận vô cùng

Thường gây lụt bão trả thù Sơn Tinh

Sơn Tinh dẫn Mị Nương về núi sống với nhau hạnh phúc. Không bao lâu Hùng Duệ Vương kêu Sơn Tinh về nhường ngôi. Sơn Tinh còn có bí danh là Nguyễn Tuấn. Sơn Tinh họ Nguyễn lại khôi ngô tuấn tú. Nên có bí danh là Nguyễn Tuấn.

– Nguyễn Tuấn hiểu rõ Huyền Cơ niên đại Hùng Vương sắp đi vào kết thúc. Nên không tranh giành với Thục Phán. Vì lúc đó Thục Phán có nhà Khoa Học là Cao Lỗi đã tìm ra bí pháp luyện kim thời dựng nước chế tạo ra những mũi tên thép bắn xuyên thủng áo giáp. Đó cũng là Ý Trời. Nên Nguyễn Tuấn, không chịu tiếp nhận sự nhường ngôi của Vua Hùng, mà chỉ sống với vợ là Mị Nương hai người cùng tu tiên học đạo, không bao lâu thời vợ chồng Nguyễn Tuấn bay về trời. Đi theo con đường của vợ chồng Chử Đồng Tử.

– Về sau dân chúng suy tôn Sơn Tinh Nguyễn Tuấn là Tản Viên Sơn Thánh.
 

shopoga

✩✩
105. CÂU CHUYỆN TÂM ĐIỀN

Ngày xửa ngày xưa có một vị Thiền Sư tên là Văn Ba, tu hành đắc Đạo thu nhận được ba người đệ tử đều là bậc kỳ tài. Người đệ tử lớn tên là Chu Thông, người đệ tử kế tên là Tử Nho, người đệ tử thứ ba tên là Ái Nhu.

– Thiền Sư Văn Ba thường dạy với các đệ tử rằng. Tâm con người chính là Tâm Điền. Ví như cánh đồng rộng lớn, nếu biết canh tác gieo trồng. Nhất là chọn giống tốt chất lượng cao thời các con sẽ giàu to muốn gì được nấy.

– Còn như biếng nhác không gieo trồng gì cả, để cỏ dại mọc lên, thời các con phải chịu cảnh nghèo đói, thành ruộng hoang uổng phí biết là bao.

– Còn ra sức gieo trồng mà không phân biệt được giống nào tốt giống nào xấu cứ gieo bừa vào cánh đồng, ra công sức thời nhiều nhưng đến khi gặt hái thời rất thấp. Có khi mất trắng trở thành công cốc, khổ cực tốn kém mà chẳng được gì. Thiền Sư Văn Ba dạy thời nhiều nhưng chính yếu vẫn là Tâm Điền. Thiền Sư Văn Ba nhìn ba người đệ tử nói các con đã thành tài tự mình chọn cho mình một hướng đi, theo sự hiểu biết của các con. Ba đệ tử lạy Thầy rồi xuống núi mỗi người đi mỗi ngã luôn ghi nhớ lời thầy dạy, chú trọng vào Tâm Điền.

– Người đệ tử lớn tên là Chu Thông hiểu rõ lời Thầy dạy nên chọn những hạt giống có chất lượng gieo vào Tâm Điền những hạt giống Thiên Ý tức là Văn Hóa Cội Nguồn. Hạt Giống Kinh, Thơ, Văn, Sử, Triết, Truyện. Hiến Pháp Luật Tạng, Giới Đức Đại Thừa ra sức học hành nghiên cứu không mệt mỏi hầu làm cho Tâm Điền của mình về sau kết trái đơm hoa rực rỡ.

– Người đệ tử thứ hai tên là Tử Nho vốn ưa thích Pháp Thuật Thần Thông, cũng như sự linh ứng nhiệm mầu nên chọn những hạt giống bùa chú gieo vào Tâm Điền của mình, sự vọng cầu chứng đắc.

– Còn người để tử thứ ba tên là Ái Nhu xu hướng theo vật chất tham gia đảng phái, gieo trong Tâm Điền những sự cạnh tranh, ác, thiện lẫn lộn tuy làm quan tới hàng Bộ Trưởng, nhưng nói đến phúc quả thời chẳng được là bao.

– Nói về Chu Thông gieo trong Tâm Điền những hạt giống Thiên Ý. Một màu xanh Âm Đức tràn ngập linh hồn, đi tới đâu cũng được Hộ Pháp Long Thần hộ trì che chở, Cha Mẹ Trời thường phù hộ vượt qua tất cả những chướng ngại gặp toàn những chuyện may mắn trong đời. Nhờ gieo trồng trong Tâm Điền Văn Hóa Cội Nguồn Kinh, Thơ, Văn, Sử, Triết, Truyện, những hạt giống Thiên Ý đã mọc lên thành rừng kim cương ngọc ngà châu báu. Kết tụ thành dòng cam lộ nước thánh. Nên Chu Thông nói tới đâu người ta hiểu đến đó độ người vô số, danh tiếng lẫy lừng.

– Một hôm có một tên Quan nổi tiếng là hách dịch, mời Chu Thông đến với lời xúc phạm. Chu Thông chẳng giận lại nói có phúc mới được làm Quan, nhưng phúc đức không phải tự nhiên mà có, phải làm phước giúp người mới có, đã không làm ra phúc đức mà tiêu xài quá lớn. Hết phúc thời tai họa theo đó hiện ra, không mời không biểu nói cứ lết la đeo bám người hết phúc, gây ra bao phiền phức cũng như hiểm họa khôn lường. Nảy giờ quan hù dọa chửi mắng tôi, theo luật chửi một người không tu thời tội 10, chửi một người tu thời tội 100, chửi một người hành sự theo Thiên Ý thời tội lên đến 1000, có nghĩa tự nảy giờ quan đã làm tổ đức cho mình biết là bao.

Ở đời sự tổn đức cao nhất chính là bất hiếu với Cha Mẹ. Cũng như xem thường Trời không coi Trời ra gì thời dù cho phúc đức như núi thời Quan cũng xài nhanh hết trong bỗng chốc liền tiêu tan theo mây khói. Phúc hết thời họa ập đến rất nhanh. Cây cỏ do Trời tạo lúa gạo cũng do Trời sanh. Không khí, nước uống, đất đai, mây gió những thứ đó đều là của Trời. Kinh trời thời Trời lấy lại tất cả,

Tôi nói ra đây không phải là đặc điều. Vì trên đầu chúng Ta là Trời dưới chân Ta là Đất. Mỗi lời nói ra Trời Đất đều nghe thấy. Nếu Quan không từ bỏ những lời phỉ báng Thiên Ý thời tai họa nhất định phải đến không sớm thời chầy mà thôi. Vị Quan nghe xong sừng sộ đòi bắt nhốt Chu Thông. Tao là Trời, Trời là Tao. Tao muốn trắng là trắng, Tao muốn đen là đen. Tao cấm truyền Thiên Ý nếu còn tái phạm thời ở tù mọt gông.

Chu Thông ra về nghĩ thương cho vị Quan ngu si đần độn dựa hơi chút Quan coi Trời bằng nắp vung. Được mấy hôm nghe đâu vị Quan hách dịch không biết ai xui khiến ký chú sai sót đi đến phạm pháp, có công văn đình chỉ công tác đuổi cổ về dân còn may đi tù nữa là khác, xưa nay ỷ quyền ỷ thế muốn làm gì thời làm, nay chẳng còn gì tự treo cổ nơi cơ quan mà chết. Những người hùa theo Quan không hiểu vì sao có người trào máu họng rồi đời, có người bị đuổi cổ về vườn, trở thành điên điên khùng khùng mách mách, trước đây thấy dân làm như cọp sói, giờ thấy dân như con chuột thấy mèo khép nép sợ hãi, hậu quả của hành ác đương nhiên tai ương sẽ tới, nhất là phỉ báng Ông Trời, xem thường Thiên Ý. Ông Trời chưa làm việc thời Thiên Thần, Địa Thần Hộ Pháp đã ra tay.

Về sau có thơ rằng:

Chống ai không chống, chống Ông Trời

Phước đức chẳng còn, họa đến rất nhanh

Trên đầu thời có Trời xanh

Dưới đất thời có Thần Linh khắp cùng

Mấy ai lạm dụng chức quyền

Xem thường Trời, Đất lên đời mấy ai

Luật Trời Thiên Ý Hóa Công

Làm đều bất chính hết mong an lành

Nhất là phá hoại Cội Nguồn

Tiêu tan cơ nghiệp đọa đày hồn Linh

Cũng do nhạo bán Thơ, Kinh

Tự mình treo cổ đi tiêu xác hồn

Họa tai khắp lối khắp cùng

Phúc đà cạn kiệt khó mòng bình yên

Tai ương dồn dập triền miên

Không người che chở đi tiêu cuộc đời

Xem thường nhạo bán Ông Trời

Kết cuộc thê thảm rồi đời con ma

Nói về người đệ tử thứ hai là Tử Nho gieo vào Tâm Điền của mình những hạt giống bùa chú vọng cầu chứng đắc, cứu nhân độ thế bằng sự linh ứng của bùa phép trở thành Thầy Pháp, tuy được nhiều người sùng kính, tiền của ăn không hết, nhưng trong Tâm Điền của Tử Nho không phải là cánh đồng màu mở sự đơm hoa kết trái của hạt giống bùa chú vọng cầu chỉ là quả bạc quả đồng, không phải là quả vàng quả kim cương như Chu Thông. Phần nhiều làm cho con người trở thành mê tín dị đoan. Nên độ người chẳng được bao nhiêu.

– Nói về đệ tử thứ ba là Ái Nhu, gieo trong Tâm Thức của mình, những hạt giống tranh bá, thắng là vua thua là giặc, mưu mô tính toán những sự bất chính trái Lương Tâm. Trước mắt là có quyền có thế trở thành giàu có, ăn sung mặc sướng, tiền hô hậu ủng bề thế chẳng ai bằng. Nhưng, gieo hạt giống Thiện Lành trong Tâm Điền chẳng được là bao, đi tới đâu cũng tom góp đô la, ngà voi, sừng tê giác, chim trỉ trắng, gà chín cựa. Những hạt giống Tâm Thức trong Tâm Điền toàn là tham lam không có giá trị cho sự giải thoát. Lẫn quẩn trong đường sanh tử.

– Một hôm ba người học trò về thăm Văn Ba Sư Phụ. Văn Ba Sư Phụ nhìn ba đệ tử người nào cũng nên danh rực rỡ thời lấy làm mừng nói không uổng công thầy dạy bảo bấy lâu. Ba người học trò liền hỏi về tương lai của mình, Thiền Sư Văn Ba liền nhập thiền xem ba đệ tử gieo những gì trong Tâm Điền của mình. Thiền Sư Văn Ba xem xong rồi nói. Các con gieo trong Tâm Điền mình mỗi người mỗi khác, nói về sự gặt hái hiện tại thời Ái Nhu là thành tựu hơn hết. Với con mắt đời thời ai cũng phải thừa nhận Ái Nhu thành đạt địa vị công danh rất cao. Nhưng đó là chỉ nói nơi trần gian. Còn sau khi mãn trần Linh Hồn nhận lãnh được gì thời theo Luật gieo trồng gieo Nhân kết Quả mà thọ hưởng thiên cơ bất khả lậu không nói được.

– Thầy Văn Ba nhìn Tử Nho rồi nói ở thế gian nầy phần đông là chạy theo bùa chú, cầu sự linh ứng, cũng như quả vị nầy quả vị kia. Sự thành tựu của Tử Nho là thiên hạ bái sống thành công như thế thời chẳng được mấy người. Nhưng ở tương lai đương nhiên sẽ được về trời. Nhưng làm gì trên trời, thiên cơ bất khả lậu không thể nói trước được.

– Thầy Văn Ba nhìn Chu Thông rồi nói, trước mắt hiện tại con hưởng lộc không lớn, có kẻ chê nầy người chê kia, nhưng trong Tâm Điền Con toàn là ngọc ngà, kim cương châu báu. Trong tương lai con giàu lắm, nhưng không phải nơi trần gian mà ở trên cõi Thiên Đàng. Thiên Cơ đâu thể nói nhiều Thầy cho biết bấy nhiêu là được. Đất, Trời tuy rộng lớn nhưng tất cả đều theo Định Luật. Các con gieo trong Tâm Điền những gì thời các con hưởng cái nấy. Có những hạt giống gieo ra thời gặt liền theo đó, như làm quan, làm vua làm chúa chốn nhân gian. Có thứ gieo ra phải chờ thời gian hoặc khi mãn kiếp trần mới được hưởng. Các đệ tử chú ý lắng nghe nhưng không được rõ. Chỉ có Chu Thông là thấy rõ mà thôi.

– Ngày qua tháng lại cái già đã đến không bao lâu bỏ lại xác trần, Ái Nhu Linh Hồn không mang theo được gì của trần trả lại cho trần chỉ là hai bàn tay trắng. Trong khi ấy trong Tâm gieo toàn những hạt giống thất đức. Tuy không đọa đày xuống cõi Âm Ti, ở lại trần gian làm Ma Âm Cảnh, nhờ không làm hại dân hại nước, nên hưởng được sự cúng thí của người trần, chờ nhân duyên đầu thai trở lại làm người hưởng theo phước, họa. Thiện, Ác những gì mình đã gieo ra.

Nói về Tử Nho khi mãn kiếp trần, nơi Tâm Điền gieo trồng bùa chú, vọng cầu sự chứng đắc linh ứng, thường hay giúp người, được siêu sanh về trời, làm Thiên Chúng, thành dân trời như bao người khác, một mình tự hát tự ca, cô đơn trên cõi bao la xứ trời.

– Nói về Chu Thông gieo trong Tâm Điền những hạt giống có chất lượng hạt giống Kinh, Thơ, Văn, Sử, Triết, Truyện, Hiến Pháp Luật Tạng. Giới Đức Thượng Thừa. Toàn là Thiên Ý lời dạy Cha Trời. Một màu xanh Âm Đức tràn ngập Linh Hồn, kết thành dòng cam lộ nhiệm mầu. Chu Thông độ người vô số. Mãn kiếp trần siêu sanh Thiên Giới làm Vua một cõi trời. Thiên Chúng Chư Thiên đông vô số vô biên.

Thơ rằng:

Thiên Ý Cội Nguồn

Văn Thơ của Trời

Gieo vào Tâm Điền

Mọc lên cánh đồng châu báu

Hào quang tỏa sáng

Phúc Đức Phước Báo không thể nghĩ bàn

Mãn trần về trời

Làm Vua làm chúa uy quyền oai linh

Cõi nước châu báu trang nghiêm

Vĩnh hằng sống mãi ở trên cõi trời
 

shopoga

✩✩
106. PHƯỚC HỌA DO MÌNH

Ngày xưa có một người làm quan tên là Nhạo, làm đủ thứ điều ác vợ ông Ngạo là Bà Hậu khuyên can không nên làm nhiều chuyện thất đức. Ông Nhạo không nghe mà còn rầy la Bà Hậu, thiệt thà như Bà hạt muối cũng không có ăn nói gì đến cơm với cá. Từ khi Ông Nhạo làm quan đến giờ nào là tham nhũng tham ô, nào là móc ngoặc tay trong tay ngoài, nào là lạm dụng chức quyền ký chú không nằm trong chủ trương chính sách, ăn tiền chạy chọt đút lót, tiền quà cáp, tiền biếu thi nhau lũ lược chảy vào túi bầy bầy, lại hay bài bác những người hành thiện, cho những người hành thiện là một lũ ngu. 20 năm làm đủ chuyện ác nhưng nào có sao đâu.

– Một hôm Ông nhìn Bà Hậu rồi nói tu như bà thời được cái gì thằng Dậu nó theo Bà thời coi như đời nó chấm hết. Bà coi con Liên, thằng Quan, thằng Quản đi theo chí hướng của tôi đứa nào đứa nấy thi nhau hốt của.

– Xưa theo Phật coi bộ chưa đã, nay Bà lại tin theo Văn Hóa Cội Nguồn suốt ngày mê say đọc tụng kinh thơ, tổ chỉ làm khổ thân Bà thôi. Bà Hậu nghe chồng bài xích Văn Hóa Cội Nguồn thời sợ hãi nói tôi xin Ông, Ông đừng có xúc phạm đến Văn Hóa Cội Nguồn vì Văn Hóa Cội Nguồn chính là Văn Hóa Thiên Ý. Ông bài xích Phật thời Phật không làm gì được Ông, còn bài xích Văn Hóa Cội Nguồn thời lại là một chuyện khác tai họa ập xuống tình lình không ai cứu nổi.

Ông Nhạo cười châm biếm nói tôi xúc phạm đó thời ai làm gì được tôi. Bà Hậu nói với chức quan của Ông chưa phải là Vua, dù cho Vua quyền lực to lớn đến đâu mà xem thường phỉ báng Văn Hóa Cội Nguồn thời không sao tránh khỏi tai họa.

Văn Hóa Cội Nguồn chính là Văn Hóa Thiên Ý Cha Trời. do Anh Linh Huệ Mạng Quốc Tổ thừa hành nói ra, phạm vào Văn Hóa Cội Nguồn là phạm vào Thiên Ý, phước đức mau hết, Quốc Tổ quở phạt, Hồn Thiên Dân Tộc nhà nước tâm linh Văn Lang giáng họa. Thần, Thánh chẳng để yên cho Ông. Ông Nhạo chồng Bà hậu nghe Bà Hậu nói thế thấy trong người hơi ớn lạnh. Nhưng ngoài mặt vẫn làm cứng nói tôi không sợ.

– Qua mấy bửa sau Ông Nhạo đang đi trong nhà bỗng nổi lên choáng váng quay đòng đòng đánh đầu xuống nền nhà cái rầm, lăn đùng ra bất tỉnh. Thời ôi thôi tê liệt nửa thân người, nằm hết bệnh viện nầy đến bệnh viện kia chẳng hề thiên giảm. Trong nháy mắt quyền lực tan theo mây khói chẳng còn, chẳng thấy con ma nào đến thăm, trước đây thời chúng nó quỳ lạy từ ngoài sân vào nhà. Mình chưa nói gì chúng thi nhau đưa phong bì mà đút lót. Đến bây giờ mới biết tiền vô như nước đâu không thấy. Mà chỉ thấy ăn uống đái ỉa đều nhờ Bà Hậu và thằng Dậu luôn bên cạnh không nề khổ nhọc hết lòng chăm sóc. Còn Liên, Quan, Quản, tới nhìn Cha hỏi qua loa rồi bỏ đi nói là đang bận việc.

– Ông Nhạo lúc nầy mới suy nghĩ nhớ lại những gì Bà Hậu nói càng nghĩ càng thêm sợ. Còn khỏe mạnh thời cậy quyền cậy chức, dưới con mắt xem ai chẳng ra gì, kể cả Thánh Thần cũng xem thường nốt. Đến khi ngã bệnh quyền thế biến mất bất lực nằm một chỗ, con ruồi cũng đuổi không nổi, đến lúc nầy mới biết chức danh quyền lực chỉ là hư ảo. Chỉ cần đột quỵ là nó biến mất không còn. Ông Nhạo lẩm bẩm thế là hết đời đã tàn, đến lúc nầy tiền vô túi bầy bầy đâu không thấy mà thấy tiền ra như nước lũ một mũi thuốc chích tiền triệu, đến vài triệu.

Ông Nhạo tuy hai tay cử động được, như ăn phải nhờ người ta đút. Miệng nói lơ lớ Ông nói con gà người ta tưởng là Ông nói con vịt. Quan và Quản lại đến thăm Ông nhìn thấy không có Bà Hậu, chỉ có Dậu, bằng hỏi Mẹ đi đâu rồi Dậu. Dậu thật thà nói. Mẹ đi đến đền thờ cầu nguyện xin Trời Phật, Hồn Thiên Dân Tộc phù hộ cũng như tha tội phỉ bán của Cha.

Quan, Quản, nghe xong nói Mẹ lúc nào cũng làm những chuyện không đâu. Ở vào thời đại ngày nay chứng bệnh đột quỵ là chuyện thường, Phật, Trời nào làm chuyện đó cầu xin vô ích. Ông Nhạo nghe Quan và Quản nói thế trong lòng lấy làm kinh hãi miệng lơ lớ nói. Hai con không nên đụng tới Văn Hóa Cội Nguồn. Quan và Quản tưởng Cha dặn rằng là không tin Văn Hóa Cội Nguồn. Bằng nói Cha yên trí đi Cội Nguồn là cái gì mà con phải tin theo. Ông Nhạo nghe Quan, và Quản nói thế liền tái mặt sợ hãi miệng nói lơ lớ tiếng được tiếng mất.

Lúc ấy Bà Hậu cũng đã về nhìn thấy mặt mày Ông Thâm tái miệng lơ lớ nói bà không biết Ổng nói gì. Quan và Quản nói Cha khuyên chúng con không nên tin theo Văn Hóa Cội Nguồn. Bà Hậu nghe xong thời sững sờ nhìn Ông Nhạo lắc đầu rồi nói, Ông nói với các con như vậy sao? Ông Nhạo lắc đầu như nói rằng mình không nói thế mà là nói khác.

– Quan và Quản nói Mẹ lúc nào cũng tin sự linh thiêng của ông nầy bà nọ còn chúng con thời không tin những chuyện ấy chỉ tin theo những gì mình làm, sống mà không có mưu mô thời tiền của lấy đâu vô mà tiêu xài ăn sung mặc sướng.

Bà Hậu nghe Quan, Quản nói thế thời la rầy, im cái miệng lại cho tao nhờ, hai đứa mầy có thấy Cha mầy không, nghiệp cũng từ miệng mà ra, họa cũng từ miệng mà vào. Gieo nhân nào thời gặt quả nấy. Nhạo báng Ông Cha Ác khẩu sanh ra thời bình yên làm sao được.

Ông Nhạo giờ đây đã tin nhân quả cũng như tin sự linh thiên của Văn Hóa Cội Nguồn nhưng đã muộn màng vì tai họa đã ập đến. Ông ráng ra sức lơ lớ nói với Quan và Quản không nên xem thường Văn Hóa Cội Nguồn tai họa sẽ ập đến hãy tin lời Mẹ con nói.

Nhưng miệng Ông không theo ý Ông lơ lớ nói các con hãy ném mấy quyển kinh thơ vào sọt rác. Bà Hậu nghe xong thời mặc mày tái mét la rầy Ông Nhạo. Ông đã nằm liệt giường mà còn chưa tỉnh ngộ sao? Quan và Quản nói Mẹ thấy chưa Cha nào có tin, con phải học theo lòng kiên định của Cha dù nằm liệt giường cũng vậy mà thôi.

– Ông Nhạo nghe Quan, và Quản nói thế lòng hoang mang sợ hãi vô cùng cứ lắc đầu thở dài.

Dậu là người tinh ý biết là lời nói của Cha có vấn đề liền đưa cây viết cho Cha, Cha muốn nói gì thời viết ra đây. Ông ra ni biểu đỡ mình ngồi dậy Ông viết liền một hơi đưa cho Bà Hậu. Ông nói rằng không hiểu vì sao tôi muốn nói con gà, nhưng khi nói ra là con vịt. Tôi khuyên Quan và Quản không nên phỉ báng Văn Hóa Cội Nguồn, nhưng miệng lại nói ra là không tin Cội Nguồn. Nên chúng nó mới hiểu lầm lời nói của tôi. Quan và Quản trong lúc Ông Nhạo đang viết thời đã ra khỏi phòng viện lý do là có công việc gấp. Bà Hậu chỉ biết thở dài ra là thế Trời đã khốp họng, ý muốn nói cái nầy nhưng miệng lại nói ra cái kia. Có lẽ nằm viện đã ớn, Ông Nhạo đòi về nhà.

– Ông Nhạo về nhà chưa lâu, Bà Hậu đang chăm sóc cho chồng nghe điện thoại reo. Bà Hậu bắt điện thoại A Lô nghe đây. Mẹ đó hả tiếng nói của Liên, thằng Quan bị tai nạn rồi đã chuyển vào bệnh viện sống chết chưa rõ. Bà Hậu tái mặt hốt hoảng trời ơi là trời. Ông Nhạo mở mắt ra hỏi chuyện gì vậy. Bà Hậu hớt ha hớt hãi nói thằng Quan bị tai nạn rồi chưa biết sống chết ra sao. Tiếng điện thoại lại reo Bà Hậu hồi hộp hỏi nó sao rồi, bên kia đầu điện thoại Liên nói Quan đã qua khỏi cơn nguy kịch, nhưng xét nghiệm máu bị dương tính HiV bị sê đa rồi. Bà Hậu rụng rời tay chân như muốn quỵ xuống. Ông Nhạo lúc đó cũng nghe như muốn ngừng thở thều thào nói tai họa ập đến rồi.

