Thơ Văn mới đăng báo (Thanh Trắc Nguyễn Văn)

Kính mời các bạn thơ của Thanh Trắc Nguyễn Văn đọc bài thơ Văn đã viết tặng cho cô giáo xinh đẹp Yến Phương, giáo viên toán trường Võ Thị Sáu. Bài thơ đã được đăng trên báo Cần Thơ Chủ Nhật số 134 năm 2017.

---------------------------------------------

VAN EM ĐỪNG QUA CỔNG

Van em đừng qua cổng
Tóc mềm đừng thả hương
Ta va vào vấp ngã
Ngàn năm sẽ nhớ thương!

Van em đừng qua cổng
Đung đưa một tiếng cười
Ta sợ chòng chành đắm
Bởi cánh môi hồng tươi!

Van em đừng qua cổng
Hát vu vơ nhạc buồn
Ta dại khờ đâu biết
Nước mắt tròn hay vuông?

Van em đừng qua cổng
Thả bay màu áo dài
Kẻo chiều thu vướng lại
Vạt nắng vàng không phai!

Van em đừng qua cổng
Sao giờ em chưa qua?
Ta vo buồn đứng níu
Hoàng hôn trước hiên nhà...

Van em đừng qua cổng
Kìa ai hóa đá chờ
Mảnh sao đêm mọc muộn
Rủ một người làm thơ.

Van em đừng qua cổng
Em ơi đừng qua cổng...

Thanh Trắc Nguyễn Văn




UzLPhm.jpg


AiVvtP.jpg
 
Xin giới thiệu với các bạn thơ bài thơ thiếu nhi đã được đăng trên báo Tài Hoa Trẻ số 962. Bài thơ được viết tặng cho con gái của Thanh Trắc Nguyễn Văn và mẹ của bé.

--------------------------------

BẦU TRỜI VÀ ÁNH TRĂNG

Bầu trời dịu nắng
Bầu trời của cha
Ánh trăng hiền hòa
Ánh trăng của mẹ.

Những ngày đi học
Mưa lạnh ngập đường
Cõng con đến lớp
Cha cười yêu thương.

Nhặt từng hạt thóc
Nâng từng phấn hoa
Cha là cánh gió
Dìu con bay xa.

Đêm nằm mẹ kể
Chuyện cổ tích xưa
An Tiêm trồng dưa
Sơn Tinh trị thủy.

Lời ru, điệu lý
Ngấm vào chiêm bao
Hương đêm ngọt ngào
Từng câu mẹ hát.

Bầu trời dịu nắng
Bầu trời của cha
Ánh trăng hiền hòa
Ánh trăng của mẹ.


Thanh Trắc Nguyễn Văn




HGpuDB.jpg


lAmM3Q.jpg
 
Xin mời các bạn thơ đọc bài thơ đã đăng trên Tạp chí Văn Nghệ Tây Ninh số 58 viết về các nhà giáo.

------------------------------------------

NỬA MƠ ƯỚC XƯA

Ngày ấy mình chung lớp
Hai đứa chung lối về
Em là hoa bưởi trắng
Thơm ngát giữa đường quê.

Một chiều thu gió lộng
Ngồi học cạnh bờ ao
Em quấn đôi nhẫn cỏ
Mơ ước chuyện ngày sau.

Em mơ làm cô giáo
Anh cũng ước làm thầy
Tuổi thơ như giọt nắng
Bước chân đầy cỏ may.

Ước mơ mình chia nửa
Hai nửa cùng chung mơ
Nửa em ép vào lá
Nửa anh gởi vào thơ.

Nửa em hóa lá đỏ
Bồng bềnh ra sông xa
Nửa anh thành khói trắng
Long đong nơi quê nhà.

Trang sách còn một nửa
Nửa cánh diều lặng bay
Bài thơ mất một nửa
Nửa xanh cọng cỏ gầy.

Nửa anh giờ trường cũ
Nửa em giờ mù khơi
Ước mơ đôi nhẫn cỏ
Đôi nửa còn nửa đôi.

Từng đêm bên giáo án
Nghe nửa mùa thu đau
Nửa anh còn tìm mãi
Nửa mơ ước xưa đâu?


Thanh Trắc Nguyễn Văn




peEZyH.jpg


EyJmse.jpg
 
Xin giới thiệu đến các bạn yêu thơ bài thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn viết tặng cho cô Hương Trà, quê ở Pleiku Gia Lai, giáo viên dạy lý xinh đẹp của trường Võ Thị Sáu. Bài thơ được đăng trên báo PC & Mobile năm 2017.

-----------------------------------------

PLEIKU BUỒN KHÔNG EM...

Pleiku ngan ngát hương trà
Đi trong sương trắng ngỡ là áo em
Nhà nàng ngõ lạ giờ quen
Sao qua trăm buổi vẫn quên lối về?

Pleiku sóng sánh cà phê
Dốc lên, dốc xuống tóc thề xưa bay
Hạt mưa ai chuốt nhỏ gầy?
Tìm em đồi cũ lạnh đầy nhớ nhung.

Pleiku phố núi chập chùng
Nửa đêm buồn gảy bập bùng ghi ta
Biển Hồ chưa đến đã xa
Cúc quỳ rụng
Thoảng hương trà tóc em...

Thanh Trắc Nguyễn Văn



q83fOY.jpg


AcJx5A.jpg
 
Chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam, xin được giới thiệu đến các bạn yêu thơ bài thơ "Bến cũ" đã được đăng trên Tạp chí Văn Nghệ Bình Phước

-------------------------------------

BẾN CŨ

Chào năm tháng ta quay về bến cũ
Tìm tuổi thơ bàng bạc mảnh trăng chiều
Dòng sông xưa con đò giờ khuất bóng
Mây nước vang buồn vọng gió cô liêu.

Ta ngơ ngác giữa hai bờ thực ảo
Hỏi hoàng hôn sao chẳng thấy em về
Mở trang vở ta giở tìm chữ nhớ
Hoa gạo đốt lòng cháy rực trời quê.

Đây bến cũ người lái đò đâu mất?
Khi ta về người đã mãi đi xa
Trăng không khóc sao chòng chành lệ ứa
Mưa phương nào hay mưa ở hồn ta?

Đây con sóng đưa ta thời đi học
Ta vô tư, đánh mất đến bây giờ
Đâu áo trắng? Đâu tiếng cười năm ấy?
Để sân trường gió lạnh bớt bơ vơ...


Thanh Trắc Nguyễn Văn


Qflr2Q.jpg


hGfv30.jpg
 
Sửa lần cuối:
CÔ GIÁO NGỌC GIANG VÀ MÓN XÔI TRẠNG NGUYÊN

Cứ đến tháng 5, cô Nguyễn Thị Ngọc Giang, giáo viên dạy môn địa lý Trường THPT Võ Thị Sáu (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), lại làm vài đĩa xôi đem vào lớp đãi học sinh của mình.

Là giáo viên dạy môn địa nhưng cô Ngọc Giang rất thích nấu ăn, những món ăn cô làm vừa được trang trí rất khéo vừa rất ngon miệng, không kém gì những đầu bếp thực thụ ở các nhà hàng. Người viết là một trong những người đã may mắn được thưởng thức những “tuyệt phẩm ẩm thực” của cô. Chỉ là những món ăn dân dã, nguyên liệu thực phẩm rất dễ kiếm nhưng nói chung đều rất tuyệt vời!


“Đậu”, “đỗ” và sự tự tin

Món ăn cô đãi học trò vừa mang tính chúc phúc cho các em sẽ vượt qua được kỳ thi tốt nghiệp lớp 12 đầy căng thẳng sắp tới, vừa giúp tình cô trò thêm đậm đà, vừa lưu lại một kỷ niệm khó quên cho các học sinh của cô sau ba năm gắn bó học tập đầy thân ái dưới một mái trường chung.

Món xôi được cô đặt một cái tên khá ấn tượng, đó cũng là kỳ vọng của cô đối với các học trò cô yêu thương: xôi Trạng Nguyên. Nguyên liệu chính của món xôi Trạng Nguyên là đậu xanh được bóc vỏ, cho vào ngâm nước khoảng năm tiếng. Miền Nam gọi là “đậu”, còn miền Bắc gọi là “đỗ”.

Nhưng dù “đậu” hay “đỗ”, cái tên cũng vẫn hướng đến một ý nghĩa rất dễ thương là khi ăn món xôi này, các em sẽ có thêm tự tin, thêm may mắn để có thể đạt được kết quả tốt nhất trong thi cử. Ngoài đậu xanh, cô Ngọc Giang cho biết cần phải có thêm gạo nếp cái hoa vàng, nước cốt dừa để pha chế cùng với một ít muối và đường để làm xôi.

Xôi đã nấu xong, bày ra đĩa rồi nhưng vẫn chưa đủ. Theo cô Ngọc Giang, có những món ăn ngon nếu biết khéo léo bày biện và trang trí sẽ tạo cho người ăn có thêm nhiều trải nghiệm thú vị về ẩm thực. Cô rất mong muốn khi thưởng thức món xôi, các học trò của cô sẽ ít nhiều nhớ về cội nguồn của dân tộc.


Món ăn quý

Trong xôi có nếp, nếp chính là “hạt ngọc trời” mà trong truyện cổ tích Bánh chưng bánh giầy thời vua Hùng, một vị thần đã mách cho hoàng tử Lang Liêu làm nên món ăn truyền thống nổi tiếng bánh giầy (tròn tượng hình trời), bánh chưng (vuông tượng hình đất) của người Việt cổ.

Với đôi bàn tay tài hoa của mình, một củ su hào dùng làm đầu rùa, chả lụa và lạp xưởng dùng làm bốn chân và mai rùa, cô Ngọc Giang đã tạo hình đĩa xôi thành một chú rùa rất dễ thương. Tại sao lại là một chú rùa? Cô giải thích rùa là một trong tứ linh “long - lân - quy - phụng” của văn hóa dân gian. Rùa (quy) tượng trưng cho sức khỏe, tuổi thọ. Rùa còn tượng trưng cho sự nhẫn nại, chăm chỉ trong học tập của con người. Rùa cũng là linh vật tôn vinh các bậc tri thức nho học thời phong kiến.

Ở Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) có 82 tấm bia đá tiến sĩ, ở Văn Miếu Huế do chiến tranh nhiều năm tàn phá vẫn còn lại 32 tấm bia tiến sĩ làm bằng đá cẩm thạch. Và dưới những tấm bia đá mà người xưa tôn vinh truyền thống coi trọng người tài, coi trọng sự khuyến học của ông cha ta thời phong kiến là những chú rùa đá cần mẫn không quản ngày đêm, dãi dầu mưa nắng “đội” bia đã hàng mấy trăm năm.

Trong truyền thuyết, thần Kim Quy (thần Rùa Vàng) luôn là một vị thần hộ quốc, luôn gắn bó với dân tộc Việt của chúng ta. Thời vua An Dương Vương, thần Kim Quy đã giúp vua dựng nước và đặc biệt giúp vua xây dựng thành Cổ Loa (thành Ốc) vừa độc đáo vừa kiên cố. Thần cũng giúp vua chế tạo nỏ thần có thể bắn ra một phát với hàng trăm mũi tên đồng khiến quân cướp nước phải run sợ.