– Ông Nhạo giờ đây vô cùng thấm thía hồi nào sừng sộ ra oai như con hổ, giờ đây con ruồi bâu vào mặt đuổi cũng không nổi còn thua cả con ruồi. Quan bị tai nạn, lòi ra mang bệnh HiV coi như đi tiêu cuộc đời. Bịnh Ông càng thêm nặng lòng đau như xé thấm thía cho cuộc sống ở đời không như mình nghĩ muốn làm gì thời làm. Hậu quả đến rồi dù ăn năn cũng không còn kịp.

điện thoại lại reo lên, Bà Hậu như không muốn nghe, nhưng điện thoại reo mãi không nghe cũng không được, đánh bắt máy lên A Lô A Lô. Bên kia đầu giây không phải là tiếng nói của Liên mà là một người khác. Bà Hậu hỏi ai vậy. Tôi là Cảnh Sát An Ninh, Quản đã bị bắt vì tội làm thất thoát tiền của Nhà Nước. Bà Hậu hốt hoảng la lên trời ơi là trời, tai họa nầy chưa hết, tai họa khác lại ập đến trời ơi là trời. Ông Nhạo tưởng đâu là thằng Quan có vấn đề, bằng hỏi chuyện gì vậy.

– Bà Hậu nói thằng Quản bị bắt rồi cái tội làm thất thoát tiền nhà nước Bà như muốn quỵ xuống. Ông Nhạo miệng thờ lơ lớ không biết nói gì nước mắt chảy ròng ròng. Bỗng nghe tiếng chân vội vàng chạy vào nhà thì ra là Dậu mặt mày tái mét không còn chút máu hớt ha hớt hãi nói Công An đã bao vây nhà mình. Không biết có chuyện gì mà Công An kéo đến nhà bao vây như vậy.

Bà Hậu còn đang ngơ ngác thời đồng chí Công An bước vào nhà đọc lệnh khám xét nhà, lục lạo một hồi lôi ra một đống giấy tờ, liên quan đến nhiều vụ lạm dụng chức quyền ký nhiều giấy tờ liên quan đến làm ăn phi pháp, dính liếu đến vàng, bạc, đô la. Đồng chí Công An đọc lệnh bắt khẩn cấp, nhưng thấy Ông Nhạo nằm bất động trên giường liền cho hai đồng chí Công An hầu hạ moi ra nhiều tội trạng.

Xử luôn một thể.

– Gia đình bỗng chốc trở nên tan nát, đứa thời lây lất, đứa thời vào nhà tù. Đám cưới con Liên bên đàng trai đã hủy bỏ. Họa chồng lên họa, tai chồng lên tai. Rằng đời được có mấy ai. Gieo ác gặt phúc có đâu ở đời. Gieo ác gặt họa sự thường, Bài xích Văn Hóa Cội Nguồn tránh đâu cho khỏi trùng trùng họa tai.

– Gia đình Ông Nhạo trong phút chốc tiêu tan tất cả Ông buồn rầu nếu sống thời cũng vào tù Ông nghẹn ngào bức xúc quá mạnh vốn đã đột quỵ liền trút hơi thở lìa đời.

Ông Nhạo chết chưa đầy năm mươi ngày, thời có lệnh tịch thu gia sản. Bà chị cả là Liên tinh thần suy sụp, nhiều lần đòi tự tử Bà Hậu khuyên can Liên mới tỉnh tâm mà sống.

Ngôi biệt thự to lớn đâu còn Liên liền thuê nơi ở trọ. Quan ra viện điên điên khùng khùng. Quản ngồi trong tù thấm thía việc giàu sang bất chính, làm nhiều điều ác đức bỗng chốc hóa thành mây khói trắng tay.

– Bà Hậu cùng Dậu vào tù ghé thăm, Bà nhìn Quản rồi nói con nên ăn năng sám hối, khinh thường Văn Hóa Cha Ông, trở thành người Bất Trung, Bất Nghĩa, Bất Nhân, phước đức tiêu tan. Hồn Thiêng Dân Tộc, Khí Thiêng sông núi chuyển xoay gián họa. Không tai nạn nầy thời cũng tai nạn khác, đâu phải chết là hết hồn sa đọa âm ti khốn khổ gấp vạn lần tù chốn nhân gian. Nếu con còn bướng bỉnh không tin Văn Hóa Cội Nguồn thời làm thinh chỉ cần nghĩ bậy là họa chồng lên họa. Quản ương bướng nói ở tù rồi còn họa gì nữa. Dậu nghe xong nói anh còn chưa tỉnh thời khó mà được bình yên. Quả đúng như lời Dậu nói Quản bị bọn tù đánh suýt chết, bị bọn tù hành hạ tối ngày bắt đi dọn cầu tiêu dội nước đái. Suốt ngày sống trong sự hôi thúi. Bà Hậu cùng Dậu không đến thăm nữa nên cuộc sống của Quản vô cùng thiếu thốn. Muốn ăn năn sám hối nhưng tất cả đều muộn cả rồi đôi lúc ngồi một mình tủi buồn rơi lệ.

– Nói về Bà Hậu cùng Dậu tìm một nơi ở khác không còn ở trong thành phố. Ra ngoài thành phố mua mấy sào đất rẽ thúi, do ông chủ kẹt tiền bán đổ bán tháo. Bà Hậu nghĩ có sự may mắn nầy là do Hồn Thiêng Dân Tộc phù trì, Cha Trời ban phước chỉ lối, muôn cái may đem đến, nghìn cái lợi bất ngờ, không bao lâu thời nhà nước mở đường ngang qua khu vườn Bà Hậu, đất lên giá vùn vụt một lô đất năm mét ngang cũng được vài tỉ. Bà Hậu bán bớt một lô mua bán kinh doanh làm ăn, nhờ quới nhơn giúp đỡ Bà Hậu giàu lên thấy rõ cửa hàng bảng hiệu thuộc loại tầm cỡ khách ra khách vào xe cộ tấp nập. Chỉ một hai năm Bà xây một ngôi nhà ba tần mô đênh đời mới, sang trọng còn hơn ngôi nhà trước đây Bà ở. Dậu mở công ty chế biến Mì Quảng công nhân có đến mấy trăm.

– Đơn xin làm việc càng lúc càng tăng, một hôm Dậu coi đơn xin việc thấy có tên Liên nghề nghiệp tuổi đều trùng hợp với chị của mình, liền nghi ngờ là chị của mình. Dậu nhận Liên vào làm nhưng không ra mặt. Đứng trên lầu quan sát người đến làm việc chính là Liên. Qua mấy bửa sau thấy người xin việc lái xe cho công ty có tên Quản. Dậu nhận vào làm cũng nhận ra đó là anh quản có lẽ đã ra tù.

– Nói về Liên làm việc cho công ty Thịnh Phúc Liên vốn là người có tài nhưng không gặp thời cái tài cũng đành bỏ xó với cái tài hai bằng đại học kỹ sư hóa, cử Nhân Kinh Tế Liên phát minh ra nhiều phương thứ mới làm cho công ty ngày càng làm ăn phơi phới, vì thế mà lương Liên tăng lên vùn vụt. Tháng lãnh gần trăm triệu đứng đầu trong công ty.

– Nói về Quản vô cùng chịu khó chạy xe cho công ty không quản ngày đêm không đòi hỏi gì, không đòi tăng lương. Làm ở công ty Thịnh Phúc hơn một năm nhưng chưa lần nào Liên và Quản thấy mặt Ông Chủ. Ông Chủ Thịnh Phúc đi đến bằng xe con nên không thể nào nhìn mặt được.

– Một hôm Dậu từ công ty về hai mẹ con ăn cơm vui vẻ Bà Hậu nói thành phố mở rộng thêm quận mới, nhà mình loạt vào trung tâm một lô năm mét thời điểm bữa nay không phải là năm ba tỉ mà là mười tỉ chưa chắc đã bán. Vườn mình còn tới mấy sào đất cái giàu không tưởng chỉ trong vòng có mấy năm. Nghĩ mà xót xa cho các anh chị các con không biết bây giờ lưu lạc nơi đâu. Mẹ có vào trại giam, nhưng trại giam cho biết Quản đã ra tù hơn một năm rồi, không biết giờ nầy nó sống ra làm sao. Còn thằng Quan nữa không biết sống chết ở đâu. Đáng thương cho con Liên tài năng nào phải kém thua ai một thời làm mưa làm gió, bao nhiêu chàng trai chạy theo sốt vó, xui thời bề thế gia đình suy sụp bị chồng bỏ không cưới, thân gái bơ vơ không biết có chồng khác chưa.

– Dậu nghe Mẹ nói thế thời cười anh Ba Quan thời con không biết ở đâu, còn Chị Liên, Anh Quản thời con tìm thấy rồi. Để khi nào con đưa Chị Liên cùng Anh Quản về nhà, nhưng Anh Quản, Chị Liên không tin Văn Hóa Cội Nguồn sợ đưa anh chị về gây thêm buồn phiền, nên con chưa đưa anh chị về nhà đấy thôi, Để con thăm dò thử xem sao, sau đó mới tính.

– Nói về Liên phấn đấu không ngừng nghỉ, thiếu điều leo lên ghế phó giám đốc. Tan sở Liên vội vã về nhà ghé vào một quán bình dân, bữa cơm vô cùng đạm bạc. Liên ăn xong thời vội về nhà. Một chiếc xe con theo sau Liên vào một con hẻm xe con vào không được. Dậu liền tấp ở ngoài đường, cũng may nơi đây vỉa hè đường khá rộng. Dậu đi theo Liên vào một quán trọ giá rất rẻ. Dậu không cầm được giọt nước mắt. Đã từng là quan của một cấp cao ăn trên ngồi trước ở nhà lầu cao cấp, áo quần mặt không hết còn có cả xe con riêng cho mình thế mà giờ đây không thuê nổi nhà ngon để ở. Nhìn kiểu ăn mặc cũng như ăn uống đạm bạc của Chị Liên cũng biết Chị Liên để dành tiền mua một căn nhà để ở. Dậu thở dài quay trở ra lên xe trở về nhà. Thời thấy một xe đang chạy phía trước chính là xe công ty của mình. Dậu theo sau xe quản chạy vào con hẻm lớn dừng lại một căn nhà nhỏ sụp xệ, thời thấy một người con gái từ trong nhà chạy ra hình như là vợ của Quản nói với Quản bà chủ nói nếu còn nợ tiền nhà thời bà chủ lấy lại. Dậu nghe thấy những lời ấy chua xót vô cùng quay xe trở ra.
 

shopoga

✩✩
– Qua ngày hôm sau chờ cho Liên đi làm Dậu liền đến nhà Liên. Chào Bà Chủ chị Liên thuê phòng trọ ở đây phải không ạ. Bà Chủ Nhà nhìn dậu một hồi thấy Dậu ăn mặc lịch sự liền nói phải cô Liên thuê phòng trọ ở đây. Đậu nói tôi là em của Chị Liên từ dưới quê lên Chị Liên thuê nhà ở đây lâu chưa. Bà Chủ nói hơn hai năm rồi Bà Chủ nghe Dậu giới thiệu mình là em của Liên thời mời vào nhà. Dậu vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy Bà Chủ thờ Cha Trời Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ. Bà Chủ nhìn thấy Dậu nhìn mãi Cha Trời Lạc Long Quân và Mẹ Trời Âu Cơ liền nói thờ hai đấng Cội Nguồn nầy linh lắm Cô Liên chỉ cho tôi thờ đấy. Quả đúng như lời Cô Liên nói từ ngày tôi thờ Cha Trời Lạc Long Quân, Mẹ Trời Âu Cơ. Làm đâu được đó tính đâu được đó. Cô Liên cũng thường nói với tôi Cô luông tưởng niệm Cha Trời Mẹ Trời nên cô xin được chỗ làm phải nói là như ý. Lương Cô Liên nay rất cao không bao lâu nữa Cô mua nhà để ở. Dậu nghe Bà Chủ nói vô cùng mừng rỡ trước khi ra về Dậu nói nhờ Bà Chủ nói với Chị Liên là có người em tên Dậu đến thăm.

– Dậu lái xe đến con hẻm chạy vào ngôi nhà sụp xệ ngừng xe lại, Từ trong nhà một người con gái chạy ra Dậu đã biết trước người con gái chính là vợ của Anh Quản. bằng chấp tay thi lễ nói em là Dậu em của Anh Quản từ quê lên thăm. Người con gái kinh ngạc nhìn Dậu nói Anh Quản nói có người em tên Dậu rất nghèo có khi nào Ông lầm nhà không? Dậu nói không lầm đâu, người con gái mời Dậu vào nhà, chú út ngồi đây, tôi đi mua ly nước. Dậu nói nước gì uống cũng được cần gì phải mua. Nhìn lên bàn thờ thấy có bức ảnh người Cha Ông Nhạo. Trên bàn thờ Ông Nhạo có mấy quyển kinh thơ. Dậu tò mà xem thử thời ra đây toàn là Kinh Thơ Văn Hóa Cội Nguồn. Dậu kinh ngạc Anh Quản cũng xem Kinh Thơ nầy sao? Người con gái nói Anh Quản siêng coi Kinh Thơ Văn Hóa Cội Nguồn lắm. Dậu hỏi Anh Quản coi Kinh Thơ Văn Hóa Cội Nguồn bao lâu rồi người con gái nói cũng đã hơn một năm. Dậu ngồi chơi một lát rồi ra về.

– Một hôm Dậu cho người mời Liên cũng như Quản đến văn phòng giám đốc. Hai người không biết có chuyện gì không lẽ bị đuổi việc nên lo lắng vô cùng nhất là Liên đang ở mức lương cao. Liên và Quản bước vào phòng giám đốc có một người chờ sẵn. Liên, Quản tưởng đâu là Ông Chủ khúm núm thưa Ông Chủ gọi chúng tôi có chuyện gì sai bảo. Người ấy nói tôi không phải Ông Chủ đâu Ông Chủ đang về nhà chở Mẹ Ông Chủ đến, mời hai người ngồi.

Quản và Liên ngồi chưa lâu thời thấy một chiếc xe con từ ngoài cổng chạy vào công ty. Từ trên xe con hai người bước xuống Liên và Quản như không tin ở mắt mình Mẹ và em Dậu. Người trong phòng nói Ông Chủ và Mẹ Ông Chủ đã đến. Liên và Quản tưởng đâu mình nghe lầm hỏi lại Ông Chủ, và Mẹ của Ông Chủ. Người trong phòng nói hai người làm ở công ty nầy hơn năm rồi mà không biết sao. Người trong phòng nói hai người theo tôi đến gặp Tổng Giám Đốc Ông Chủ. Người trong phòng dẫn Liên và Quản đến một văn phòng dành riêng cho Tổng Giám Đốc an nghỉ mà thôi. Vừa bước vào văn phòng Liên nhìn thấy người đàn bà khi nảy bước xuống xe liền chạy tới ôm khóc ròng Bà Hậu ôm lấy con cũng khóc. Dậu và Quản ôm nhau cũng vậy nước mắt tuôn rơi lã chã. Bà Hậu nói các con đã tin Cội Nguồn nên Cha Trời, Mẹ Trời mới cho gia đình mình đoàn tụ. Anh Linh Quốc Tổ phù hộ, Hồn Thiên Sông Núi phù trì nên mới được như ngày nay.

– Nằm ở ngã tư đại lộ Hùng Vương Liên và Quản nhìn thấy một ngôi nhà lầu ba tần rộng lớn xây dựng theo kiểu vừa Ta vừa Tây trông lộng lẫy nguy nga xinh đẹp. Bề thế còn hơn ngôi nhà năm xưa của Cha Mẹ. Chiếc xe con chạy vào cổng, người ăn kẻ ở ra đón Liên bước xuống xe nhìn ngôi nhà không khỏi trằm trồ, ai thiết kế ngôi nhà nầy không phải tay vừa. Bà Hậu nhìn Dậu nói chính nó đấy. Con quên rồi sao Dậu là kiến trúc sư, khi con đang làm cho công ty La Sa. Công Ty lớn nhất thành phố.

– Bửa cơm thân mật đoàn tụ gia đình, Bà Hậu nói ước chi có thằng Quan thời vui biết mấy. Quản nói anh Ba Quan đã qua đời sau những ngày dầm mưa dãi nắng lang than. Cốt tro tàn con đem về thờ chung bàn thờ với Cha. Bà Hậu nghe xong không cầm được giọt nước mắt.

– Bà Hậu nhìn Dậu nói năm cổ phần trong công ty của Mẹ một cổ phần tới mười tỉ Mẹ cho Liên một cổ phần, Quản một cổ phần. Liên và Quản quá bất ngờ với cổ phần to lớn nầy. Dậu nói anh em Ta gắng sức làm ăn mở rộng công ty.

Công ty Thịnh Phúc thêm hai giám đốc mới là Giám Đốc Bà Chủ Liên, Giám Đốc Ông Chủ Quản.

– Liên hôm nay khác Liên hôm trước đi chiếc xe đắt giá mới cáu, ăn mặc sang trọng trông xinh đẹp mặn mà hơn cách đây bảy năm về trước. Quản cũng thế dời gia đình về ở chung với Mẹ. Liên cũng vậy. Vợ Quản sanh được cháu trai dễ thương. Công ty từ đó làm ăn lớn nhanh như dưa mở rộng công ty cùng khắp.

– Trong buổi hộp mặt liên doanh nhiều công ty khá, Dậu có biết một công ty ông ta tên Việt, ngày xưa đeo đuổi mãi chị Liên, đến khi nghe Liên sắp có chồng Ông Việt vô cùng đau khổ, nhưng sau đó thời nghe Liên bị từ hôn. Việt cố tìm Liên nhưng không biết ở đâu chỉ ở vậy tuổi đã 35 mà chưa có vợ.

– Cuộc họp liên doanh liên kết công ty do Liên giải trình những mặt lợi mặt hại của đôi bên, nhất là thống nhất giá cả, cũng như sự cung cầu ra thị trường tránh đi những cạnh tranh không đáng có dễ đi đến phá sản.

– Chiếc áo đen ôm sát thân mình, phải nói là gợi cảm vô cùng, nổi bậc làng da trắng nuốt trông Liên như một nàng tiên. Liên Thuyết giải lưu loát, phân tích sâu sắc, mặt lợi mặt hại đều rõ ràng. Không dài dòng những cô đọng then chốt. Làm thám phục nhiều công ty. Riêng giám đốc công ty Hưng Việt ngây ngất nhìn mãi Liên. Liên bắt gặp đôi mắt say mê mình như ngày nào trong lòng dấy lên một niềm vui lẫn xúc động.

– Liên cũng nhìn thấy trong số người đến tham dự có cả người phụ bạc mình năm xưa. Người ấy thấy Liên nhìn mình, liền cúi mặt như luyến tiếc vì đã bỏ rơi một báu vật vô giá trên đời.

– Giám đốc Hưng Việt lên tặng hoa cho Liên. Liên đón nhận như đón nhận một tình yêu mới, mà Dậu đã sắp xếp cho hai người gặp nhau.

* * *

Hết Quyển 3, xem tiếp Quyển 4
 

shopoga

✩✩
107. SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG BÁNH DÀY

Vào thuở xa xưa thời Hùng Huy Vương, Pháp Hải Lang đời thứ 6 Hạ Hùng Vương 961 đến 893 trước công nguyên. Hùng Huy Vương thấy mình tuổi đã cao sức khỏe mỗi ngày một suy yếu, không biết chọn ai là người nối ngôi kế vị. Các bà vợ của Vua sanh được hai mươi hai người con, phần đông đều là văn võ song toàn, người nào cũng anh hùng khôn lớn. Con đông lại là con của nhiều bà phải làm thế nào cho chúng nó không tranh giành, sanh ra cảnh tương tàn nồi da nấu thịt. Đây là điều vô cùng quan trọng nhờ các viên quan Lạc Vương, Lạc Hầu, Lạc Tướng bày kế cho Trẫm chọn người kế vị ngôi Vương.

– Các quan tâu rằng thời Quốc Tổ Tiên Đế dựng nước Văn Lang. Hàng năm đầu xuân thường cúng Tổ Tiên Đất Trời ngày hội của Bách Việt Văn Lang.

– Quốc Vương ra đề thi, cho tất cả Hoàng Tử mỗi người tự bày ra mâm cỗ, dâng cúng Tổ Tiên Trời Đất. Mâm cỗ nào nói lên đầy đủ ý nghĩa của đạo làm người, bao hàm những triết lý sâu xa Cội Nguồn, cũng như sự sanh thành dưỡng dục của Mẹ Cha. Phải có sự hùng biện nói ra những suy nghĩ triết lý về phẩm vật mà mình đã dâng lên. Được sự thừa nhận các quan trong triều thời người đó sẽ là người kế vị ngôi Quốc Vương.

– Hùng Huy Vương nghe các quan tâu có lý, cách chọn người kế vị bằng khen rằng cách nầy hay lắm đây.

Người thua cuộc sẽ tùng phục sát đất. Hùng Huy Vương bằng kêu các Hoàng Tử đến nói rằng. Cha nay tuổi cũng đã cao, mặt trời sắp lặn về Tây gần đất xa Trời. Cha muốn truyền ngôi lại cho các con, nhưng không biết chọn ai trong các con, vì các con đứa nào cũng tài giỏi.

Tục truyền từ thời Tiên Tổ truyền lại, từ thời dựng nước đến nay. Cứ hàng năm vào đầu xuân là dân lên mâm cỗ cúng Cha Mẹ, Ông Bà, Tổ Tiên, Trời, Đất, tưởng nhớ công ơn sanh thành dưỡng dục.

– Các con hãy tự làm mâm cỗ, tìm những món ăn lạ để dâng cúng Tổ Tiên. Ai có món ăn ngon độc lạ, và có nhiều ý nghĩa Cha sẽ truyền ngôi cho người đó.

– Các Hoàng Tử nghe Vua Cha bảo thế liền thi nhau trổ tài với hy vọng mình là người thắng cuộc.

– Mỗi Hoàng Tử đều về bàn với vợ nhờ người đi khắp chân trời góc bể, tìm kiếm món ngon vật lạ, thuộc hàng hiếm quý trên đời, kẻ lên non, người xuống biển, không bỏ sót nơi nào, bỏ công ra sức tìm cho bằng được, những món ăn vừa ngon vừa hiếm quý dâng lên Vua Cha.

– Trong số 22 vị Hoàng Tử có Hoàng Tử Lang Liêu đứng hàng thứ mười tám. Mồ cô Mẹ từ thuở nhỏ ở với Mẹ nuôi là Cao Thị. Cao Thị ở vậy nuôi Lang Liêu. Cao Thị là người phụ nữ hiền lương, nên Lang Liêu cũng hấp thụ tính Mẹ tính tình hiền lành sống có Đạo có Đức nhất là sự hiếu thảo ít người bằng. Lang Liêu có vợ hơn năm thời Cao Thị qua đời. Vợ chồng còn trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm, vợ Lang Liêu là người con gái tuy xinh đẹp thông minh, nhưng không có lòng cạnh tranh, lại chẳng hiểu gì về mấy món ngon vật lạ, nên đành bó tay chẳng giúp gì được cho chồng nên vô cùng lo lắng không biết phải làm sao thở vắn than dài. Lang Liêu thấy vậy nói mọi việc trên đời đều có số Tiên Vương Quốc Tổ thường dạy như thế truyền mãi cho đến ngày nay.

– Lang Liêu biết mình không tài nào theo kịp các anh, phải chi thi bắn cung, múa kiếm, đua ngựa, thời còn hi vọng đôi chút, đằng nầy dâng mâm cỗ, của ngon vật lạ thời đành chịu thua. Cha vợ Lang Liêu là một vị quan trong triều làm đến chức Ngự Sử, đến thăm con gái, con gái mừng quá ra đón vào nhà rồi hỏi cách nầy cách kia, món nào ngon, món nào độc lạ. Quan Ngự Sử cũng phải đành lắc đầu, không biết làm sao giúp được cho Lang Liêu.

– Trong khi đó các Hoàng Tử cho người chạy nam tìm bắc, hết đông tới tây, thậm chí nhờ người nước ngoài tìm những món ngon độc lạ.

– Còn Lang Liêu thời nằm khểnh ở nhà coi như là bỏ cuộc. Chỉ còn ba ngày nữa là đến đầu xuân, cũng là ngày dâng mâm cỗ cúng Tổ Tiên Trời Đất. Lang Liêu vẫn chưa có gì, vợ Liêu cũng rất buồn.