Khi vua An Dương Vương bại trận mất nước, thần Kim Quy lại hiện lên cảnh tỉnh nhà vua cũng như nhắn nhủ người đời sau với câu nói nổi tiếng: “Giặc ở sau lưng nhà vua đó”.

Và hơn một ngàn năm sau, thần Kim Quy cũng đã vâng lệnh Lạc Long Quân dâng gươm thần Thuận Thiên cho vua Lê Lợi, giúp ông đánh đuổi giặc Minh ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, chấm dứt một thời kỳ đen tối của nước Đại Việt...

Được thưởng thức một đĩa xôi đậm đà hương vị dân tộc, lại được biết thêm những triết lý sâu sắc mà người nấu xôi đã gửi gắm trong món ăn thật là thú vị. Cô Ngọc Giang đã tặng cho học trò một món ăn rất quý, một món ăn đầy đủ cả ý nghĩa vật chất lẫn tinh thần. Nhiều học sinh cũ thành đạt về thăm lại trường, mỗi khi nhắc đến cô Ngọc Giang lại nhắc đến món xôi Trạng Nguyên mà họ đã được ít nhất một lần nếm qua ngày xưa.

Năm nay khi ngày thi Tốt nghiệp đã gần kề, ngoài việc ôn tập cho học sinh, cô Ngọc Giang có lẽ lại đang chuẩn bị tất bật để nấu lại món xôi mà cô đã tốn rất nhiều tâm huyết: món xôi Trạng Nguyên!


Thanh Trắc Nguyễn Văn



yEI4vK.jpg


0gDbej.jpg


 
Sửa lần cuối:
Xin giới thiệu đến các bạn yêu thơ bài thơ đã đăng trên Tạp chí Lang Biang năm 2017. Đảo Bình Ba là một đảo ở tỉnh Khánh Hòa, cách cảng Cam Ranh 20 phút đi ca nô trên biển.

---------------------------------------------------------------------

TRĂNG TRÊN ĐẢO BÌNH BA

Trăng lên trên đảo Bình Ba
Màn mưa rũ xuống bỗng nhòa nhòa tan
Áo dài em nắng thu vàng
Níu dông gió lặng, thả hoàng hôn trôi.

Thuyền xa khuất cuối chân trời
Mây hôn sóng biếc vọng lời yêu thương
Kìa em khuất cuối con đường
Nhìn trăng…
Có bóng ai buồn trên trăng?

Nha Trang 2016
(Bài thơ đã đăng trên báo Làm Bạn Với Máy Vi Tính số 662, ngày 5.7.2016)


Thanh Trắc Nguyễn Văn




cfgk4v.jpg


3tlgDp.jpg
 
Xin được giới thiệu đến các bạn yêu thơ bài thơ Phố Cổ đã được đăng trên báo Văn Nghệ tp.HCM năm 2017

--------------------------------------

PHỐ CỔ

Ta về như chiếc lá
Rụng rơi xuống cội nguồn
Lang thang chiều phố cổ
Gió mỏng mềm như sương.

Nhà em xưa ngõ vắng
Một thuở qua ngại ngùng
Giờ nhặt mùi hoa cũ
Cầm nắng vàng run run…

Hỏi hoa hoa đã úa
Hỏi nắng nắng sang sông
Hỏi người người chẳng nhớ
Biết em còn hay không?

Phố cổ hóa phố chợ
Đèn nhấp nháy ngược xuôi
Nhà mái bằng thay ngói
Tường sơn nước thay vôi.

Cổng đình giờ quét đỏ
Phừng phực lửa hoàng hôn
Ta về nghèn nghẹn nhớ
Phỏng rát cháy tâm hồn.

Mảnh sân rêu cổ tích
Mọc lênh khênh dãy lầu
Nửa đau đau chìm lắng
Nửa buồn buồn dâng cao.

Ta về như mây trắng
Gục khóc cuối chân trời
Tìm em chiều phố cổ
Sương khói mờ chơi vơi.


Thanh Trắc Nguyễn Văn



dUVHEz.jpg


xRK2Zs.jpg
 
Xin giới thiệu đến các bạn yêu thơ bài thơ Quê nghèo đã đăng trên Tạp chí Giáo Dục Và Thời Đại.

-------------------------------------------

QUÊ NGHÈO

Một hôm gom nắng ta về
Gặp em ngồi xõa tóc thề dưới hiên
Tang bồng còn được chút duyên
Trao em mừng thấy cười nghiêng má hồng.

Một hôm gió lạnh bờ sông
Thương cha mòn mỏi gánh gồng hoàng hôn
Con tôm cái tép quá khôn
Vớt lên chỉ thấy mảnh hồn rong rêu.

Một hôm nghe tiếng quạ kêu
Nửa đêm thao thức chị khêu ngọn đèn
Người đi biền biệt nhớ quên
Thủy chung hóa lá rụng thềm cuối thu.

Một hôm nhớ giọng mẹ ru
Con quỳ khóc dưới dốc mù bụi xa
Bỏ quê quên mất mẹ già
Con đường gánh cải giờ là khói hương…


Thanh Trắc Nguyễn Văn




ffDptd.jpg


0H66qs.jpg
 
Mời các bạn yêu thơ xem bài thơ Tạm biệt Khôi Nguyên đã đăng trên báo PC & Mobile

------------------------------------------------------------


TẠM BIỆT KHÔI NGUYÊN

Thôi anh đi nhé bé Khôi Nguyên
Nha Trang sóng sánh mắt nhung huyền
Mùa xuân đã đến tươi màu nắng
Sao biển lại buồn sóng ngả nghiêng?

Đời anh như cánh nhạn mùa đông
Mây trắng trời xa nhuốm bụi hồng
Bé là san hô thềm bể biếc
Màu trăng mười bảy trong mắt trong.

Anh về phương ấy xa thật xa
Giọt nắng nhìn theo bỗng nhạt nhòa
Nắng rơi một nửa hồn anh đó
Nửa hồn trên cỏ, nửa trong hoa…

Biển chiều chiều nắng trắng Nha Trang
Lang thang bàng bạc bóng chim ngàn
Dù mai năm tháng mình xa cách
Anh sẽ nhớ hoài cô bé ngoan.

Anh sẽ lặng thầm trong nhớ mong
Tiếng đàn buông buông những nụ hồng
Bài thơ muốn viết rồi không viết
Nhìn đâu cũng thấy biển mênh mông?

Biển trắng hay là áo trắng em?
Áo em hay sương trắng bên thềm?
Bên thềm chỉ thấy màu mây trắng
Mây trắng hay là biển mông mênh?

Anh sẽ gọi tìm trong bóng mây
Thấy bóng bé xinh dáng nhỏ gầy
Nha Trang nhớ mãi ngày ly biệt
Nửa dường biển động, nửa áo bay…

Thôi anh đi nhé bé Khôi Nguyên
Bọt sóng nào tan chút nỗi niềm?
Biển kia im lìm rồi tắt nắng
Buồn anh gởi lại với sao đêm…


Thanh Trắc Nguyễn Văn




INskk8.jpg


vsNojp.jpg
 
Xin được giới thiệu đến các bạn yêu thơ Chùm thơ viết về Mùa Xuân đăng trên báo PC&Mobile.

1. THÁNG GIÊNG VÀ EM

Tháng giêng tìm lộc sân chùa
Gặp em hái phải lá bùa tương tư
Tìm em… Bùa vỡ cuối thu
Trách ta vụng một kiếp tu. Lỡ làng…


Thanh Trắc Nguyễn Văn



2. THỜI GIAN

Tìm gì trên cát thế em
Phải chăng sợi tóc bạc mềm vừa rơi?
Hoàng hôn lặn hụp cuối trời
Nắng xuân còn nợ một lời yêu em...


Thanh Trắc Nguyễn Văn



3. THIẾU NỮ THỔI SÁO

Kìa em áo mỏng như mây
Phải tiên nữ xuống đợi ngày ta yêu?
Vườn đông gió lạnh tiêu điều
Sáo em gọi nắng tan chiều cô đơn...


Thanh Trắc Nguyễn Văn




uylJ3P.jpg


JDB2Ko.jpg
 
Mùa hè đã đến, kinh mời các bạn yêu thơ xem bài thơ Ký Ức Tháng Tư, để nhớ về những kỉ niệm thời học sinh

---------------------------------------------


KÝ ỨC THÁNG TƯ

Tháng tư
vòm trời phượng đỏ
mặt cỏ hoa vàng
nhặt lên từng tiếng ve sầu rỉ rả
thả vào trang giáo án
tìm lại tuổi thơ xưa...

Thiên đường tuổi thơ
có nụ cười em thanh khiết nắng ban mai
có dòng sông đi học dài hơn nỗi nhớ
có lá me rơi
ngọt ngào
trăn trở
nửa trên tóc em
nửa khắc khoải cuối sân trường.

Thiên đường tuổi thơ
có trang vở trắng thơm những ngày học cuối cấp
có lời yêu ai cất sâu trong cặp
có ánh mắt tìm nhau
rủ mơ về một giảng đường xa…
thương lắm đôi cánh chim bay
thương lắm những dòng thơ xanh lấp lánh.

Tháng tư
từng em học sinh lại vào bài học mới
tiếng cười trong veo
trang giấy lao xao
thiên đường tuổi thơ vẫn còn đó
thiên đường của thầy xưa...


Thanh Trắc Nguyễn Văn




7zdahe.jpg


g79ZUx.jpg
 
Sửa lần cuối:
TƯỢNG ĐÁ VŨ NỮ TRÀ KIỆU

Chào em vũ nữ Chăm pa
Đôi tay như lụa mượt mà khói sương
Thời gian khoác áo trầm hương
Đá vô tri hóa vô thường lung linh.

Nghiêng nghiêng điệu múa cung đình
Ngực trần đón nắng bình minh
Xuân trào...
Môi cười khát vọng trăng sao
Đây hồn Trà Kiệu tạc vào tháng năm...

Quảng Nam 2017


Thanh Trắc Nguyễn Văn




hGvcaB.jpg


4G3zbx.jpg
 
BAN MÊ MÙA BƯỚM BAY

Ban Mê mùa bướm bay
Lá rơi từng mảnh gầy
Cà phê lung linh sánh
Ngọt ngào mà sao say?

Vẫy chào Sêrêpôk
Sông trôi khói phủ mờ
Chợt yêu trời Daklak
Thành phố chìm sương mơ.

Ché rượu cần Y miên
Rộn rã điệu cồng chiêng
Cạn đi chiều bụi đỏ
Bazan đất trời nghiêng.

Kìa ai như Đam San
Cưỡi voi vượt đại ngàn
Ngực trần màu sấm chớp
Hồn sử thi âm vang…

Phải em hay là hoa
Cúc Ban Mê mượt mà
Tiếng cười xuân sơn nữ
Em gùi về đâu xa?

Ban Mê mùa bướm bay
Nắng đẹp hơn từng ngày
Trang thơ vàng rụng khẽ
Thả hồn thu lên mây.


Thanh Trắc Nguyễn Văn




7BokUO.jpg


Zaxoeo.jpg
 
NỮ THẦN DÊ TRẮNG (Phần 1)

I
Một chiều thu Ất Mùi (năm 1415), đất nước ta khi ấy vẫn còn bị triều đình nhà Minh đánh chiếm và cai trị rất tàn ác. Trên con đường cái quan đi qua một khu rừng vắng cách thành Đông Quan về phía nam khoảng hai mươi dặm, có một chàng trai dáng vẻ lam lũ gánh đôi thùng dầu đang đi tìm khách mua. Quần áo chàng nhăn nhúm, còn chiếc nón lá chàng đội trên đầu che mưa nắng cũng méo mó và bẹp dúm trông rất thảm hại.

Bỗng từ xa có tiếng hò hét của một đám người đang đuổi theo một chiếc xe ngựa làm vang động cả khu rừng. Bọn người đuổi theo là đám quân lính nhà Minh khoảng hơn chục tên, dẫn đầu là một tên phó tướng dáng người rất vạm vỡ. Không bao lâu bọn chúng đã đuổi kịp chiếc xe ngựa, tên dẩn đầu thản nhiên vung kiếm giết chết người điều khiển xe ngựa và người tùy tùng. Sau đó bọn chúng phá cửa xe và lôi xuống một cô gái rất xinh đẹp bận trang phục màu trắng. Trong tiếng cười khả ố, man rợ của bọn giặc cướp nước và tiếng van xin yếu ớt tuyệt vọng của cô gái, bọn chúng lần lượt xé nát y phục của cô gái dự định cùng nhau làm nhục cô.

Tên phó tướng cười ha hả vươn cánh tay to lớn đầy lông lá sắp sửa giật phăng chiếc yếm đào che ngực cô gái thì bỗng dưng có một bàn tay nắm chặt lấy tay hắn níu lại. Hắn chưa kịp phản ứng thì một cú đá đã quét ngang mặt hắn làm mắt hắn tối sầm và té bật ngửa ra phía sau hơn một trượng. Bọn lính nhà Minh vô cùng ngạc nhiên vì người ra tay lại chính là chàng trai bán dầu có dáng người hơi thấp bé và mảnh khảnh. Giận dữ tên phó tướng gầm lên:

- Bọn bây hãy giết ngay tên An Nam nhiều chuyện này cho ta!

Chàng trai không nói gì lập tức xổ tung tấm vải quấn quanh thanh đòn gánh dùng để gánh dầu làm lộ ra một thanh kiếm được ngụy trang kín đáo trong đó. Thanh kiếm vừa tuốt ra khỏi vỏ đã tỏa ra ngay một loại ánh sáng sắc lạnh mà đối với những người am hiểu về binh khí sẽ biết ngay đó là một thanh bảo kiếm. Chàng trai hét lên một tiếng và vung kiếm tấn công bọn lính đang vây quanh. Chưa đầy một khắc, bọn lính nhà Minh cùng tên phó tướng đã lần lượt ngã gục trước mũi gươm huyền ảo của chàng trai. Tên phó tướng dù đã chết nhưng mắt vẫn còn mở trao tráo. Có lẽ hắn cũng không hiểu vì sao một người như hắn đã từng bao năm chinh chiến khắp nơi, đã từng chém gục không biết bao nhiêu tướng lĩnh quân địch để đoạt cờ, lại có thể chết một cách quá dễ dàng trước kiếm pháp kỳ lạ của chàng trai.

Chàng trai lấy ra một chiếc áo choàng trong tay nải của mình trao cho cô gái quấn quanh mình rồi vội vã gánh dầu đi ngay. Không ngờ cô gái rất nhanh, chỉ lướt nhẹ thôi đã kịp đuổi theo cản đường chàng trai:

- Xin cảm ơn ân nhân đã cứu mạng. Ân nhân có thể cho ta biết tên tuổi được không?

- Tôi là một kẻ lang thang không tên không tuổi, bán dầu kiếm sống qua ngày. Không có gì đáng để người khác quan tâm!

- Chàng nói vậy, nhưng ta biết chàng tên thật là Trần Nguyên Hãn, chính là hậu duệ của Thái sư Thượng tướng Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải. Không biết nói thế có đúng không?

- Nàng nói sai rồi, tôi chỉ là một kẻ hèn mọn nào có xứng đáng là cháu con của một bậc đại danh tướng.

Cô gái mỉm cười:

- Chàng đừng che giấu nữa. Chàng chính là Trần Nguyên Hãn, người huyện Lập Thạch, cháu nội của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, để tránh bị truy sát mẹ chàng đã trốn về Sơn Đông lánh nạn và sinh ra chàng. Tuy gia cảnh lúc đó rất nghèo túng nhưng từ nhỏ chàng đã nổi tiếng là người rất thông minh hiếu học và am hiểu binh pháp. Từ khi cha con Hồ Quý Ly bị quân Minh đánh bại và bắt sống tại Kỳ La, chàng đã có ý muốn khôi phục lại nhà Trần. Mấy tháng trước chàng có đến lễ ở đền Bạch Hạc và ngủ lại tại đền để cầu mộng. Nửa đêm chàng nghe hai vị thần Tản Viên và Bạch Hạc trò chuyện là trời đã sai người xuống lấy lại nước Nam. Chàng cũng đang phân vân là không biết có nên lần dò đến Thanh Hóa để tìm người ấy hay không?

Chàng trai tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Nàng là ai? Sao lại biết rõ chuyện của tôi?

- Ta là nữ thần Dê Trắng, tên chữ là Bạch Dương.

Chàng trai phì cười:

- Nàng là nữ thần tất nhiên là phải có quyền phép sao lại để cho bọn lính giặc Minh người phàm mắt thịt toan làm hại?

- Nước mất nhà tan. Oai linh nước Đại Việt không còn. Bao đình chùa miếu mạo đều bị bọn giặc cướp nước cướp phá tan hoang. Ngay cả chuông vàng, tượng phật vàng là quốc bảo của nước ta, cũng còn bị bọn giặc Minh đập phá lấy cắp đem về nước của chúng thì có sá gì một tiểu thần nhỏ mọn như Bạch Dương ta…

Chàng trai, chính là Trần Nguyên Hãn, nhìn cô gái dò xét hồi lâu rồi nói:

- Nàng nói cũng có lý nhưng nói thật tôi vẫn không tin!

- Thanh kiếm chàng đang có trong tay chính là Chiêu Minh Kiếm, thanh bảo kiếm gia truyền của dòng họ Trần. Hơn một trăm năm trước, sau chiến thắng vang dội trong trận Chương Dương, giải phóng kinh thành Thăng Long khỏi quân xâm lược Nguyên - Mông; Trần Thái sư đã cho đúc thanh gươm quý này để kỷ niệm những chiến công hiển hách và truyền lại cho con cháu đời sau. Những chiêu thức chàng đã dùng để tiêu diệt bọn quân lính nhà Minh vừa rồi cũng chính là những tuyệt kỹ trong bộ sách Chương Dương Kiếm Phổ, bí truyền của dòng họ Trần. Và chàng mấy năm nay phải giả dạng người bán dầu vất vả xuôi ngược buôn bán cũng chính là mong tìm kiếm một minh chủ họ Trần để toan chuyện khôi phục.

- Nàng đã nói thế, vậy cho tôi xin hỏi nước Đại Việt có bị mất hay không? Theo thời thế hiện giờ thì bao giờ nước ta mới khôi phục được?

- Nước Đại Việt sẽ mãi mãi trường tồn và sau này sẽ còn tiếp tục lớn mạnh. Nhưng theo luật tuần hoàn vận nước cũng có lúc thịnh cũng có lúc suy. Anh hùng nước ta thì đời nào cũng có chỉ tiếc rằng thời cơ vẫn chưa đến. Giặc Minh vẫn còn đang rất mạnh, còn lòng dân Đại Việt vẫn chưa quy về một mối. Nhiều người hiện giờ vẫn còn hồ đồ tin tưởng cái chiêu bài cũ rích “Phù Trần diệt Hồ” của bọn giặc Minh…

- Cho tôi xin hỏi: Con cháu vua Trần còn lại những ai có tài đức để có thể tôn làm minh chủ dựng cờ khởi nghĩa được?

- Đây là chuyện riêng tư của dòng họ chàng, ta không dám lạm bàn. Chỉ có một câu nói thôi: Khí số nhà Trần đã tận…

Trần Nguyên Hãn thở dài than:

- Mấy năm trước dựng cờ khởi nghĩa chống bọn giặc Minh có Giản Định Đế Trần Ngỗi và Trùng Quang Đế Trần Quý Khoáng. Chỉ tiếc rằng Giản Định Đế nghe lời gièm pha giết chết hai vị tướng tài là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân khiến lòng quân lý tán, nên chưa đầy hai năm đã bị giặc Minh bắt và giết hại. Còn Trùng Quang Đế tuy có quyết tâm và tận lực chống bọn xâm lược nhưng quân ít thế cô, cuối cùng cũng bị giặc bắt phải nhảy xuống nước tự vẫn.

- Ta xin chia buồn cùng chàng. Nhưng chàng cũng nên tự hào, vua Trùng Quang của dòng họ chàng là vị vua thứ ba của nước ta, sau Nhị thánh Trưng Nữ Vương, đã chọn cái chết oanh liệt khi chống giặc ngoại xâm bị thất bại!

- Đành rằng như thế, nhưng biết bao nhiêu bầy tôi hào kiệt của vua Trùng Quang như Đặng Dung, Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Biểu… đều đã hi sinh vì nước hết rồi! Nước Nam ta vẫn còn có nhân tài ư?

- Như ta đã nói, anh hùng nước ta đời nào cũng có. Anh hùng này ngã sẽ có nhiều anh hùng khác tiếp tục đứng lên diệt giặc cứu nước. Thiên cơ bất khả lậu! Ta chỉ xin tiết lộ tên hai nhân tài mà chàng biết rất rõ. Một là chàng, Trần Nguyên Hãn. Hai là một người anh em cô cậu của chàng…

Trần Nguyên Hãn nói như reo lên:

- Tôi biết người này! Chính là Nguyễn Trãi, con trai của cô Trần Thị Thái tôi và dượng Nguyễn Phi Khanh! Chỉ tiếc rằng khi tôi nghe lời mẹ đến thành Đông Quan tìm Nguyễn Trãi thì mới hay Trãi đã bị giặc Minh bắt mất rồi!

- Nguyễn Trãi đã trốn thoát và hiện đang đi tìm minh chủ…

- Minh chủ là một người họ Trần?

- Không! Một người họ khác! Họ và tên người này chàng đã biết khi nghe hai vị thần Tản Viên và Bạch Hạc trò chuyện với nhau tại đền Bạch Hạc!

Trần Nguyên Hãn lẩm bẩm:

- Lê Lợi ư? Không thể là người đó được!

- Chàng không tin Lê Lợi?

- Đúng vậy, tôi không tin! Tôi nghe đồn tên tướng giặc Hoàng Phúc đã trao cho Lê Lợi một chức quan và đáng buồn thay ông ta đã nhận chức ngụy quan này! Chỉ còn đợi ngày lành tháng tốt là ông ta có thể đi làm quan tay sai cho lũ giặc cướp nước mà thôi! Đã thế Lê Lợi suốt ngày chỉ biết nhậu nhẹt bê tha với đám bạn bè giá áo túi cơm của ông ta, không hề màng đến thế sự. Nhiều người đã gặp Lê Lợi, nói ông ta ăn uống rất thô lỗ, không có gì xứng đáng là dáng dấp của một vị đế vương cả!