– Đêm hôm ấy Lang Liêu biết mình đã thua cuộc, nhưng không lẽ chẳng có gì dâng cúng Tổ Tiên Trời Đất. Tục lệ từ khi dựng nước mở mang bờ cõi cho đến ngày nay.

Lang Liêu ráng nhớ lại những món ăn thường dùng, bảo vợ làm ít món dâng cúng Tổ Tiên Trời Đất. Mãi suy nghĩ đi vào giấc ngủ lúc nào không biết. Bỗng Lang Liêu thấy một vừng hào quang sáng chói từ trên trời bay xuống hiện ra một người phụ nữ xinh đẹp vô cùng, không thể nào diễn tả nổi sắc đẹp ấy. Lang Liêu chưa kịp thi lễ thời người ấy nói Ta là Tổ Mẫu Phụng Cơ. Vương Mẫu Nương Nương xuống dạy cho con cách làm bánh chưng bánh dày.

– Vương Mẫu nói to lớn nơi vũ trụ không gì bằng Trời, chỉ có Trời mới chứa hết thiên hạ nhân loại.

– Muôn sanh linh vạn vật không gì bằng Đất. Chỉ có Đất mới dưỡng nuôi hết thảy sanh linh vạn vật.

– Đất dưỡng nuôi thể xác.

– Trời dưỡng nuôi linh hồn

– Của báu nhất trần gian không gì bằng Gạo Nếp. Gạo Nếp chính là hạt ngọc của Trời và Đất, nuôi sống con người.

– Con hãy lấy Gạo Nếp đêm ngâm rồi làm bánh Hình Tròn tượng trưng cho Trời. Làm bánh hình Hình Vuông tượng trưng cho đất. Trời màu xanh, sự phì nhiêu của Đất cũng màu xanh. Non xanh nước biếc đậm tình quê hương.

Hãy lấy lá xanh bọc ngoài Càn, gạo nếp Khôn. Trong Càn Khôn. Lấy năm loại đậu làm nhưng tượng trưng cho ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Nói về Đạo ngũ thường năm loại đậu tượng trưng cho Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nói về Đạo ngũ luân năm loại đậu tượng trưng cho Cha, Con, Anh, Em, Chồng Vợ. Nói về Nhân Loại năm loại đậu tượng trưng cho năm màu da cùng chung một thể Đồng Bào.

– Năm loại đậu trộn chung giã nhuyễn tượng trưng cho sự gắn bó hòa hợp cùng nhau, chung sống yên vui đoàn kết.

– Pha trộn vào ít thịt bò, heo, dê, gà, vịt. Tượng trưng cho đời sống thịnh vượng.

– Thêm gia vị Đường, Muối, chanh, Tiêu, Hành, Tỏi. Tượng trưng cho Chua, Ngọt, Mặn, Đắng, Cay, cùng chia cùng hưởng gánh gồng có nhau đậm đà cuộc sống ấm no. Mặn nồng tình nghĩa keo sơn thuận hòa.

– Gạo nếp trắng tinh là con Dân. Bọc ngoài lá xanh ví như Vua, Quan bảo bọc cho Dân Chúng.

– Gạo nếp trắng tinh là con cái. Bọc bên ngoài lá xanh ví như Cha Mẹ bảo bọc ôm trọn đàn con trong lòng, thương yêu đùm bọc che chở. Truyền dạy xong cách làm bánh chưng bánh dày cũng như triết lý sâu xa của nó. Vương Mẫu Nương Nương Phụng Cơ Quốc Tổ Mẫu liền biến mất.

– Lang Liêu tỉnh giấc mừng rỡ vô cùng kêu vợ dậy kể lại câu chuyện mình vừa nghe. Hai vợ chồng cùng nhau ra sức, hối thúc người ăn kẻ ở. Kẻ chọn Gạo Nếp thật tốt, người chọ lá gói thật xinh, kẻ lo năm loại đậu, người lo gia vị, thịt tươi Lang Liêu đi vào làm bánh y như những gì Vương Mẫu Nương Nương truyền dạy.

– Đến ngày dâng cỗ đem cúng Tổ Tiên Trời Đất, vào dịp đầu xuân. Các Hoàng Tử đưa món ăn về dự thi, ngày hội đầu xuân náo nhiệt tưng bừng, khắp cả nước nói chung Phong Châu nói riêng. Người đông nghìn nghịt dân Kinh Đô Văn Lang đều nao nức xem Hoàng Tử nào là người được chọn kế vị ngôi Vương. Những món ngon vật lạ do các Hoàng Tử dâng lên.

– Đầu giờ thìn vua cùng các quan đi kiệu đến làm lễ gia tiên, chiêng trống nổi lên, lọng, phướn, cờ xí tưng bừng, rộn tai sáng mắt mọi người, tất cả đều ngong ngóng. Giờ phút quan trọng đã đến, hai mươi hai Hoàng Tử đều dâng lễ cúng. Cỗ nào cỗ nấy sang cả mùi thơm nức mũi trông đẹp mắt vô cùng.

– Lang Liêu bưng mâm cỗ, trông rất tầm thường chẳng có gì là sang cả, cũng chẳng nghe mùi thơm nức mũi, thoạt nhìn ai cũng lắc đầu bĩu môi. Vẻ chê bai hiện ra trong đôi mắt các chị dâu cũng như các Hoàng Tử.

– Lễ dâng hương xong Vua Hùng ném trước, các quan nếm thử sau qua các món ăn, chỉ còn lại món bánh chưng bánh dày. Vua Hùng nói với các quan giờ chỉ còn lại một mâm cỗ nữa là chưa nếm thử. Ta cùng các khanh đồng ném thử mâm cỗ phẩm vật cuối cùng, tức thời Vua cùng các quan mỗi người ăn mỗi miếng ai nấy đều gật gù tán thưởng khen ngon. Các quan Lạc Hầu. Lạc Tướng nói.

– Đây là một thứ bánh hương vị khác thường, làm từ những thực liệu bình thường, nhưng cách làm ra cũng như cách pha trộn vô cùng đặc biệt.

– Các hoàng tử thay đổi hẳn thái độ không còn coi thường bánh dày bánh chưng của Lang Liêu. Chỉ còn chờ ban giám khảo các Vương, Quan Lạc Hầu. Lạc Tướng bình giá các món ăn, ai là người thắng cuộc. Tất cả đều chờ đợi kết quả quan trọng nầy.

– Riêng Vua Hùng lấy làm ngạc nhiên về bánh lạ vừa nếm qua thấy vô cùng khác lạ, bằng nếm đi nếm lại đến mấy lần, lật bánh lên, lật bánh xuống, lật qua, lật lại ngắm nghía. Một bánh hình tròn, một bánh hình vuông là ý nghĩa gì đây.

– Vua cho gọi Lang Liêu đến hỏi ai bày cho con làm ra hai loại bánh nầy. Triết lý hai loại bánh nầy ra sao, con hãy trình bay ra đây cho Cha cùng bá quan văn võ nghe.

Lang Liêu bằng triết giải những triết lý về Bánh Chưng, Bánh Dày sự cao thâm huyền diệu sâu xa của nó.

– Lang Liêu quỳ lạy thưa.

Muôn tâu Phụ Vương trong giấc ngủ mơ màng con thấy Vương Mẫu Nương Nương chính là Quốc Tổ Mẫu từ trên trời bay xuống truyền dạy cho con làm Bánh Dày, Bánh Chưng.

– Vương Mẫu nói to lớn nơi vũ trụ không gì bằng Trời, chỉ có Trời mới chứa hết thiên hạ nhân loại.

– Muôn sanh linh vạn vật không gì bằng Đất. Chỉ có Đất mới dưỡng nuôi hết thảy sanh linh vạn vật.

– Đất dưỡng nuôi thể xác.

– Trời dưỡng nuôi linh hồn

– Của báu nhất trần gian không gì bằng Gạo Nếp. Gạo Nếp chính là hạt ngọc của Trời và Đất, nuôi sống con người.

– Con hãy lấy Gạo Nếp đêm ngâm rồi làm bánh Hình Tròn tượng trưng cho Trời. Làm bánh hình Hình Vuông tượng trưng cho đất. Trời màu xanh, sự phì nhiêu của Đất cũng màu xanh. Non xanh nước biếc đậm tình quê hương.

Hãy lấy lá xanh bọc ngoài Càn, gạo nếp Khôn. Trong Càn Khôn. Lấy năm loại đậu làm nhưng tượng trưng cho ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Nói về Đạo ngũ thường năm loại đậu tượng trưng cho Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nói về Đạo ngũ luân năm loại đậu tượng trưng cho Cha, Con, Anh, Em, Chồng Vợ. Nói về Nhân Loại năm loại đậu tượng trưng cho năm màu da cùng chung một thể Đồng Bào.

– Năm loại đậu trộn chung giã nhuyễn tượng trưng cho sự gắn bó hòa hợp cùng nhau, chung sống yên vui đoàn kết.

– Pha trộn vào ít thịt bò, heo, dê, gà, vịt. Tượng trưng cho đời sống thịnh vượng.

– Thêm gia vị Đường, Muối, chanh, Tiêu, Hành, Tỏi. Tượng trưng cho Chua, Ngọt, Mặn, Đắng, Cay, cùng chia cùng hưởng gánh gồng có nhau đậm đà cuộc sống ấm no. Mặn nồng tình nghĩa keo sơn thuận hòa.

– Gạo nếp trắng tinh là con Dân. Bọc ngoài lá xanh ví như Vua, Quan bảo bọc cho Dân Chúng.

– Gạo nếp trắng tinh là con cái. Bọc bên ngoài lá xanh ví như Cha Mẹ bảo bọc ôm trọn đàn con trong lòng, thương yêu đùm bọc che chở. Truyền dạy xong cách làm bánh chưng bánh dày cũng như triết lý sâu xa của nó. Vương Mẫu Nương Nương Phụng Cơ Quốc Tổ Mẫu liền biến mất.

– Nghe Hoàng Tử Lang Liêu kể lại sự truyền dạy của Vương Mẫu Nương Nương, cũng chính là Phụng Cơ Quốc Tổ Mẫu. Cũng như lý giải những ý nghĩa sâu xa của hai loại Bánh Chưng, Bánh Dày. Các quan nghe say sưa, Vua Hùng thời càng thấm thía gật đầu lia lịa đúng là Quốc Tổ Mẫu dạy rồi chỉ có đôi Bánh Chưng, Bánh Dày mà mang triết lý cả trời đất, vạn vật, cũng như con người, cái triết lý bao trùm cả Đời lẫn Đạo không ai có thể nghĩ ra đạt đến cảnh giới như vậy, đúng là Quốc Tổ Mẫu hiện về dạy rồi. Đây cũng là Ý Trời.

– Vua Hùng nói rằng Bánh Chưng Bánh Dày không những ngon, cái quý của bánh chưng bánh dày mang nhiều ý nghĩa đặc biệt, không làm mất đi nền Văn Minh lúa nước, còn bày tỏ lòng tôn kính đối với Trời Đất. Cũng như công Cha nghĩa Mẹ đùm bọc nuôi nấng các con. Tình hòa thuận đoàn kết anh em, mặn nồng cay đắng có nhau, Trắng tinh bảo bọc Mẫu Hoàng, xanh non xanh nước Phụ Hoàng chở che. Bò, Heo, Gà, Vịt chăn nuôi. Ngô, khoai nếp đậu càng thêm sang giàu. Hai loại bánh nầy không thể xem thường, của ngon vật quý Đất, Trời ban cho.

– Hoàng Tử thứ 18 Lang Liêu thắng cuộc được truyền ngôi.

– Vua Hùng truyền dạy khắp chúng dân, hàng năm cứ đến đầu xuân, theo niên lịch Đại Nam Văn Lang trở thành ngày hội tết nền Văn Minh Lúa Nước. Làm Bánh Chưng, Bánh Dày cúng Tổ Tiên Trời, Đất. Hoàng Tử Lang Liêu trở thành Hùng Vương thứ bảy Hạ Hùng Vương thay Cha là Hùng Huy Vương trị vì thiên hạ.

– Kể từ đó tục làm Bánh Chưng Bánh Dày đã trở thành tục lệ trong dịp tết nguyên đán để cúng Ông Bà, Cha Mẹ, Tổ Tiên, Trời, Đất.
 

shopoga

✩✩
108. MÀI ĐAO TRÊN ĐÁ

Ngày xửa ngày xưa vào thời Thượng Hùng Vương, truyền ngôi đến đời Hùng Thục Lang, đời Hùng Vương thứ mười tám.

Khi ấy ở phương bắc Nhà Thương, Vua Thành Thang nối truyền đến đời thứ mười ba Tổ Dân Thiên Tử. Có mộng xâm lấn nước Văn Lang, luôn cho người theo dõi nước Văn Lang.

– Lúc bây giờ nước Văn Lang vẫn còn hùng mạnh thái bình an lạc no cơm ấm áo. Tại làng Tân Khánh, Xã Đồng Văn, Huyện An Trạch, Tây Trung Châu.

– Có chàng thanh niên mồ côi tên là A Mẫn không còn cha mẹ xin đi ở đợ cho một nhà giàu. Nhưng ông chủ từ chối A Mẫn buồn quá lang thang khắp núi rừng, đào củ mài để mà ăn, tối ngủ trong hang đá cho đến một hôm, trời hừng hừng sáng cây cỏ núi đồi vẫn còn chìm trong sương mù, nhưng chim đã kêu, vượn đã hú như chào mừng một ngày mới, mở màn cho cuộc sống tiếp nối hết ngày nầy sang ngày kia.

– A Mẫn trên đường trở lại thôn làng sau đó tìm kiếm việc làm trên Thị Trấn, vì ở trên rừng vừa buồn vừa hiu quạnh suốt ngày chỉ làm bạn với chim, trái rừng và suối chảy. A Mẫn vừa đi vừa suy nghĩ cầu gặp sự may mắn đến với mình, đang đi trên đường A Mẫn nhìn thấy một cụ già ăn mặc rách rưới, cụ run rẩy đi không nổi liền chạy nhanh tới nói, để con cõng cụ đi, nhà cụ ở đâu sao chẳng có con cháu nào theo, để cụ đi một mình như thế nầy, tuổi già như trái mít chín trên cây dễ rụng lắm.

Cụ già nghe A Mẫn nói thế càng thêm run rẩy.

A Mẫn nói

Cụ có sao không?

Cụ già chỉ lắc đầu mà không đáp

A Mẫn hỏi tiếp

Cụ đi tìm ai lặn lội cực khổ thế nầy

Ông cụ trả lời thân một mình chẳng còn ai là người thân. A Mẫn nghe xong thương cụ vô cùng, hoàn cảnh giống như mình chẳng còn ai.

Bỗng nghe cụ la đói, đói quá đi thôi, đói quá đi thôi, tay xoa bụng miệng thời lẩm bẩm, đói quá trời ơi đói quá.

– Nhìn dáng đói run run của cụ A Mẫn động lòng liền lấy trong mình ra củ mài, không dám ăn để dành trên đường đi tìm công việc lúc đói quá mới dám ăn. A Mẫn cầm củ mài nướng từ sớm khi mặt trời chưa lên, dâng hai tay đưa cho cụ nói, cụ ăn đi.

– Cụ già đưa tay cầm lấy ăn ngấu nghiến, nhìn cụ ăn ngấu nghiến, bụng A Mẫn cũng đã sôi lên vì đói.

A Mẫn nhìn cụ rồi hỏi

Cụ có nhà không?

Ông cụ vừa trả lời vừa tiếp tục ăn, cụ nói cụ không có nhà chỉ đi lang thang, ai cho gì ăn nấy.

A Mẫn nói cháu cũng chẳng còn ai, thôi thì cụ theo cháu, cháu có gì thời cụ ăn nấy.

Ông cụ nói một mình cháu đã khó sống, làm sao nuôi thêm một người như cụ, chỉ biết ăn mà chẳng làm ra tích sự gì.

– A Mẫn nói cháu sẽ xin việc làm cụ đừng lo, thế là A Mẫn đi đâu dắt theo Ông cụ đi đó, xin được gì A Mẫn đều dành cho cụ ăn trước, còn mình thời ăn sau, nếu cụ ăn hết thời nhịn đói vậy.

– Thời gian trôi qua được hơn tháng A Mẫn vẫn chưa tìm ra được việc làm. Một hôm Ông Cụ nhìn A Mẫn rồi nói tấm lòng thương người của con đã động đến lòng Trời. Cụ có hai vật báu cụ sẽ cho con. Ông cụ lấy trong người ra một thanh đao nhỏ, cụ hô lớn tức thời thanh đao lớn lên cụ mài vào phiến đá, tức thời tiếng mài đao vang dội núi rừng. Cụ lại móc trong người ra tấm lưới nhỏ. Cụ nói tấm lối nầy khi quăng xuống sông liền hô biến, tức thời tấm lới bung ra phủ khắp lòng sông kéo lên thời đầy tôm đầy cá. Cụ lại lấy trong người ra một chiếc hộp nhỏ. Cụ nói trong hộp nầy có ba viên Thần Châu Đơn. Cứ một tháng con uống một viên, uống hết ba viên, thời con hãy ra vùng biên giới nơi có giặc đóng quân, lấy đao ra mài trên núi, chừng nào thấy quân giặc rút lui, thời con tìm đến những dòng sông bên kia có quân giặc đồn trú, liền quần lưới xuống sông bắt cá. Khi nào thấy giặc bên kia đồn trú biến hết thời về Tây Trung Châu làm ăn sinh sống, phát rẫy, chài lưới giúp dân, mở mang thêm ruộng đồng rộng lớn. Ông cụ trao cho A Mẫn ba vật báu vài lượng bạc truyền cho nội công tâm pháp. rồi biến mất.

– A Mẫn mới biết Ông Cụ là Thánh Tiên hiện ra thử lòng tốt của mình.

– A mẫn có bạc có tiền liền mua bộ quần áo mới, việc ăn tiêu vô cùng tiếc kiệm, không dám ăn thịt cá, chỉ ăn bát cơm với quả cà. A Mẫn tìm nơi vắng vẻ uống Thần Châu Đơn luyện nội công tâm pháp, được ba tháng Thần Đơn cũng không còn A Mẫn thấy người khỏe mạnh lạ lùng bằng nhổ thử một gốc cây bằng bắp chân như nhổ cây bắp. A Mẫn kinh ngạc vô cùng như không tin ở đôi mắt mình, bằng nhổ cây to lớn hơn nhẹ như không. A Mẫn đến lúc nầy mới tin mình có sức mạnh vô cùng.

– A Mẫn xuống thị trấn nghe người ta xì xào sắp có chiến tranh, vì quân giặc Nhà Thương đã kéo sát biên giới. Hùng Thục Lang đã chuẩn bị quân binh sẵn sàng chiến đấu. A Mẫn nhớ lại lời chỉ dạy của cụ Ông liền đến biên giới, đi mấy ngày đêm không hề ngủ nghỉ cuối cùng cũng đến được biên giới. A Mẫn nghe bên kia ngựa hí vang trời. A Mẫn liền leo lên một sừng đồi tìm vị trí thích hợp để cho quân giặc dễ nghe thấy. Bằng rút đao Thần ra ngồi mài trên phiến đá, tức thời tiếng mài Đao rung trời chuyển đất vang dội núi rừng.

– Tướng quân Thương tên là Vu Đà đang luyện tập quân binh, chờ lệnh đưa quân vào tấn công nước Văn Lang. Nghe tiếng mài Đao rung trời chuyển đất không hiểu là chuyện gì. Bằng cho quân binh đi thị sát xem chuyện gì đã xảy ra.

– Quân binh phi ngựa đến sườn đồi dọ thám nơi phát ra tiếng động dữ dội, thời thấy một người tiều phu trai trẻ đang mài đao trên đá, phát ra tiếng động ầm ầm. Rền trời rền đất thời vô cùng kinh hãi. Phi ngựa về báo lại cho chủ soái. Chủ soái tướng quân nhà thương là Hầu Đôn nghe quân binh báo như vậy thời kinh hãi nhưng chưa tin lắm bằng cùng tướng quân Vu Đà đến sườn đồi nơi phát ra tiếng động xem thử thiệt hư ra sao. Chủ Soái Hầu Đôn cùng tướng quân Vu Đà nhìn thấy một chàng trai trẻ đang mài đao tiếng mài đao vang động dậy núi rừng, thời khiếp vía kinh hồn. Nghĩ một người dân tầm thường mà cũng có Thần Thông như vậy. Ôi nước Văn Lang quả thật là nhân tài khắp nơi khắp chốn, không thể nào lường hết được, liền hạ trai rút lui binh, không còn chiếm đóng nơi biên giới nữa.

– A Mẫn thấy quân Thương đường bộ rút hết. Chỉ còn cánh quân binh đường thủy, do tướng soái Dương Phàm chỉ huy nơi khúc sông gần thượng nguồn thuyền bè qua lại lớp lớp. A Mẫn đến chỗ khúc sông ấy quăng lưới bắt cá, lưới chài vừa quăn ra bỗng to lớn phủ muốn hết cả lòng sông. A Mẫn niệm chú kéo lưới, tôm cá cả tấn chất đống trên bờ. Thuyền dọ thám quân Thương nhìn thấy kinh hồn bạt vía. Cá tôm bắt xong liền thả hết xuống sông.

– Tướng Soái chỉ huy thủy quân là Dương Phàm, nghe quân binh dọ thám về báo có người chài lưới tài giỏi như vậy liền kinh hãi, Dương Phàm chọn vài ba tướng lĩnh tài giỏi đi thuyền con đến xem thật hư. Khi chứng kiến tận mắt A Mẫn quăng lưới bắt cá, Dương Phàm tái mặt nói chỉ là người dân chài lưới bình thường, mà tài nghệ đến kinh hồn bạt vía như vậy thời làm sao xâm lược được nước Văn Lang. Bằng thu quân trở về đất bạc liền tâu lên Vua Thiên Tử Tổ Dân. Bản tấu trình nói nước Văn Lang nhân tài như nấm chỉ một người dân chài cũng đã làm khiếp hồn khiếp vía quân binh. Chỉ cần quăn mẻ lưới là phủ hết thuyền quân binh.

– Dương Phàm vừa tấu trình xong, thời có một vị tướng soái vào tấu trình là Hầu Đôn. Hầu Đôn tấu trình Thưa Bệ Hạ nước Văn Lang không thể suy lường, chỉ nội một người tiều phu khi mài đao thần lực phát ra rung chuyển đất trời. Làm cho quân binh kinh sợ. Nước Văn Lang quả là nhân tài như rừng khó mà xâm lược nỗi e bỏ mạng có đi mà không có về. Đưa quân xâm lược nước Văn Lang khác nào lùa dê vào miệng hổ.

– Vua Tổ Dân nghe hai vị nguyên soái tâu như vậy lấy làm khiếp hãi run sợ, từ đó không dám nói tới xâm lược nước Văn Lang nữa.

– Nói về A Mẫn thấy quân Thương rút lui không còn một tên binh lính, liền trở về quê hương Đồng Văn, An Trạch Tây Châu. Giúp dân phát rẫy khai hoang vỡ hóa đất đai thổ canh rộng lớn ngô bắp, lúa thóc đầy đồng. Tiếng tăm A Mẫn vang lừng.

– Nói về Hùng Thục Lang, biết được A Mẫn đẩy lui quân giặc, liền ban cho vàng, bạc, lụa là, châu báu mười xe. Phong cho chức tước làm Đại Nhân Tri Huyện An Trạch. Tây Trung Châu. Thế cho Đại Nhân Tri Huyện Phùng Lương tuổi già về hưu.

– Phùng Lương Đại Nhân Tri Huyện có người con gái xinh đẹp tên là Hạnh Châu gả cho A Mẫn.

– A Mẫn từ đó sống cuộc đời hạnh phúc bên người vợ xinh đẹp, hết lòng vì dân vì nước. Hạnh Châu sanh được sáu người con. Khi mãn kiếp trần gian hai vợ chồng A Mẫn siêu sanh về Non Tiên, Cực Lạc.
 

shopoga

✩✩
109. THIÊN ẤN

Ở vào thời Hồng Hoang, khi tuổi thọ con người tăng lên tám mươi tuổi, thọ một trăm tuổi, yểu sáu mươi tuổi là thời kỳ Ma, Quỉ hưng thịnh, có nhiều làng Ma làng Quỉ khắp mọi nơi. Ma, Quỉ đánh nhau nổi giông nổi gió, khắp mặt địa cầu không chỗ nào yên.

– Khi ấy nơi Làng Phù Sa dân chúng phải nói là rất đông, đông hơn cả một xã, hàng năm đủ loại cúng nào là cúng Thần, cúng Ma, cúng Quỉ, cho đến cúng yêu tinh quỉ dữ, ở mới yên. Bằng không thời chúng quấy phá, không những chúng bắt hết gà, vịt, trâu, bò, dê, heo, ngựa, mà còn nhập hồn vào xác người, làm cho con người điên loạn, vì thế mà con người vô cùng lo sợ.

– Khi ấy có một gia đình lập bàn thờ, thờ Trời đó là gia đình Ông Bà Tân Gia Bá. Ông Bà Tân Gia Bá sanh được một người con trai tên là Gia Khá, gia đình Gia khá nghèo vốn bửa đói bửa no, ở vào thời điểm ấy thời tiết khắc nghiệt nắng hạn suốt ba năm, không trồng được ngô, khoai, lúa, nói chung là không khô hạn không trồng được ngũ cốc nên đói cả làng. Nhà Gia Khá vốn đã nghèo lại hạn suốt ba năm không lấy đâu ra hạt thóc hạt ngô để mà ăn. Tuy mới mười tuổi nhưng Khá cũng theo cha vào rừng hái lượm, hoa quả, đào củ mài, đem về nhà cho cả gia đình ăn.

– Dân chúng Làng Phù Sa do hạn hán kéo dài không trồng gì được, đồng khô cỏ cháy bửa đói bửa no, trâu, bò, heo, dê, gà, vịt cũng chết theo, nếu con nào còn sống cũng ốm tong ốm teo lấy đâu ra mà cúng. Ma, Quỉ thường làm mưa làm gió nhưng cơ trời hạn hán chúng cũng đành bó tay không làm mưa làm gió gì được. Cũng phải đành đói lây vì dân chúng không còn gì để cúng.

– Ma thời ít quậy phá, nhưng Quỉ thời lại khác quấy phá dân lành không lúc nào yên, dân làng chỉ biết khóc than đâu có cách gì khác.

– Một hôm có bầy yêu tinh từ Ngạo Lai kéo đến nói với dân Làng nếu Yêu Tinh tôi làm cho mưa thời dân làng phải dâng nạp người sống để cúng. Nhưng người đó phải sanh vào giờ Dậu tháng Dậu, năm Dậu, chỉ mười tuổi trở lại không quá mười hai, cùng một con heo, con bò, con dê, con gà, con vịt đủ những lễ vật ấy thời dân Làng không lo chi nước.

Dân Làng bị hạn ba năm thiếu nước uống có người đã bỏ mạng nói chi đến chuyện canh tác trồng hoa màu. Lũ Yêu Tinh nói Trời còn hạn thêm một năm nữa. Dân làng nghe xong kinh hoảng nếu hạn thêm một năm nữa chết hết cả Làng. Bằng ưng thuận theo lời của Yêu Tinh.

– Lũ Yêu Tinh về tâu với chúa Yêu Tinh loài người đã chấp nhận lời của Yêu Tinh Ta. Chúa Yêu Tinh nói Ta chỉ uống máu ăn thịt người sanh vào giờ Dậu, tháng Dậu, năm Dậu, để tu luyện pháp thuật thần thông, còn các ngươi thời nhận lấy phẩm vật heo, bò, dê, gà, vịt mà thưởng thức. Lũ Yêu Tinh mừng rỡ reo hò.

– Chúa Yêu Tinh liền bay đến Làng Phù Sa, hô mây gọi gió, tức thời mây đen phủ kín mịt trời, cuồng phong, sấm sét nổi lên ầm ầm sau đó là trận mưa như trút ngập đồng ngập sá. Dân chúng mừng quá nhưng cũng rất đau lòng, vì phải nạp mạng cho Yêu Tinh một người.

– Dân chúng tìm người có tuổi Dậu sanh vào tháng Dậu, năm Dậu tìm mãi phát hiện ra chính là con Ông Bà Tân Gia Bá, cậu con trai tên Gia Khá phải nạp mạng cho Yêu Tinh.

– Đúng vào giờ dậu tối mai Gia Khá sẽ không còn trên đời vào bụng con Chúa Quỷ Yêu Tinh, mấy tháng nay người trong làng đói, khác chết cũng khá đông, đối với cái chết thời không gì đáng nói nếu hạn thêm năm nữa thời cả làng chết hết, nhưng cái chết nạp mạng cho yêu tinh ăn thịt thời đau đớn thê thảm vô cùng. Đêm hôm ấy Bà Tần Gia Bá thắp hương cầu Trời lạy sáng đêm không ngủ. Khấn nguyện rằng con chỉ có một đứa con duy nhất sắp bị Chúa Quỷ Yêu Tinh ăn thịt coi như nhà Họ Tân Gia Bá đi vào tuyệt tự. Gia đình con thờ Trời gần ba mươi năm. Xin Trời gia hộ cứu giúp.

– Nói về Gia Khá sợ Yêu Tinh ăn thịt quỳ lạy theo mẹ khóc lóc sáng đêm Gia Khá mệt quá ngủ đi lúc nào không biết. Trong lúc mơ màng Khá thấy một người uy nghi hào quang rực rỡ. Nói rằng công lao thờ Trời của Cha Mẹ con gần ba mươi năm nên Ta không thể để cho gia đình tuyệt tự. Ta vân lệnh Đức Chí Tôn Thiên Đế xuống trần cứu giúp con, con đưa bàn tay đây cho Ta. Ta vẽ Thiên Ấn vào lòng bàn tay con Ma, Quỉ, Yêu Tinh nhìn thấy Thiên Ấn liền tan biến hết. Chúng sợ hãi và không bao giờ đến Làng nầy nữa.

– Con vẫn để cho dân Làng đem con dâng cúng cho yêu tin. Sau nầy dân chúng Làng Phù Sa sẽ đi theo con hết. Con trở thành chúa Làng Vua một vùng rộng lớn. Cơ Trời niên hạn kéo dài nắng hạn đã hết mưa thuận gió hòa dân chúng sẽ sống trong yên bình no cơm ấm áo. Nói xong vị Thần phất tay một cái tức thời hai lòng bàn tay của Khá có hình quả tim, trong quả tim có hình thập giá. Có năm nút từ trên xuống dưới. Nút thứ năm có nền vuông, tròn.

– Chỉ một mình Gia Khá nhìn thấy không ai có thể nhìn thấy, Gia Khá nhìn thấy Thiên Ấn trong lòng hai bàn tay thời không còn lo sợ khóc lóc nữa mà tươi cười vui vẻ. Ông Bà Tân Gia Bá lấy làm lạ, cả xóm cũng kinh ngạc không kém. Không lẽ Gia Khá không sợ Yêu Tinh ăn thịt sao mới đây khóc lóc cả đêm lẫn ngày.

– Ánh nắng chiều dần dần lịm tắt hoàng hôn buông xuống màn đêm bao phủ khắp đất trời, nơi đâu cũng thấy một màu đen, chớp mắt giờ Dậu cũng sắp đến. Những ngọn đuốc sáng bừng soi bóng Khá đang ngồi cúi mặt ai nhìn thấy cũng đứt ruột có người không cầm được giọt nước mắt, xung quanh Khá nào là bò, heo, dê, gà, vịt đã quay chín bốc mùi thơm phức mùi gia vị. Ai nhìn thấy không thèm mới lạ.

Dân chúng không ai dám thò đầu ra để nhìn. Vì sợ Yêu Tinh bắt mất, giờ Dậu đã tới, trên bầu trời mây đen cuồn cuộn, một trận gió nổi lên làm cho đèn đuốc tắt ngúm bóng Yêu Tinh chập chờn. Trên không chúa Yêu Tinh bay xuống nhìn vào con mồi lè lưỡi liếm mép, nanh vuốt dài thoàng thấy mà ghê. hai con mắt như hai ngọn đèn pha Chúa Yêu Tinh dơ tay chụp bắt Gia Khá. Gia Khá lấy hết can đảm sè hai lòng bàn tay về Chúa Quỷ Yêu Tinh tức thời hai đạo hào quang từ Thiên Ấn phóng ra vang lên những tiếng sấm Chúa Yêu Tinh sợ quá biến mất lũ yêu tinh vừa nhìn thấy Thiên Ấn thời đau nhức như kim đâm vô cùng kinh hãi chịu không nổi bỏ chạy biến mất.

– Khá lấy làm khoái chí, bụng lại đói cồn cào nghe mùi thịt nướng từ xưa tới nay mấy khi được ăn. Nhìn bê quay, heo quay, dê quay, gà, vịt quay, vẫn còn bốc hơi Khá không bỏ lỡ cơ hội ăn một ruột. Nào thịt bò, thịt heo, thịt dê, thịt gà, thịt vịt no nê. Khá đánh một giấc cho tới sáng.

Chừng nghe tiếng ồn ào Khá mở mắt ra thấy Cha Mẹ bà con lối xóm vây quanh nhìn Khá chăm chăm. Khá bật ngồi dậy Ông Bà Tân Gia Bá mừng quá thì ra con chưa chết. Bà con Làng xóm ngơ ngác không hiểu chuyện gì đã xảy ra.

Khá nói bà con hãy yên tâm lũ yêu tinh không dám đến đây nữa đâu. Từ đây về sau mưa thuận gió hòa. Không còn sợ nắng hạn nữa. Khá dơ hai bàn tay ra nói bà con Làng xóm có thấy gì không. Trong lòng bàn tay có Thiên Ấn đấy. Không những Yêu Tinh mà Ma Quỉ nhìn thấy cũng bỏ chạy. Nhưng nào ai có thấy Thiên Ấn gì đâu chỉ thấy hai lòng bàn tay không của Gia Khá. Dân Làng chỉ biết Yêu Tinh Quỷ Dữ không ăn thịt được Khá mà còn bỏ chạy. Cho Khá là con Trời nên Quỷ, Ma, Yêu Tinh mới không ăn thịt được. Liền suy tôn Khá lên làm chúa Làng.

– Khá ra lệnh cho dân chúng chia phần bê quay, heo quay, dê quay, gà quay, vịt quay cho mỗi gia đình. Khá họa Thiên Ấn treo trước cổng Làng từ đó cả Quỉ lẫn Ma cũng như Yêu Tinh không dám tới quấy phá dân làng nữa. Làng Phù Sa yên ổn bình yên no cơm ấm áo dân số phát triển rất nhanh, các Làng xa gần theo về sau nầy trở thành Bộ Lạc Da Ba hùng mạnh.
 

shopoga

✩✩
110. SỰ TÍCH THÀNH CỔ LOA

Nói về thời xa xưa Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc, trong đó có nước Việt Trung Nguyên.

Nước Việt Trung Nguyên chính là Bắc Văn Lang, cha con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy, đến đời Việt Vương Câu Tiễn, thời nước Việt Trung Nguyên đã quy thuận Nhà Chu. Ở vào thời Chu Nguyên Vương. Đến cuối đời Việt Vương Câu Tiễn thời nước Việt Trung Nguyên mất về tay Tần Thủy Hoàng.

– Ở thời Việt Vương Câu Tiễn quân binh phần lớn nằm trong tay họ Triệu. Nước Việt Trung Nguyên mất về tay quân Tần. Tàn dư quân Việt Trung Nguyên chạy vào Trung Văn Lang chiếm lĩnh một vùng rộng lớn, vùng Đông Hải, Quân Triệu Đà. Còn các cánh quân họ Triệu khác thất bại chạy tản lạc khắp nơi.

– Các cánh quân họ Triệu chạy tản lạc khắp nơi, khi biết Triệu Đà đã có đất dụng võ chiếm lĩnh Đông Nam Hải Trung Văn Lang, liền kéo đến gia nhập với quân Triệu Đà. Quân Triệu Đà vì thế lớn mạnh như thổi không bao lâu lên đến hơn mười vạn quân. Dân Chúng vùng Nam Hải cũng như các vùng khác ở Trung Văn Lang theo về rất đông quân Triệu vì thế trở nên hùng mạnh, có hơn mười lăm vạn quân.

– Khi ấy con cháu Tây Thục Vương, là Thục Phán ở phía Tây Nam, Văn Lang nổi danh như cồn vì có Cao Lỗ theo trợ giúp. Và nhiều tướng tài khác như Dương Sàn, Tây Lương, Dương Lương. Cao Lỗ là nhà khoa học, nhà binh pháp kỳ tài. Lại hiểu rõ cách luyện thép tốt nhất chế tạo mũi tên bắn xuyên thủng áo giáp đồng mũ đồng.

– Thục Phán là con cháu nhiều đời của Tây Thục Vương. Tây Thục Vương đã từng đánh bại quân Ân xâm lược lần thứ nhất thời Hùng Tiên Lang. Mẹ Thục Phán là Công Chúa Mị Hoa con của Hùng Nghị Vương anh em với Hùng Duệ Vương. Thục Phán kêu Hùng Duệ Vương bằng cậu.

– Thục Phán họ An rất thông minh cơ trí hơn người thạo nghề cung, nỏ. Có thể đứng xa một trăm mét bắn trúng vào hồng tâm năm 26 tuổi Thục Phán trở thành một vị Tây Vương.

– Có lẽ niên đại Hùng Vương sắp kết thúc, nên đến đời Hùng Duệ Vương luôn ở trên đà suy vong. Năm giáp thìn 257 trước công nguyên nước Văn Lang chỉ còn lại Nam Văn Lang là nằm trong vòng kiểm soát của Hùng Duệ Vương. Nam Văn Lang liên tiếp xảy ra mất mùa dân chúng khốn khổ đói kém, giặc đói, giặc cướp, giặc nội loạn thường nổi lên. Nhất là nạn quan liêu, nạn tham nhũng, giặc ngoại xâm tìm trăm phương nghìn kế thôn tính Nam Văn Lang. Dân chúng khổ chồng lên khổ, họa chồng lên họa, trăm họ lầm than mệt mỏi mong cầu có sự thay đổi.

– Hùng Duệ Vương không có con trai nối dõi luôn buồn phiền lấy rượu ca múa hát thay thế, thường lơ là việc triều chính, các quan thi nhau mà vơ mà vét khiến lòng dân bất mãn vô cùng.

– Thục Phán khi ấy ra sức chống giặc Tần. giặc Triệu từng ngày xâm lấn đất đai. Công khổ nhọc biết bao, nhiều tướng tài bỏ mạng nơi sa trường.

– Bỗng một hôm Thục Phán nghe Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho cho con rể là Tản Viên Sơn Thánh, thời hét lớn. Ta là con cháu trong nhà, biết bao công lao cực khổ giữ gìn tất đất của Ông Cha. Không nhường ngôi cho Ta, mà lại nhường ngôi cho người ngoài. Ta phải giành lấy không thể để mất vào tay người khác.

– Trước tình hình như vậy các tướng lĩnh đều hợp lại nói với Thục Phán.

Bẩm Thục Vương hãy kéo quân vào kinh đô Văn Lang ép Vua Hùng nhường ngôi. Hùng Duệ Vương thấy quân binh Thục Vương kéo về cung thành đông như kiến lấy làm kinh hãi, bằng cho người mời Sơn Tinh đến nói. Ta sẽ nhường ngôi cho con, con hãy hóa phép đánh tan quân Thục Phán.

– Sơn Tinh thấu rõ cơ Trời bằng tâu rằng. Con đủ sức đánh tan quân binh Thục Phán. Nhưng Ý Trời không cho làm thế đành phải thuận theo Ý Trời.

– Hùng Duệ Vương nghe Tản Viên Sơn Thánh nói thế, bằng nói như vậy Cha phải nhường ngôi cho Thục Phán.

Sơn Tinh nói muôn tâu Phụ Hoàng đúng như vậy. Dù cho Phụ Hoàng triệu hết quân đóng phía Nam Văn Lang, quân đóng phía Đông Nam Văn lang lên đến 20 vạn quân cũng không đánh lại quân Thục Phán đâu. Vì Thục Phán đã ngấm ngầm chế tạo mũi tên thép, bắn xuyên thủng áo giáp đồng, mũ đồng. Trở thành những nỏ Thần vô cùng lợi hại.

– Hơn nữa khi xảy ra chiến tranh, nhất là anh em tương tàn, nồi da xáo thịt. Không bên nào có lợi sự hi sinh chết chóc vô ích. Lưỡng hổ tranh nhau thợ săn đắp lợi. Quân Triệu đang rình rập, quân Tần trăm mưu nghìn kế nuốt trọn đất nước Văn Lang. Chi bằng nhường ngôi cho Thục Phán là thuận theo ý Trời.

– Hùng Duệ Vương không còn con đường nào khác, mở cổng thành đón quân Thục Phán, rồi nhường ngôi cho Thục Phán. Thục Phán quá bất ngờ trước sự thay đổi ý định của Hùng Duệ Vương, không nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh mà nhường ngôi cho mình.

– Thục Phán chính thức lên ngôi báu, chuyển đổi niên đại Hùng Vương thành niên hiệu An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc.

– Cùng vào thời gian ấy quân Tần đã gồm thâu lục quốc Việt Trung Nguyên đã thuộc về nhà Tần, với tham vọng chiếm trọn nước Văn Lang.

– Năm 218 trước công nguyên Vua Tần sai tướng Đồ Thư thống lãnh 50 vạn quân đánh tiến vào Trung Văn Lang ồ ạt thế mạnh như chẻ tre. Quân Tần giáp trụ đầy mình, nón đồng phủ kín, nào kị binh, bộ binh, chiến xa, trang bị ná phóng đá, xe chống tên vô cùng lợi hại. Chia ra làm hai đạo quân, một đạo quân tiến đánh Triệu Đà đang ở Nam Hải. Đạo Quân chủ lực do Thống Soái Đồ Thư trực tiếp chỉ huy thống lãnh 30 vạn quân tiến đánh Nam Văn Lang.

– Trước thế giặc hung hãn An Dương Vương ra lệnh cho Dương Sàn cùng Tây Lương, bình tỉnh vừa đánh vừa chủ động vừa rút lui. Dân chúng ở mọi Châu mọi vùng miền tạm thời duy cư sâu vào Nam Văn Lang, theo kế sách ( Vườn không nhà trống)

– Giặc Tần đi đến đâu cũng không thấy dân, nên không cướp bóc được gì, chờ cho quân Tần chia ra nhiều nhánh tiến sâu vào các châu quận địa phận Nam Văn Lang. Thống soái Dương Sàn, cùng phó thống soái Tây Lương, cho quân Văn Lang mai phục những nơi địa hình hiểm trở nơi sông suối, đèo, dốc mai phục, bất ngờ tấn công quân Tần. Đại quân di chuyển nhanh chóng, nhất là đội quân cung nỏ, phóng lao tinh nhuệ, cũng như áp dụng chiến thuật bắn tỉa, dồn quân Tần vào nơi phục kích, dùng nỏ tên hạ gục chúng.

– Với chiến thuật trên kéo dài trận chiến, dưới dồn ép quân Tần vào chỗ hiểm nghèo quân Tần chết vô số kể, lại không cướp bóc được gì của dân. Đứng trước nguy cơ thiếu lương thực. Quân Tần không làm chi được, tiến đánh không xong mà lùi cũng bị kẹt, tình thế vô cùng bất lợi, càng kéo dài càng nguy, hơn nữa quân dân Bách Việt tinh thần yêu nước quật khởi rất cao. Có thể nói là không sao quân Tần đánh bại được.

– 211 trước công nguyên Tướng Đồ Thư quyết định rút lui về Việt Trung Nguyên, không tiến đánh Nam Văn Lang nữa. Quân Tần rút lui vừa tới nơi hiểm trở. An Dương Vương trực tiếp thống lãnh đại quân xạ thủ đuổi theo truy kích, quân Tần quay lại chống trả. Quân Âu Lạc nhiều ngã kéo tới xáp chiến. Quân Tần bị động, lại thêm thiếu lương thực nhiều ngày đã mệt mỏi, tinh thần chiến đấu không còn cao. Quân Âu Lạc thời khí thế dâng trào. Những mũi tên thép bắn ra từ quân Âu Lạc. Xuyên thủng giáp thủng nón đồng quân Tần chết như rạ. Tướng giặc Đồ Thư chỉ huy la hét. An Dương Vương liền bắn một phát tên thép xé gió vút nhanh cắm thẳng vào cổ tướng giặc Đồ Thư. Thống soái Đồ Thư tướng giặc ngã nhào. An Dương Vương nhanh như con mèo phi ngựa lao tới vớt cho một đao, tướng Đồ Thư đầu lìa khỏi cổ.

– Đại quân binh mã nhà Tần như rắn mất đầu khiếp kinh hốt hoảng tháo chạy dẫm đạp lên nhau lớp chết lớp bị thương vô số những quân binh sống sót chạy về Việt Trung Nguyên Bắc Văn Lang hú hồn hú vía.

– Sau lễ ăn mừng đánh đuổi quân Tần. An Dương Vương chọn đất Phong Khê (nay là vùng Cổ Loa) lập kinh đô. Phòng thủ trước âm mưu xâm lược từ phương bắc.

– Khu vực chọn để đắp thành là một quả đồi Rắn. Quân binh cùng dân chúng ra sức hì hục đắp lũy đào hào hết ngày nọ sang ngày kia. Thành rộng hơn nghìn trượng, gồm lớp tường thành quây tròn lại với nhau giống hình trôn ốc. Dân quen gọi là loa thành. Việc xây dựng An Dương Vương ủy quyền cho vị tướng thân tín là Cao Lỗ. Vị Tướng học rộng hiểu nhiều, lại lắm biệt tài không ai sánh kịp toàn quyền xây dựng.

– Kiến trúc thành cổ loa vô cùng phức tạp xen giữa khu chung cư là lũy hào chiến đấu. Nền móng của tòa thành vừa có nước vừa có thành, lũy. Nên việc đào, đắp vô cùng công phu. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm, việc khó khăn chi cũng làm nổi. Tòa thành cao lần, hào càng sâu thẳm. An Dương Vương cùng các quan đến xem lấy làm hài lòng. Cho rằng một tòa thành có thể đứng vững muôn đời, không ai có thể làm cho nó sụp đổ được, mưa bão sấm sét không lay chuyển, quân giặc cũng không thể nào phá nổi.

– Nhưng ai ngờ sau một đêm, cả tường thành quanh co đều sụp đổ xuống như đất bằng. An Dương Vương đến xem vô cùng tức giận. Cho người dò hỏi chúng dân gần đó cũng như quân dân đắp lũy xây thành kể lại rằng ban đêm họ nghe thấy những bước chân rầm rập có thể nói là rất đông khắp các ngã kéo đến, với những tiếng xì xào. Quân dân sợ quá nên không dám ra nhìn, chỉ nghe những tiếng đổ ầm ầm như sấm dậy.

– An Dương Vương sai các tướng lĩnh đốc thúc quân dân đắp lại, nhưng hổi ôi xây lên rồi lại đổ xuống chỉ trong vòng một đêm. An Dương Vương lại sai người dọ hỏi, thời dân chúng vẫn kể y như những lời kể trước, ban đêm họ nghe thấy rầm rầm như thiên binh vạn mã đi qua, rồi lại nghe những tiếng huỳnh huỵch ầm ầm đùng đùng như sấm dậy.

– Dân chúng nói đã lâu rồi, ở núi Thất Diệu có con Ma Quỷ hiện con gà trắng đêm đêm hiện về phá quấy phá cuộc sống an lành dân chúng, nhất là gần đây quấy phá dân quân đắp thành. Những người có trách nhiệm trong công cuộc xây thành nghe dân địa phương nói thế thời lấy làm chán nản sợ hãi.

– An Dương Vương không nản lòng, Vua động viên ba quân tướng sĩ cũng như những người có trách nhiệm đôn đốc xây thành nhất tâm không bỏ cuộc, nhất là động viên Cao Lỗ tiếp tục công trình. An Dương Vương nói với quân binh cùng dân chúng “sống chết có số ma quỷ làm gì nổi chúng ta”

– An Dương Lập đàn cầu Trời phù hộ đắp cho được loa thành. Cao Lỗ nói hãy cầu Thần Kim Quy sẽ có cách chỉ cho Bệ Hạ xây thành. An Dương Vương theo lời Cao Lỗ vừa cầu Trời vừa cầu Thần Kim Quy. Quả đúng như lời Cao Lỗ nói Thần Kim Quy xuất hiện chắp tay bái lạy An

Dương Vương rồi nói. Thần là Thần Kim Quy, ở vào thời dựng nước. Thần được Cao Tổ cứu sống nên nhớ mãi ơn người, nay có Cao Lỗ con cháu nhiều đời của Cao Tổ mách bảo Bệ Hạ cầu Thần, Thần liền xuất hiện.

– Tâu Bệ Hạ ở núi Thất Diệu có một con Gà Trắng to lớn Hồn của con Gà Trắng chính là Hồn Hồ Tinh có phép biến hóa khôn lường, nó thường hảm hại dân lành nhất là những cô gái đẹp, cũng như những khách trọ trong vùng nầy.