- Tin tức chàng nhận được là chính xác. Nhưng chàng nên nhớ hổ trước khi vồ mồi thường phải thu mình lại, rồng trước khi lộ diện thường ẩn nấp trong chốn ao tù.

- Tôi cũng mong là như thế! Tôi sẽ còn tiếp tục theo dõi xem ông ta có xứng đáng là một minh chủ hay không! Nhưng nàng cho tôi hỏi: Một người như tôi mà cũng có thể gọi là một nhân tài ư?

Nữ thần Bạch Dương cười lớn:

- Chàng đừng khiêm tốn nữa! Mấy năm nay ở vùng Bạch Hạc, Tam Giang bọn giặc Minh thường hay giết người vô cớ, cướp bóc của người giàu, hãm hiếp gái tơ. Tiếng khóc than của dân đen vang vọng đến tận trời xanh. Bỗng đâu một đêm nọ, xuất hiện một hiệp khách áo đen ra tay nghĩa hiệp cứu giúp dân lành. Hiệp khách này rất giỏi võ nghệ, chỉ với một thanh gươm thôi nhưng đã giết rất nhiều tên giặc láo xược. Một lần hiệp khách đã xông vào tận dinh giết chết một tên quan huyện và bọn tay sai. Nhớ ơn vị hiệp khách đêm đêm hành hiệp cứu dân, dân trong vùng đã tôn kính gọi người đó là Hiệp Khách Rừng Thần. Người hiệp khách đó chính là Trần Nguyên Hãn chàng!

Trần Nguyên Hãn cười lớn:

- Rất cảm ơn nàng đã biết rất rõ, không sai một chi tiết nào cả!

- Chàng cũng đã quy tụ được hơn 200 trai tráng. Không quản ngày đêm chàng đã huấn luyện cho họ thành những nghĩa quân võ nghệ tinh thông. Nghĩa quân ngày thì ẩn náu trong Rừng Thần, đêm lại kéo ra tiêu diệt giặc thù. Ta nhớ không lầm thì gần đây chàng đã dẫn nghĩa quân lẻn vào thành Tam Giang trong một đêm trời tối như mực, quân Minh bị bất ngờ không kịp trở tay lớp bị giết, lớp phải quy hàng. Thanh thế của nghĩa quân Rừng Thần ngày càng lớn mạnh. Chàng đang cùng nghĩa quân làm chủ một vùng Bạch Hạc, Tam Giang khiến quân Minh quanh vùng phải khiếp sợ.

Trần Nguyên Hãn lộ rõ vẻ ngạc nhiên. Hãn vội chắp tay xá nữ thần vài xá rồi nói:

- Phải khiêm tốn rồi!

- Dù vậy, vùng Bạch Hạc, Tam Giang vẫn không phải là đất dụng võ của chàng. Không sớm thì muộn quân chủ lực của giặc Minh từ thành Đông Quan sẽ kéo ra bao vây, tìm cách tiêu diệt nghĩa quân Rừng Thần. Chàng nên sớm định liệu!

Nữ thần Bạch Dương nói xong liền phất tay một cái. Tức khắc xiêm y nữ thần mặc trên người đang bị rách nát bỗng nhiên trở nên lại lành lặn và phẳng phiu như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Người điều khiển xe ngựa và người tùy tùng của nữ thần cũng đã sống lại. Họ sửa sang chiếc xe ngựa xong cùng đến cúi đầu mời nữ thần lên xe. Nữ thần trao lại áo choàng cho Trần Nguyên Hãn rồi nói tiếp:

- Năm nay là năm Mùi, nếu còn cơ duyên mười hai năm sau ta sẽ gặp lại chàng!

Nói xong nữ thần quay lưng định bước lên xe, Trần Nguyên Hãn vội vòng tay cung kính kêu lớn:

- Tôi xin có một câu hỏi về hậu vận của mình! Nữ thần có thể trả lời giúp được không ạ?

Nữ thần quay lại mỉm cười:

- Ta chỉ là một tiểu thần nhỏ ở nước Nam, quyền năng chẳng có là bao. Chàng cứ hỏi, nếu biết ta sẽ trả lời giúp chàng!

- Tôi sẽ chết như thế nào? Tôi có thể sống được đến ngày đất nước sạch bóng quân giặc không?

- Chàng sẽ hoàn thành nghiệp lớn nếu tìm được minh chủ cho mình! Chàng sẽ sống đến ngày đất nước thanh bình, nhưng cái chết của chàng sẽ có rất nhiều oan nghiệt!

- Nữ thần có thể nói rõ hơn được không ạ?

- Chàng có biết chuyện danh tướng Hàn Tín trong Tam kiệt của nhà Hán không?

- Hóa ra minh chủ tương lai của ta lại là một kẻ giết hại công thần không kém gì Hán Cao Tổ Lưu Bang ư?

- Chàng có sợ chết không?

- Mạnh như Hạng Vũ, giỏi như Hàn Tín, tàn bạo như Tần Thủy Hoàng, nhẫn tâm như Lữ hậu, thống nhất được thiên hạ lập nên một triều đại kéo dài đến 400 năm như Lưu Bang - những kẻ đã sống trong thời Hán Sở tranh hùng - đều phải chết. Chết đâu có gì đáng sợ! Tôi chỉ sợ phải chết như dũng tướng Đặng Dung. Chết mà không nhắm mắt được vì thù nhà, nợ nước vẫn chưa trả xong!

- Ông cha ta có một câu rút ra từ binh pháp Tôn Tử: “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”. Hạng Vũ chết vì kiêu ngạo chỉ “biết ta” mà không “biết người”. Hàn Tín chết vì thiếu quyết đoán do chỉ “biết người” mà không “biết ta”. Còn một người tài trí như chàng vừa “biết người” vừa “biết ta”, cái chết chắc chắn sẽ oanh liệt hơn họ nhiều rồi!

- Tôi chỉ mong trước khi tôi chết đất nước sẽ không còn bóng quân Minh!

- Kẻ láng giềng phương Bắc dù có bị đánh đuổi ra khỏi nước Đại Việt vẫn tìm trăm phương ngàn kế để quay trở lại. Chúng luôn không từ bỏ dã tâm tìm mọi cách làm khó dễ nước ta cả khi đã thất bại nhục nhã. Cái chết của chàng tuy ở thời bình, nhưng cũng sẽ ích nước lợi nhà nếu chàng biết chọn lựa. Với lại minh chủ của chàng là một bậc anh hùng cứu quốc, đối nhân xử thế chác chắn không thể nào quá bạc bẽo như Hán Cao Tổ Lưu Bang. Ta chỉ có bấy nhiêu lời! Xin tạm biệt và hẹn ngày gặp lại!

Nói xong nữ thần lên xe. Chiếc xe ngựa chở nữ thần chạy rất nhanh về phía trước và từ từ tan biến thành sương khói. Trần Nguyên Hãn đứng nhìn theo rất lâu rồi quẩy gánh dầu bước đi về hướng Bạch Hạc, Tam Giang.

(còn tiếp)

2016


Thanh Trắc Nguyễn Văn
 
NỮ THẦN DÊ TRẮNG (Phần 2)

II
Một tối mùa thu năm Đinh Mùi (năm 1427) tại doanh trại chủ tướng, Thái úy Trần Nguyên Hãn chủ trì họp các tướng sĩ nghĩa quân Lam Sơn đang vây hãm thành Xương Giang. Hãn nhìn bản đồ thành Xương Giang rất lâu rồi nói:

- Các tướng quân vây thành Xương Giang hơn nửa năm trời vẫn không hạ được thành khiến Bình Định Vương vô cùng lo lắng. Quân sư Nguyễn Trãi cũng ăn ngủ không yên. Nay Bình Định Vương sai ta cùng quan Tư mã Lê Sát, hai quan Thiếu úy Lý Triện và Nguyễn Lý đem quân đến trợ chiến. Nếu không chiếm được thành Xương Giang ta sẽ không còn mặt mũi nào về gặp Bình Định Vương, chỉ còn một cách tự sát để chịu tội vì đã phụ lòng tin tưởng của Người.

Các tướng cùng quỳ xuống hô lớn:

- Chúng tôi nguyện cùng liều chết với chủ tướng, quyết thắng trận này! Xin ngài an tâm!

Phó quân sư Lê Văn Linh vội bước ra nói:

- Xin quan Thái úy nên cẩn trọng với hai tên tướng giặc giữ thành Xương Giang! Kim Dận và Lý Nhậm đều là hai tướng giỏi của quân Minh. Kim Dận rất nhiều mưu lược và là một tay gươm siêu quần. Chính hắn đã chém chết rất nhiều quân tinh nhuệ của ta. Hai tháng trước phó tướng Nguyễn Huy do quá chủ quan đã bị sa vào bẫy mai phục của quân Minh, phải đối mặt cùng Kim Dận so gươm. Kết quả phó tướng Nguyễn Huy đã bị hắn giết chết trước cổng Bắc thành Xương Giang. Tuy có tài nhưng vì tính tình quá thẳng thắn, Kim Dận vẫn bị đám quan trên như bọn Trương Phụ, Hoàng Phúc không ưa. Hắn không thăng quan tiến chức được. Dù vậy, hắn vẫn được bọn chúng tin tưởng giao cho trấn nhậm thành Xương Giang, một cứ điểm chiến lược quan trọng nhất trên đường tiến lui của quân Minh. Còn Lý Nhậm là một trong những tên tướng tâm phúc nhất của Tổng binh Vương Thông. Chính Vương Thông đã dâng biểu lên vua Minh đề cử hắn sang nước ta tham chiến lần này. Tuy ở trong thành Xương Giang cùng Kim Dận liều chết cố thủ, nhưng Lý Nhậm vẫn cử người ra khỏi thành điều hai cánh quân Khoái Châu và Lạng Giang đánh tập hậu quân ta mỗi khi ta công thành. Hơn sáu tháng nay chúng phối hợp vừa đánh vừa giữ khiến quân ta phải cầm cự rất chật vật, tiến thoái lưỡng nan.

- Nguyễn Huy tử trận vì tướng giặc Kim Dận à? – Trần Nguyên Hãn nhíu mày hỏi – Sao lần trước khi ta mới đến đây các tướng lại bảo Nguyễn Huy hy sinh là vì bị giặc mai phục?

- Đúng vậy – Lê Văn Linh trả lời - bọn giặc Minh giữ thành rất xảo quyệt. Biết quân ta là quân nhân nghĩa, mỗi khi quân ta tấn công bọn giặc đều bắt dân chúng trong thành phải đứng đầy trên mặt thành che chắn cho chúng. Quân ta không nỡ hại bá tánh nên rất lúng túng khi giao chiến, nhiều lần đã áp sát được cổng thành đành phải rút lui. Khi Kim Dận mở cổng thành phía Bắc xông ra phản công, Nguyễn Huy đã dẫn cánh quân của mình lao vào quyết chiến với giặc. Khi biết đã sa vào bẫy mai phục của quân thù, Phó tướng Nguyễn Huy đã anh dũng cản đường giặc để toàn bộ lực lượng nghĩa quân rút lui an toàn về phía sau.

- Đêm nay chúng ta sẽ trả thù cho tướng quân Nguyễn Huy! Quan Tư mã, mọi công việc ngài đã chuẩn bị tới đâu rồi?