– Ở vào thời dựng nước Bách Việt Văn Lang giết chết không biết bao nhiêu là yêu tinh quỷ dữ trong đó có họ nhà Hồ Tinh. Đến thời Hậu Hùng Vương thời Hùng Vân Lang yêu tinh lại nổi lên quấy phá, bị quân dân Bách Việt tiêu diệt chôn lấp dưới núi Thất Diệu có đến hàng vạn, những u hồn yêu tinh quỷ quái đến nay vẫn chưa tan. Lẩn khuất trong khe đá, ở hang sâu có cơ hội là phục thù.

– Con Gà Trắng sống ở núi Thất Diệu vì có chơn dương rất cao nên bị Hồ Tinh cướp xác tu luyện thành Tinh, có pháp thuật thần thông biến hóa khôn lường, tụ tập những linh hồn tiểu yêu tiểu quỷ. Chúng có mối thù truyền kiếp với Bách Việt Văn Lang nay là Bách Việt Âu Lạc.

– Chính con Gà Trắng nầy điều động những u hồn đến chân thành xúm nhau phá đổ tường thành gần sáng lại kéo về núi. Nếu không có cách thời không dễ gì tiêu diệt được chúng. Hồ Tinh Gà Trắng vốn thích gái. Thường hiện ra chàng trai, đến nhà lão chủ quán, ân ái với con gái lão chủ quán gần chân núi Thất Diệu.

– Bệ Hạ muốn xây được thành thời phải trừ khử cho được con Gà Trắng, và giết đứa con gái của lão chủ quán kia đi. Con gái của lão chủ quán chính là Hồ Tinh Cái đầu thai. Thần Kim Quy tấu trình xong thời biến mất.

– Nghe theo lời Thần Kim Quy mách bảo An Dương Vương liền sai vài viên tướng có võ công cao cường, dẫn quân vào rừng mai phục. Những mũi tên tẩm máu chó mực. An Dương Vương cùng hai vị tướng có tài trừ yêu diệt quỷ cải trang làm khách bộ hành, đến quán xin ngủ trọ qua đêm viện cớ là trời sắp tối. Chủ quán từ chối lấy cớ nói là trong núi có nhiều yêu quái hay làm hại khách trọ.

– An Dương Vương cùng hai vị tướng nói to nói nhỏ năn nỉ chủ quán, cũng như trả vàng bạc với giá cao, cuối cùng chủ quán đành phải chiều theo ba vị khách lạ.

– Đêm đến An Dương cùng hai vị tướng nghe thấy bước chân rầm rập mỗi lúc một rộn ràng. Một con Gà Trắng to lớn xuất hiện hóa ra chàng trai lao nhanh vào buồn người con gái ông chủ quán. Theo lời dặn của Thần Kim Quy trời hừng sáng mới ra tay.

– An Dương cùng hai vị tướng vẫn chờ đợi tiếng gà đã gáy, không bao lâu nơi phương đông hừng sáng. Liền thấy một con Gà Trắng từ trong phòng con gái ông chủ quán đi ra, có lẽ suốt đêm thỏa giấc vu sơn chàng trai đã hiện nguyên hình là con Gà Trắng, thần thông pháp thuật đã giảm sút. Đây chính là cơ hội để giết chết con Gà Trắng.

– Không thể bỏ lỡ cơ hội An Dương Vương liền bắn một phát tên trúng ngay vào con Gà. Con Gà không chết kêu quát quát cất cánh bay lên, hai vị tướng liền phối hợp nhau nhanh như chớp phi tới chém mỗi người mỗi đao giết chết con Gà Trắng. Con Gà Trắng vừa chết thời người con gái ông chủ quán cũng lăn đùng ra chết. Hóa thành con chim lớn từ trong phòng bay ra. An Dương Vương liền bắn một phát con chim trúng tên chết ngay lập tức.

– An Dương Vương ra lệnh cho quân binh đuổi theo đám u hồn yêu tinh mà bắn. Cứ một loạt tên bay đi, liền nghe thấy tiếng Ma kêu Quỷ khóc vô cùng rùng rợn. Tiếng thét hãi hùng mỗi lúc một thưa dần.

– Đến khi mặt trời mọc thời yêu khí tan biến hết, quân binh theo lệnh của An Dương Vương đào được rất nhiều hài cốt bỏ vào từng đống, chất thành đống cao, đốt đi rồi đổ tro xuống suối, không cho u hồn trụ bám tan biến hết.

– Yêu Ma đã trừ xong An Dương Vương ra lệnh cho quân, dân, cùng binh lính xây lại thành. Dưới sự chỉ huy của Cao Lỗ dùng những tảng đá lớn chèn vào chân thành. Lũy Thành xây đến đâu, hệ thống sông đào đến đó. Tạo thành vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ Thủy Binh, Bộ Binh, Kỵ Binh, hùng mạnh. Cuối cùng thành Cổ Loa cũng xây xong. Vua, Vương, Quan, nhân dân vui mừng khôn xiết thành Cổ Loa rộng tới nghìn trượng, Tường thành vừa dày vừa cao, sông hào vừa sâu vừa rộng. xoáy tròn như hình trôn ốc nên gọi là Loa Thành.

– Thành Cổ Loa là một công trình Văn Hóa vào loại phi thường nhất trong lịch sử Văn Minh nhân loại vào thời cổ đại của người Việt.

– Thành Cổ Loa có chín vòng, chu vi vòng ngoài cùng 8km2 vòng giữa 6,5 km2. Vòng trong cùng 1,6 km2 Diện tích trung tâm thành lên tới 2km2 lũy cao 4, 5 m, có chỗ cao đến 8m đến 12 m. Mặt lũy rộng đến 6- 12 m chân lũy tường thành rộng đến 20- đến 30 m. Đây là một duy chứng, di tích lịch sử quý báu nhất. Nhiều lớp tường cổ vẫn còn.
 

shopoga

✩✩
– Nói về An Dương Vương xây xong thành Cổ Loa ra sức tổ chức quân đội, tập dợt chiến đấu. Tướng Lĩnh và Binh Lính hàng ngày cần mẫn thao luyện.

– Những đội thợ chuyên rèn vũ khí, sản xuất hàng loạt mũi tên đồng. Cũng như, lao, côn, kiếm, thương, đao, giáo, mác đều đạt đến kỹ thuật cao.

Nhất là kỹ thuật chế tạo mũi tên thép là cả sự bí mật của Âu Lạc. Chỉ riêng Cao Lỗ mới chế tạo được những mũi tên thép nầy, trên toàn thế giới ở vào thời kỳ ấy chưa có nước nào sản xuất được.

– Cao Lỗ không những chế tạo ra mũi tên thép, mà còn phát minh ra liên châu nỏ thần. Loại vũ khí bắn ra một lần hàng trăm mũi vô cùng lợi hại. Tên đồng, tên sắt, tên thép bay thẳng vào mục tiêu.

– An Dương Vương làm chủ hai thứ vũ khí vô cùng lợi hại đó là mũi tên phép, và nỏ thần liên châu.

– An Dương Vương đặc nỏ Thần Liên Châu vào những chỗ trọng yếu loa thành. Để thử sự lợi hại nỏ Thần Liên Châu bằng ra lệnh cho Cao Lỗ bắn thử. Đám mưa tên dày đặc bắn ra, sức mạnh thật kinh hồn, hàng trăm mũi tên xé gió đến rợn người. An Dương Vương lấy làm hài lòng lắm, không hết lời khen tài bác học Cao Lỗ.

* Đây nói về Hồ Tinh Gà Trắng cùng con gái Ông Chủ quán chết. Thân Gà tuy chết nhưng Linh Hồn Hồ Tinh Gà Trắng vẫn còn do tu luyện nghìn năm Linh Hồn chúng vô cùng lợi hại bám sát An Dương Vương, có cơ hội là báo thù. Hồ Tinh Gà Trắng nói với Hồ Tinh cái muốn diệt được An Dương Vương thời chúng Ta phải đầu thai làm người một đàng làm con Triệu Đà, một đàng làm con An Dương Vương. Hai ta sẽ có cơ hội trả thù. Thế là Hồ Tinh Gà Trắng đầu thai làm con Triệu Đà trở thành Trọng Thủy. Hồ Tinh cái trước đây cướp xác người con gái Ông Chủ Quán, trở thành con gái Ông Chủ Quán, đêm nào cũng ái ân với Hồ Tinh Gà Trắng, bị An Dương Vương giết chết, Liền đầu thai làm con An Dương Vương trở thành Mỵ Châu.

– Nói về An Dương Vương có người con gái xinh đẹp tuyệt trần mắt phụng mày ngài giọng nói ngọt ngào như mật rót vào tai. Một hôm Mỵ Châu đang ngồi soi mặt xuống giếng thời thấy một con Chồn xuất hiện dưới mặt giếng. Mỵ Châu hoảng sợ thét ré lên nhưng thật ra con chồn cái Mỵ Châu thấy khi soi mặt dưới giếng chính là tiền Thân của Mỵ Châu Hồ Tinh Cái. Mỵ Châu sau cơn thấy Chồn liền trở nên khôn khéo hơn xưa nhất là càng về sau càng xinh đẹp. Lúc nào cũng dạ dạ vâng vâng ngọt ngào còn hơn lúc trước. An Dương Vương lấy làm mừng lắm nghĩ mình có phúc mới mới có đứa con như Mỵ Châu. Vừa thông minh, vừa xinh đẹp, vừa có hiếu. An Dương Vương coi Mỵ Châu hơn châu báu, còn quý hơn sanh mạng của mình.

– Nói về Triệu Đà có nhiều người con nhưng Trọng Thủy là khôi ngô tuấn tú thông minh hơn cả. Một hôm Trọng Thủy thấy mình biến thành con Chồn to lớn bị người ta chém máu me đầy mình con Chồn thét lên Trọng Thủy liền mê mang không biết gì nữa. Khi tỉnh dậy như người bịnh nặng tính tình Trọng Thủy đổi khác, đôi lúc làm phật ý Triệu Đà. Triệu Đà không mấy quan tâm về tánh tình Trọng Thủy. Vì nghĩ Trọng Thủy là người tài giỏi lại khôi ngô tuấn tú nên tánh tình kiêu căng là chuyện bình thường. Quả đúng như vậy Trọng Thủy từ khi thấy Chồn trở nên khôn lanh đáo để, ma mị ít ai bì kịp.

– Quân Triệu càng ngày càng trở nên hùng mạnh lên đến 30 vạn quân Triệu Đà trực tiếp chỉ huy, nhờ có móng Rồng đội lên đầu Triệu Đà đánh bại quân Tây Lương, bắn chết Dương Sàn vị thống soái tài ba của An Dương Vương Thục Phán qua trận giao tranh khốc liệt chiếm trọn Trung Văn Lang. Quân Triệu vì thế mạnh lên gấp bội.

– Triệu Đà lên ngôi xưng Triệu Việt Vương rắp tâm chiếm nước Âu Lạc, tức là Nam Văn Lang.

– Triệu Đà ngày đêm luyện tập binh mã, cách đánh thành, những binh pháp được coi như là tối ưu nhất.

– Mùa đông năm 210 trước công nguyên Triệu Đà thống lãnh ba quân Bộ Binh, Thủy Binh, Kị Binh, tấn công vào Nam Văn Lang, thế mạnh như chẻ tre. Tướng Tây Lương chống cự không lại đành bỏ mạng. Quân Triệu hung hãn tiến quân vào thành Cổ Loa. Triệu Đà xua quân công thành hai bên xáp chiến long trời lở đất. Bao chiến thuật cao nhất Triệu Đà bằng sử dụng hết.

Thơ rằng:

Thang lớp lớp bắt lên tường đất

Người trùng trùng lớp lớp leo lên

Máy xe đá bắn lên không ngớt

Tiếng gươm đao, dậy sóng cùng tên

Mù trời mịt đất tấn công

Long trời lở đất khiếp kinh hãi hùng

Nói về An Dương Vương thấy quân Triệu trèo lên tường lớp lớp đông như kiến cỏ. Liền ra lệnh cho Cao Lỗ sử dụng nỏ Thần Liên Châu.

– Cao Lỗ phất cờ ra hiệu bắn tức thời nỏ Thần Liên Châu phản pháo nhã tên quân Triệu chết thôi là chết chỉ trong nháy mắt quân Triệu đi tiêu hơn mười vạn quân. Triệu Đà khiếp vía hoảng kinh. Đánh trống thổi kèn lui binh.

Thơ rằng:

Quân Âu Lạc bừng bừng khí thế

Thành Cổ Loa, huyền bí lạ lùng

Quân Triệu khiếp vía kinh hồn

Chết không kịp ngáp tàn đời xác thân

Thành trôn ốc, vòng quanh khép kín

Lũy tường thành nào khác mê cung

Có vào thời hết đường ra

Ăn tên ăn giáo gươm đao tàn đời

Thân trúng tên ngã nhào như rạ

Khiếp kinh hồn bỏ mạng vùi thây

Loa thành bí hiểm biết bao

Chỉ trong chớp mắt đi tiêu mười vạn quân binh không còn

Triệu Đà khiếp vía kinh hồn

Thua to nhục nhã hết còn xâm lăng.

Triệu Đà thua to nhục nhã rút quân về. An Dương Vương đại thắng mở tiệc ăn mừng ba ngày ba đêm. Không bao lâu Triệu Đà sai sứ cầu hòa. Hai bên thỏa thuận lấy sông Thiên Đức làm ranh giới. An Dương Vương lấy đó cho là thắng lợi mới, mở tiệc chiêu đãi ăn mừng cả tháng, quần thần trong triều ai nấy cũng hào hứng say sưa.

– Cao Lỗ thấy vậy lo lắng bằng quỳ xuống tâu rằng.

– Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Quốc Vương nên bớt tiệc tùng, hãy chăm lo chận đứng mưu đồ của quân Triệu.

– An Dương Vương nghe Cao Lỗ tâu như thế liền cười lớn nói “Ta có loa thành hiểm hóc lại có nhiều dàn nỏ Thần Liên Châu vô địch bày binh bố trận” kẻ nào dám gây sự với Ta.
 

shopoga

✩✩
111. TRỌNG THỦY MỴ CHÂU

Nói về Triệu Đà thua trận Cổ Loa đi tiêu hơn mười vạn quân, nếu tiếp tục tấn công thời chết sạch. Bằng rút quân về đầm Nhất Dạ. Biết mình khó đánh bại được quân Âu Lạc nhất là có thành trì vững chắc, nỏ thần kinh khiếp. Bằng sai sứ cầu hòa, lấy sông Thiên Đức làm ranh giới.

– Đã hơn một năm Triệu Đà ngày đêm buồn bực âu sầu nghĩ đến nỏ thần mà ớn lạnh da gà, nghĩ đến Cổ Loa thành mà rợn tóc gáy, không biết làm sao đánh bại được nước Âu Lạc. Triệu Đà bằng nghĩ ra một kế, muốn thắng được Âu Lạc thời phải biết được bí mật luyện thép, cách làm nỏ Thần Liên Châu. Cũng như vẽ được sơ đồ Cổ Loa thành.

– Triệu Đà liền gọi con trai là Trọng Thủy vừa thông minh lại khôi ngô tuấn tú, có tài ăn nói lưu loát ít ai bằng. Nhất là hai năm vừa rồi Trọng Thủy học đâu nhớ đó cái gì cũng biết quả là một nhân tài khôn khéo ít ai bì. Triệu Đà bằng tính kế với Trọng Thủy là phải tiêu diệt cho được An Dương Vương Thục Phán. Trọng Thủy nghe nói lấy làm ưng ý, bằng nói Cha có kế sách gì chưa. Triệu Đà nói kế sách thời có nhưng con có chịu giúp Cha không? Trọng Thủy nói miễn là tiêu diệt được An Dương Vương Thục Phán thời chuyện gì con cũng làm. Triệu Đà bằng nói nhỏ với Trọng Thủy chỉ thấy Trọng Thủy gật đầu lia lịa.

– Nói về Triệu Đà với âm mưu thôn tính nước Âu Lạc liền đem lễ vật thật hậu nào là gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, nhân sâm nghìn năm, chim trĩ trắng, nào là vàng bạc châu báu, ngà voi, sừng tê giác, nhiều vô số kể chính thức cầu hôn công chúa Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Cũng như ở rễ làm phò mã nước Âu Lạc.

– An Dương Vương nào biết mưu sâu kế độc của Triệu Đà. Triệu Đà lúc nào cũng nói cầu hòa, nhưng trong lòng lại khác. An Dương Vương luôn tự đắc ỷ vào cung thành cũng như nỏ Thần không sợ Triệu Đà bằng vui vẻ nhận lời gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Với những lời cam kết, đất ai nấy ở, nước ai nấy lo, nước ao không phạm nước giếng.

– Cao Lỗ có vẻ nghi ngờ thận trọng khuyên An Dương Vương, không nên chấp nhận vội việc Triệu Đà cầu hôn Mỵ Châu cho Trọng Thủy, đề phòng âm mưu của Triệu Đà.

– An Dương Vương không nghe, Cao Lỗ chỉ biết thở dài dù sao đề phòng cũng là tốt hơn.

– Mỵ Châu gặp Trọng Thủy liền say đắm. Trọng Thủy cũng thế chẳng khác gì Mỵ Châu vừa gặp Mỵ Châu liền say đắm. Hai người tâm đầu ý hợp chớp nhoáng đã yêu nhau quên trời quên đất. Như đã từng yêu nhau ở kiếp trước giờ gặp lại nhau như keo, sơn, bám chặt dính nhau.

– Trọng Thủy ở lại thành cổ loa say đắm Mỵ Châu đến nổi quên mất lời Cha dặn suốt ngày quấn quít bên Mỵ Châu. Vốn Linh Hồn Hồ Tinh về đường ái dục thời khỏi chê suốt ngày suốt đêm không biết ớn.

– Nói về Triệu Đà lúc bây giờ là Chúa Tể đất Nam Hải quân binh hùng mạnh, nhưng lại sợ tên thép, nỏ Thần, loa thành vô cùng bí hiểm. Ngày đêm trông đợi sự thành công của Trọng Thủy. Nhưng không thấy Trọng Thủy báo tin gì, bằng cho người giả làm thường dân đến Cổ Loa đưa cho Trọng Thủy một phong thơ, hối thúc Trọng Thủy làm theo kế hoạch như đã bàn trước đây. Trọng Thủy xem thơ xong liền giật mình gần một năm trôi qua chỉ lo yêu đương chưa làm gì cả.

– An Dương Vương cho người theo dõi Trọng Thủy thấy gần một năm, thấy Trọng Thủy ngoài yêu thương Mỵ Châu ra không hề để ý đến chuyện gì khác An Dương bắt đầu tin tưởng nên lơ là đề phòng. Trọng Thủy Mỵ Châu hai người yêu nhau đến nổi Trọng Thủy làm gì, nói gì Mỵ Châu cũng nghe theo, làm theo.

– Một hôm Trọng Thủy nói với Mỵ Châu em dẫn anh đi dạo trong trong thành. Trọng Thủy đòi xem hết chỗ nầy đến chỗ kia không chỗ nào mà Mỵ Châu không dẫn đến. Trọng Thủy là người có trí nhớ vô cùng chỉ cần xem qua một lần là nhớ rõ in không sót một chi tiết. An Dương Vương không nghi ngờ gì cả. Thấy đôi trẻ yêu nhau đến nổi không còn xa nhau được nữa.

– Từ đó Trọng Thủy Mỵ Châu hai người như một không chuyện gì bí mật mà dấu nhau.

– Một đêm trăng sao vằng vặc bầu trời rất đẹp, muôn vạn vì sao nhấp nháy, một cơn gió lạnh lùa qua. Mỵ Châu nép sát vào người Trọng Thủy. Đây là cơ hội cho Trọng Thủy khai thác bí mật luyện thép. Cũng như nỏ Thần Liên Châu.

– Trọng Thủy hỏi vợ

Nàng ơi bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được. Mỵ Châu nói:

Có bí quyết gì đâu, chẳng qua là có thành cao, hào sâu, lại có tên thép cũng như nỏ Thần Liên Châu, bắn một phát chết hàng trăm quân địch, thời có kẻ nào đánh được.

– Trọng thủy nhìn Mỵ Châu vờ như lần đầu mới nghe nói đến tên thép cũng như nỏ Thần Liên Châu bằng nói ước gì được nhìn xem qua. Mỵ Châu nói muốn xem thời mai thiếp dẫn chàng đi xem chuyện nhỏ nhoi như thế có gì là mơ ước.

– Đêm ấy Trọng Thủy nhìn Mỵ Châu trằn trọc không ngủ được, vì nghĩ đến tương lai u ám không biết sẽ ra sao. Trọng Thủy vờ như ngủ Linh Hồn Trọng Thủy chính là Linh Hồn Hồ Tinh Gà Trắng tu luyện hàng nghìn năm. Nên trí nhớ không ai bằng chỉ cần một con cọp nhảy ngang qua là vẽ lại y chang.

– Mặt trời đã lên cao hơi ấm tràn về khắp lối, ánh nắng ngập tràn khắp quê hương ruộng đồng sông núi. Mỵ Châu dẫn Trọng Thủy đi xem nỏ Thần Liên Châu. Trọng Thủy chú tâm khám phá cấu trúc hình thành lên nỏ Thần Liên Châu. Cũng như nơi vị trí hiểm yếu đặc nỏ Thần trong loa thành. Mỵ Châu giải thích không thiếu sót bày cách bắn, cách lắp tên.

– Trọng Thủy thành công khám phá hai phần ba sự bí mật của Âu Lạc. Chỉ còn lại phương pháp bí quyết luyện thép nữa là xong. Trọng Thủy là người rất thông minh sau khi khám phá hai phần ba bí mật của Âu Lạc liền nghĩ ra một kế đang đi chơi với Mỵ Châu liền ôm bụng đau đớn rên la Mỵ Châu hoảng kinh đưa Trọng Thủy về phòng chăm sóc. Cứ lâu lâu chứng bệnh lại tái phát Mỵ Châu vô cùng lo lắng hỏi Chàng bị chứng bệnh gì Trọng Thủy chỉ lắc đầu làm thinh không nói. Trọng Thủy lại lên cơn đau dữ dội Mỵ Châu phát hoảng nói đã là vợ chồng anh đau cũng chính là em đau. Bệnh của Chàng không có thuốc chữa sao? Trọng Thủy ngập ngừng không nói. Mỵ Châu hỏi đến lần thứ năm sắc mặt vô cùng lo lắng. Trọng Thủy biết đã đến lúc cần nói chỉ cần một ít bột trong lò luyện thép pha chế uống vào là khỏi. Mỵ Châu ngần ngừ đôi chút. Trọng Thủy nói nàng là Công Chúa thời nơi nào mà đến không được.

Mỵ Châu nói không vào chỗ đó được đâu, đó là chỗ Cao Lỗ luyện kim một nơi bí mật, quân canh lính giác khó vào.

– Trọng Thủy ôm bụng la đau Mỵ Châu hốt hoảng nói vào đó hốt nhanh rồi rút lẹ không được ở lâu.

– Mỵ Châu dẫn Trọng Thủy đến một nơi bí mật vào chỗ luyện kim của Cao Lỗ. Quân binh canh giữ nhìn thấy Công Chúa không ai ngăn cản chỉ cúi đầu.

– Trọng Thủy xem qua nơi luyện thép có mấy thùng đựng bột kim loại pha chế, cũng như cách thức đắp lò luyện kim, Trọng Thủy liền hốt nhanh mỗi thứ một ít rồi đi ra.

– Nói về Trọng Thủy đã được cả ba, bằng nói với Mỵ Châu ở đây không có dụng cụ để sắc uống. Một dụng rất đặc biệt. Trọng Thủy lại nói đã có những thứ bột đặc biệt nầy thời không còn tái đi tái lại nữa. Anh về Nam Hải mấy ngày sẽ trở lại ngay. Mỵ Châu không muốn chia tay nhưng chàng về bên ấy chữa bệnh, nên không có cách gì giữ Trọng Thủy ở lại bằng chấp thuận cho chàng về bên Nam Hải.

– Qua hôm sau Mỵ Châu xin phép An Dương Vương cho Trọng Thủy về bên ấy chữa bệnh. An Dương Vương liền chấp thuận, vì lúc nầy An Dương Vương đã tin Trọng Thủy. Trọng Thủy vô cùng khôn khéo lại có trí nhớ đến kinh người, chỉ cần nhìn qua là trở thành bản in sao chép không bỏ sót một chi tiết nhỏ. Coi như những bí mật Âu Lạc không còn che dấu được nữa. Kinh Dương Vương không ngờ Trọng Thủy lại tài giỏi như vậy ăn cắp nghề nhưng không lộ ra cho người ta thấy.

– Lúc chia tay với Mỵ Châu Trọng Thủy nói “Anh về bên ấy rồi nhỡ có chuyện gì xảy ra, thời làm thế nào để tìm được nàng”. Mỵ Châu sụt sùi đáp, thiếp có chiếc áo lông ngỗng sáng rực khác thường, nếu phải đi đâu thiếp sẽ rút lông ngỗng thả dọc đường chàng cứ theo dấu lông ngỗng mà tìm.

– Trọng Thủy trở về Nam Hải họa lại sơ đồ thành Cổ Loa. Chỗ đặt nỏ Thần Liên Châu, họa lại nỏ Thần Liên Châu và cách sử dụng.

– Trọng thủy lấy trong người ra những thứ bột pha chế, cũng như cách thức luyện kim, lò luyện kim cấu kết thành thép.

– Triệu Đà dồn hết thợ luyện kim. Thợ pha chế, Thợ rèn kiếm, thợ rèn đao, nghiên cứu suốt tháng, chỉ luyện được thép, nhưng chưa đạt được đến đỉnh cao, không bằng những mũi tên thép do Âu Lạc chế ra. Nhưng so với mũi tên đồng tên sắt thời hơn xa. Triệu Đà lấy làm mừng.

– Nói về Triệu Đà gấp rút hơn tháng chửng bị quân hùng tướng mạnh, tập dợt phá thế trận Cổ Loa, Tránh né thế trận nỏ Thần Liên Châu. Đánh đúng lúc, chiếm đúng chỗ, sử dụng chiêu thức phá trận đúng nơi. Tiến quân lui quân đúng cách. Quân lương vận hành thông suốt, phát động chiến tranh lâu dài.

– Triệu Đà dốc toàn lực lượng hùng mạnh nhất chưa từng có tiến đánh thành Cổ Loa.

– Cao Lỗ nghe tin vào tâu An Dương Vương, chuẩn bị quân cơ sẵn sàng chiến đấu.

An Dương Vương nghe xong cười ngất nói rằng. Giặc không muốn sống nữa hay sao, có lẽ hơn hai năm chúng đã quên nỏ thần, kệ chúng, chúng đến sẽ đánh lo gì

– An Dương Vương tiếp tục đánh cờ, không lo lắng gì cả, không đầy ba ngày quân giặc kéo tới vây kín loa thành.

– Nhờ có bản đồ loa thành do Trọng Thủy vẻ ra, chỗ nào đặc nỏ Thần Liên Châu, quân địch đều rõ hết. Triệu Đà xua quân đánh chỗ không phải tầm ngắm nhả tên của nỏ Thần. Biết chỗ nào bắc thang trèo tường, lại hiểu rõ đường đi nước bước trong loa thành. Quân Triệu trèo tường như nước lở. An Dương Vương ra lệnh dùng nỏ Thần Liên Châu bắn quân địch. Tên bắn ra nhiều mà chẳng trúng được bao nhiêu. Quân Triệu tràn vào thành như nước lũ. Quân nội thành chỉ hơn ba vạn, còn đại quân ở xa làm sao cứu được lửa. Chống làm sao lại tên sắt, tên thép, tên đồng quân Triệu bắn ra. Quân Triệu phá cổng thành tiến sâu vào trong. Hàng trăm nỏ Thần Liên Châu bị những tay cao thủ thượng đẳng phá nát. Thế là hết quân Triệu từ các ngã tiến vô ồ ạt như nước vỡ bờ. Quân Âu Lạc trở thành con mồi cho hổ báo.

– Vị Trung Thần Cao Lỗ khuyên vua chạy về phương nam, điều động quân binh chống trả lại quân Triệu. Cao Lỗ xông lên phía trước ngăn cản quân giặc không cho đuổi theo An Dương Vương, một mình Cao Lỗ cùng một số quân binh tả xông hữu đột liều thân ngăn sự rượt đuổi quân Triệu đông như kiến cỏ.

Sau có thơ rằng;

Ôi khí phách, trung thần Cao Lỗ

Cùng quân binh, quyết tử hi sinh

Chận đứng quân Triệu rượt theo

Để An Dương Vương thoát khỏi vòng vây quân thù

– Trận đánh không cân sức cuối cùng Cao Lỗ chết một cách hiên ngang, người cắm đầy mũi tên Quân Triệu cũng phải khiếp kinh.

Vì nước non, một lòng dốc sức

Thà chết đi, trọn hiếu trọn trung

Sợ gì cái chết vì non

Một lòng một dạ trung kiên anh hùng

Người đời sau có thơ kính tặng ông

“Thành Ốc Treo Cao Vầng Nhật Nguyệt

Tất dạ Trung Trinh Thục Sử Truyền”

– Nói về An Dương Vương giục ngựa ngõ sau phi nước đại chạy về biển đông.

– Mỵ Châu ngồi sau lưng Cha bứt lông ngỗng ở áo thả khắp dọc đường. Trời tối mù tối mịt Trọng Thủy đang lúc hoang mang không biết tìm Mỵ Châu nơi đâu, bỗng nhìn thấy lông ngỗng. Trọng Thủy nhớ tới lời Mỵ Châu, bằng dẫn theo một toán quân binh cứ theo vết lông ngỗng mà truy đuổi. Đường núi gập ghềnh hiểm trở ngựa chạy cả trong ngày lẫn đêm, đến dạ sơn gần biển. Hai cha con định xuống ngựa ngơi nghỉ, thời quân giặc đã đuổi tới gần.

– Trời đã hừng đông đường núi quanh co dốc ngược không còn lối nào chạy. An Dương Vương liền hướng ra biển khấn vái Thần Kim Quy phù hộ cho mình. Vừa khấn xong tức thời một cơn gió nổi lên cát bụi mịt mù Thần Kim Quy hiện ra nói với An Dương Vương rằng giặc ở sau lưng nhà vua đấy.

– An Dương Vương liền tỉnh ngộ rút gươm chém Mỵ Châu một luồng khí xanh bay lên hiện ra con chồn rồi biến mất, An Dương Vương vô cùng sửng sốt. Nhìn Mỵ Châu không hiểu nó là yêu tinh hay con mình. Nếu con mình sao làm hại mình như vậy.

– An Dương Vương nhìn thấy từ xa cát bụi mịt mù biết là số mình đã tận liền nhảy xuống sông tự tử.

– Nói về Trọng Thủy dẫn theo một toán quân rượt đuổi theo sau An Dương Vương theo dấu lông ngỗng đi tìm Mỵ Châu. Đến gần bờ biển thấy xác vợ nằm trên đám cỏ. Tuy chết mà nhan sắc không phai mờ Trọng Thủy khóc òa lên. Thu nhặt thi hài đêm về chôn trong thành. Rồi đâm đầu xuống giếng trong thành mà Mỵ Châu thường soi mặt cũng như thường tắm.

– Ngày nay ở thành Cổ Loa trước đền thờ An Dương Vương còn có cái giếng, gọi là giếng Trọng Thủy.

– Đời sau truyền rằng Mỵ Châu bị Cha giết, máu chảy xuống biển, loài trai ăn được làm cho ngọc trai sáng đẹp ra.

– Cuộc đời An Dương Vương Thục Phán, Hồ Tinh Gà Trắng. Hồ Ly con gái Ông Chủ Quán. Oan Gia tương báo thành câu chuyện Trọng Thủy, Mỵ Châu. Phá tan cơ nghiệp An Dương Vương, Là một tấm bi kịch.

– Tuy vậy nhiều thế hệ người Việt coi An Dương Vương là vị vua thông minh tài ba lỗi lạc.

– Đền thờ của Ông được lập ở ngay chân núi Mộ Dạ. Quanh năm hương khói. Còn có đền Thần thờ vị tướng tài Cao Lỗ. Nhà Bác học, Khoa Học, Chính Trị, Quân Sự, Kiến Trúc, Luyện Kim, Chế Tạo Tên Thép. Có một không hai trong thời ấy.
 

shopoga

✩✩
112. SỰ HỒN NHIÊN

Một ngôi nhà nhỏ cạnh đầu làng

Hàng cau trong nắng, đứng chịu tang

Bảy mùa thu đến, mùa lá rụng

Cô đơn người Mẹ sáu xuân sang

Mới đó giờ đây, Hân đã lớn

Tiếng cười giọng nói dậy ngân vang

Mẹ giá con côi theo ngày tháng

Đôi lúc vẫn còn, tiếng thở than

Dưới cơn mưa tầm tã. Bé Hân đang ngồi với mẹ thấy người ta kẻ đội nón, người che dù đi vào nhà Ông Hai, mỗi lúc một đông.

– Bé Hân hỏi; Mẹ ơi hôm nay nhà Ông Hai làm gì vậy? Bà Vân nghe con hỏi liền nói, hôm nay là ngày kị cơm Chú Ba Ổi con Ông Hai đấy con.

– Bé Hân hồn nhiên hỏi Chú Ba Ổi vì sao chết vậy mẹ. Bà Vân nghe Bé Hân hỏi như nhớ lại, một đêm tối không trăng tiếng chó sủa inh ỏi, sau đó thời tiếng súng nổ như bắp rang, canh nông, đại bác, đạn cối, thi nhau nổ ầm ầm kinh hồn bạt vía. Tiếng máy bay gầm rú đầy trời tiếng bom rền sông núi. Hình ảnh người chồng Ông Vân trúng mảnh bom không qua khỏi đành bỏ mạng, bỏ lại mẹ giá con côi Bà Vân càng nghĩ càng rơi nước mắt.

– Bé Hân thấy Mẹ rơi lệ liền lấy khen lau nước mắt cho Mẹ rồi nói, Mẹ lớn rồi mà con khóc. Bà Vân ôm con vào lòng dằn cảm xúc. Nhớ lại những ngày bom rơi đạn nổ như mới đây mọi việc hiện ra trước mắt thấy rõ như in. Trận giao tranh giữa Quốc Gia và Cộng Sản cho tới sáng, thây người rải rác khắp nơi. Ở đời người ta thường nói Trâu Bò húc nhau ruồi muỗi chết. Cộng Sản, Quốc Gia đánh nhau dân mang họa. Bà ngồi bên xác chồng lòng nghẹn ngào đau đớn không sao tả hết.

– Cuộc chiến tranh đầy phi lý, hai bên đều cho mình là đúng, đã làm đúng sao còn phải đánh nhau. Súng đã nổ thời không chết cũng bị thương, hai bên thi nhau ngã xuống không phải yêu nước thương nòi gì, mà là anh em tương tàn, nồi da xáo thịt. dù cho bên nào bị tiêu diệt cũng là Đồng Loại, anh em Đồng Bào, máu đỏ da vàng nào phải kẻ thù gì đâu. Bà Vân càng nghĩ càng thấy lòng đau, chỉ tội cho người dân vô can cũng phải chịu khổ lây, cái chết của chồng Bà do hai bên gây ra nhưng nào ai chịu trách nhiệm đâu. Sự chết đi chỉ vì trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết. Bà Vân nhớ lại chồng bà nằm trên vũng máu sự hi sinh vô lý trở thành nạn nhân do hai bên chém giết lẫn nhau.

Chiến tranh ơi hỡi chiến tranh

Cướp đi sinh mạng, người dân thiện lành

Làm cho chồng vợ chia lìa

Tiêu tan nhà cửa xóm làng xác xơ

Dù cho Cọng Sản, Quốc Gia

Cũng là Đồng Loại anh em Đồng Bào

Tương tàn chém giết hận thù

Gây bao thảm kịch hiểm nghèo cho dân

Chiến tranh phi lý chiến tranh

Đớn đau dân tộc tiêu tan nước nhà

Đầu xanh tuổi trẻ không còn

Gò hoang chôn xác nấm mồ quạnh hiu

Tấm chồng cũng bỏ ra đi

Để cho mẹ giá con côi tháng ngày

Trò hề ai đã đặt bày

Khói mây rồi cũng trở khói mây

Nhưng rồi biết trách ai đây

Trách cho con tạo trớ trêu cuộc đời

Càng nghĩ nước mắt tuôn dài

Nghĩ thương dân chúng họa đày gian nan

Bà Vân nước mắt chảy tuôn

Bé Hân nhìn Mẹ, Mẹ ơi Mẹ khóc nữa nè

Bà Vân lau nước mắt gượng cười. Bé Hân nhìn qua nhà Ông Hai như nhớ ra điều gì nói, Mẹ chưa trả lời Chú Ổi vì sao mà chết. Cơn mưa như trút đã tạnh Bà Vân nhìn rõ từng người đi vào nhà Ông Hai.

– Bà Vân nói nhỏ Chú Ba Ổi đi Lính Quốc Gia chết đó con.

– Bé Hân ngơ ngác hỏi hôm nay là ngày kị cơm Chú Ba Ổi Lính Quốc Gia. Sao con thấy những người đến ăn giỗ không ít người đội nón cối, không lẽ những người đội nón cối quân giải phóng kia, không hiểu Chú Ba Ổi là lính Quốc Gia họ đã giết chết hay sao?

– Bà Vân bụm miệng con gái nói nhỏ thôi. Những người đội nón cối quân giải phóng kia là anh em ruột với Chú Ba Ổi người đã chết đấy, không phải người ngoài đâu.

– Bà Vân nói người đội nón cối bận đồ xám là Chú Dừa anh cả của Chú Ba Ổi đã chết. Còn người đội nón cối mặc bộ đồ xanh là Chú Mận em ruột Chú Ba Ổi người đã chết. Họ là anh em cùng một mẹ một cha. Người đi theo Quốc Gia, kẻ đi theo Cộng Sản thế là chém giết lẫn nhau. Anh em họ chẳng thấy đau, người ngoài như mẹ đây nhìn anh em họ giết nhau mà thấy xót dạ.

– Bé Hân nghe mẹ nói thế lấy làm lạ nói Anh Em nhà họ có vấn đề gì không, Anh Em như thể tay chân sao họ lại làm như thế kẻ đi bên nầy, người đi bên kia chém giết nhau. Bà Vân nói là do tình thế tạo ra không đi theo Cộng Sản thời phải theo Quốc Gia mà thôi không còn cách nào khác. Khi con lớn lên con sẽ biết hai bên tranh nhau giành lấy từng người thi nhau bắt đi lính. Con muốn trốn cũng không được. Trong thế buộc không theo Cộng Sản thời cũng phải theo Quốc Gia. Đối lập nhau coi như không đội trời chung đi đến chém giết lẫn nhau tạo ra bi kịch đó con. Bé Hân như chợt nhớ ra bài học tuần trước liền đọc lên cho Mẹ nghe.

Gà con lạc Mẹ đá nhau

Đá cho sức trán u đầu chưa thôi

Đá cho ruột thịt tả tơi

Đá cho bỏ mạng rồi đời anh em

Đá cho lem luốt tèm lem

Máu tanh thầm đỏ hết mong sống còn

Đá cho xanh cỏ xanh mồ

Hồn Ma bóng Quỉ bạn đời gió sương

Đá cho xốm nát làng tan

Ngư ông đắc lợi ngoại bang vui mừng

Cũng vì đánh mất Cội Nguồn

Gà con lạc Mẹ tranh giành đá nhau

Bà Vân nghe xong khen bài học hay quá. Nghe mà thấm thía, mắn yêu con gái, con coi vậy mà thông minh ghê.

– Tà áo hồng vừa đi ra khỏi ngõ thời có người lên tiếng hỏi, hai mẹ con chị đi đâu mà ăn diện xinh đẹp vậy,

– Bà Vân quay đầu nhìn lại hỏi. Cô Hằng cũng đi đền thờ phải không? Cô Hằng cười nói con cháu Tiên Rồng không đi đền thờ thời còn đi đâu. Thời nay những người không quên Cội Nguồn khác gì hạt gạo trên sàng mà chị. Bà Vân nhìn Hằng rồi nói cô nói cũng phải, đi đền thờ lễ lạy Cha Trời Lạc Long Quân, Mẹ Trời Âu Cơ cũng như lễ lạy Quốc Tổ, Cội Nguồn của chúng Ta.

Ta về Ta tắm ao Ta

Dù trong dù đục đạo nhà vẫn hơn

Đạo nhà truyền thống Cha Ông

Con thuyền Nguồn Cội biết bao đẹp lành

Hiếu Trung, Trung Hiếu một lòng

Theo chân Quốc Tổ về trời cõi tiên

Đạo nhà cũng lắm linh thiên

Cha Ông phù hộ Hồn Thiên phù trì

Mắc gì ta lại mắc gì

Quên Nguồn bỏ Cội để rồi bơ vơ

Ta về Ta tắm ao Ta

Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn

– Bà Vân Cô Hằng phải nói là tâm đầu ý hợp kẻ xướng người họa, vừa mới lạ vừa văn minh ai nghe cũng thấm thía trong lòng. Hai người kẻ nói lại người nói qua, không bao lâu thời đến đền thờ.

– Bé Hân nhìn thấy người đông quá áo chen sắc áo, người chen lấy người, chật ếm như nêm. Trong lòng bé Hân vô cùng thích thú, nắm lấy tay Mẹ giục giật rồi nói người đông như thế có phải là người cách mạng hết không? Hằng trả lời thay cho Bà Vân, đã về Cội Nguồn thời không còn phân biệt Cộng Sản hay Quốc Gia. Tất cả đều là anh em Đồng Bào đoàn kết yêu thương như anh em một nhà. Tôn Giáo, Đảng Phái cũng chỉ là con Rồng cháu Tiên. Tình Đồng Bào nghĩa anh em, chung nhau một đất nước quê hương, đâu còn phân biệt chia rẽ nữa. Bé Hân nhìn Mẹ rồi hỏi đã về Nguồn thời tất cả đều là anh em phải không Mẹ. Bà Vân gật đầu thay cho lời nói.

– Bé Hân nói Cô Hằng giải thích con hiểu rồi, con thường nghe bài hát Dòng Giống Tiên Rồng đâu chỉ cho người nào tất cả Đồng Bào Dân Tộc Việt Nam đều là anh em. Cọng Sản, Quốc Gia chỉ là thời thế, thế thời, khi tỉnh lại rồi thời Cộng Sản, Quốc Gia cũng chỉ là anh em. Hằng nhìn Bé Hân khen con giỏi lắm.

– Trời đã khuya, ngôi nhà nhỏ của Bà Vân ánh điện vẫn còn sáng. Hân đang học bài chăm chú, như chợt nhớ ra điều gì liền hỏi Mẹ.

– Đáng lý ra dân tộc mình thời phải mạnh như Rồng đẹp như Tiên. Nhưng vì Phụng Hoàng đang bệnh xù lông xù cánh nên trông không được đẹp. Rồng thời trúng độc nên đau bụng không bay lên được bị người ta đè đầu cưỡi cổ phải không Mẹ.

Bà Vân nghe xong không nhịn được cười, cười sặc sụa mắn yêu, cái tổ cha mầy không lo học mà nghĩ những chuyện vu vơ.
 

shopoga

✩✩
113. KHA VÀ ĐÀO

Tấn Nam là một cây cao trong thượng viện chế độ Việt Nam Cộng Hòa, một mẫu người khá đẹp trai, địa vị cao để bao cô gái ước mơ. Nhìn cái vẻ bề ngoài hào hoa đẹp trai của Nam, cũng đã làm ngã gục bao cô gái, huống chi là có tài ăn nói, nhất là tài đánh bóng biết chiều chuộng phái đẹp. Thời có khối cô nàng chết mê chết mệt.

– Nhất là Hương quên ăn bỏ ngủ vì Nam. Hương biết rằng mình nhà nghèo khó tranh lại, với những cô gái nhà giàu tiền muôn bạc tỉ. Hương yêu Nam đến nỗi, Nam muốn gì thời Hương cũng cho, kể cả những thứ quý giá nhất cuộc đời của cô. Cô đã có bầu hơn tháng ý định nói cho Nam biết

– Nào ai ngờ ba mươi tháng tư quân giải phóng cách mạng nuốt trọn miền nam, trong tình thế hỗn loạn. Hương tới nhà Nam thời gia đình Nam đã bỏ đi đâu không biết. Quân Cách Mạng sau đó làm chủ đất nước. Chế Độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, Sài Gòn không còn nữa trở thành tên khác Thành Phố Hồ Chí Minh.

– Binh Lính Quốc gia những người còn sống thời bỏ nước ra đi, cũng như cải tạo ở tù. Bóng hình Nam vẫn biền biệt mịt mù, Hương không còn hi vọng gì nữa, sống một mình lủi thủi sanh con ra rồi nuôi.

Hai mươi năm sau:

– Trời đã khuya Kha vẫn chưa đi ngủ ngồi bên cửa sổ nhìn mãi về ngôi nhà của Đào.

– Đào là con cán bộ cấp cao của Đảng, nhà Đào rất giàu không những thế Đào còn rất đẹp, với chiếc áo dài màu trắng ôm sát người những đường cong đẹp lạ kỳ, trông Đào như một nàng tiên, nữ sinh hoa khôi trong thời đại Hồ Chí Minh.

– Kha là con của Tấn Nam cấp cao của Quốc Gia. Kha chỉ biết vậy thôi chưa bao giờ biết mặt Cha. Tuy đất nước đã đi qua hai chục năm, nhưng thân phận Kha dính dấp đến Quốc Gia vì Kha là con của Tấn Nam, tuy đã hơn hai mươi năm trôi qua nhưng nói về kỳ thị chế độ vị thế xã hội thời Kha vẫn còn nơi đất cái. Còn bên giai cấp thắng cuộc chiến thắng thời ở tận trên mây.

– Kha biết thân phận là con ngụy quân, nên chỉ thầm yêu Đào. Một tình yêu đơn phương không bao giờ có kết quả.

– Có lẽ nhờ vào tình yêu đơn phương nầy Kha không nghĩ đến tình yêu nào khác, chỉ lo đèn sách chăm học nên Kha học rất giỏi, luôn đỗ đạt cao tiếng tăm lừng lẫy. Một hôm Kha ngồi bên cửa sổ nhìn ánh trăng vằng vặc trên trời ngâm mấy dòng thơ, cho bớt nỗi buồn.

Trăng kia ở tận trên trời

Chỉ nhìn trăng sáng dịu hiền mà thôi

Ước ao cũng chỉ ước ao

Mấy đời chiếu rách trãi lên giường ngà

Đũa tre khó để mâm vàng

Vốn thân con cóc đâu cùng Thiên Nga

Hoa Hồng cắm ở bình hoa

Có đâu cắm chỗ ở nơi sình lầy

Mấy ai hiểu được sự đời

Hoa sen thường ở vũng bùn tỏa hương

Thương người thời cứ mà thương

Không hình thời bóng vấn vương tháng ngày

Trăng kia ở tận trên trời

Chỉ nhìn trăng sáng cuộc đời cũng vui

– Tiếng ngâm thơ trong màn đêm u tịch, gió rầm rì như chuyển vận lời thơ. Gửi ai kia một bóng hình xa thẳm, trong nỗi niềm ẩn chứa những lời thơ.

– Đào ngồi bên cửa sổ dưới ánh đèn khuya chợt nghe tiếng ngâm thơ từ nhà Kha vọng lại. Tim Đào run lên hồi hộp Đào không hiểu vì sao mỗi lần nghe Kha ngâm thơ, là Đào không kìm nổi quả tim nó cứ run lên theo giọng ngâm thơ của Kha.

Đào cố xua đuổi hình bóng của Kha, những lời tỏ tình yêu đơn phương của Kha, như một ma lực làm cho Đào không quên được, càng xua đuổi. Thời hình ảnh của Kha càng hiện lên rõ nét, những lời thơ thi nhau thấm vào óc không cách nào xua đuổi ra được.

– Đào phải thừa nhận Kha phong độ khá đẹp trai, nét mặt trông rất hiền từ có sức thu hút đối với giới nữ. Kha học giỏi con đường tương lai của Kha rộng mở thênh thang. Đào thở dài tâm Đào mãi giao động hồ thu đã gợn sóng lăng tăng.

– Thế thời, thời thế nào phải đứng yên, thời bao cấp lùi xa thay vào đó là cơ chế thị trường bắt đầu hé mở. Bao tháng năm Đào luôn đấu tranh tư tưởng có những đêm Đào quá mệt mỏi rồi thiếp đi.

– Từ hôm nghe được những dòng thơ tỏ tình bâng quơ không đi vào đối tượng mục đích rõ ràng, nhưng đối với Đào thời Đào biết Kha yêu mình nhưng không dám ngỏ lời vì ngăn cách giàu nghèo, cũng như cách biệt hai dòng sông kẻ ở bên nầy người ở bên kia.