Lê Sát vội bước ra:

- Thưa Thái úy, theo lệnh của ngài tôi đã cho đắp các con đường đất nối qua các bãi lầy để quân ta và voi chiến có thể mở đường tiến nhanh hơn đến các cổng thành Xương Giang. Tôi cũng đã cho đào ba đường hầm bí mật vào thành, dự kiến đến canh ba đêm nay thì hoàn tất.

- Đào đường hầm ban đêm như vậy liệu có gây ra tiếng động khiến cho giặc phát hiện không?

- Quan Thái úy an tâm, Phó quân sư Lê Văn Linh đã điều nhiều cánh quân thay phiên nhau đến khiêu chiến trước các cổng thành đánh trống, gõ chiêng ầm ĩ để làm nghi binh đánh lạc hướng quân địch từ mấy đêm nay rồi!

- Ta xin cảm ơn sự chu đáo của các tướng quân! Nhưng đối với những tên cáo già như Kim Dận, Lý Nhậm ta nghĩ là bọn chúng cũng dư biết chúng ta đang đào đường hầm nên sẽ tìm đủ mọi cách để đối phó! Dù vậy ta vẫn bắt chúng phải phân tán, xé lẻ lực lượng ra thành nhiều hướng, phải vất vả chống đỡ một khi quân ta đã tổng tiến công.

Trần Nguyên Hãn dừng một chút rồi nghiêm giọng nói:

- Chỉ còn mười ngày nữa là mười vạn quân Minh do bọn Liễu Thăng, Lương Minh, Lý Khánh có thể đến được thành Xương Giang. Sang tiếp viện lần này, vua Minh đã cử một lực lượng tướng lĩnh thiện chiến với ý đồ thâm độc là quyết tiêu diệt sạch sành sanh nghĩa quân Lam Sơn ta. Theo quân thám báo, cầm đầu cánh quân sắp đến là ba viên tướng An viễn hầu Liễu Thăng, Bảo định bá Lương Minh, Đô đốc Thôi Tụ. Cả ba tên đều rất giỏi cầm quân, đều thông thạo binh pháp, đều có kinh nghiệm công thành và đều rất độc ác. Tham mưu cho chúng lại là hai quan Thượng thư cao cấp Lý Khánh và Hoàng Phúc, rất nhiều mưu lược. Nếu chúng đến được đây mà thành Xương Giang quân ta vẫn chưa hạ xong, chúng ta sẽ bị chúng đánh kẹp vào giữa, thắng bại thế nào các tướng quân cũng đã tự hiểu! Không những chúng ta gặp nguy mà ngay cả Bình Định Vương đang vây hãm thành Đông Quan cũng sẽ gặp rất nhiều bất lợi, có thể sẽ bị chúng đẩy lùi về lại Thanh Hóa. Mọi thiên la địa võng có lợi cho quân ta do Bình Định Vương và Quân sư Nguyễn Trãi đã tốn rất nhiều công sức giăng ra bỗng chốc sẽ bị phá vỡ. Cơ hội đuổi giặc cướp nước ra khỏi bờ cõi sẽ không còn nữa… Ta không sợ chết, ta chỉ sợ là không đủ tài để hoàn thành nhiệm vụ mà Bình Định Vương đã tin tưởng giao phó.

Với tay cầm lấy hai cây cờ lệnh, Hãn gọi lớn:

- Hai tướng quân Lý Triện và Nguyễn Lý nghe lệnh! Đêm nay quân ta tổng tiến công thành Xương Giang, thế nào hai cánh quân Khoái Châu và Lạng Giang của địch cũng sẽ đến tiếp ứng đánh tập hậu quân ta. Bọn cầm đầu và binh sĩ của các cánh quân này đều là những tên lực sĩ đã được quân Minh tuyển chọn rất giỏi võ nghệ và sẵn sàng liều chết. Hai tướng quân đều là dũng tướng của nghĩa quân Lam Sơn ta, hai vị hãy đem quân của mình mai phục theo kế hoạch ta đã viết sẵn trong hai túi gấm. Với tài năng của hai tướng quân, hai tướng quân hãy cho bọn chúng biết sự lợi hại của nghĩa quân và đem đầu của những tên hung hãn nhất về nộp cho ta!

Hai tướng Lý Triện và Nguyễn Lý cùng bước ra nhận cờ lệnh và túi gấm rồi vội vã điểm quân đi ngay. Trần Nguyên Hãn quay sang nói với Lê Sát và Lê Văn Linh:

- Đúng canh ba đêm nay, phiền quan Tư mã và Phó quân sư cho lệnh các tướng quân còn lại tổng tiến công khắp các cổng thành Xương Giang. Dù sống hay chết chúng ta cũng phải thắng bằng được trận này. Nhiệm vụ của chúng ta cực kỳ khó khăn vì Kim Dận, Lý Nhậm và binh sĩ của chúng cũng đang từng ngày đợi quân tiếp viện của Liễu Thăng đến để lật ngược tình thế, hòng tiêu diệt toàn bộ quân ta.

Phó quân sư Lê Văn Linh nói:

- Xin quan Thái úy an tâm. Quan Tư mã đã chuẩn bị rất kỹ cho trận đánh này: câu liêm, giáo dài, nỏ cứng, tên lửa, thang mây… dùng để công thành mà quan Thái úy ra lệnh làm mấy ngày trước đều đã được chuẩn bị đầy đủ. Các tướng và quân sĩ công thành đều thề chết dưới chân thành Xương Giang chứ quyết không chịu lùi bước trước quân thù.

Quan Tư mã Lê Sát cũng nói:

- Tôi sẽ thân chinh dẫn đội voi chiến công phá cửa thành phía Bắc, nơi tập trung rất nhiều quân tinh nhuệ của giặc, nhằm đánh lạc hướng giúp cho ba cánh quân cảm tử từ ba đường hầm trồi lên đánh phá trong lòng địch.

Trần Nguyên Hãn hỏi:

- Tướng quân Lê Khôi đâu?

Lê Khôi vội bước ra:

- Lê Khôi xin đợi lệnh!

- Tướng quân là hổ tướng cũng là phúc tướng của quân Lam Sơn. Còn nhớ trong trận Khả Lưu, quân ta đại chiến với quân giặc, tướng quân nghe lệnh Bình Định Vương xông ra chém rơi đầu tên tướng tiên phong Hoàng Thành của giặc, mặc dù tên này võ nghệ rất cao cường. Chưa hết, tướng quân còn cùng với các tướng quân khác vây và bắt sống được tên quan võ cao cấp Đô đốc Chu Kiệt. Quân sư Nguyễn Trãi có xem tướng cho tướng quân và nói tướng quân có tướng mạo rất tốt, sau này sẽ còn lập rất nhiều công lớn bắt được thêm nhiều tên tướng giặc cao cấp khác. Tướng quân hãy đi theo quan Tư mã tấn công từ cổng Bắc thành Xương Giang. Nếu gặp Lý Nhậm cản đường, tướng quân hãy đem hắn hoặc đầu của hắn về cho ta!

- Lê Khôi xin tuân lệnh!

Lê Khôi là cháu ruột của Bình Định Vương Lê Lợi, gọi Lê Lợi bằng chú. Võ nghệ và binh pháp Lê Khôi thông thạo được như hiện giờ chính là do Lê Lợi đã dày công dạy dỗ cho từ khi Khôi còn nhỏ. Đúng như Quân sư Nguyễn Trãi đã tiên đoán, chỉ cần vài ngày nữa cũng trên cánh đồng Xương Giang này, Lê Khôi cùng các tướng lĩnh Lam Sơn sẽ bắt sống được tên Đô đốc Thôi Tụ và tên quan Thượng thư Hoàng Phúc, hai tên quan cao cấp nhất còn sót lại của đám tàn quân cứu viện, lập được nhiều công lớn. Riêng trong trận chiến đêm nay, Lê Khôi cũng trèo lên được mặt thành Xương Giang và đánh rơi gươm của tên tướng giữ thành Lý Nhậm. Không chịu đầu hàng, Lý Nhậm đành nhảy từ mặt thành xuống đất tự sát.

- Riêng ta, ta sẽ theo một cánh quân cảm tử vào thành Xương Giang bằng đường hầm! – Trần Nguyên Hãn chỉ vào bản đồ và nói – Phải ngoại công nội kích, nhiều mặt giáp công, quân ta mới có thể tiêu diệt được thành trì kiên cố và cực kỳ quan trọng này.

- Rất nguy hiểm, thưa quan Thái úy – Lê Sát và Lê Văn Linh cùng hốt hoảng nói.

- Ta biết điều đó, nhưng không lẽ các huynh đệ cảm tử quân vì nước liều mình dám xông vào nơi nguy hiểm, ta là chủ tướng và cũng là người đề ra kế hoạch đào đường hầm sao lại khoanh tay đứng nhìn? Nhiệm vụ của ba cánh quân cảm tử rất quan trọng: Vừa phải gây rối loạn hàng ngũ quân địch, vừa phải giải cứu bá tánh bị giặc bắt làm tấm khiên sống trên mặt thành, vừa phải tiêu diệt những tên quân giữ cổng thành. Và – Trần Nguyễn Hãn dừng lại rất lâu rồi mới nói tiếp – ta đoán rằng tên cáo già Kim Dận sẽ đợi ta tại nơi quân ta từ dưới đường hầm trồi lên!...

Mọi người lần lượt từ giã Trần Nguyên Hãn để về chuẩn bị cho kịp trận tổng tiến công thành Xương Giang đêm nay. Doanh trại chủ tướng chỉ còn lại một mình Trần Nguyên Hãn với ánh đèn dầu loe loét. Bỗng ở một góc nhà, một cô gái rất đẹp bận trang phục màu trắng hiện ra:

- Kính chào quan Thái úy, đã lâu rồi không gặp!

Trần Nguyên Hãn giật mình quay lại:

- Thì ra là nữ thần Bạch Dương! Thế mà thấm thoát đã mười hai năm rồi ư?

- Đúng vậy, và ta cũng không ngờ chàng đã về đầu quân cho Bình Định Vương Lê Lợi!

- Mấy năm trước, ta nhận được thư của Nguyễn Trãi khuyên ta nên về Lam Sơn tụ nghĩa. Khi gặp được động chủ Lê Lợi, ta mới biết những suy nghĩ của ta trước đây về Người là hoàn toàn sai lầm. Động chủ là người văn võ song toàn, có lòng nhân từ, biết trọng dụng người tài và luôn có quyết tâm đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước!

- Chàng nghĩ tốt về Lê Lợi như vậy ư?

Trần Nguyên Hãn gật đầu đáp:

- Khi mới về Lam Sơn, ta được tin tên ngụy quan La Thông và tên tướng giặc Minh tên là Mã Kỳ vừa đem quân đến Lam Sơn tàn sát rất nhiều người thân của động chủ Lê Lợi để trả thù. Đã thế chúng còn bắt con gái của động chủ là Lê Đào Nữ đem đi biệt tích. Trong đêm đó, khi nói chuyện với ta, tuy rất đau lòng nhưng động chủ vẫn gắng gượng trao đổi với ta rất nhiều về tình hình nghĩa quân và quân giặc. Sau này khi động chủ đã xưng vương, một người lái buôn - thật ra là một người thân tín của Bình Định Vương Lê Lợi giả dạng - về báo tin Lê Đào Nữ bị đày sang Yên Kinh làm nô tì và bị bọn giặc bên đó hành hạ cho đến chết.

- Nước mất nhà tan! Đau thương mất mát không chừa một ai! – Nữ thần Bạch Dương ngậm ngùi nói.

- Cách đây không lâu khi nghĩa quân đã lớn mạnh, ta và các tướng lĩnh có xin Bình Định Vương đem đại quân phá thành Thanh Hóa bắt tên ngụy quan Tri châu La Thông băm vằm làm trăm mảnh để trả thù. Nhưng Bình Định Vương chỉ cho vây thành Thanh Hóa, cô lập quân giặc. Còn tất cả đại quân theo Người cùng tiến ra phía Bắc bao vây bọn Tổng binh Vương Thông ở thành Đông Quan. Quân sư Nguyễn Trãi có nói riêng với ta, thành Thanh Hóa rất vững chắc lại thêm bọn La Thông đã gây ra rất nhiều tội ác nên bọn chúng sẽ liều chết giữ thành. Bình Định Vương không muốn vì chuyện riêng của Người mà làm tốn hao xương máu của tướng sĩ một cách vô ích.Với lại tấn công thành Thanh Hóa, quân ta sẽ không còn đủ lực lượng vây hãm thành Đông Quan để làm tê liệt hoàn toàn cơ quan đầu não của giặc. Dốc toàn bộ lực lượng vây thành Đông Quan sẽ có lợi cho thế trận của nghĩa quân Lam Sơn, sẽ làm cho giặc hoàn toàn lâm vào thế bị động, hơn là chỉ tập trung quân cho một thành Thanh Hóa có vị trí chiến lược không còn mấy quan trọng đối với quân ta. Một người như Bình Định Vương Lê Lợi dám gác hết mọi thù riêng, chỉ chăm lo cho việc nước; thử hỏi trên thế gian này có còn ai xứng đáng hơn để Trần Nguyên Hãn ta phải cắp gươm theo hầu?

- Chúc mừng quan Thái úy đã tìm được cho mình một minh chủ hoàn toàn xứng đáng!

- Trận chiến đêm nay sẽ rất quyết liệt, với tài phép của nữ thần, nữ thần có thể hỗ trợ cho quân ta thắng trận được không?

Nữ thần Bạch Dương mỉm cười:

- Chàng là bậc đại danh tướng, nghĩa quân Lam Sơn cũng đều là những anh hùng dũng sĩ thời nay. Nếu tiểu thần Bạch Dương ta nhúng tay vào chẳng khác nào vẽ rắn thêm chân, làm lu mờ chiến công của mọi người. Chàng yên tâm, với tài trí điều binh khiển tướng của chàng và lòng quả cảm của tướng sĩ Lam Sơn, đêm nay quân ta chắc chắn sẽ thắng trận!

- Ta vẫn có một điều băn khoăn vì sao Vương Thông lại có được hai tên tướng giỏi Kim Dận và Lý Nhậm trung thành phò trợ hắn đến như vậy?

- Chàng chớ khinh thường Vương Thông! Hắn là người Hàm Ninh, tỉnh Hồ Bắc, rất giỏi bình pháp và biết cách thu phục lòng người. Cha hắn là Vương Chân cũng là một danh tướng của quân Minh. Cha con hắn đều lập được rất nhiều chiến công khi cầm quân chinh phạt các nước láng giềng nên đều được vua Minh phong cho đến chức đô đốc. Khi sang nước ta, Vương Thông biết Kim Dận là một tướng tài nhưng không được trọng dụng, hắn liền sai người mang nhân sâm quý vượt ngàn dặm đến tận quê của Kim Dận chúc thọ cho mẹ của Kim Dận. Đồng thời hắn cũng cho người mang vàng lụa đến giúp đỡ vợ con Lý Nhậm nhằm lấy lòng tên tướng thuộc hạ có nghĩa khí này. Vương Thông không phải là kẻ kém tài, nếu có kém chỉ là kém khi so với Bình Định Vương và nghĩa quân Lam Sơn của quan Thái úy mà thôi!

- Rất cảm ơn nữ thần đã tận tình chỉ điểm!

- Ta đến gặp quan Thái úy đêm nay chỉ vì lời hứa cũ của mười hai năm về trước. Nay ta xin được lui gót để chàng còn kịp lo việc quân. Xin cáo biệt!

Trần Nguyên Hãn vội nói:

- Khoan! Xin nữ thần cho Trần Nguyên Hãn ta hỏi một câu: Mười hai năm nữa chúng ta sẽ gặp lại nhau?

- Sợ rằng ta sẽ phải gặp chàng sớm hơn! – Nữ thần Bạch Dương khẽ thở dài – Thiên cơ bất khả lậu, ta chỉ cho chàng biết một tin vui, đất nước Đại Việt ta sắp sửa thấy lại ánh mặt trời rồi…

Nói xong nữ thần Bạch Dương từ từ tan biến đi trong ánh mắt đầy ưu tư của Trần Nguyên Hãn…

(còn tiếp)

2016


Thanh Trắc Nguyễn Văn
 
NỮ THẦN DÊ TRẮNG (Phần 3)

III
Rạng sáng ngày 26 tháng 2 năm Kỷ Dậu (ngày 30 tháng 3 năm 1429 dương lịch), một chiếc thuyền lớn từ từ rời khỏi trang trại Sơn Đông theo dòng sông Lô xuôi về Đông Kinh (tên của vua Lê Thái Tổ đặt tên cho Thăng Long). Đất nước ta khi ấy đã sạch bóng quân thù, Lê Lợi đã chính thức lên ngôi vua (sử gọi là vua Lê Thái Tổ), đổi niên hiệu là Thuận Thiên. Trên thuyền người ta thấy Trần Nguyên Hãn ngồi trên một cái ghế lớn giữa thuyền, xung quanh có 42 lực sĩ cắp gươm đứng hầu. Chợt một lực sĩ bận trang phục phó tướng, có vẻ là người chỉ huy, bước ra cúi đầu nói với Trần Nguyên Hãn:

- Thưa quan Tả tướng quốc, ngài đành lòng theo chúng tôi về Đông Kinh ư?

- Hơn một năm trước ta đã từ quan rồi, ngươi đừng gọi ta như thế nữa, chức quan lớn quá ta không dám nhận. Ngươi cứ gọi ta là Trần trại chủ là được. Còn vì sao ta theo các ngươi về Đông Kinh ư? Lệnh vua khó cãi, ta không muốn phải mang tiếng là nghịch thần!

- Nhưng theo chúng tôi về triều ngài sẽ bị mang tội chết. Các quan trong triều như Trịnh Hoành Bá, Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bản… cùng dâng sớ lên vua tố cáo là ngài cố ý tạo phản!

- Hoàng thượng là một bậc minh quân mà cũng nghe lời bọn giá áo túi cơm này ư? Khi ta cùng các tướng sĩ tử chiến cùng giặc Minh, phải đổ máu ngoài sa trường thì bọn chúng đang chui rúc ở xó xỉnh nào? Đúng là một lũ ngồi mát ăn bát vàng, chỉ biết ganh tị, kèn cựa với các bậc đại công thần!

- Bọn họ mật tâu với vua là ngài đã đóng nhiều thuyền lớn, rất tiện lợi khi đi lại trên sông biển. Ngài cũng tập hợp được rất nhiều quân lính dưới trướng cũ về trang trại của mình, ngày càng lộ rõ có ý muốn mưu đồ riêng, muốn xưng vương!

Trần Nguyên Hãn trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

- Khi ta từ giã Hoàng thượng về quê. Hoàng thượng có hỏi ta sẽ làm gì? Ta tâu với Hoàng thượng hai việc. Một là ta sẽ làm lại nghề cũ bán dầu. Người dân quê ta thường mua quả dọc về phơi khô, giã mịn đóng thành bánh rồi ép ra dầu đem đi bán. Dầu quả dọc khi đổ vào một cái bát nhỏ, thả vào một ngọn bấc, đốt sẽ có một ngọn lửa đủ sáng với hương thơm nhè nhẹ, nổi tiếng khắp vùng Kinh Bắc. Nghĩa quân Lam Sơn nhiều người xuất thân là dân nghèo khó, không có một mảnh đất cắm dùi, sau khi thắng trận họ sẽ không có một nơi nào nương thân. Ta sẽ quy tụ họ về Sơn Đông dạy cho họ nghề ép dầu để mưu sinh. Hoàng thượng bảo là “Được!”. Nay rất nhiều người đều là quân lính cũ của Bình Định Vương, theo ta về đây lập nghiệp sao Hoàng thượng lại trách ta? Hai là tổ tiên của ta ngày xưa làm nghề chài lưới, thường đánh cá trên sông rồi dong buồm ra thẳng biển Đông và đến các đảo xa. Các hải đảo ngoài biển Đông đều là phên giậu của nước Đại Việt, giữ được đảo cũng là giữ vững được đất liền. Ta có tâu với Hoàng thượng sẽ mở xưởng thuyền đóng nhiều thuyền thật lớn để đưa ngư dân ra biển. Hoàng thượng mừng lắm bảo ta khi nào đóng được thuyền lớn, hai năm nữa phải đem thuyền đến Thăng Long cho Hoàng thượng xem. Không ngờ bây giờ thuyền lớn đã đóng xong rồi, ta chưa kịp dâng lên đã bị Hoàng thượng nghe lời gièm pha bắt tội!

- Bọn người Trịnh Hoàng Bá còn nói ngài xây nhiều dinh thự lớn hơn cung vua…

Trần Nguyên Hãn cười ha hả nói:

- Đã buôn bán lớn thì phải mở rộng trang trại và xây nhiều dinh thự, điều đó một đứa trẻ con cũng còn biết. Gần hai năm nay ta có thấy ai là người của triều đình đến đo đạc đâu mà dám bảo dinh thự của ta lớn hơn cung vua?

Một viên phó tướng khác đến đứng cạnh bên viên phó tướng chỉ huy, vòng tay cung kính vái chào Trần Nguyên Hãn và nói:

- Thưa tướng quân, ngài thật sự không nhớ anh em chúng tôi ư?

Trần Nguyên Hãn giật mình nhìn hai người hồi lâu rồi nói:

- Thật sự ta không nhớ các người là ai!