– Nhà Đào với nhà Kha không xa mấy chỉ vài mươi thước chung nhau trên một con đường. Đào thấy Kha liền né tránh. Kha càng đau nhói càng dồn tâm vào việc học. Kha tốt nghiệp Thạc Sĩ ngành kinh tế loại ưu. Còn Đào thời tốt nghiệp trường đại học mở kế toán.

– Ở đời người ta thường nói có duyên xa mấy cũng thấy gần, vô duyên đối mặt nhưng lòng cách xa. Những ngày qua Kha nhìn bóng hình Đào qua gần bên nhau thế mà như xa tận chân trời.

Đêm đã khuya trời trở lạnh, để quên đi nỗi buồn Kha ngâm mấy dòng thơ.

Trời sinh ra người, để người chịu khổ

Trời sinh ra cây cỏ, để cây cỏ chịu sầu

Chiến tranh kia, đã chia lìa Nam Bắc

Để giờ đây, diềm chết quả tim đau

Lạnh lùng chi, tim đã đầy băng giá

Tránh mặt chi, tim đã chết từ lâu

Ông tơ bà nguyệt đi đâu

Để cho chú Cuội ngồi rầu gốc đa

Đào nghe những lời thơ của Kha như vạn mũi kim đâm vào quả tim. Đào thổn thức em đã yêu anh từ lâu lắm từ khi ta mới gặp nhau. Đào liền khẻ ngâm thơ.

Đêm về những giọt mưa ngâu

Trời kia ngăn cách mỗi nơi mỗi người

Ngưu Lang, Chức Nữ trên trời

Gần nhau chẳng được Thiên Hà cách ngăn

Chàng nào biết được lòng em

Con tim cũng đã rộn lên vì chàng

Bao đêm trong lúc mơ màng

Đôi chim vượt khó trong làn bão dông

Trải bao thử thách gian nan

Mới mong tìm được bình an cùng người

Tim em đã có chủ rồi

Bóng người ở tận chân trời xa xăm

– Kha ngồi bật dạy nhìn qua khu nhà bên cạnh thấy Đào ngồi bên cửa sổ. Như sợ bóng hình kia sẽ biến mất, Kha càng ra sức mà nhìn, hình như Đào cũng biết là Kha đang nhìn Đào. Đào để cho Kha ngắm nhìn như mây cùng gió xích gần lại nhau.

– Thế là từ đó hai người một sợi dây vô hình càng ngày càng trói chặt vào nhau, nụ cười ánh mắt càng thêm đậm đà. Vườn xuân đã có người làm, bón phân tưới nước rực hồng hồn xuân.

– Kha, Đào, yêu nhau không thể xa nhau được nữa Kha nói với Mẹ là Bà Hương. Qua nói Đào về làm dâu nhà mình. Bà Hương nói tuy con là thạc sĩ cũng đã ổn định việc làm, đối tượng nào thời được. Nhưng đối tượng chỗ nầy thời con đừng mơ mộng. Kha thôi thúc mãi, Kha nói Mẹ cứ qua bên ấy khi nào họ không gả thời thôi. Cuối cùng Bà Hương đành phải nghe theo, qua nhà Ông Bộ dạm hỏi Đào cho Tấn Kha. Ông Bộ lạnh lùng nói xin lỗi Bà Hương Bà đến hơi muộn con Đào đã có chỗ rồi. Bà Hương nghe xong thời lấy làm thẹn thùng như bị gáo nước lạnh tạt vào mặt. Bà Hương từ giả ra về nói lại tình hình cho Kha Nghe.

– Kha không lấy gì làm lạ cách từ chối khéo vì họ là người trên mây. Còn mình thời chỉ là cỏ dại ở dưới đất, hai giai cấp khác nhau quá xa, lại là kẻ bên địch người bên ta để khỏi xót xa, cũng như mỗi lần nhìn thấy Đào cầm lòng không được. Càng yêu Đào thời gia đình càng thêm tủi nhục. Kha bán nhà cùng Mẹ đến nơi ở khác, trước khi từ biệt Đào. Kha nói anh vẫn chờ đợi, khi nào em có chồng thời anh mới tính tới chuyện trăm năm.

– Kha cùng Bà Hương đến nơi ở mới trong một con hẻm lớn, Kha cũng tìm nơi làm mới. Kha xin làm cho một công ty nước ngoài, giám đốc công ty là Tấn Nam. Một việc kiều về nước làm ăn, công ty Tấn Nam có mặt trên nhiều nước Châu Á. Kha lương rất khá tháng năm sáu chục triệu, không bao lâu thời leo lên trợ lý cho Tổng Giám Đốc. Kha ăn nói lưu loát làm việc trôi chảy không chỗ nào thiếu sót. Lúc ngồi bên Tổng Giám Đốc ai nấy cũng đều kinh ngạc vì Kha rất giống Tổng Giám Đốc y như là Cha Con.

– Tấn Nam Tổng Giám Đốc cũng lấy làm kinh ngạc, nhưng rồi Ông nghĩ người giống người, nên Ông cũng không quan tâm nữa.

– Một hôm Tấn Nam Tổng Giám Đốc xem lại hồ sơ của Tấn Kha thời Ông giật cả mình. Chỉ có một điều ở đây là cha Tấn Kha, là Tấn Nam đã chết. Ông sững sờ giây lác lấy lại sự bình tỉnh, hồi tưởng lại quá khứ cách đây đã hơn hai mươi năm. Có lẽ bây giờ Hương đã có chồng, mình không nên quấy phá.

– Một hôm Ông gọi Tấn Kha đến hỏi trợ lý còn mấy anh em, Tấn Kha thật thà trả lời con làm gì có anh em, con chỉ biết khi con lớn lên đã mồ côi cha. Ông lại hỏi Mẹ Trợ Lý không có chồng nữa sao? Kha nghe Ông hỏi lấy làm kinh ngạc nhưng cũng trả lời Mẹ con không có chồng chỉ ở vậy nuôi con, biết rằng không biết bao nhiêu người đeo đuổi. Ông nhìn Kha rồi hỏi Trợ Lý có biết mặt Cha Trợ Lý không. Kha lại càng thêm kinh ngạc Ông Tổng Giám Đốc bữa nay hơi là lạ. Nhưng rồi Kha cũng trả lời, tôi không hiểu vì sao Cha tôi lại rất giống Ông Chủ. Xin lỗi Ông Chủ tôi không có ý gì khác, Ông nghe Tấn Kha nói như vậy trầm ngâm giây lát rồi hỏi người Mẹ Trợ Lý thờ rất giống Ta phải không? Kha gật đầu như xác nhận.

– Ông Chủ Tấn Nam đã biết chắc Tấn Kha là con của mình Ông trở nên nghiêm khắc, Ông dạy từng cách ứng xử, cũng như cách điều hành công ty. Tấn Kha vô cùng ngạc nhiên Ông ấy đối xử với mình như con của Ổng. Tấn Kha trở nên quan trọng, trong công ty. Cũng là đối tượng bao cô gái bám theo. Nhà Bà Hương từ đó không ít người lui tới toàn là con gái xinh đẹp. Bà Hương lắc đầu thở dài thằng Kha giờ đây không khác gì thằng cha của nó, chỉ tổ làm khổ người ta.

– Mấy cô ăn mặc xinh đẹp vừa ra, thời một người con gái xinh đẹp từ xa đi đến. Người con gái xinh đẹp ấy chính là Đào. Đào bước vào nhà lễ phép nói con chào thím, Bà Hương niềm nở tiếp Đào như người thân. Đào cảm động muốn rơi nước mắt.

– Bà Hương nhìn Đào rồi hỏi Cha Mẹ con vẫn khỏe. Đào nói Cha con đã về hưu rồi không còn quyền lực như trước đây nên Cha con cũng có phần dễ dãi hơn trước. Công ăn việc làm của con, con tự quyết định lấy. Bà Hương hỏi con ở riêng hay còn ở với Cha Mẹ? Đào hơi ngạc nhiên nhưng chợt nhớ ra nói. Cha con không muốn gả con cho anh Kha nên nói con đã có chỗ có nơi. Thời nay là thời văn minh hiện đại con tự quyết định tương lai hạnh phúc cho mình, ép buộc làm gì người con không yêu.

– Đào xuống bếp phụ một tay làm cơm thân thiện nói đáng lý ra con đến sớm hơn, nhưng vì tìm mãi không được nơi ở của anh Tấn Kha, con mới tìm ra đây thôi.

– Tiếng đồng hồ đã gõ Bà Hương nói năm giờ rồi thằng Kha sắp về, nó đi nó về đúng giờ đúng giấc lắm Bà Hương vừa nói xong thời Kha cung đã về tới nhà, nhìn thấy Đào đang loay hoay làm cơm với Mẹ. Kha nhìn Đào sửng sốt cảm động. Đào thấy Kha nhìn sững mình cúi đầu thỏ thẻ nói, lạ lắm sao mà nhìn người ta dữ vậy, chỉ mới hơn năm mà anh đã câu hàng tá.

– Bà Hương tằng hắng không có đâu con, đó là những cô làm ở công ty đến thăm. Tấn Kha bật cười thời ra em cũng giống như bao người khác, ớt nào mà ớt chẳng cay. Đào bỉm môi nhìn Kha ý anh nói gái nào mà chẳng thường hay ghen chồng, Tấn Kha không nhịn cười được nữa cười vang cả nhà.
 

shopoga

✩✩
– Căn nhà Bà Hương hôm nay vui vẻ khác thường, Đào thời cười nói luôn miệng hết chuyện nầy đến chuyện khác, hết chuyện nọ đến chuyện kia. Đào nói em tìm việc khắp nơi, nạp đơn nhiều chỗ, chỗ em ưng ý thời người ta không nhận thành ra lang bang hơn cả năm nay, cha em đã nghỉ hưu, đâu còn quyền lực để xin việc cho em, nghe Đào nói thế. Tấn Kha suy nghĩ hồi lâu rồi nói, anh sẽ xin cho em vào nơi công ty nơi anh làm.

– Đào nghe nói vô cùng mừng rỡ anh xin được không? Kha nói anh hiện giờ đang là trợ lý cho Tổng Giám Đốc. Việc tuyển chọn người làm trong công ty là do anh, nhưng phải qua Tổng Giám Đốc ký nhận thời mới được vào làm.

– Nói về Đào đến công ty nạp đơn xin việc, công ty Việt Á bề thế tầm cỡ thành phố. Đào cũng không ngờ địa vị vai vế của Kha lại lớn như vậy. Muốn gặp Kha rất khó phải lên phòng Tổng Giám Đốc mới gặp được. Đào không gặp được Kha chỉ nạp hồ sơ xin việc rồi ra về.

– Đào được nhận vào công ty Việt Á với mức lương khá cao. Kha trực tiếp đem giấy trúng tuyển của công ty đến nhà Đào. Thật bất ngờ gia đình Đào tiếp đãi Kha thật chu đáo.

Mới hay vật đổi sao dời

Thế thời thay đổi vận thời đổi thay

Nghỉ hưu quyền lực nghỉ theo

Tìm xin công việc cho con bầm trầy

Mới hay thế sự ở đời

Còn quyền còn lực thời còn ông tôi

Hết quyền hết lực như vôi

Làm dân vạn đại làm quan nhất thời

Đến khi thức tỉnh lại rồi

Mới hay cơ sự ở đời chuyển xoay

Láy lay, lắm chuyện láy lay

Lúc mưa lúc nắng đổi thay cuộc đời

Nói về Cha, Mẹ, của Đào thấy Kha đến, không còn lạnh ngạc như trước kia Ông gọi Đào tiếp đãi Kha thật chu đáo, còn Ông thời lui vào trong.

– Kha hôm nay là trợ lý cho Giám Đốc công ty đi chiếc xe con bóng loáng đâu còn như trước mang đôi dép trành. Kha, Đào thoải mái chuyện trò bờ rào ngăn cách đâu còn biến tan.

– Ông Bà Bộ nhìn theo chiếc xe con, mà tiếc thầm trong bụng, thương cho Đào vuột mất con rồng lên mây.

Đào làm trong công ty Việt Á hơn cả tuần mà không gặp được Kha. Vì Kha đã đi công tác cùng Tổng Giám Đốc qua nhiều nước đến các công ty chi nhánh của công ty Việt Á.

– Đào làm chung với một số nhân viên làm trong công ty cô nào cô nấy cũng xinh đẹp, đều luôn nhắc đến tên Kha. Ở đời mèo biết mèo, chuột biết chuột, Đào nhìn ra họ cũng yêu Kha. Có những cô đã đến nhà Kha, Đào vô cùng lo lắng, con đại bàng đã sải cánh thời khó mà giữ chân cho được. Đã hai tháng rồi cô không gặp được Kha.

– Tấn Kha đã hai tháng chưa về nhà nghe nói đi cùng Ông Chủ Bà Hương lòng suy nghĩ Ông Chủ Việt Á là người thế nào mà đối xử với con Bà tốt như vậy. Hôm nay trông Bà thật xinh đẹp, có lẽ vì thấy con đã đạt được ước mơ, tiền của dư ăn, không còn vất vả, khi có của thời dũa ra người, có xấu cũng thành đẹp, huống chi Bà Hương là hoa khôi thời trai trẻ, giờ đây lòng thỏa mãn hưng chí nên người đẹp ra.

– Thật bất ngờ một chiếc xe con đến trước nhà bà đậu lại, Bà đang kinh ngạc mình làm gì có bà con sang trọng như vậy, cánh cửa xe mở ra, một người khách trông rất giống Tấn Kha bước xuống. Bà Hương quá đỗi bất ngờ đứng như trời trồng nhìn người khách lạ. Người khác lạ sau khi đóng cửa xe nhìn thấy Bà Hương thời không khỏi xúc động suýt chút nữa thời chạy tới ôm Bà Hương.

Ông khách dằn lòng lấy lại bình tĩnh nói Tấn Kha về nhà chưa? Bà Hương cũng dằn xúc động nói nó đi cùng Ông Chủ hai tháng nay chưa về nhà. Bà dụi mắt xem mình đang mơ hay ngủ. Người xưa biền biệt hơn hai mươi năm bỗng dưng xuất hiện trước mặt bà. Bà gọi nhỏ anh Tấn Nam phải không? Tấn Nam cố dằn lòng không cho nước mắt trào ra Ông bước tới nắm lấy tay bà Hương. Hai người nắm tay nhau vào nhà, Bà Hương ngã vào lòng Tấn Nam người mà Bà đã hơn hai mươi năm chờ đợi, tưởng đâu đã chết giờ sống lại trở về với Bà. Bà không xúc động sao được.

– Ông Tấn Nam nhìn Bà Hương nói em vẫn đẹp như ngày nào. Anh không ngờ anh lại có người con giống anh như đúc. Nó thông minh không khác gì anh thời con trẻ. Bà Hương nói anh gặp nó rồi sao? Tấn Nam nói Tấn Kha ở bên anh hơn năm nay rồi Tấn Kha làm trong công ty của anh. Bà Hương sững sờ thế ra là vậy, anh đã biết tất cả Tấn Nam gật đầu chỉ biết mới đây.

– Bà Hương bỗng nổi lên một cơn buồn vô tả hỏi. Anh được mấy người con. Tấn Nam nói trong cuộc hỗn loạn ấy anh đâu còn cơ hội để gặp lại em. Mạng sống chỉ nghìn cân treo sợi tóc. Anh cũng không ngờ em lại mang thai, từ nơi quê hương nửa vòng trái đất xa xôi. Anh đã bỏ lại bao cô gái đã yêu anh. Họ đã có chồng, còn em thời chờ đợi ở vậy mà nuôi con. Anh nợ em quá nhiều biết bao giờ mới trả hết được đây. Anh không có con trai, chỉ có hai người con gái một đứa hiện giờ đang ở Thái Lan. Một đứa hiện giờ đang ở singapore, vợ anh đã ly dị ưng người chồng mỹ từ lâu.

Cảm thấy cuộc đời tẻ nhạt nên anh mới trở về Châu Á mở ra nhiều công ty để làm ăn quên đi người vợ Tây. Bà Hương nghe Tấn Nam kể Bà khóc vùi như hồi còn trẻ, tiếng điện thoại reo làm hai người sực tỉnh, thì ra có người từ công ty gọi đến. Tấn Nam liền từ giả Bà Hương hai người như không muốn xa nhau. Nhưng rồi Tấn Nam cũng phải trở về công ty giải quyết một số công việc.

– Năm giờ Tấn Kha đã về chiếc xe con đã đậu trước nhà. Kha lấy trong xe ra nào đủ thứ, thứ nào cũng đắc tiền toàn là hàng ngoại của nhiều nước. Kha nói đáng lý ra con đã về từ sớm, nhưng Ông Chủ vì bận việc đi đâu đó con phải thay thế tiếp khách nên con mới về muộn.

– Tấn Kha hỏi hai tháng nay Đào có đến nhà chơi không Mẹ. Bà nói Đào cũng thường xuyên đến. Đào nói không gặp con hai tháng nay. Bà nhìn Kha rồi hỏi con thấy Ông Chủ tổng giám đốc là người thế nào?

– Kha nói con thấy hơi lạ, có lẽ con giống ổng nên ổng coi con như con. Những trọng yếu nơi công ty ổng đều giao cho con. Đôi lúc con thấy có gì đó không ổn làm cho con hết bất ngờ nầy đến bất ngờ khác. Hai đứa con gái Tổng Giám Đốc con đã gặp rồi. Một người ở Thái, một người ở Singapore, đang điều hành công ty. Bà nói hai người con gái giống tây phải không? Kha kinh ngạc sao Mẹ biết Bà hương cười bí mật nói mấy cô nhân viên làm ở công ty nói cho Mẹ nghe. Kha nói hai người con gái Tổng Giám Đốc người Việt pha Tây đẹp lắm mẹ.

– Bà nhìn Kha rồi nói Cha con còn sống chưa có chết. Và Cha con cũng đã mới đến đây, Mẹ đem hình trên bàn thờ xuống rồi không thờ nữa, ai lại thờ người còn sống. Kha vui mừng không kể xiết Cha lâu nay ở đâu vậy Mẹ làm sao Cha biết Mẹ ở đây mà tìm tới ai chỉ cho vậy.

– Có lẽ từ ngày Mẹ về đây con hẻm lớn nhà mình là con hẻm lớn đường Âu Cơ, Mẹ hàng đêm thường nghĩ đến Mẹ Âu Cơ nên khiến xui cho Mẹ cùng con gặp được người cha của con. Cha con đã nhận ra con từ lâu con không hay không biết đó thôi. Kha nghe Mẹ nói đã có ý nghi ngờ nhưng không dám chắc. Nhưng vẫn hỏi người đó là ai vậy Mẹ.

– Con là người thông minh tự mình suy nghĩ hỏi Mẹ làm gì. Kha nói thì ra là Ông ấy, thảo nào Ông coi mình như con, truyền dạy tất cả tài năng kinh nghiệm của Ông, như muốn giao sự nghiệp lại cho mình, Kha thấy mình đã chuyển sang một cuộc đời mới.

Bà Hương nhìn Kha thở dài nói đúng là con với Đào lắm tường rào ngăn cách, tường rào kia chưa phá vỡ nổi lại thêm tường rào mới. Cha của con vốn trước đây là thượng nghị sĩ trong thượng viện Việt Nam Cọng Hòa.

– Kha nói con nghe Mẹ kể cha con là Thượng Nghị Viện thời Việt Nam Cộng Hòa, như giờ Việt Nam Cộng Hòa đâu còn đi vào quá khứ làm gì có chuyện ngăn cách giữa con và Đào. Con có biết cha con hiện giờ là ai không? Tấn Kha như nói giỡn không lẽ con là con Ông Tổng Giám Đốc Việt Á. Bà Hương nói không sai. Tổng Giám Đốc tập đoàn Việt Á chính là cha con, Ông Tấn Nam. Lời xác nhận của Mẹ Kha không còn nghi ngờ gì nữa Kha chỉ biết lặng thinh hai gia đình như hai bức tường cao cả mình và Đào khó vượt qua. Tấn Kha thở dài lắc đầu.

Ở đời lắm chuyện éo le

Xưa thời chiếu rách hôm nay son vàng

Nhận cha duyên phận khó thành

Trong hai chọn một thật là khó khăn

Nghĩ mình thời hiểu người ta

Bấy lâu Đào chịu biết bao trận đòn

Vượt tường nào có dễ dàng

Đến nay vẫn giữ chung tình cùng ai

Kha nói Đào rất giống Mẹ tấm lòng vô cùng cao thượng Đào thương con chỉ là một gia đình nghèo. Trong khi gia đình Đào rất giàu. Đào cũng biết con là con của Quốc Gia nhưng vẫn thương yêu con. Mẹ ơi con phải vượt qua lẽ nào con không bằng Đào.

– Cả đêm Kha trằn trọc không ngủ khổ sở vô cùng nên ngã bệnh may là bữa chủ nhật Kha không đi làm. Bà Hương hoảng quá mau điện thoại cho cha con. Kha nói con không dám điện Mẹ điện đi. Bà Hương liền gọi a lô a lô anh Nam đó hả thằng Kha bệnh rồi, chưa đầy nửa tiếng xe con đã tới. Trời xui đất khiến Đào cũng nghé chơi.

– Đào chứng kiến tất cả Cha của Kha đã trở về người Cha thương con không khác gì từng chung sống với Kha Ông lo lắng cho Kha. Lại nữa Cha của Kha là Tổng Giám Đốc tập đoàn công ty Việt Á. Đào choáng váng định lén đi về. Kha ngồi dậy nắm tay Đào ở lại, giới thiệu với Cha. Đây là người yêu của con, chúng con yêu nhau từ lâu.

– Bà Hương liền kể lại tất cả những gì đã xảy ra Tấn Kha nghe đến đâu thời tái mặt đến đó. Bà nói tuy Đào là con cấp cao của Đảng. Nhưng Đào không bao giờ chê Kha là con của Ngụy. Đào vẫn yêu Kha vượt qua bao nỗi khó khăn.

– Tấn Nam ngồi yên lặng một hồi. Đào nảy giờ đã khóc giờ đây lại đào thêm hố sâu ngăn cách. Cô định lao ra cửa Kha nắm chặt tay không cho Đào đi.

– Tấn Nam nói vết thương nào lâu ngày rồi cũng khỏi chúng con thế hệ sau nào có tội tình gì. Nam Bắc còn nối liền được thay, miễn là đời sau quên đi quá khứ không còn ngăn cách vứt bỏ thương đau. Cha đã về Nguồn theo chân Quốc Tổ Vua Hùng, cha không phản đối tình yêu hai con. Miễn là Cha Mẹ Đào chấp thuận là được.

– Kha nghe xong vô cùng cảm động, người cha thật là vĩ đại vượt qua hận thù, hàn gắn lại những vết thương. Đào đã khóc. Tấn Kha nghe Cha không ngăn cản tình yêu liền khỏe mạnh trở lại, liền nói với Tấn Nam con uống mấy liều thuốc là khỏi.

– Tấn Nam nhìn Bà Hương như nói rằng sức mạnh tình yêu chân thật là sức mạnh không gì ngăn cản nổi.

Tấn Kha cùng Đào không bao lâu nên nghĩa vợ chồng sống với nhau thật hạnh phúc. Tấn Kha trở thành cô đông lớn thứ nhì trong Việt Á trở thành phó Tổng Giám Đốc. Đào trở thành Bà chủ trong công ty Việt Á.

– Ba năm sau Ông Bộ dẫn theo một đứa cháu trai đi dạo phố, Ông nói mệt chưa Tấn Thành. Tấn Thành nói con muốn đi chơi nữa Ông Ngoại.
 

shopoga

✩✩
114. ĐI TÌM CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG

Thời nay phải nói là rất nay, mới rợi những năm gần đây. Có một cậu con trai nhà giàu Họ Nguyễn tên là Văn Ba, muốn tìm gặp cho được Chuyển Luân Thánh Vương mà kinh sấm thường nhắc đến đã lâm phàm, nhưng không biết người là ai ở đâu.

Từ ngày có vợ, vợ Văn Ba là Hồng Liên rất phiền lòng không thấy chồng làm ăn mà chỉ suốt ngày nghe ngóng có ai tài giỏi, nhất là xưng Di Lặc thời tìm đến.