- Anh em chúng tôi là Trịnh Long và Trịnh Hổ đều là cháu ruột của Quốc Thái mẫu Trịnh Thị Ngọc Lữ. Chúng tôi là cháu vợ gọi Hoàng thượng là dượng. Nhờ có chút công lao trong cuộc chiến chống quân Minh nên chúng tôi được Hoàng thượng tin cậy ban cho ít chức tước. Trong trận thành Xương Giang, hai anh em chúng tôi có trong đội quân cảm tử từ đường hầm đột phá vào thành Xương Giang. Tướng quân chính là ân nhân đã cứu mạng hai anh em chúng tôi…

Trần Nguyên Hãn nhớ lại. Khi đội quân cảm tử của nghĩa quân Lam Sơn từ dưới đường hầm bật lên thì hàng loạt những mũi tên sắc nhọn của giặc đợi sẵn bắn tới dày đặc như mưa rào. Lập tức những tấm khiên đã được chuẩn bị từ trước được anh em nghĩa quân dựng lên che chắn cho nhau, sau đó họ đồng loạt ném những tấm khiên vào lũ giặc phục kích rồi rút đoản đao ra xông vào quân thù đánh xáp lá cà. Một nhóm nghĩa quân khác theo kế hoạch lao nhanh về hướng các tường thành và leo nhanh lên mặt thành. Nhiệm vụ của họ là giải cứu dân chúng trong thành đang bị giặc bắt đứng khắp nơi làm tấm khiên sống đỡ tên, đỡ giáo cho chúng trên bốn mặt thành. Nhóm nghĩa quân này tỏ ra rất tinh nhuệ và thiện chiến. Những tên giặc xông ra cản đường đều bị họ chém gục xuống như rạ. Bất ngờ một tên tướng giặc xuất hiện với một thanh trường kiếm sắc lạnh, chỉ một loáng ba nghĩa quân đã bị hắn đâm chết. Tức giận vì đồng đội bị hại, Trịnh Long và Trịnh Hổ cùng hợp lực vung đao, kẻ tả người hữu xông vào tấn công hắn. Không ngờ họ gặp phải một tay kiếm quá lợi hại. Chỉ bằng vài đường kiếm tên tướng giặc đã đánh rơi vũ khí của cả hai rồi lia nhanh kiếm vào cổ họng của họ. Anh em Trịnh Long chỉ còn biết nhìn nhau chờ chết. Bỗng “choang” một tiếng thật lớn, một thanh gươm đã đánh dạt mũi kiếm tử thần của tên tướng giặc sang một bên kịp thời cứu mạng sống cả hai người. Trịnh Long, Trịnh Hổ hoàn hồn cùng nhìn lại và reo lên:

- Quan Thái úy!

Đúng vậy, người cứu họ chính là quan Thái úy Trần Nguyên Hãn. Trần Nguyên Hãn ra lệnh cho Trịnh Long, Trịnh Hổ tiếp tục nhiệm vụ rồi quay sang tên tướng giặc hỏi:

- Ngươi là Kim Dận?

- Phải, chính ta đây! Ngươi cũng được nghe danh tiếng của ta nữa à?

Trần Nguyên Hãn không buồn trả lời, vung kiếm xông tới tấn công ngay. Thanh kiếm Hãn đang sử dụng chính là Chiêu Minh Kiếm, thanh kiếm báu gia truyền của Thái sư Thượng tướng Trần Quang Khải, đã từng đánh bại và tiêu diệt nhiều tên mãnh tướng Mông Cổ xâm lược trên chiến trường Đại Việt ngày trước. Trước ngày mẹ Hãn mất, bà đã đào và trao thanh gươm quý cho con trai với lời dặn phải tìm cho được minh chủ để rửa hận nước thù nhà. Khi gặp động chủ Lam Sơn lần đầu tiên, Trần Nguyên Hãn đã dâng lên ngài thanh kiếm báu này. Lê Lợi mừng lắm, ngài thận trọng tuốt gươm ra khỏi vỏ, ngắm nghía và hỏi thật kỹ nguồn gốc thanh kiếm mà Hãn có được. Sau đó Lê Lợi trịnh trọng lại trao kiếm báu cho Trần Nguyên Hãn và nói:

- Ta rất cảm ơn tướng quân đã tin tưởng trao cho ta thanh gươm quý của tổ tiên đã từng có nhiều chiến công hiển hách. Gươm báu phải dành tặng anh hùng! Thanh gươm này ta xin tặng lại cho tướng quân, tướng quân hãy thay ta giết thật nhiều tướng giặc Minh để lấy lại oai linh cho nước Đại Việt!

Lê Lợi cũng cho Trần Nguyên Hãn xem thanh Thuận Thiên Kiếm mà ngài đang đeo bên mình. Thuận Thiên Kiếm không hổ danh là thanh kiếm thần mà bọn giặc Minh vẫn thường lén kể cho nhau nghe rằng Lê Lợi đã được đức Lạc Long Quân sai thần Kim Quy ban cho. Bọn chúng đồn vì có kiếm thần trong tay nên Lê Lợi vào sinh ra tử nhiều lần mà vẫn không bị tổn hại, đao thương không xâm nhập được… Chuôi Thuận Thiên Kiếm được nạm ngọc quý khảm hình rồng bay lượn. Thanh gươm Lê Lợi chưa rút hết khỏi vỏ, Trần Nguyên Hãn đã thấy căn phòng sáng rực, hồn thiên sông núi mấy ngàn năm như đồng vọng về. Hãn hoảng sợ vội quỳ xuống lạy thanh gươm. Lê Lợi mỉm cười đỡ Hãn đứng lên và nói gươm chỉ quý khi người biết dùng gươm để diệt giặc cứu nước. Trần Nguyên Hãn nhớ mãi câu nói đó của động chủ Lê Lợi với niềm vui mừng khôn siết vì đã tìm được minh chủ...

Sau vài hiệp giao đấu, Trần Nguyên Hãn biết là đang phải đối phó với một tay gươm cự phách của giặc. Không nghĩ ngợi, Hãn liền thi triển ngay Chương Dương Kiếm Pháp tấn công tên tướng giặc khát máu này. Theo lời mẹ Hãn kể lại, sau khi kháng chiến chống quân Nguyên Mông thành công, Thái sư Thượng tướng Trần Quang Khải cùng với người em là Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, cố công sưu tầm và tổng hợp lại những đường kiếm tuyệt luân mà hai người đã tìm được trong những trận chiến khốc liệt với kẻ thù hùng mạnh nhất thời bấy giờ. Các thế kiếm hay nhất, uy lực nhất được Thái sư sai người ghi chép và vẽ lại cẩn thận thành bộ sách Chương Dương Kiếm Phổ, bí mật truyền lại cho các con cháu đời sau. Trên trang đầu của bộ sách, Thái sư Thượng tướng Trần Quang Khải ghi rất rõ, kiếm phổ chỉ truyền cho anh hùng, không giao cho bọn vô đức vô năng dù đó có là con cháu đích tôn của dòng họ. Các chiêu thức của Chương Dương Kiếm Pháp đều rất lợi hại, người dùng không được tùy tiện sử dụng, chỉ dành để đối phó với bọn giặc cướp nước…

Kim Dận bỗng rú lên một tiếng thất thanh rồi lùi lại mấy bước.Vai và ngực phải của hắn bị gươm của Trần Nguyên Hãn đâm trúng xuyên thấu ra tận sau lưng, đầm đìa máu. Kim Dận toan vung gươm xông tới tấn công tiếp nhưng hắn đã hoàn toàn kiệt sức. Loạng choạng chống gươm xuống đất, hắn quỵ xuống và bất lực nhìn Trần Nguyên Hãn:

- Ta đã nhiều năm ngang dọc chinh chiến nhưng chưa gặp ai là đối thủ. Hôm nay không may gặp phải cao nhân! Xin cao nhân cho biết danh tánh…

- Ta tên Trần Nguyên Hãn!

- Ngươi họ Trần sao không đầu hàng thiên triều để được làm vua An Nam? Hà cớ gì phải đi theo Lê Lợi làm tay chân cho hắn chống lại thiên triều?

- Ngươi đừng già hàm nữa! Bao con cháu nhà Trần như Giản Định Đế Trần Ngỗi, Trùng Quang Đế Trần Quý Khoáng đều bị triều đình nhà Minh bọn ngươi giết hại! Chiêu bài cũ đã rách nát rồi, đừng đem ra chiêu dụ vô ích. Hãy đầu hàng đi, ta sẽ tha cho ngươi một mạng sống!

- Anh hùng như Kim Dận ta mà đầu hàng ư?

Trần Nguyên Hãn cười ha hả nói:

- Kim Dận, ngươi đừng làm ta buồn nôn! Anh hùng ư? Anh hùng gì mà đem dân chúng trong thành không một tấc sắc trong tay ra làm tấm khiên sống che chắn mỗi khi quân của ngươi phải đối mặt với nghĩa quân Lam Sơn ta. Ngươi chỉ là một tên tướng giặc tiểu nhân hèn hạ và đê tiện!

Kim Dận cười gằn:

- Vô độc bất trượng phu! Binh pháp thiên triều nước ta cũng có câu “Binh bất yếm trá”!... Người họ Trần kia, ngươi đừng tưởng ngươi sẽ sống lâu hơn ta. Rồi có ngày thiên triều cũng sẽ cử người sang giết ngươi để trả thù cho ta…

Nói xong Kim Dận tự quay gươm đâm vào cổ tự sát. Trần Nguyên Hãn bước tới nhìn xác kẻ thù hồi lâu rồi nói:

- Quân sư Nguyễn Trãi nước Đại Việt ta cũng có câu “Đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Ai đúng, ai sai tự ngươi cũng đã biết rồi khi phải nằm phơi xác tại đây! Còn ta sẽ chết ư? Ai mà không phải chết! Nhưng cái chết của ta chắc chắn sẽ ích nước, lợi nhà hơn là cái chết đầy nhục nhã của ngươi ngày hôm nay!...

Bỗng cửa Bắc thành Xương Giang có tiếng quân reo hò vang dội. Nghĩa quân Lam Sơn đã phá vỡ cổng thành đang ào ạt xông vào chiếm thành. Cờ chiến thắng lần lượt cắm đầy khắp nơi…

Trần Nguyên Hãn trầm ngâm nhìn anh em Trịnh Long, Trịnh Hổ hồi lâu rồi nói:

- Ta không ngờ gặp lại hai người trong hoàn cảnh khó xử này! Xin chúc mừng cho hai vị phó tướng được công thành danh đạt!

Anh em Trịnh Long, Trịnh Hổ đồng quỳ xuống:

- Ơn cứu mạng anh em chúng tôi không dám quên, dù sống hay chết chúng tôi vẫn nguyện đi theo tướng quân! Xin tướng quân cứ tùy nghi sai khiến!

- Ta vẫn băn khoăn Hoàng thượng không thể là người cạn tàu ráo máng đến như thế được! Hẳn là đã có một tác động nào đó…

Nữ thần Bạch Dương bỗng từ trong khoang thuyền bước ra vái chào Trần Nguyên Hãn:

- Chàng nói đúng! Cách đây gần nửa tuần trăng có một đoàn mật sứ từ phương Bắc đã đến Thăng Long gặp Hoàng thượng!

Thấy có người lạ xuất hiện trên thuyền, Trịnh Long và Trịnh Hổ toan rút gươm ra khỏi vỏ nhưng Trần Nguyên Hãn đã giơ tay cản lại:

- Nàng ấy là nữ thần Bạch Dương, người quen của ta, hai phó tướng quân đừng kinh động!

- Nữ thần?

- Phải! Chuyện dài dòng lắm, nếu có dịp ta sẽ kể lại cho hai vị cùng nghe!

Quay sang nữ thần, Hãn hỏi tiếp:

- Thưa nữ thần, bọn mật sứ phương Bắc muốn gì?

- Bọn chúng muốn Hoàng thượng phải trao ngôi vua lại cho con cháu vua Trần, điều mà trước đây Bình Định Vương Lê Lợi đã phải đồng ý với Tổng binh Vương Thông khi hai bên giảng hòa ở thành Đông Quan, trước khi quân ta cho bọn chúng rút toàn bộ quân lính về nước. Chuyện này chắc chàng còn nhớ, vì chàng cũng chính là người thứ hai sau Hoàng thượng được cùng Hoàng thượng tham gia vào Hội thề Đông Quan với bọn Vương Thông năm ấy.