Một hôm Hồng Liên nói thời đại bây giờ nhiều người xưng Di Lặc lắm không dễ gì nhận ra ông nào thật ông nào giả. Em là vợ cũng hiểu thế nào là đúng sai, nên không ngăn cản anh tìm Đức Chuyển Luân Thánh Vương. Nếu tìm được thời đời anh lên mây cả em nữa, còn tìm lầm người tin lầm người giả, không những tiền mất tật mang, bệnh mù quáng mê muội sanh ra làm hại đời anh mà cả đời em. Em ủng hộ anh đi tìm Chuyển Luân Thánh Vương, nhưng với một điều kiện khi anh gặp được Chuyển Luân Thánh Vương anh phải về kể lại cho em biết không bỏ sót một chi tiết nào.

Văn Ba nghe vợ nói thế thời lấy làm mừng.

Qua mấy ngày sau Văn Ba lặn lội đường xa tìm người xưng là Di Lặc khi đến nơi thấy người ta theo về khá đông Văn Ba lấy làm mừng vị nầy đích thực là Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương rồi, nên người ta mới theo về khá đông như vậy Văn Ba có bề khúm núm trước một vị thầy tuổi đã cao ăn mặc uy nghi có kẻ hầu người hạ. Văn Ba thành tâm cúng dường như bao nhiêu người khác hầu cầu mong được phúc báo cũng như sự quan tâm của Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương.

Văn Ba nhớ theo lời dặn của vợ

1, là biết rõ việc làm của người ấy

2, là họ đang làm gì nói gì

3, là chí hướng họ ra sao

4, là họ đã làm được những gì

5, là có lợi gì cho nhân loại, cho non sông đất nước

6, là họ để lại những gì, con đường của họ ấy.

Văn Ba ở lại nơi ấy tìm hiểu việc làm của bậc bề trên Đức Chuyển Luân Thánh Vương, Văn Ba thấy Ông Ta giảng thao thao bất tuyệt chuyện trên trời chuyện dưới đất, ba hồi Ông nói theo lời Phật. Ba hồi Ông nói theo lời Chúa. Ba hồi Ông nói theo sấm, ba hồi thời Ông nói theo lệnh Thượng Đế. Văn Ba về kể lại cho vợ nghe. Hồng Liên nghe xong rồi nói Ông ấy không phải Chuyển Luân Thánh Vương đâu Ông ta tự xưng đấy thôi.

Hồng Liên nói Chuyển Luân Thánh Vương là Vua trên tất cả Vua là Chúa trên tất cả Chúa. Người đến trần gian, là làm cho trần gian trở thành thiên đàng cực lạc. Cần gì phải nói theo Ông nầy Bà Kia. Mà tự mình trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, giải thoát nô lệ, kể cả nô lệ Thần Quyền. người phải có đường mới ra cho nhân loại đi theo, không lệ thuộc vào Chúa hay là Phật, nói chung là không lệ thuộc bất cứ Tôn Giáo, Đạo Giáo nào. Kể cả Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Chuyển Luân Thánh Vương thường là làm việc theo Thiên Ý không có ý riêng chỉ làm theo Ý Trời.

Còn vị mà anh đã gặp không phải làm việc theo Thiên Ý mà là làm việc cho Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Nên ba hồi nói Phật, ba hồi nói Chúa, ba hồi nói Thượng Đế giáng cơ, làm theo sắc lệnh của Ông nầy Bà kia, một trăm phần trăm là Di Lặc dỏm Chuyển Luân Thánh Vương giả. Chuyển Luân Thánh Vương dễ tìm như vậy thời đâu gọi là Chuyển Luân Thánh Vương. Chỉ khi nào người lộ diện cho biết mà thôi. Còn không phải nhờ những người gặp được Chuyển Luân Thánh Vương chỉ cho. Giả sử dù cho gặp cũng không nhận ra được Chuyển Luân Thánh Vương đâu. Văn Ba nghe vợ nói thế liền tỉnh ngộ vô cùng chán nản.

Không bao lâu Văn Ba nghe người ta đồn rầm lên là Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương đã lộ diện đáng mừng hơn nữa chính là người Việt Nam đang chuyển pháp luân ở nước ngoài. Văn Ba liền lặn lội đường xa tìm qua nước bạn. Đến nơi nhìn thấy cơ ngơi của Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương phải nói là bề thế hoành tráng đệ tử lớp lớp phần đông là người Việt Nam đang sanh sống nơi nước bạn ngồi nghe thuyết pháp. Có cả đội ca múa hát ca ngợi Chuyển Luân Thánh Vương, Văn Ba nghĩ đây mới thật là Chuyển Luân Thánh Vương Văn Ba mừng lắm bằng chen lấn vào đảnh lễ cúng dường hầu mong vị Thầy, vị Cha, quan tâm chú ý. Văn Ba cúng dường xong ngồi lắng nghe Chuyển Luân Thánh Vương thuyết giáo.

Vị Thánh Vương nói Ta là đấng tối cao xuống trần chỉ cần quy y Ta, là Ta đưa về Trời, không còn sa đọa xuống địa ngục. Quyền năng của Ta sao thời Ta nói vậy. Mỗi lần vị Chuyển Luân Thánh Vương quan tâm đến ai là mỗi lần bắt ấn niệm chú làm tiêu tan hết mọi tội lỗi, thọ ký cho lên cõi thiên đàng. Văn Ba mừng quá trở về nước kể lại cho vợ nghe. Hồng Liên nghe xong rồi hỏi.

Người ấy có nói đến năm màu da Anh Em không? Có nói đến chủ nghĩa Đại Đồng không? Văn Ba nói Ông ấy không làm việc cho chủ nghĩa Đại Đồng cũng như không nói đến năm màu da anh em, chỉ ca ngợi tài năng của Ông mà thôi.

Hồng Liên lại hỏi. Ông Ấy đang làm việc cho ai? Thiên Ý Cha Trời Thiên Luật Vũ Trụ. Văn Ba nói Ông Ấy làm việc cho quyền năng của Ông.

Hồng Liên lại hỏi:

Vị Chuyển Luân Thánh Vương Di Lặc ấy có để lại Kinh Giáo không? Làm rạng danh cho dân tộc Việt Nam không Có ca ngợi Cội Nguồn không? Có nói đến Rồng Tiên không? Văn Ba nói không có Kinh Giáo để lại, cũng không ca ngợi Cội Nguồn, không đá động gì đến con Rồng cháu Tiên. Hồng Liên nghe xong, rồi nói cũng chỉ là Di Lặc dỏm Chuyển Luân Thánh Vương giả.

Theo đúng những gì cơ sấm nói Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương sanh xuống đất nước nào dân tộc nào, thời đất nước đó tỏa sáng, dân tộc đó trổi dậy anh linh, trở thành dân tộc bá chủ năm châu Văn Minh về Tinh Thần lẫn Vật Chất. Đời, Đạo cũng chỉ là một. Tất cả đều tôn thờ Thiên Luật sống theo Thiên Ý. Biến trần gian thành Thiên Đàng Cực Lạc. Theo như lời anh kể vị Chuyển Luân Thánh Vương ấy tự cho mình còn hơn cả quyền Tạo Hóa. Nên mới nói chỉ cần quy y Ông Ta là Ông Ta đưa lên thiên đàng cực lạc. Chỉ cần vài câu Ấn Chú là đủ. Luật Nhân Quả, Luật Vay Trả, Luật Siêu Đọa là do Ông Ta tạo ra chắc. Quả là lừa dối có tầm cỡ.

Đã là người Việt Nam không làm cho đất nước Việt Nam tỏa sáng, mà chỉ khoe khoang ca ngợi quyền năng quyền phép của mình. Không làm cho dân tộc Việt Nam trổi dậy anh linh trở thành Dân Tộc Thần Thánh. Thời sự giáng sanh xuống Dân Tộc Việt Nam có ý nghĩa gì. Cũng không để lại Kinh Luân Giáo Pháp lấy gì mở hội Long Hoa, vì Hội Long Hoa chính là Truyền Thống Anh Linh Rồng Tiên kết trái đơm hoa kéo dài đến ba nghìn năm. Văn Ba nghe vợ giải thích liền nói không lẽ Di Lặc dỏm Chuyển Luân Thánh Vương giả. Hồng Liên nói giả hiệu một trăm phần trăm. Văn Ba lại một phen nữa thất vọng.

Cho đến một hôm Văn Ba vô tình thấy trên Faecbook xuất hiện Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương, người nầy thay mặt cho Thượng Đế. Hàng phục nhân loại mở hội Long Hoa đi vào cơ Thánh Đức, Văn Ba mừng lắm qua mấy ngày sau thời tìm đến lễ lạy cúng dường, người ấy xưng là Cha. Qua sự tìm hiểu kỹ người ấy cũng không để lại kinh luân, đôi lúc nói theo Phật, Chúa, nhất là tiếp điển tối cao Thượng Đế, nhưng được cái là ca ngợi Cội Nguồn, Ca Ngợi Quốc Tổ, đề cao con cháu Tiên Rồng. Không lẽ lại là người nầy Di Lặc tái sanh Chuyển Luân Vương xuất thế. Bằng trở về nói lại với vợ. Hồng Liên nghe xong liền lắc đầu đây cũng chỉ là Di Lặc dỏm Chuyển Luân Thánh Vương giả hiệu. Vì sao lại nói như thế.

Theo như kinh sấm nói Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế hàng phục nhân loại con người, đi vào cơ Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Có nghĩa là Chuyển Luân Thánh Vương hàng phục nhân loại con người bằng Trí Huệ chính là giáo pháp chân lý của Ngài. Thế gian có gì thời Ngài có nấy để hàng phục.

Ví dụ: Nhân loại thế gian nhiều thành phần. Thành phần chuyên môn về Văn, thành phần chuyên môn về Sử, thành phần chuyên môn về Triết, thành phần chuyên môn về Thơ, thành phần chuyên môn về Truyện, thành phần chuyên môn về Kinh, thành phần chuyên môn về luận. thành phần chuyên môn về Khoa Học, chuyên môn về Kinh Tế, v.v… Người nầy tuy xưng là Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương, nhưng không có để lại Kinh, Thơ, Văn, Triết, Sử, Truyện, Luận. Chuyển Luân Thánh Vương là vị Tối Cao Trị Quốc người xuất hiện là Luật Tạng Vũ Trụ cũng xuất hiện, trở thành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Pháp Vương của thời Thánh Đức.

Còn người tự xưng là Chuyển Luân Thánh Vương không có gì cả. Thời lấy gì để hàng phục nhân loại đi vào Cơ Thánh Đức cũng như mở Hội Long Hoa. Văn Ba nghe vợ phân tích xong lấy làm thất vọng nói. Trên đời nầy làm gì có người như thế nội giỏi về Sử không cũng đã khó, nói gì đến giỏi Kinh, giỏi Thơ, Giỏi Triết, giỏi Truyện, giỏi Luật, giỏi Luận. Giỏi Khoa Học. Đời Đạo đều ở đỉnh cao như vậy. Làm gì có con người nầy. Hồng Liên nói khi nào anh tìm ra được con người nầy dù ở giai cấp thành phần nào không quan trọng. Dù người ấy không xưng mình là Di Lặc hay Chuyển Luân Thánh Vương. Thời nhân loại cũng suy tôn Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương.

Như vậy muốn tìm ra Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương phải nhìn thấy Kinh, Thơ, Triết, Truyện, Văn, Sử, Đạo, Luật, Luận, do người để lại. Đi vào Cơ Tận Độ. Hết lớp thừa kế nầy truyền trao cho lớp thừa kế tiếp theo cứ như thế theo con đường do Chuyển Luân Thánh Vương đã mở ra đi vào cơ tận độ nhân loại con người kéo dài hàng nghìn nghìn năm.

Và cho đến một hôm Văn Ba vô tình thấy trên Faecbook Kinh, Thơ, Triết, Truyện, Văn, Sử, Đạo, Luật Văn Hóa Cội Nguồn, liền nói với vợ anh đã tìm ra Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương rồi. Hồng Liên nghe nói cũng vui mừng từ đó hai vợ chồng thi nhau đọc Kinh, Thơ, Triết, Truyện, Văn, Sử, Đạo Luận.

Hồng Liên nói Kinh, Thơ, Triết, Truyện, Văn, Sử, Đạo, Luật, Luận chính là Huệ Mạng Anh Linh Chuyển Luân Thánh Vương. Vì sự thành tâm mong cầu nên gặp được người mình xưa nay muốn tìm. Nghe được những lời truyền dạy cao siêu phải nói là không thể nghĩ bàn hay luận bàn sự vi diệu của sự truyền dạy ấy.
 

shopoga

✩✩
115. CÂU CHUYỆN LY KỲ NGU NHƯ BÒ

Ngày xửa ngày xưa có một đồng cỏ, ngày nào đàn Trâu đàn Bò cũng đến đó ăn, nhưng có một cái ao để uống, nên đàn Bò đàn Trâu không ai muốn nhường cho ai, nên thường xảy ra xung đột lẫn nhau.

Vào một ngày kia, đàn Trâu nói với đàn Bò để có sự công bằng hể bên nào thắng thời làm chủ cái ao kia, đàn Bò vốn tự cho mình là thông minh, nên gật đầu bằng lòng. Hai bên đấu lý qua đấu lý lại bên nào cũng cho mình thắng không ai chịu mình thua ai. Khi ấy có một đàn sáo bay đến nói lũ Trâu Bò kia dù cho đấu lý đến cả tháng cũng không phân được thắng thua vì không có trọng tài. Vì bên nào cũng cho mình thắng. Đàn Trâu đàn Bò nghe đàn Sáo nói thế cũng có lý bằng nói để có sự thắng thua một cách Công Bằng xin đàn Sáo làm trọng tài cho, đàn Sáo gật đầu.

Đã có đàn Sáo làm trọng tài bên nào cũng muốn ra đề trước không ai chịu nhường cho ai. Đàn Sáo thấy vậy nói tôi có một cách là hai bên đánh tù tì bên nào thắng bên đó ra đề trước. Đàn Trâu đánh tù tì thắng cuộc bằng ra đề.

Nầy đàn Bò ai là người ban cho chúng Ta ơn huệ nhiều nhất. Đàn Bò hội ý với nhau rồi trả lời, đàn Bò nói Ông Chủ của chúng Ta chứ còn ai nữa. Đàn Trâu nghe xong lắc đầu nói không đúng, tuy rằng Ông chủ làm chuồng cho chúng ta ở, bỏ rơm cắt cỏ cho chúng ta ăn, xách nước cho chúng ta uống, nuôi lớn chúng ta. Đàn Bò cắt ngang nói thấy công lao của Ông Chủ chưa ngoài Ông chủ ra còn ai ban cho chúng ta nhiều ân huệ như thế, đàn Bò nói lũ Trâu các ngươi thua rồi, ao nước kia thuộc về đàn Bò chúng tôi. Đàn Trâu các ngươi phải tìm ao khác để mà uống.

Đàn Trâu nói thua hay thắng phải do trọng tài phán quyết đâu phải đàn Bò các ngươi. Đàn Trâu nói người ban cho chúng ta nhiều ân huệ nhất chính là Trời. Trời tạo ra quả địa cầu cho chúng ta sống, quả địa cầu rộng lớn để cho chúng ta tự do muốn đi đâu thời đi, tạo ra cây cỏ cho chúng ta ăn. Trời tạo ra không khí cho chúng ta hít thở, tạo ra nước để cho chúng ta uống. Trời tạo ra mặt trời để chúng ta sưởi ấm, tạo ra những trận mưa có nước tắm mát chúng ta. Nhưng Trời nào đòi hỏi ở chúng ta gì cả.

Còn Ông Chủ ban cho ta chuồng để ở là nhốt chúng ta lại, bắt chúng ta nằm trong khuôn khổ cướp mất quyền tự do chúng ta. Ông Chủ nuôi chúng ta thời cũng bắt chúng ta cày ruộng kéo bừa, đạp mía, kéo xe đủ thứ khó nhọc. Ông Chủ bỏ rơm cắt cỏ cho ta ăn, xách nước cho ta uống để ta có thịt Ông Chủ bán chúng ta vào lò mổ. Ông Chủ kiếm tiền trên xương máu của chúng ta, có qua có lại chúng ta đâu thiếu nợ gì Ông Chủ không nói là Ông Chủ bóc lột tận xương tủy của chúng ta, ăn trên xương máu của chúng ta. Đâu như Ông Trời ban cho chúng ta đủ thứ. Ban cho chúng ta chúng ta sự sống, sự tự do, sự mưu cầu hạnh phúc. Nhưng Trời nào có đòi hỏi ở chúng ta, dù đó chỉ là một lời cảm ơn. Phi Ân Bất Cầu Báo. Đàn Bò nghe xong chẳng hiểu gì cả nhìn đàn Sáo. Đàn Sáo nói đàn Bò các ngươi thua rồi. Đàn Bò cải thua ở chỗ nào? Đàn Sáo nói Trời có bán các ngươi vào lò mổ không? Đàn Bò nói làm gì có chuyện đó, đàn Sáo lại nói sống bị nhốt, sống tự do lũ Bò ngươi chọn cái nào. Đàn Bò trả lời thế mà cũng hỏi đương nhiên sống tự do hơn hẳn sống bị nhốt rồi. Đàn Sáo lại nói người tạo ra cỏ cho đàn Bò ngươi ăn, tạo ra nước cho đàn Bò ngươi uống, tạo ra không khí cho đàn Bò ngươi thở. Tạo ra quả địa cầu to lớn cho đàn bò ngươi được đi đây đi đó tự do sung sướng, tự do mưu cầu hạnh phúc nhưng không đòi hỏi gì ở đàn Bò các ngươi dù là một lời cảm ơn. Người ấy có hơn Ông Chủ không? Đàn Bò nói hơn hẳn Ông Chủ gấp vạn lần. Đàn Sáo nói đàn Bò các ngươi thua rồi đàn Bò cải thua ở chỗ nào. Đàn Trâu nghe trọng tài đàn chim Sáo phán thế reo hò ùa xuống ao uống nước khoái chí ngâm mình tắm mát dưới ao. Đàn bò thua cuộc kéo nhau bỏ đi đàn chim sáo nhìn theo nói ngu như Bò.
 

shopoga

✩✩
116. TU VẠN KIẾP NGỘ NHẤT THỜI

Ngày xửa ngày xưa có một vị thầy tên là Pháp Hải thường cho mình thông thạo đạo pháp ít ai bì kịp. Để chọn một người học trò thật ưng ý liền nghĩ ra một cách người nào từ bỏ lòng Ái Dục, cũng như lòng Mong Cầu Ham Muốn, thời sẽ nhận làm đệ tử.

Sự chọn lựa ấy cuối cùng Thầy Pháp Hải cũng tìm được một người đệ tử như ý tên là Thông Tuệ.

Thông Tuệ được nhận làm đệ tử theo học chăm chỉ tu luyện tinh tấn kinh kệ thông suốt, cho đến một hôm Thông Tuệ hỏi thầy Pháp Hải.

Thưa Thầy đoạn diệt lòng Ái Dục chấm dứt sự Ham Muốn Mong Cầu của mình mới đạt đến đỉnh cao của sự tu hành phải không thầy.

Thầy Pháp Hải nói đúng vậy:

Nếu không đoạn được Ái Dục, cũng như sự Ham Muốn Mong Cầu thời không bao giờ đi đến thành quả được.

Thông Tuệ nói theo con nghĩ sự Ái Dục cũng như lòng Ham Muốn Mong Cầu chính là căn bản của Đạo Giải Thoát đó thầy. Thầy Pháp Hải nghe xong lắc đầu nói con bị Tà Ma nhập rồi nên mới nói như thế Ái Dục, Ham Muốn, Mong Cầu chính là căn bản của Phiền Não. Các bậc chân tu đều đoạn diệt sự Ái Dục cũng như lòng Ham Muốn, Mong Cầu giải thoát sự đau khổ.

Thông Tuệ nói Thầy là bậc chân tu, tu mấy mươi năm mà không bỏ được sự Ái Dục lòng Ham Muốn ý Mong Cầu. Phải nói sự Ái Dục lòng Ham Muốn ý Mong Cầu của thầy phải nói là rất mạnh, ít ai theo kịp Thầy.

Bằng chứng Thầy lúc nào cũng ưa mến Tây Phương Ham Muốn Mong Cầu siêu sanh về Tây Phương cực lạc. Thầy là bậc cao siêu còn bỏ không được sự Ái Dục lòng Ham Muốn ý Mong Cầu phải nói là liên tục không lúc nào quên, chỉ một đệ tử tầm thường như con làm sao bỏ được. Thầy Pháp Hải nghe xong như bị một cú sốc mạnh.

Thông Tuệ lại nói sự Ái Dục lòng Ham Muốn ý Mong Cầu là điều tất yếu tự nhiên của con người, là căn bản cái Gốc của Đạo làm sao mà bỏ được. Nhưng Ham Muốn Ái Dục Mong Cầu cái gì, mới là đều đáng nói.

Nếu đó là sự Ham Muốn Ái Dục Mong Cầu bất chính thời không nên, còn Ham Muốn Ái Dục Mong Cầu chân chính là việc đáng nên làm. Dù sống trên Tây Phương cũng thế, sống nơi Trần Gian cũng vậy. Biết cái nào cần phải loại bỏ cái nào cần phải duy trì. Thời đó mới chính là quả Trí Tuệ.

Đã là sự sống thời có lòng Ái Dục sự Ham Muốn Mong Cầu. Ngay cả A Di Đà phát 48 lời đại nguyện không phải là sự Ham Muốn Ái Dục Mong Cầu độ tận nhân loại con người hay sao, quyết chí làm cho ai cũng được như mình đều có sự an vui tự tại cực lạc. Bỏ mất lòng Ham Muốn sự Ái Dục Mong Cầu thời lấy đâu đi đến quả Phật, tuy chân Tâm là Phật, Lương Tâm là Phật Tánh, nhưng muốn thành quả Phật thời phải phát nguyện độ chúng sanh. Thầy Pháp Hải lặng thinh không nói vì Thầy Pháp Hãi đã tỉnh ngộ hiểu rõ lòng Ham Muốn sự Ái Dục ý Mong Cầu chính là căn cội của Đạo Bồ Đề. Lòng Ái Dục sự Ham Muốn ý Mong Cầu không sáng suốt thời chính lòng Ái Dục sự Ham Muốn ý Mong Cầu chính là căn bản tạo ra Phiền Não dẫn đến vô lượng khổ. Còn lòng Ái Dục sự Ham Muốn ý Mong Cầu chân chính. Thúc Dục con người mau thành Đạo Quả chứng quả Ba La Trí Huệ thành tựu vô lượng phước đức an vui tự tại.

Cho đến một hôm Thông Tuệ lại hỏi thưa Thầy từ bỏ sự giàu sang, xa lánh những báu vật mới thật sự là chân tu có phải không thầy.

Thầy Pháp Hải nói người tu chân chính đương nhiên phải là như thế.

Thông Tuệ nghe xong trầm ngâm giây lát rồi nói, thế thời những người ở trên cõi Cực Lạc Tây Phương, hay những cõi Thiên Đàng đều sống trên thế giới châu báu đều là những người phạm giới không phải chân tu. Trong kinh nói cõi Linh Sơn nơi Phật ở cũng toàn là châu báu. Cõi Tây Phương Cực Lạc cũng toàn là châu báu. Nói như Thầy sống trên châu báu đều không phải là chân tu. Như vậy những vị chân tu không nên cầu siêu sanh về thế giới Cực Lạc toàn là châu báu. Mà cầu sanh về Sa Mạc để ở đúng với chân tu là từ bỏ sự giàu sang.

Thầy Pháp Hải nghe xong tái mặt nói Tao là Thầy hay là Mầy. Thấy Thầy nổi giận quát tháo Thông Tuệ nói con chỉ nói lên sự thật. Tu hành chẳng qua là bỏ cái Ác đi đến cái Thiện. Bỏ sự Mê Muội đi đến Giác Ngộ mà thôi. Lìa bỏ sự giàu sang nơi cõi tạm trần gian, tìm đến sự giàu sang vĩnh hằng trên Thiên Giới. Thầy Pháp Hải nghe những lời ấy liền tỉnh ngộ. Tìm Phật cũng chẳng ở đâu xa mà ngay tại nơi Tâm của chính mình. Quả Phật cũng rất gần chính là tận độ con người hành thiện. Cực Lạc không phải chỉ ở Tây Phương, mà ngay tại trần gian nầy cũng tìm thấy Tây Phương Cực Lạc. Ở ngay trong Chân Tâm của chính mình. Dù ở đâu cũng thế mà thôi. Thiên Đàng, Trần Gian, hay Địa Phủ. Liền ra khỏi tam giới an vui tự tại.

Thông Tuệ cũng không còn ở đó nữa mà đã bỏ đi không biết là đi đâu. Thầy Pháp Hải tự nói cho mình nghe đi đâu nữa nơi đâu cũng là nhà. Chỗ nào cũng là Cực Lạc an vui tự tại.
 
Top