Trịnh Long giận dữ nói:

- Đó là kế ly gián của giặc. Trước đây Hoàng thượng đã phải nhờ Trần Cảo đứng ra làm An Nam Quốc Vương cho yên việc nước. Sau Trần Cảo biết mình không xứng đáng làm vua nên đã uống thuốc độc tự tử, nhường ngôi lại cho Hoàng thượng. Nay bọn vua quan nhà Minh nhắc lại chuyện này là muốn nước ta phải luôn loạn lạc không được bình yên. Con cháu hoàng tộc nhà Trần cũ hiện giờ chỉ còn có mỗi mình tướng quân, bọn chúng đang muốn dồn tướng quân vào con đường chết! Đúng là bọn vô ân bạc nghĩa! Dân nước Đại Việt ta đã mở lòng hiếu sinh, tha chết cho đám tàn binh bại trận của chúng được về nước sum họp với gia đình, với người thân; không ngờ bọn vua quan nhà Minh lại quá nhẫn tâm lấy oán báo ân!

Trần Nguyên Hãn thở dài nói:

- Ta cũng đã sớm đoán được điều này nên đã từ quan. Không ngờ sự việc lại đến quá nhanh như vậy. Không lẽ lời hăm dọa ta của tên Kim Dận trước khi chết đã thành hiện thực? Ta phải chết theo hắn ư? Bọn người phương Bắc lợi hại thật! Trời thật sự đã hại ta!

Nữ thần Bạch Dương nhìn Trần Nguyên Hãn nói:

- Không có trời nào lại nỡ hại một người tài đức như chàng cả, chỉ có những kẻ thù của chàng mới muốn hại chàng mà thôi!

Chợt có tiếng la hét lố nhố, một lực sĩ từ dưới hầm thuyền chạy lên vẻ mặt hoảng hốt đến trước mặt của Trịnh Long bẩm báo:

- Thưa, đáy thuyền đã bị ai đó đục vỡ. Nước tràn vào rất nhiều, không bao lâu thuyền có thể sẽ bị chìm! Xin phó tướng quân định liệu!

Tên lực sĩ nói chưa dứt lời, đã thấy nhiều câu liêm buộc dây dài từ dưới nước được phóng lên móc vào mạn thuyền. Hàng chục người vạm vỡ, tay cầm đao nhanh chóng bám dây leo lên thuyền, vây 42 lực sĩ của triều đình vào giữa. Một người ném nhanh cho Trần Nguyên Hãn thanh gươm rồi nói:

- Bọn ta là gia nhân của tướng quân Trần Nguyên Hãn đến đây để cứu tướng quân. Bọn lính triều đình các ngươi nếu muốn sống hãy buông gươm quy hàng, đừng chống cự sẽ chết không toàn thây!

Trần Nguyên Hãn vội bước ra nói lớn:

- Các người không được manh động! Nếu chúng ta chống lại triều đình, bá tánh đất Sơn Đông sẽ gặp rất nhiều tai họa. Các người hãy nghe lời ta mau trở về trang trại. Đào quản gia đâu? Lão hãy mau đưa mọi người rời khỏi nơi đây ngay!

Đào quản gia bước ra nghẹn ngào nói:

- Trần tướng quân, ngài về Đông Kinh là sẽ bị mang án tử đó… Lão đã già rồi xin được đi theo hầu hạ ngài cho đến phút cuối cùng…. Xin tướng quân an tâm, phu nhân và công tử đã được chúng tôi đưa về nơi an toàn rồi!

- Ta cảm ơn lão và mọi người. Nhưng trang trại Sơn Đông hiện giờ vẫn rất cần một người như lão ở lại để lo liệu. Mọi người hãy nhanh chóng quay về, đừng đổ thêm dầu vào lửa! Không được cãi lệnh!

Đào quản gia nước mắt rơi lã chã cùng đám gia nhân vái chào Trần Nguyên Hãn, rồi từng người một nhảy xuống nước bơi vào bờ. Quay sang đám lực sĩ, Trần Nguyên Hãn nói:

- Ta không chống lại triều đình nhưng ta cũng không theo các ngươi về Đông Kinh!

Biết gặp chuyện chẳng lành, đám lực sĩ cùng lùi lại thủ thế và hướng mũi gươm về phía Trần Nguyên Hãn. Trịnh Long và Trịnh Hổ vội đến đứng bên Trần Nguyên Hãn cùng quát lớn:

- Các ngươi muốn chết à? Các ngươi không biết Trần tướng quân là tay gươm kiệt xuất nhất của nước Đại Việt chúng ta hay sao? Anh em ta đã quyết theo tướng quân, các ngươi hãy mau mau buông gươm quy thuận!

Đám lực sĩ nhìn nhau bối rối chờ đợi, cuối cùng một người bước ra nói:

- Võ công và chiến công của Trần tướng quân anh em chúng tôi đều được biết và rất ngưỡng mộ. Nhưng nếu phản lại triều đình, gia đình chúng tôi sẽ bị hại. Xin các vị tướng quân hiểu cho chúng tôi!

Trần Nguyên Hãn tuốt gươm ra khỏi vỏ, cấm phập thanh gươm xuống sàn thuyền, rồi dõng dạc nói:

- Đây chỉ là một thanh gươm tầm thường, không phải là thanh Chiêu Minh Kiếm mà ta vẫn thường dùng. Nhưng đao kiếm là vật vô tình rất dễ gây sát thương. Ta chỉ dùng vỏ gươm để giao đấu với các ngươi, các ngươi hãy bảo trọng!

Nói xong, Trần Nguyên Hãn dùng vỏ gươm xông vào tấn công đám lực sĩ. Tuy chỉ là một cái vỏ gươm nhưng trong tay Trần Nguyên Hãn nó vẫn có một uy lực kinh hồn. Đám lực sĩ vô cùng kinh ngạc và thán phục vì lần đầu tiên họ được biết thế nào là sự lợi hại của Chương Dương Kiếm Pháp. Vỏ gươm của Hãn cứ như rồng bay phượng múa, khi ẩn khi hiện. Lúc thì Hãn ra chiêu chậm, tuy chậm nhưng ẩn chứa một sức mạnh dồn dập, cuồn cuộn như sóng nước tràn bờ; lúc thì ra chiêu thật nhanh như sấm giăng chớp giật, biến hóa khôn lường khiến đối phương không kịp phán đoán để có thể chống đỡ. Chưa đầy một khắc, bốn mươi thanh gươm của đám lực sĩ đã lần lượt bị Hãn đánh bay rơi hết xuống sông. Đám lực sỹ cùng quỳ xuống hô lớn:

- Trần tướng quân võ công phục chúng, đức phục nhân! Xin thề có trời đất làm chứng: Chúng tôi nguyện chết vì tướng quân!

Nữ thần Bạch Dương nhìn Trần Nguyên Hãn hỏi:

- Nước đã vào đầy thuyền, thuyền sắp chìm! Chàng dự định thế nào?

Trần Nguyên Hãn thở dài nói:

- Nếu ta tham sống sợ chết bỏ trốn, triều đình sẽ tiếp tục truy lùng khiến dân chúng nhiều người bị liên lụy. Lại thêm nước nhà cũng không yên vì triều đình nhà Minh chắc chắn sẽ không bỏ qua, luôn tìm mọi cách gây khó dễ. Biết đâu bọn chúng lại dựng chiêu bài cũ “Phò Trần” để có cớ đem quân sang nước ta lần nữa. Bọn chúng là nước lớn vẫn chưa nuốt trôi được cái nhục thua trận hai năm trước nên sẽ không từ bỏ một thủ đoạn nào. Dân nước Đại Việt đã khổ vì chiến tranh quá nhiều rồi. Nếu ta bỏ trốn, đó chỉ là hạ sách.

Nếu ta về Đông Kinh, với tội phản nghịch mà bọn gian thần gièm pha, ta sợ khó bảo tồn được mạng sống…

Một lực sĩ vội nói:

- Bọn mật sứ phương Bắc sẽ buộc Hoàng thượng trao cho Trần tướng quân ngôi vua!

Trần Nguyên Hãn cười lớn:

- Những lời đường mật ngươi cũng tin à? Đó chỉ là âm mưu thâm độc muốn gây chia rẽ nội bộ nước ta của triều đình nhà Minh. Khí số nhà Trần đã tận, thiên hạ bây giờ là của nhà Lê. Thật sự bọn người phương Bắc muốn chính tay Hoàng thượng giết ta. Bọn chúng muốn anh hùng giết anh hùng! Ta chết nhưng Hoàng thượng sẽ bị mang tiếng giết công thần, uy tín của triều đình sẽ bị giảm sút. Những thế lực thù địch trong nước, những bọn từ lâu có mưu đồ cát cứ ở các châu Thượng Lang, châu Thạch Lâm, châu Phục Lễ lại có cơ hội rục rịch nổi dậy chống triều đình. Vì vậy nếu về Đông Kinh để chịu chết, ta nghĩ đó cũng không phải là kế sách vẹn toàn.

Ngừng một chút, Trần Nguyên Hãn chậm rãi nói tiếp:

- Ta đã quyết định rồi: Cái chết của ta sẽ do tự ta quyết định. Để Hoàng thượng không phải khó xử, ta sẽ chết tại đây! Nhưng ta có một yêu cầu, hai vị phó tướng Trịnh Long và Trịnh Hổ phải nhanh chóng rời thuyền ngay để còn kịp về Đông Kinh.

Trịnh Long và Trịnh Hổ vội quỳ xuống:

- Anh em chúng tôi xin được chết cùng tướng quân…

- Nếu tất cả chúng ta cùng chết hết, ai sẽ báo tin cho triều đình cái chết của Trần Nguyên Hãn ta? Trong tất cả những người ở đây, chỉ có hai vị phó tướng là những người được Hoàng thượng tin cậy, cả hai cũng là cháu vợ của Hoàng thượng. Chỉ có lời nói của hai vị phó tướng mới khiến Hoàng thượng yên lòng, mới khiến triều đình không nghi kỵ. Xin hai vị phó tướng vì Trần Nguyên Hãn ta, vì an nguy của trăm họ dân nước Đại Việt mà rời thuyền ngay…

Trịnh Long và Trịnh Hổ cùng vái chào Trần Nguyên Hãn rồi nhảy xuống sông. Bơi hướng vào bờ được một quãng khá xa, cả hai cùng quay lại. Họ nhìn thấy nước đã vào tràn đầy thuyền, thuyền nghiêng đang bị chìm dần. Trên thuyền Trần Nguyên Hãn vẫn đứng oai nghiêm nhìn về hướng trang trại Sơn Đông, xung quanh là 40 lực sĩ khoanh tay đứng hầu. Bỗng nữ thần Bạch Dương quỳ phủ phục xuống trước mặt Trần Nguyên Hãn và nói lớn:

- Tiểu thần là Bạch Dương, vâng lệnh của Phật hoàng Trần Nhân Tông xin được đưa Trần Nguyên Hãn tướng quân về núi Yên Tử để diện kiến Phật hoàng…

(còn tiếp)

2016


Thanh Trắc Nguyễn Văn
 
Top